Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TÀI LIỆU CHUYÊN đề tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về CHỦ NGHĨA xã hội và CON ĐƯỜNG đi lên CHỦ NGHĨA xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.19 KB, 21 trang )

MỤC LỤC

Trang
LỜI NÓI ĐẦU

2

1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

3

1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam

3

1.2. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam

6

2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

2.1. Về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

13
13

2.2. Về bước đi và phương thức, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam



15

3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ
CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀO CÔNG CUỘC
ĐỔI MỚI HIỆN NAY

17

3.1. Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh

17

3.2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả
các nguồn lực, trước hết là nguồn lực nội sinh, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại để thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước

18

3.3. Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy Nhà nước,
đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, thực hiện cần,
kiệm để xây dựng chủ nghĩa xã hội
KẾT LUẬN

19
21



2
LỜI NÓI ĐẦU

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một nội dung cơ bản trong hệ thống tư tưởng
của Người. Đây là một trong những cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh
vào sự phát triển lý luận Mác - Lênin, có ý nghĩa to lớn đối với thực tiễn cách
mạng Việt Nam, cũng như cách mạng thế giới.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giúp chúng ta nhận thức đúng đắn
quá trình chuyển biến không ngừng từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
lên cách mạng xã hội chủ nghĩa; về mục tiêu, con đường, biện pháp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam…
1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam

- Hồ Chí Minh tiếp thu học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin, kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước, truyền thống
văn hoá của dân tộc Việt Nam khi nghiên cứu lý luận cũng như trực tiếp lãnh
đạo, chỉ đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Trước hết, Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong sự vận động và phát
triển của xã hội loài người, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa tất yếu
sẽ được thay thế bằng một hình thái kinh tế - xã hội cao hơn, đó là hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã từng bước xây dựng những luận điểm cơ bản về
chủ nghĩa xã hội, chỉ ra những phương hướng phát triển chủ yếu và những
đặc trưng bản chất của nó mà đặc trưng cơ bản nhất là xoá bỏ chế độ tư hữu

về tư liệu sản xuất, giải phóng con người khỏi tình trạng bị bóc lột về kinh tế,
bị áp bức về chính trị, bị nô dịch về tinh thần, tạo điều kiện cho con người
phát triển mọi khả năng của mình.
V.I.Lênin phát triển lý luận đó trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã
chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Sau thắng lợi của cách mạng Tháng
Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa xã hội đã trở thành hiện thực với tư cách là


3
một chế độ xã hội phát triển cao hơn và tốt đẹp hơn so với chủ nghĩa tư bản.
V.I.Lênin đã chia sự phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
thành một thời kỳ và hai giai đoạn: thời kỳ quá độ - chủ nghĩa xã hội - chủ
nghĩa cộng sản. Trong đó, chủ nghĩa xã hội là một giai đoạn tất yếu phải trải
qua với những đặc trưng cơ bản là: chế độ chính trị do nhân dân lao động làm
chủ, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua đội tiền phong là
Đảng Cộng sản; xoá bỏ từng bước chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, thiết lập
chế độ sở hữu công cộng để giải phóng sức sản xuất; có nền đại công nghiệp
cơ khí với trình độ khoa học và công nghệ hiện đại có khả năng cải tạo nông
nghiệp, tạo ra năng suất lao động cao hơn chủ nghĩa tư bản; thực hiện sản
xuất có kế hoạch; thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động; khắc phục sự
khác biệt giữa các giai cấp, giữa nông thôn và thành thị, giữa lao động trí óc
và lao động chân tay, tiến tới một xã hội tương đối thuần nhất về giai cấp; giải
phóng con người khỏi ách áp bức, bóc lột, nâng cao trình độ tư tưởng và văn
hoá cho nhân dân, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện; sau khi
đạt được những điều nói trên, khi giai cấp không còn nữa thì chức năng chính
trị của nhà nước sẽ dần dần tiêu vong… V.I.Lênin cũng khẳng định tính tất
yếu và những đặc điểm, nhiệm cơ bản của thời kỳ quá độ, chỉ ra các hình thức
quá độ lên chủ nghĩa xã hội… Những tư tưởng đó là cơ sở lý luận trực tiếp để
Hồ Chí Minh xác định những đặc trưng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
cũng như xác định con đường, biện pháp thực hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã

hội ở Việt Nam.
Tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ lập trường yêu nước và khát vọng giải
phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường chân chính để cứu nước,
giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng nhân loại. Đó là con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Người khẳng định:
"Lúc đầu, chính là do chủ nghĩa yêu nước mà tôi theo Lênin. Rồi, từng bước
một, tôi đi đến kết luận là chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới
giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới" 1.

1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.474.


4
Nghĩa là chỉ có xây dựng chủ nghĩa xã hội, khát vọng ngàn đời của nhân dân
mới được thực hiện.
Hồ Chí Minh cũng đồng thời tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện
đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hoá của con người Việt Nam.
Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của đạo đức trong đời sống xã
hội, coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần
chúng. Người coi đó là đạo đức cao cả, đạo đức giải phóng dân tộc, giải
phóng loài người. Vì vậy, chủ nghĩa xã hội cũng là giai đoạn phát triển mới
của đạo đức, nó hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa cá nhân. "Cho nên thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ
chủ nghĩa cá nhân"1. Người còn khẳng định: "Có gì sung sướng vẻ vang hơn
là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người"2.
Đặc trưng truyền thống văn hoá của con người Việt Nam là lấy nhân
nghĩa làm gốc, có truyền thống trọng dân, khoan dung, độ lượng, là văn hoá

"trọng trí thức, hiền tài"… Chính truyền thống tốt đẹp đó là một trong những
cơ sở dẫn dắt Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa xã hội. Đối với Hồ Chí Minh,
chủ nghĩa xã hội mang trong bản thân nó bản sắc văn hoá, truyền thống tốt
đẹp của dân tộc Việt Nam, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo cao cả. Chủ nghĩa
xã hội là giai đoạn phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về mặt văn hoá và giải
phóng con người.
Từ chủ nghĩa yêu nước, truyền thống văn hoá Việt Nam, Hồ Chí Minh
đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy con đường cách mạng Việt
Nam. Đó là cơ sở lý luận để Hồ Chí Minh hình thành tư tưởng về chủ nghĩa
xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Hồ Chí Minh tiếp thu kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội của các
nước trên thế giới và đánh giá đúng tình hình thực tiễn ở Việt Nam.
Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Trung Quốc đã tác
động rất lớn đến tư tưởng Hồ Chí Minh. Cách mạng xã hội chủ nghĩa đã
giành thắng lợi từ một nước đơn lẻ năm 1917, đến sau chiến tranh thế giới lần
1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 9, tr.291.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 9, tr.293


5
thứ 2 mà đặc biệt, những năm 50 của thế kỷ XX, chủ nghĩa xã hội đã trở
thành hệ thống thế giới do Liên Xô làm trụ cột với một nền kinh tế phát triển
và một nền quốc phòng vững mạnh. Với hơn 40 năm xây dựng và phát triển,
của chủ nghĩa xã hội hiện thực đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả
các lĩnh vực và để lại những bài học kinh nghiệm sâu sắc đối với cách mạng của
các nước, các dân tộc. Qua đó, Hồ Chí Minh nghiên cứu tiếp thu và vận dụng
sáng tạo vào Việt Nam.

Nhân dân Việt Nam đã bao đời chịu cảnh khổ cực, lầm than. Vì vậy,
độc lập, tự do, ấm no hạnh phúc không những là nguyện vọng thiết tha từ bao
đời của mỗi con người Việt Nam mà còn là đòi hỏi trực tiếp của cả dân tộc
Việt Nam sau khi giải phóng khỏi sự thống trị của thực dân đế quốc. Thực
tiễn đó là cơ sở để Hồ Chí Minh lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam.
Năm 1954, sau khi đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo dân tộc Việt Nam bước vào
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Trong sự nghiệp đấu tranh
chống Mỹ, cứu nước, miền Bắc đã trở thành hậu phương vững chắc cho cuộc
đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Khi Việt Nam bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một
nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa với biết bao khó khăn, thử thách. Quá trình
lãnh đạo, chỉ đạo cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, vừa xây dựng, vừa
bảo vệ… cũng là cơ sở trực tiếp để Hồ Chí Minh hình thành tư tưởng về chủ
nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
1.2. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
1.2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về những đặc trưng cơ bản của chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam

Tiếp thu và vận dụng sáng tạo lý luận hình thái kinh tế - xã hội của chủ
nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nêu lên quan niệm về chủ nghĩa xã hội
như là một xã hội hoàn chỉnh, bao gồm nhiều mặt khác nhau của đời sống xã
hội. Đó là một chế độ xã hội ưu việt; mọi người được ấm no, tự do, hạnh


6
phúc; không còn người bóc lột người, không còn cảnh áp bức, bất công như
dưới chế độ thực dân - phong kiến; đem lại cho mọi người tự do, bình đẳng,

bác ái, việc làm, niềm vui và hòa bình. Trong chế độ xã hội mới, Đảng Cộng
sản, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân lo cho dân, lấy việc xây dựng một
nước Việt Nam độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần vào sự phát triển của
cách mạng thế giới làm mục tiêu chung.
Hồ Chí Minh đề cập chủ nghĩa xã hội dưới nhiều góc độ khác nhau.
Khi xem xét chủ nghĩa xã hội như là một chế độ xã hội hoàn chỉnh, Người
viết: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết
ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà
bình, hạnh phúc”1. Có khi Người chỉ ra một mặt nào đó của chủ nghĩa xã hội
như: kinh tế, chính trị, văn hoá… hoặc xác định mục tiêu, động lực, phương
hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội: “Chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời
sống vật chất và văn hoá của nhân dân và do nhân dân tự xây dựng lấy”2.
Từ đó, chúng ta có thể khái quát thành những đặc trưng cơ bản của chủ
nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ do nhân dân làm chủ, nhà nước phát
huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động tính tích cực và sáng tạo của
nhân dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Người viết: "… chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do
nhân dân lao động làm chủ" 3. "Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là
dân, vì dân là chủ"4.
- Chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Người nhấn
mạnh nhân tố quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội chính là phát triển sản

1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 1, tr.461.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 10, tr.556.

3
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 9, tr.291.
4
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 6, tr.515.
2


7
xuất. Trong nền sản xuất đó, "chủ nghĩa xã hội lấy nhà máy, xe lửa, ngân
hàng,… làm của chung"1, đó là đặc trưng của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hoá, đạo đức,
trong đó, người với người là bè bạn, đồng chí, anh em, con người được giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú,
được tạo điều kiện để phát huy hết mọi khả năng của mình. Theo Hồ Chí
Minh: chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện để
cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng
của mình; cũng chỉ trong xã hội này, nền văn hoá, khoa học, giáo dục mới
phát triển hợp lý.
- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội công bằng và hợp lý: làm nhiều hưởng
nhiều, làm ít hưởng ít, có sức khoẻ mà không làm thì không hưởng; các dân
tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi. Theo Hồ Chí
Minh, đó là "một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội
bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động, ai làm nhiều
thì hưởng nhiều, làm ít thì hưởng ít, không làm không hưởng" 2. Tư tưởng của
Người thể hiện rõ nguyên tắc phân phối theo lao động: "Ai làm nhiều thì ăn
nhiều, ai làm ít thì ăn ít, ai không làm thì không ăn, tất nhiêu là trừ những
người già cả, đau yếu và trẻ con"3.
- Chủ nghĩa xã hội là công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự
xây dựng, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là sản phẩm của trí tuệ tập thể, của
sự đoàn kết thống nhất cao trên cơ sở tự nguyện, tự giác. "Cho nên, thắng lợi

của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ
chủ nghĩa cá nhân"4.
Như vậy, quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội là một quan
niệm khoa học và cách mạng, hoàn chỉnh, có tính hệ thống, dựa trên học
thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, có bổ sung, phát
triển thêm một số đặc trưng phản ánh truyền thống và đặc điểm của Việt
Nam. Theo đó, chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, tr.226.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 9, tr.23.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, tr.226.
4
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 9, tr.291.
2


8
bằng, dân chủ, đạo đức, văn minh, một chế độ xã hội ưu việt nhất trong lịch
sử, phản ánh khát vọng thiết tha của nhân loại.
Quan niệm trên được Đảng ta vận dụng sáng tạo trong thời kỳ đổi mới
đất nước. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nêu lên tám đặc trưng cơ bản của
xã hội mà nhân dân ta xây dựng: "… là xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển
cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng
đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ;

có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
nhân dân các nước trên thế giới"1.
1.2.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội

Những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội sau khi đã được nhận
thức đều trở thành những mục tiêu cơ bản cần đạt tới trong quá trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí Minh đã xác định các mục tiêu chung và mục tiêu
cụ thể xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong các giai đoạn, thời kỳ cách
mạng. Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội cũng là: độc
lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Người nói: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là
làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”2.
Các mục tiêu cụ thể như sau:
- Mục tiêu về chính trị:
Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị phải do nhân dân lao động làm
chủ, nhà nước là của dân, do dân, vì dân. Người nói: “Nhà nước ta là nhà
nước dân chủ nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.68.
2
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.161.


9
công nhân lãnh đạo”1. Một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phải phát triển nền
dân chủ và sinh hoạt chính trị của nhân dân; mặt khác, Người lại yêu cầu phải

chuyên chính với thiểu số phản động chống lại lợi ích của nhân dân, chống lại
chế độ xã hội chủ nghĩa. Người còn đòi hỏi mọi công dân trong xã hội dân
chủ phải có nghĩa vụ lao động, nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, tôn trọng và chấp
hành pháp luật, tôn trọng và bảo vệ của công, đồng thời có nghĩa vụ học tập
nâng cao trình độ về mọi mặt để xứng đáng là người làm chủ.
- Mục tiêu về kinh tế:
Theo Hồ Chí Minh, chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội chỉ được bảo
đảm và đứng vững trên cơ sở một nền kinh tế vững mạnh. Người chỉ rõ mục
tiêu của ta là phải "… biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên
tiến”2. Nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta cần phát triển toàn diện các
ngành mà chủ yếu là công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, trong đó,
công nghiệp và nông nghiệp là "hai chân" của nền kinh tế nước nhà. Trong
đó, cách bóc lột theo chủ nghĩa tư bản bị xoá bỏ, đời sống vật chất của nhân
dân ngày càng được cải thiện.
Về thành phần kinh tế, ngay từ năm 1953, Hồ Chí Minh đã xác định rõ
các thành phần kinh tế cơ bản (ở vùng tự do) của nước ta là: kinh tế địa chủ
phong kiến, kinh tế quốc doanh, các hợp tác xã, kinh tế cá nhân của nông dân
và thủ công nghệ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản quốc gia 3. Về chế độ
sở hữu, theo Hồ Chí Minh, trong thời kỳ quá độ còn tồn tại các hình thức sở
hữu: “Sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân. Sở hữu của hợp tác xã tức là
sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Sở hữu của người lao động riêng lẻ.
Một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản. Mục đích của chế độ ta là
xoá bỏ các hình thức sở hữu không xã hội chủ nghĩa, làm cho nền kinh tế gồm
nhiều thành phần phức tạp trở nên một nền kinh tế thuần nhất, dựa trên chế độ
sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể" 4. Điều đó cho thấy Hồ Chí Minh cũng có
chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 9, tr.586.

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 9, tr.588.
3
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr.221.
4
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 9, tr.588.
2


10
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Kết hợp hài hoà các lợi ích kinh tế
là vấn đề được Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Người cho rằng chế độ khoán
trong sản xuất là một trong những hình thức của sự kết hợp lợi ích kinh tế,
khuyết khích người lao động.
- Mục tiêu văn hoá – xã hội:
Theo Hồ Chí Minh, đây là một mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội
với tư cách là một xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản về việc giải
phóng con người. Văn hoá thể hiện trong mọi sinh hoạt tinh thần của xã hội,
đó là xoá nạn mù chữ, phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, xây dựng và phát
triển văn hoá giáo dục. Trong đó, Hồ Chí Minh rất coi trọng văn hoá – tư
tưởng, đạo đức, lối sống mới, bài trừ mê tín dị đoan, khắc phục phong tục tập
quán lạc hậu.
Về bản chất của nền văn hoá, Hồ Chí Minh khẳng định: “… văn hoá
phải xã hội chủ nghĩa về nội dung và dân tộc về hình thức” 1; để có một nền
văn hoá như thế ta phải tiếp thu truyền thống quý báu của dân tộc đồng thời
học tập văn hoá tiên tiến của thế giới. Phương châm xây dựng nền văn hoá
mới là dân tộc, khoa học và đại chúng.
Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu nhiệm vụ của cách mạng xã hội chủ
nghĩa là đào tạo con người. Bởi lẽ mục tiêu cao nhất, động lực quyết định
nhất của chủ nghĩa xã hội chính là con người. Hồ Chí Minh cho rằng: muốn
có con người xã hội chủ nghĩa, phải có tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng

xã hội chủ nghĩa ở mỗi con người là kết quả của việc học tập, vận dụng, phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội.
Người cũng đề cao việc trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng gắn với bồi
dưỡng tài năng trong đào tạo, xây dựng con người mới. Con người xã hội chủ
nghĩa theo Hồ Chí Minh phải là con người có tinh thần và năng lực làm chủ;
có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có kiến thức khoa học - kỹ
thuật, nhạy bén với cái mới; có tinh thần sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm… Đó là nguồn lực quan trọng nhất để xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người, giải

1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 10, tr.60.


11
phóng mọi tiềm năng sẵn có của con người để phục vụ cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, xã hội mà chúng ta xây dựng là một xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, có quan hệ tốt đẹp giữa người với người, các chính
sách xã hội được quan tâm thực hiện tốt.
1.2.3. Quan niệm của Hồ Chí Minh về động lực của chủ nghĩa xã hội

Hệ thống động lực của chủ nghĩa xã hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh
rất phong phú và đa dạng nhưng xuyên suốt, bao trùm nhất là động lực con
người. Nói cách khác, con người là trung tâm trong hệ thống động lực của chủ
nghĩa xã hội. Hệ thống động lực đó bao gồm:
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc. Đây là
động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Theo Hồ Chí Minh để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội phải phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn

dân tộc, bởi chủ nghĩa xã hội không chỉ là vấn đề giai cấp mà còn là vấn đề
dân tộc, không phải sự nghiệp riêng của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
mà là sự nghiệp chung của toàn dân tộc, có tăng cường được sức mạnh dân
tộc mới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
- Phát huy sức mạnh của con người với tư cách cá nhân người lao động.
Hồ Chí Minh từng nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có
những con người xã hội chủ nghĩa”1. Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh của cộng
đồng được hình thành từ sức mạnh của cá nhân, thông qua sức mạnh của từng
cá nhân. Do đó, muốn phát huy được sức mạnh của cộng đồng phải tìm ra các
biện pháp khơi dậy, phát huy động lực của mỗi cá nhân. Động lực quan trọng,
quyết định nhất là con người, là nhân dân lao động mà nòng cốt là liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.
Vì vậy, phải quan tâm đến con người, khuyến khích lợi ích cá nhân
chính đáng, coi trọng động lực cá nhân. Phải phát huy quyền làm chủ và ý
thức làm chủ của người lao động, thực hiện công bằng xã hội. Người thường
nhắc nhở trong công tác phân phối có hai điều phải nhớ:
"Không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng;
Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên"2.
1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 10, tr. 310.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr. 185.


12
- Bên cạnh việc phát huy động lực là phải khắc phục các lực cản kìm
hãm sự phát triển của chủ nghĩa xã hội.
Muốn khai thông những động lực phát triển của chủ nghĩa xã hội đồng
thời phải nhận thức đúng để khắc phục những lực cản trong quá trình xây dựng

chủ nghĩa xã hội. Phải kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; chống
tham ô, lãng phí, quan liêu, xa rời quần chúng; chống chia rẽ, bè phái, mất đoàn
kết, vô kỷ luật; chống bệnh chủ quan, duy ý chí, bảo thủ, giáo điều, lười biếng
không chịu học cái mới…
Ngoài các động lực bên trong, Hồ Chí Minh đòi hỏi phải phát huy
nguồn lực bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tăng
cường đoàn kết quốc tế, kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa
quốc tế vô sản; sử dụng tốt những thành quả khoa học - kỹ thuật của thế giới.
2. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

2.1. Thực chất con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Trên cơ sở vận dụng lý luận cách mạng không ngừng và lý luận về thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin; xuất phát từ đặc
điểm tình hình Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định con đường cách mạng
Việt Nam là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, không kinh qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Đó là sự phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam, là phương
thức quá độ gián tiếp từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, nền nông nghiệp
lạc hậu, chậm phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn cơ bản của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là “… từ một nước nông nghiệp
lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa”1. Đặc điểm này chứa đựng đầy đủ những mâu thuẫn,
khó khăn, phức tạp, chi phối toàn bộ tiến trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Nó đặt ra hàng loạt vấn đề lý luận và thực tiễn mà chúng ta cần
nhận thức và giải đáp một cách đúng đắn để tìm ra con đường, hình thức và
1


Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 10, tr.13.


13
bước đi thích hợp với đặc điểm của đất nước. Thực chất của quá độ "bỏ qua"
là bỏ qua việc xây dựng quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với tính cách là
quan hệ sản xuất thống trị và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa.
Về độ dài của thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tính chất tuần
tự, lâu dài, khó khăn, phức tạp. Vì: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một cuộc
đấu tranh cách mạng phức tạp, gian khổ và lâu dài”1. Đây là một cuộc cách
mạng làm đảo lộn mọi mặt đời sống xã hội, nó đòi hỏi phải có thời gian để
giải quyết hàng loạt các mẫu thuẫn. Mâu thuẫn lớn nhất của thời kỳ quá độ ở
Việt Nam là mâu thuẫn giữa yêu cầu phải tiến lên xây dựng một chế độ xã hội
mới có kinh tế công - nông nghiệp hiện đại, văn hoá, khoa học tiên tiến với
tình trạng lạc hậu, kém phát triển, lại phải đối phó với bao thế lực cản trở, phá
hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong khi đó, Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta chưa có kinh nghiệm, nhất là trên lĩnh vực kinh tế nên phải
vừa làm, vừa học, đó là công việc khó khăn, phức tạp, lâu dài, thậm chí không
thể tránh khỏi vấp váp.
Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh chỉ ra: “Phải xây
dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình cách
mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền
kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”2. Xây dựng cả
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội… Theo Hồ Chí Minh, thực chất thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu
thành nền sản xuất hiện đại, cũng là cuộc đấu tranh giai cấp gay go, quyết liệt,
phức tạp trong điều kiện lịch sử mới, với nội dung và hình thức mới.
Do đó, quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một quá trình lâu dài,
khó khăn, phức tạp, với hai nhiệm vụ cơ bản là: xây dựng nền tảng vật chất và

kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, xây dựng các tiền đề về kinh tế, chính trị, văn
hoá, tư tưởng cho chủ nghĩa xã hội; cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới,
kết hợp cải tạo và xây dựng, trong đó lấy xây dựng làm trọng tâm, làm nội
dung cốt yếu, chủ chốt.

1
2

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 9, tr.2.
Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 10, tr.132.


14
Trên cơ sở các nhiệm vụ chủ yếu của thời kỳ quá độ, Hồ Chí Minh cụ
thể hoá thành các nội dung trên một số lĩnh vực chủ yếu như chính trị, kinh tế,
văn hoá - xã hội.
Trong lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là giữ vững vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà
nước, phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị - xã hội, xây
dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Mối quan tâm lớn nhất của Hồ Chí Minh
là xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, vừa là người lãnh đạo, vừa
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân; xây dựng Nhà nước của dân,
do dân, vì dân; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tệ quan liêu, xa rời quần
chúng. Người đòi hỏi không ngừng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong lĩnh vực kinh tế, Hồ Chí Minh đề cập trên nhiều mặt: xây dựng
lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ cấu kinh tế… Người nhấn mạnh tăng
năng suất lao động trên cơ sở tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa. Ở
nước ta, Hồ Chí Minh là người đầu tiên nêu lên cơ cấu kinh tế công - nông

nghiệp, lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, lấy thương nghiệp làm cầu
nối giữa các ngành kinh tế. Hồ Chí Minh cũng là người đầu tiên chủ trương
phát triển cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu trong suốt
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Người xác định rõ xu hướng vận động
của từng thành phần kinh tế. Người đặt ra yêu cầu ưu tiên phát triển kinh tế
"quốc doanh", khuyết khích kinh tế cá thể và hợp tác xã. Riêng kinh tế hợp
tác xã, Người nhấn mạnh phải dần dần từ thấp đến cao, trên cơ sở tự nguyện,
cùng có lợi. Đối với những nhà tư bản thương nghiệp, Nhà nước không nên
xoá bỏ quyền sở hữu tư tiệu sản xuất và của cải của họ mà hướng dẫn họ hoạt
động làm lợi cho quốc kế dân sinh. Người cũng coi trọng chế độ khoán trong
lao động sản xuất: "Chế độ làm khoán là một điều kiện của chủ nghĩa xã hội,
nó khuyến khích người công nhân luôn luôn tiến bộ, cho nhà máy tiến bộ.
Làm khoán là ích chung và lại lợi riêng"1.

1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 8, tr.341.


15
Trong lĩnh vực văn hoá - xã hội, Người đề ra chủ trương xây dựng một
nền văn hoá với tính chất: dân tộc, khoa học và đại chúng. Để làm được điều
đó phải đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo, xây dựng con người mới xã
hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh rất coi trọng việc nâng cao dân trí, đào tạo và sử
dụng nhân tài, khẳng định vai trò to lớn của văn hoá trong đời sống xã hội.
Theo Hồ Chí Minh: xây dựng nền văn hoá mới không chỉ tạo ra bộ mặt tinh
thần của xã hội mới mà còn thúc đẩy sự phát triển các lĩnh vực khác. Trong
khi xây dựng phải đồng thời đấu tranh chống các hiện tượng phản văn hoá,
khắc phục những tàn dư tư tưởng, phong tục lạc hậu, bài trừ mê tín dị đoan.
2.2. Về bước đi và phương thức, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

Việt Nam

Xuất phát từ nhận thức đúng đặc điểm, tính chất, nhiệm vụ và nội dung
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ ở nước ta, Hồ Chí Minh đề ra
hai nguyên tắc có tính chất phương pháp luận để xác định bước đi, cách làm phù
hợp. Một là, xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hiện tượng phổ biến mang tính
quốc tế, cần quán triệt các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây
dựng chế độ mới, có thể tham khảo, học tập kinh nghiệm các nước anh em
nhưng không được sao chép máy móc. Hai là, xác định bước đi và biện pháp
xây dựng chủ nghĩa xã hội chủ yếu xuất phát từ điều kiện thực tế, đặc điểm dân
tộc, nhu cầu và khả năng thực tế của nhân dân.
Từ hai nguyên tắc này, Hồ Chí Minh xác định phương châm thực hiện
bước đi trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là: dần dần, thận trọng từng bước một,
từ thấp đến cao, không chủ quan nóng vội, đốt cháy giai đoạn. Người chỉ ra
rằng: bước đi của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là phải qua nhiều bước, có bước
ngắn, bước dài tuỳ theo hoàn cảnh. Nhưng chớ ham làm mau, ham rầm rộ… đi
bước nào vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần dần 1. Phải chú trọng cả
nông nghiệp và công nghiệp.
Về bước đi trong cải tạo nông nghiệp, Người chỉ rõ: lúc đầu là cải tạo
ruộng đất, sau tiến lên một bước là tổ chức tổ đổi công sao cho tốt, cho khắp,
lại tiến lên hình thức hợp tác xã bậc thấp, rồi tiến lên hợp tác xã bậc cao.

1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 7, tr.538-539.


16
Về bước đi trong phát triển công nghiệp, Người rất coi trọng công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ.

Tuy nhiên, Người sớm đề phòng tư tưởng chủ quan, nóng vội. Người chỉ rõ:
trong kháng chiến, Việt Nam chỉ có nông thôn, bây giờ mới có thành thị, nếu
muốn công nghiệp hoá gấp là chủ quan. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa chỉ
có thể thực hiện thắng lợi trên cơ sở xây dựng và phát triển nền nông nghiệp
toàn diện, vững chắc, một hệ thống tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp nhẹ đa
dạng nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm và các nhu cầu thiết yếu cho
xã hội. Vì vậy, phải coi nông nghiệp là quan trọng và ưu tiên rồi đến tiểu thủ
công nghiệp và công nghiệp nhẹ, rồi mới đến công nghiệp nặng.
Phương thức, biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là phải
nêu cao độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn kinh nghiệm
nước ngoài, phải tìm tòi, sáng tạo ra cách làm phù hợp với Việt Nam. Trong
đó cần tập trung thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải
tạo với xây dựng, lấy xây dựng làm chính; kết hợp xây dựng và bảo vệ, đồng
thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền khác nhau trên phạm vi
quốc gia; xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có kế hoạch, biện pháp, quyết tâm
để thực hiện thắng lợi kế hoạch. Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản,
quyết định, lâu dài trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là đem của dân, tài dân,
sức dân, làm lợi cho dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên
chủ nghĩa xã hội là nền tảng, là hạt nhân của đường lối cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, công nghiệp hoá, hiện đại hoá những năm qua một lần nữa khẳng định
tính đúng đắn, sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và
con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
3. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ
CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀO CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI
HIỆN NAY

3.1. Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh



17
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu bất biến mà nhân dân
Việt Nam đã kiên trì phấn đấu hy sinh, theo đuổi suốt gần 80 năm qua dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bằng kinh nghiệm lịch sử của mình,
nhân dân Việt Nam đã thấm thía sâu sắc lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“… nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
chẳng có nghĩa lý gì”1.
Ngày nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo toàn dân tiến hành
công cuộc đổi mới nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh cũng chính là để hoàn thành mục tiêu, lý tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của nhân dân ta. Vì thế, đổi mới là quá trình
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội chứ
không làm thay đổi mục tiêu ấy.
Tuy nhiên, khi chấp nhận kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và chủ động hội nhập quốc tế, chúng ta phải tận dụng các mặt tích cực
của nó, đồng thời phải biết ngăn chặn, phòng tránh ảnh hưởng tiêu cực, bảo
đảm nhịp độ phát triển nhanh và bền vững trên tất cả các mặt, gắn tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa trên tất cả các lĩnh vực, nhất là về kinh tế và chính trị.
Trong củng cố, tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ Tổ quốc cũng
phải quán triệt quan điểm chỉ đạo là kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để
phát triển kinh tế - xã hội là lợi ích cao nhất của Tổ quốc; kết hợp chặt chẽ các
nhiệm vụ kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; chủ động phòng ngừa, sớm
phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể dẫn tới đột biến bất lợi.
3.2. Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy mạnh mẽ tất cả các
nguồn lực, trước hết là nguồn lực nội sinh, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức

mạnh thời đại để thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một yêu cầu có tính quy luật
đối với các nước nông nghiệp lạc hậu quá độ lên chủ nghĩa xã hội chưa qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Để công nghiệp hoá thành công phải
1

Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.56.


18
quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh: chủ nghĩa xã hội là công trình tập
thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng;
phải đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân. Theo tinh thần đó, công
nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước phải dựa vào nguồn lực trong nước là
chính. Nguồn lực của nhân dân, của con người Việt Nam, bao gồm trí tuệ, tài
năng, sức lao động…
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta phải phát huy cao độ quyền
làm chủ của người dân, tạo nên không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội. Đồng
thời, phải thực hiện nhất quán chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí
Minh trên cơ sở lấy liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức làm nòng cốt. Tranh thủ sự đóng góp ủng hộ của tất cả các lực
lượng tiến bộ trên toàn thế giới.
Công cuộc đổi mới của nhân dân Việt Nam diễn ra trong điều kiện cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão. Xu thế
toàn cầu hoá đang ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của các dân tộc. Vì vậy,
phải tranh thủ tối đa cơ hội tốt đó, phát huy hiệu lực và hiệu quả của hợp tác
quốc tế, thực hiện kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại theo tư
tưởng Hồ Chí Minh. Tranh thủ hợp tác phải đi đôi với thường xuyên khơi dậy
chủ nghĩa yêu nước, tinh thần độc lập dân tộc, kêu gọi toàn dân đoàn kết, tự

lực, tự cường, cần, kiệm để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Giao lưu hội nhập đồng thời phải không ngừng trau dồi bản lĩnh và văn
hoá dân tộc. Chỉ có bản lĩnh và văn hoá dân tộc sâu sắc, mạnh mẽ mới có thể
tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, chống lại các loại hình văn hoá độc hại từ
bên ngoài xâm nhập vào. Phòng, chống sự xâm lăng về văn hoá là một yêu
cầu khách quan, cấp thiết hiện nay.
3.3. Xây dựng Đảng vững mạnh, làm trong sạch bộ máy Nhà nước, đẩy
mạnh đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, thực hiện cần, kiệm xây dựng
chủ nghĩa xã hội

Đại hội Đảng lần thứ X đánh giá: "Cuộc vận động xây dựng và chỉnh
đốn Đảng, tự phê bình và phê bình trong các cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên
chưa đạt yêu cầu đề ra… Công tác tư tưởng, lý luận, báo chí còn nhiều thiếu
sót, tính định hướng, tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả chưa cao.


19
Công tác tổ chức trên một số mặt còn yếu, chưa thực hiện đầy đủ các nguyên
tắc tổ chức, hoạt động của Đảng. Không ít cơ sở đảng yếu kém, năng lực và
sức chiến đấu thấp, sinh hoạt đảng và quản lý đảng viên lỏng lẻo, tự phê bình
và phê bình yếu…"1.
Tình hình trên đòi hỏi Đảng phải không ngừng tự đổi mới và chỉnh đốn
nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Vấn đề xây
dựng và chỉnh đốn Đảng không chỉ là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên mà còn
là yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Để thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
trước hết cần tập trung xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ lãnh đạo công
cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
đảng viên. Xây dựng một đảng cầm quyền thực sự là đạo đức, là văn minh.

Đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức Nhà nước, những người thừa hành
công vụ phải trong sạch, liêm khiết, thực sự là những người đầy tớ thật trung
thành của nhân dân.
Đảng ta xác định mục tiêu, giải pháp chủ yếu là: "Tiếp tục tự đổi mới, tự
chỉnh đốn, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong
sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức lãnh đạo
khoa học, luôn gắn bó với nhân dân"2.
Trước mắt, cần tập trung nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực trí tuệ
của Đảng; kiện toàn và đổi mới hoạt động của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên. Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư
tưởng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng,
có trí tuệ, phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ luật, thực sự
tiền phong gương mẫu, đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao… Hoàn
thiện mô hình các loại hình tổ chức cơ sở đảng… Thực hiện mạnh mẽ chủ
1

2

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.268-274
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.279


20
trương trẻ hóa, tiêu chuẩn hóa, thể chế hóa và từng bước nhất thể hóa chức
danh cán bộ… Nâng cao chất lượng, đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức
hoạt động của tổ chức cơ cở đảng… Tăng cường công tác chỉ đạo, quản lý,

dựa vào dân để xây dựng Đảng… Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân
chủ trong Đảng, tăng cường gắn bó giữa Đảng với nhân dân, nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Đổi mới tổ chức bộ máy và công
tác cán bộ. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh, Nhà
nước của dân, do dân, vì dân. Thực hiện cải cách nền hành chính quốc gia
một cách đồng bộ để phục vụ nhân dân. Phải thường xuyên chăm lo xây dựng
mối quan hệ đoàn kết máu thịt với nhân dân, kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng, lãng phí, làm trong sạch bộ máy Nhà nước, xử lý nghiêm khắc những
hành vi vi phạm pháp luật.


21
KẾT LUẬN

Chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một
trong những vấn đề trung tâm trong tư tưởng Hồ Chí Minh với những nội
dung rất phong phú trên tất cả các lĩnh vực, thể hiện cả tính chất, mục tiêu,
động lực, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam giúp chúng ta nhận thức đúng đắn
quá trình chuyển biến cách mạng từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên
cách mạng xã hội chủ nghĩa; về sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam… đây là cơ sở để vận dụng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đấu tranh chống những quan điểm, tư tưởng sai trái, phủ nhận mục tiêu, con
đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.




×