Tải bản đầy đủ (.pdf) (123 trang)

Tiểu thuyết viết về nông thôn của hoàng minh tường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (897.91 KB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

--------------

NGUYỄN ĐỖ TOÁN

TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN
CỦA HOÀNG MINH TƢỜNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

--------------

NGUYỄN ĐỖ TOÁN

TIỂU THUYẾT VIẾT VỀ NÔNG THÔN
CỦA HOÀNG MINH TƢỜNG
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
MÃ SỐ
: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học:


PGS.TS Tôn Thảo Miên

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận văn là trung thực. Kết quả
nghiên cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố trước đó.
Tôi chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Hà Nội, tháng 5 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Đỗ Toán


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................3
2.1. Những nghiên cứu chung về tiểu thuyết đương đại viết về nông thôn .....3
2.2. Những nghiên cứu về tác phẩm của Hoàng Minh Tường .........................7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................11
3.1. Đối tượng nghiên cứu..............................................................................11
3.2. Phạm vi nghiên cứu .................................................................................12
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................12
5. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................12
6. Đóng góp của luận văn ..................................................................................12
7. Cấu trúc luận văn ...........................................................................................13

Chƣơng 1
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI VIẾT VỀ NÔNG THÔN VÀ TÁC
GIẢ HOÀNG MINH TƢỜNG..............................................................................14
1.1. Vài nét về tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới .......................................14
1.2. Tiểu thuyết viết về nông thôn và tác giả Hoàng Minh Tường ...................25
1.2.1. Khái quát tiểu thuyết viết về nông thôn ...............................................25
1.2.2. Hoàng Minh Tường và những tác phẩm viết về nông thôn của ông ...33
Chƣơng 2
CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT HOÀNG MINH
TƢỜNG .................................................................................................................41
2.1. Cốt truyện ...................................................................................................41


2.1.1. Khái niệm .............................................................................................41
2.1.2. Các kiểu cốt truyện cơ bản ...................................................................42
2.2. Nhân vật ......................................................................................................49
2.2.1. Khái niệm nhân vật ..............................................................................49
2.2.2. Các kiểu nhân vật cơ bản .....................................................................50
2.2.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .............................................................66
Chƣơng 3
KIẾN TẠO KHÔNG GIAN – THỜI GIAN, NGÔN NGỮ, GIỌNG ĐIỆU TRONG TIỂU
THUYẾT HOÀNG MINH TƢỜNG ...................................................................................... 75

3.1. Không gian nghệ thuật ................................................................................75
3.1.1. Khái niệm .............................................................................................75
3.1.2. Kiến tạo không gian nghệ thuật ...........................................................76
3.2. Thời gian nghệ thuật ...................................................................................90
3.2.1. Khái niệm .............................................................................................90
3.2.2. Kiến tạo thời gian nghệ thuật ...............................................................90
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật ..................................................................................93

3.3.1. Ngôn ngữ đối thoại ...............................................................................98
3.3.2. Ngôn ngữ độc thoại ............................................................................100
3.4. Giọng điệu nghệ thuật ...............................................................................101
3.4.1. Khái niệm ...........................................................................................101
3.4.2. Giọng điệu xót xa, chua chát ..............................................................102
3.4.3. Giọng điệu giễu nhại ..........................................................................104
KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 108
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Điều đầu tiên khiến cho luận văn này xuất hiện là câu hỏi: Người ta đã tạo
nên một nông thôn Việt Nam như thế nào trong tiểu thuyết? Hoàng Minh Tường,
trong tư cách là một tác giả tiêu biểu của mảng tiểu thuyết viết về nông thôn,
ông đã tạo nên một nông thôn của riêng mình như thế nào? Những tiêu điểm nhỏ
hơn, nhưng lại sẽ chụm vào nhau trong một nỗ lực làm hiện diện một cái nhìn
tổng thể về nông thôn như: Cốt truyện (Tiểu thuyết của Hoàng Minh Tường kể
chuyện gì ở nông thôn?), Nhân vật (Con người trong tiểu thuyết của Hoàng
Minh Tường là ai? Như thế nào?), Không gian – thời gian (Nông thôn trong
những kiến tạo, quy chiếu của Hoàng Minh Tường?), Ngôn ngữ - Giọng điệu
(Những phương diện có tính khu biệt tạo nên sắc thái nghệ thuật riêng của nông
thôn trong tác phẩm Hoàng Minh Tường?),… Những bận tâm đó đòi hỏi một
câu trả lời có tính hệ thống và cặn kẽ.
Nông thôn, dĩ nhiên không chỉ xuất hiện trong tiểu thuyết. Trong các thể
loại khác, nông thôn vẫn chiếm được địa vị quan trọng bởi lịch sử dày dặn của
nó trong ký ức và thực hành sáng tạo của nghệ sĩ Việt Nam. Tuy vậy, theo M.
Bakhtin, tiểu thuyết là thể loại tiêu biểu cho thời đại mới, tiêu biểu cho thế giới
quan đối thoại. Tiểu thuyết là thể loại duy nhất còn trẻ, đang biến chuyển, chưa
định hình, nòng cốt chưa rắn lại, chúng ta chưa thể dự đoán hết khả năng uyển

chuyển của nó. Tiểu thuyết thay đổi hình tượng không gian, thời gian so với sử
thi, thay đổi trong nguyên tắc tư duy và cấu trúc hình tượng. Đặc biệt là sự tiếp
xúc giữa tiểu thuyết và cái đương đại đang tiếp diễn, tính vấn đề của tiểu thuyết,

1


tính đa ngữ của tiểu thuyết đã hấp dẫn chúng tôi nghiên cứu nông thôn trong thể
loại tiểu thuyết, tập trung vào trường hợp Hoàng Minh Tường.
Từ năm 1975 tới nay, đề tài nông thôn trong tiểu thuyết được tái hiện đầy
đủ, sinh động hơn qua các tác phẩm của: Lê Lựu, Đào Thắng, Nguyễn Khắc
Trường, Dương Hướng, Trịnh Thanh Phong, Vũ Xuân Tửu, Nguyễn Quang
Thiều, Tạ Duy Anh,… và Hoàng Minh Tường là một trong số đó. Hơn ba mươi
năm cầm bút, Hoàng Minh Tường đã có một sự nghiệp văn chương khá lớn với
mười ba tiểu thuyết, chín tập truyện ngắn, năm tập bút ký, phóng sự. Trong số
những tiểu thuyết đã được xuất bản, tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc, tập 1 trong bộ
tiểu thuyết Gia phả của đất (gồm 2 tập) là tác phẩm được trao giải thưởng của
Hội Nhà văn Việt Nam năm 1997 và được tái bản nhiều lần. Hiện thực nông
thôn với những biến đổi phức tạp trong đời sống của người nông dân trong bối
cảnh đổi mới đã được Hoàng Minh Tường diễn tả một cách chân thực và sâu sắc.
Những đổi mới, cách tân trong tiểu thuyết trên cả hai phương diện nội
dung và nghệ thuật đã góp phần khẳng định vị trí và đóng góp của Hoàng Minh
Tường vào đời sống văn chương Việt Nam đương đại nói chung và vào dòng văn
học viết về nông thôn nói riêng. Chính điều này đã thôi thúc người viết tìm hiểu
sáng tác của Hoàng Minh Tường, đặc biệt là tiểu thuyết Gia phả của đất – tác
phẩm đã được chuyển thể thành bộ phim cùng tên, tạo nên hiệu ứng tích cực
trong đời sống xã hội.
Nông thôn, Nông dân, Nông nghiệp vốn dĩ là những phạm trù quen thuộc
nhưng cũng đầy lạ lẫm với bất kỳ một xúc tiến thâm nhập, nghiên cứu nào.
Những truyền thống nông thôn và những kiến tạo nông thôn mới, sự dịch chuyển

của nông thôn trong quá trình vận động của văn hoá, lịch sử, sự hiện diện trong
thể loại tiểu thuyết, qua từng tác giả, từng thời kỳ lịch sử,… là điều khiến cho

2


những câu hỏi không phải đã được trả lời một cách triệt để. Do vậy, những
nghiên cứu của chúng tôi ở đây, nếu có chút đóng góp nào đó là ở chỗ nhận ra
một lát cắt, một trường hợp, đặt trong cái nhìn tổng thể của truyền thống nông
thôn đang đi tới hiện tại, đó là Tiểu thuyết viết về nông thôn của Hoàng Minh
Tường.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu chung về tiểu thuyết đƣơng đại viết về nông
thôn
Tiểu thuyết viết về nông thôn là một bộ phận khá tiêu biểu của văn học
Việt Nam. Dường như, người ta có thể nhận ra dòng chảy liên tục của mảng văn
chương này từ trước đổi mới, hoặc sớm hơn nữa, trước 1945. Nghĩa là, đề tài
nông thôn luôn chiếm được rất nhiều sự chú ý của nghệ thuật. Nói thế để thấy
rằng, sự phát triển của văn học viết về nông thôn và nghiên cứu về văn học viết
về nông thôn – tiểu thuyết, là một hướng nghiên cứu rộng mở, có tiền đề, lịch sử
và tương lai.
Trước khi có những khái quát chung về việc nghiên cứu tiểu thuyết đương
đại viết về nông thôn, có thể điểm lại những gương mặt sáng giá của dòng văn
chương này. Ở điểm nhìn đương đại, không thể không nhắc đến Lê Lựu với Thời
xa vắng, Chuyện làng Cuội, Dương Hướng với Bến không chồng, Nguyễn Khắc
Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma, Đỗ Minh Tuấn với Thần thánh và
bươm bướm, Đào Thắng với Dòng sông Mía, Nguyễn Quang Thiều với Kẻ ám
sát cánh đồng, Trịnh Thanh Phong với Ma làng, Dương Duy Ngữ với Người giữ
đình làng, Tạ Duy Anh với Lão Khổ, Hoàng Minh Tường với Thuỷ hoả đạo tặc,
Đồng sau bão, Thời của Thánh Thần,… Còn những tên tuổi tác giả và tác phẩm

khác mà sự nhắc lại họ đương nhiên làm dầy dặn hơn những gì đã nói ở đây. Dẫu

3


thế, việc điểm lại những nghiên cứu về tiểu thuyết đương đại với đề tài nông
thôn không đặt ra quá quan thiết ở đây. Trên tinh thần đó, có thể thấy, ở những
gương mặt tác giả, tác phẩm trên, họ được giới nghiên cứu, phê bình chú ý, tạo
nên các phạm vi, không gian nghiên cứu riêng từ khá sớm.
Năm 1986, tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu ra mắt bạn đọc. Thời
điểm 1986 là một mốc luôn cần được nhắc lại bởi tính mở và đóng của nó. Dĩ
nhiên, khi mở ra một thời kỳ mới, có những điều cần phải khép lại. Thời xa vắng
khép lại một thời có lẽ chưa thật xa, nhưng cần phải được xem là đã xa, hướng
đến một hoàn cảnh mới cho con người trong tinh thần đổi mới. Tiểu thuyết này
lập tức được chú ý, được xem là một trong những cái mốc của văn chương đổi
mới nói chung và văn chương viết về nông thôn nói riêng. Trong đó, đáng lưu ý
là những bài viết của Nguyễn Hoà: Suy tư từ một “Thời xa vắng” [30]; Nguyễn
Văn Lưu: Nhu cầu nhận thức lại thực tại qua một “Thời xa vắng” [38]; Vương
Trí Nhàn: Một đóng góp vào việc nhận diện con người Việt Nam hôm nay [43];
Hoàng Ngọc Hiến: Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu [29]. Những bài viết đã đặt ra
vấn đề nhận thức lại thực tại, những ứng xử mới trên tinh thần Đổi mới để từ đó
có những bước đi hiệu quả hơn trong chặng đường phía trước. Sau Thời xa vắng
của Lê Lựu, tiểu thuyết Bến không chồng của Dương Hướng ra đời (1990). Tác
phẩm này cũng thu hút được sự chú ý của độc giả và lập tức được giải thưởng
của Hội Nhà văn Việt Nam. Giới nghiên cứu, phê bình cũng chú ý để đưa ra
những thẩm định về tác phẩm này. Trong dòng chảy đó, những bài viết của
Nguyên Ngọc (Văn xuôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét quy luật phát triển) [41],
Nguyễn Văn Long (Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, H,
2002,[36, 404]. Trung Trung Đỉnh (Dương Hướng và Bến không chồng đăng
trên tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 12 năm 1991) [19],… đã có cái nhìn khái


4


quát về tác phẩm của Dương Hướng. Năm 1990 còn được ghi dấu bởi tiểu thuyết
Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường. Tác phẩm này, cũng
như Bến không chồng hay Thời xa vắng, được chú ý, được chuyển thể thành
phim và thu hút được sự chú ý của công chúng, cả ở bộ phận đại chúng và bộ
phận tinh hoa. Sự tiếp cận khá rộng rãi của công chúng phổ thông, những nghiên
cứu của Nguyễn Đăng Mạnh, Phong Lê, Trần Đình Sử, Hà Minh Đức, Ngô
Thảo, Nguyễn Hữu Sơn, Hồng Diệu, Lê Nguyên Cẩn,… đã nói lên sự lôi cuốn
của tác phẩm cả ở dạng tác phẩm văn học và tác phẩm điện ảnh. Nguyễn Đăng
Mạnh chú ý đến sự nhập nhằng ma quỷ và con người trong tác phẩm [44]; Phong
Lê chú ý đến khía cạnh ngầm ẩn, với sự giao tranh của những yếu tố dị dạng
[44]; trong khi đó, Trần Đình Sử lại quan tâm tới khía cạnh xã hội của tác phẩm
khi ông cho rằng, Mảnh đất lắm người nhiều ma thể hiện thực trạng xã hội lúc
bấy giờ [44]. Hà Minh Đức lại cho rằng, tác phẩm này là sự xáo trộn, đan xen
của nhiều thế lực [44]. Lê Nguyên Cẩn dưới góc nhìn của mình lại quan tâm đến
cái kỳ ảo [10]; Hồng Diệu thì nhấn mạnh phương diện đổi mới gợi lên từ tác
phẩm [18],…
Những năm sau đó, văn đàn Việt Nam tiếp tục chứng kiến sự ra đời của
Ma làng (2001), Người giữ đình làng (2001), Dòng sông Mía (2004), Thần thánh
và bươm bướm (2009) và các tác phẩm của Hoàng Minh Tường như đã biết.
Trên cái nhìn đại thể, giới nghiên cứu đã có những xâm nhập ở mức độ khá kịp
thời. Những tác giả như Bích Thu (Những nỗ lực sáng tạo của tiểu thuyết Việt
Nam sau đổi mới), Bùi Việt Thắng (Tiểu thuyết đương đại), Phong Lê (Tiểu
thuyết mở đầu thế kỉ XXI trong tiến trình văn học Việt Nam từ tháng 8 – 1945),
Trần Cương với bài viết Văn xuôi viết về nông thôn nửa sau những năm 80 [14];
Nguyễn Thị Bình với bài Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau


5


1975 [5]; Nguyễn Thị Hương Lan với đề tài Tiểu thuyết viết về nông thôn trong
văn xuôi thời kỳ đổi mới (Nguyễn Thị Hương Lan) [35]; Lã Duy Lan với luận
án Phó Tiến sĩ: Văn xuôi viết về nông thôn trong công cuộc đổi mới qua một số
tác phẩm tiêu biểu [34]; Phùng Thị Hồng Thắm với Luận văn Thạc sĩ: Tiểu
thuyết viết về nông thôn thời kỳ đổi mới (Qua một số tác phẩm đoạt giải)[53];
Luận án Tiến sĩ của Bùi Quang Trường: Văn xuôi viết về nông thôn trong văn
học Viêt Nam sau 1975 [63], Luận án Tiến sĩ của Bùi Như Hải: Đặc trưng phản
ánh hiện thực của tiểu thuyết Việt Nam về nông thôn từ 1986 đến nay [24],…
Những nghiên cứu từ khá sớm của Lã Duy Lan, có thể là một tham khảo về ý
tưởng, nhưng ở đó, vẫn hiện lên rất rõ những khuyết thiếu về mặt tư duy thể loại.
Cụ thể, chúng tôi thấy rằng luận án Phó Tiến sĩ của Lã Duy Lan tập trung chủ
yếu vào phương diện nội dung, phần thể loại được đặt ra nhưng chưa giải quyết
được một cách thoả đáng. Chẳng hạn, ông nêu lên vấn đề thể loại tiểu thuyết chỉ
đơn giản là sự thay đổi dung lượng để nói được nhiều hơn, thể hiện được cuộc
sống một cách rộng lớn hơn. Cũng đặt ra vấn đề như Lã Duy Lan nhưng phạm vi
khảo sát rộng hơn, Bùi Quang Trường chú ý đến tất cả các tác phẩm văn xuôi
(truyện ngắn và tiểu thuyết). Trong nghiên cứu của mình, các vấn đề hiện thực
nông thôn, không gian nông thôn, những hướng tiếp cận nông thôn và cảm hứng
về nông thôn được tác giả tập trung nghiên cứu. Điểm nhìn thể loại, đã được đề
cập qua các phạm trù ngôn ngữ, giọng điệu nhưng lại chưa khái quát và gọi tên
thành một hướng tiếp cận chủ đạo. Luận án của Bùi Như Hải có thể được xem là
công trình công phu về tiểu thuyết nông thôn Việt Nam từ sau 1986. Tuy nhiên,
cái rõ nhất trong nghiên cứu của tác giả này mà chúng tôi nhận ra là những
nghiên cứu về cốt truyện, nhân vật, những khảo sát về không gian, thời gian
nghệ thuật dưới góc nhìn thể loại vẫn chưa được chú ý thoả đáng. Điều đáng nói

6



hơn, những luận án vừa nêu đều hướng đến những nghiên cứu có tính chất bao
quát, không phải là những nghiên cứu trường hợp. Vì thế, Hoàng Minh Tường và
tác phẩm của ông cũng nằm trong hoàn cảnh bị lướt qua hoặc dừng lại ở việc
điểm tên.
Dẫu như thế, những công trình này là những tham khảo hữu ích khi hầu
như tất cả đều tập trung vào khía cạnh hiện thực của nông thôn, sự ì trệ của nông
thôn, bước chuyển mình sau đổi mới, những tàn dư và tinh thần khai minh,
những người cũ và người mới, những mô hình cũ, tư duy cũ và mô hình mới, tư
duy mới, ngôn ngữ và nghệ thuật trần thuật của tiểu thuyết,… Đó là những viên
gạch quan trọng, những gợi ý hữu ích để những người nghiên cứu đi sau tiếp tục
có những tham khảo và khơi tạo những mạch nguồn mới.
2.2. Những nghiên cứu về tác phẩm của Hoàng Minh Tƣờng
Những tiểu thuyết viết về nông thôn nói chung và những thực hành viết
của Hoàng Minh Tường nói riêng, đã thu hút khá nhiều sự chú ý của giới nghiên
cứu, phê bình, báo chí truyền thông bởi thành tựu nghệ thuật và các vấn đề ông
đặt ra trong tác phẩm của mình. Bàn về Thủy hỏa đạo tặc, nhà nghiên cứu Phan
Cự Đệ đã có nhận xét xác đáng về tinh thần sáng tạo nghệ thuật và tài năng của
Hoàng Minh Tường. Theo đó, bằng ngòi bút của mình nhà văn nêu ra những
mảng đen, bóng tối, nỗi đau con người trong xã hội với định kiến, giáo điều đè
nặng từ cách sống, lối tư duy. Nhấn mạnh đến vai trò, ý thức công dân, trách
nhiệm nghệ sĩ trong đời sống, trong Giáo trình Văn học Việt Nam sau 1975, nhà
phê bình Bùi Việt Thắng đã khẳng định Thủy hỏa đạo tặc nằm trong xu hướng
xông thẳng vào thực tại, trực tiếp viết về các vấn đề sản xuất, quản lý kinh tế xã
hội. “Xu hướng văn xuôi này thể hiện sự dấn thân, nhập cuộc của nhà văn vào
khả năng đáp trả nhanh nhạy các vấn đề bức xúc của đời sống xã hội” [54]. Đánh

7



giá Hoàng Minh Tường là một cây bút giàu nội lực, có tài trên cơ sở những kế
thừa và cách tân, đổi mới nội dung, chủ đề, lối viết, tác giả Dương Thị Kim Huệ
trong bài Cái tôi tác giả trong bút kí “Canada màu phong đỏ” đã khẳng định:
“Hoàng Minh Tường là cây bút giàu tài năng, có cá tính và đam mê sáng tạo
nhưng ông vẫn học hỏi, kế thừa tinh hoa các bậc tiền bối văn chương” [31]. Tác
giả Đặng Hiển, bài viết Ngư phủ- sức mạnh của người dân biển, bút lực của nhà
văn, khẳng định: “đọc Ngư phủ, ta vui vì có trong tay mình cuốn tiểu thuyết hay.
Nó chứng minh sức sống của nền văn học hiện đại, sức hút của cây bút văn xuôi
Hoàng Minh Tường” [27]. Làm rõ hơn những phương diện tài năng, phong cách,
chủ đề trong sáng tác của Hoàng Minh Tường, tác giả Vũ Nho trong bài Phê
bình tiểu thuyết “Thời của thánh thần”, khẳng định Hoàng Minh Tường là một
người từng trải, có vốn sống, kinh nghiệm, sự hiểu biết và một thái độ tập trung
làm việc trên con đường nghệ thuật của mình. Theo tác giả Vũ Nho thì tác phẩm
vượt trội này sẽ được đón nhận một cách nồng nhiệt bởi sự bứt phá mà ông cho
là rất ngoạn mục của nó. Ông viết nhận định: Cải cách ruộng đất, đấu tranh
chống Nhân văn Giai phẩm, chống xét lại; giải phóng Miền Nam, thống nhất đất
nước; Hòa hợp dân tộc… Những vấn đề cốt lõi ấy được xem xét và đánh giá qua
những số phận mấy đời chìm nổi của một gia đình. Thời gian đủ độ lùi cần thiết
nhưng những hiểu biết của một cây bút phóng sự, tiểu thuyết có hạng, và suy
ngẫm một đời viết, mới là yếu tố quyết định làm nên thành công của tác phẩm
này. Từ quan điểm ấy, Vũ Nho kết luận: Thời của Thánh Thần là “một cuộc bứt
phá ngoạn mục” [45]. Hà Thế, tác giả bài viết Nếu chỉ tâng bốc, tô hồng trên báo
Quân đội nhân dân (cuối tuần) đã gián tiếp nhận xét về cuốn tiểu thuyết của nhà
văn Hoàng Minh Tường: “Đọc anh thấy rõ tính nhân bản vẫn là một yếu tố
không thể thiếu trong các tác phẩm. Nhưng ngược lại, sự bặm trợn, thô thiển đến

8



thô tục, nhân cách méo mó thể hiện trong một số nhân vật của tiểu thuyết” [57].
Ở một góc nhìn khác, trong sự chi phối của không gian đương đại, những ràng
buộc của thiết chế văn hoá, lịch sử, chính trị, tác giả Thái Dương, cũng trên báo
Quân đội nhân dân cho rằng, tiểu thuyết này đã đi sâu, khai quật lịch sử, nhắc lại
những gì sai lầm của quá khứ một thời mà chúng ta hầu như muốn quên đi. Bài
viết nhấn mạnh: “Đọc xong cuốn sách của tác giả, có bạn đọc sẽ thấy chạnh
buồn, nhớ về một thời khốn khó với những chuyện đau lòng. Người ít hiểu biết
và nhất là thế hệ trẻ hôm nay đọc cuốn sách loại này dễ hoang mang, nghi hoặc”
[21].
Cải cách ruộng đất là một giai đoạn, một sự kiện không thể quên trong lịch
sử Việt Nam [48]. Bài viết của Phương Ngọc đăng trên Vietnamnet, cho rằng
tiểu thuyết Thời của Thánh Thần đã chấm dứt những sự kiện của thời cải cách
ruộng đất bằng những chi tiết độc đáo đến nỗi các nhà văn khác không thể khai
thác gì thêm được nữa trong một sự kiện lịch sử này. Trong khi đó, Ngô Minh
trong bài viết Trò chuyện với tác giả của Thời của Thánh Thần, cho rằng, đây là
tác phẩm rất trung thực, nhân hậu và rất hấp dẫn, nhà văn đã dồn hết sức lực
mình để viết. Dù bị cảnh cáo nhưng đó cũng đã biểu hiện của sự cởi mở hơn
trong việc thẩm định, phán xét tác phẩm văn học.
Trong bài viết Bức tranh nông thôn một thời qua Gia phả của đất, tác giả
Nguyễn Thị Thu Hằng khẳng định: “Đây chính là bức tranh sinh động và sâu sắc
của Hoàng Minh Tường khắc họa lại hiện thực cuộc sống nông thôn và người
dân lao động vùng đồng bằng Bắc Bộ trong những thập niên 80 của thế kỷ XX
một cách chân thực” [25]. Cũng tại bài viết này, Nguyễn Thị Thu Hằng đưa ra
vấn đề tính dự báo của văn chương thông qua những trang viết về nông thôn:
“Thông qua Gia phả của đất, dưới cảm hứng nhận thức, và đánh giá lại lịch sử,

9


tác giả “được mệnh danh là cây bút của làng quê viết về nông thôn có hạng” đã

cho chúng ta thấy được cái nhìn sâu sắc và toàn diện về bức tranh nông thôn của
một làng quê miền Bắc vật vã chuyển mình sau 30 năm, đó là hình ảnh trọn vẹn,
đa chiều, phức tạp của một đất nước mang văn hóa truyền thống nông nghiệp lúa
nước. Tiểu thuyết không chỉ phản ánh hiện thực nông thôn theo mô hình hợp tác
xã làm ăn theo cơ chế cũ, cơ chế quan liêu bao cấp mang tính cộng đồng, tập thể
thực hiện dưới sự áp đặt của một bộ phận lãnh đạo đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi
ích tập thể, mà còn mang âm hưởng chính luận và tính phản biện sâu sắc cũng
như tính dự báo xã hội được tác giả thể hiện trong cặp đôi tác phẩm” [25].
Hoàng Minh Tuân trong Luận văn Nông thôn Việt Nam sau 1975 trong một số
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (Đại học Vinh, 2009), khẳng định Hoàng Minh
Tường đã có cái nhìn thấu đáo và tin tưởng về sự vươn lên của nông dân trong
quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước. Trong luận văn Tiểu thuyết viết về
nông thôn thời kỳ đổi mới (Qua một số tác phẩm đạt giải), tác giả Phùng Thị
Hồng Thắm đánh giá rất cao giá trị hiện thực của tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc
cũng như sự dũng cảm của người viết trước bối cảnh mà xã hội vẫn còn những
định kiến tư tưởng khá nặng nề… Tác phẩm phản ánh trung thực, cắt nghĩa và
dự báo trước sự tan rã tất yếu của mô hình hợp tác xã nông nghiệp theo lối bao
cấp.
Bình Nguyên Trang, trên mục Đời sống Văn hoá của báo Văn nghệ Công
an gọi: Nhà văn Hoàng Minh Tường: chung tình với đề tài nông thôn. Trong bài
nói chuyện này, Hoàng Minh Tường đã bày tỏ những quan tâm của riêng ông đối
với thể loại tiểu thuyết và đề tài nông thôn. Ở đó, Hoàng Minh Tường thấy được
khả năng thể hiện sức lực và tài năng, tư tưởng nghệ thuật của mình. Ông bày tỏ:
“Viết về nông thôn với tôi nó rất tự nhiên thôi. Là bởi vì tôi xuất thân từ nông

10


thôn, gia đình tuy không nghèo túng nhưng thuở nhỏ vẫn theo chúng bạn đi chăn
trâu cắt cỏ, mò cua bắt ốc. Rồi đến lúc đi học đại học nghỉ hè về nhà vẫn giúp mẹ

việc đồng áng, như nhổ mạ, gặt lúa. Quan hệ làng xóm của người nông dân thì
tôi hiểu vô cùng. Khi tôi viết, lẽ dĩ nhiên là sẽ cảm thấy tự tin hơn khi viết về
những thứ mình thân thuộc. Sau này tôi viết về nhiều đề tài khác, nhưng có lẽ đề
tài tôi chung tình nhất, đó là nông thôn” [62]. Văn Chinh trong bài viết: Những
tác phẩm văn học viết về nông thôn đã đặt ra những đòi hỏi có tính bức xúc về
vấn đề nông thôn trong văn chương đương đại. Ông nhấn mạnh: Thủy hỏa đạo
tặc và Đồng sau bão của Hoàng Minh Tường viết về sản xuất hợp tác xã, tái hiện
cái nhức nhối một thời với những quẩn quanh tháo gỡ của nhiều trí tuệ nhưng
tháo gỡ không xong [13].
Như vậy, mặc dù đã có một số công trình quan tâm đến Thủy hỏa đạo tặc,
Đồng sau bão, Thời của Thánh Thần… trên một số phương diện cụ thể như giá
trị hiện thực của tác phẩm, khẳng định sự dũng cảm của người viết…, nhưng
chưa có công trình nào nghiên cứu toàn diện, hệ thống về những tiểu thuyết viết
về nông thôn của Hoàng Minh Tường.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Chọn tiểu thuyết viết về nông thôn của Hoàng Minh Tường để nghiên cứu,
chúng tôi xác định đối tượng cần tìm hiểu chính là cốt truyện, nhân vật, không
gian – thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ và giọng điệu trong tác phẩm, qua đó
khẳng định thế mạnh của thể loại tiểu thuyết, thế mạnh của nhà văn Hoàng Minh
Tường trong việc phản ánh hiện thực nông thôn thời kỳ đổi mới.

11


3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi của luận văn giới hạn trong một số tiểu thuyết viết về nông thôn
của Hoàng Minh Tường như Thủy hỏa đạo tặc, Đồng sau bão, Ngư phủ, Thời
của Thánh Thần… Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ so
sánh với một số tác phẩm khác của nhà văn, cũng như so sánh với sáng tác của

những nhà văn khác cùng viết về đề tài nông thôn.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Khảo sát, tìm hiểu để chỉ ra những đặc điểm nổi trội nhất của tiểu thuyết
viết về nông thôn của Hoàng Minh Tường.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn phối hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích
- Phương pháp khảo sát, thống kê
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp lịch sử, xã hội
- Phương pháp tiếp cận Thi pháp học
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu một cách hệ thống, tiếp cận trên nhiều phương diện
khác nhau như cốt truyện, nhân vật, không gian - thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ
và giọng điệu trong các tiểu thuyết Thủy hỏa đạo tặc, Đồng sau bão, Ngư phủ,
Thời của Thánh Thần… của Hoàng Minh Tường, góp phần khẳng định vị trí và
đóng góp của nhà văn đối với sự phát triển của văn xuôi thời kỳ đổi mới trên cả
hai phương diện nội dung và nghệ thuật.

12


7. Cấu trúc luận văn
Ngoài Phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
được triển khai thành 3 chương:
Chương1: Tiểu thuyết Việt Nam đương đại viết về nông thôn và tác giả
Hoàng Minh Tường
Chương 2: Cốt truyện và nhân vật trong tiểu thuyết Hoàng Minh Tường
Chương 3: Kiến tạo không gian – thời gian, ngôn ngữ và giọng điệu trong
tiểu thuyết Hoàng Minh Tường


13


NỘI DUNG

Chƣơng 1
TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
VIẾT VỀ NÔNG THÔN VÀ TÁC GIẢ HOÀNG MINH TƢỜNG
1.1. Vài nét về tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
Tiểu thuyết từ khi xuất hiện trong nền văn học Việt Nam với tư cách là một
thể loại văn học có rất nhiều lợi thế trong việc tái tạo lại hiện thực đời sống xã
hội, đã nhanh chóng xác lập được vai trò, vị trí, thành tựu của mình. Ban đầu là
một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả tình tự người ta, phong tục xã hội hay
những sự lạ tích kỳ, đã làm cho người đọc hứng thú. Đó là sự ra đời của các tiểu
thuyết, Kiếp phong trần (1882), Truyện đời xưa ( 1886) của Trương Vĩnh Ký,
Truyện giải buồn (1886) của Huỳnh Tịnh Của, Truyện thầy Lazaro Phiền của
Nguyễn Trọng Quản. Tuy nhiên tiểu thuyết không chỉ dừng ở phóng tác, miêu tả
ngoại cảnh đơn thuần mà dần hướng vào chiều sâu tâm lý con người, thay đổi
theo hướng hiện đại. Tiểu thuyết Tố Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách cho
thấy một bước tiến mới của tiểu thuyết Việt Nam buổi ban đầu. Buổi đầu của
tiểu thuyết, trong tư cách một thể loại, đã có những bước chuyển theo mô hình
dịch – phóng tác – sáng tác. Từng bước đi, dù manh nha nhưng đã đặt ra nền
tảng cho tiểu thuyết Việt Nam [4].
Giai đoạn 1930-1945, tiểu thuyết Việt Nam đã chuyển mình sang hiện đại.
Tư tưởng sáng tác của lớp nhà văn trẻ gần như đoạn tuyệt so với thời kỳ trước.
Cảm hứng cá nhân được đề cao. Tính hiện thực được mở rộng và đào sâu. Nếu
như các nhà văn của Tự lực văn đoàn tập trung khai thác đời sống cá nhân với

14



khát vọng hạnh phúc, tự do yêu đương, khát vọng một tinh thần dân chủ thực sự
trong cuộc sống như tiểu thuyết Con đường sáng của Hoàng Đạo, Hồn bướm mơ
tiên, Nửa chừng xuân của Khái Hưng, Gánh hàng hoa, Đôi bạn của Nhất Linh…
thì các nhà văn hiện thực lại tập trung vào phản ánh những mảnh đời cơ cực của
người nông dân bị giai cấp địa chủ chèn ép, bóc lột đến tận cùng như tiểu thuyết
Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Bỉ vỏ của
Nguyên Hồng, Chí Phèo của Nam Cao, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng… [47];
[12],…
Cách mạng Tháng Tám thành công, xã hội Việt Nam bước sang một giai
đoạn mới. Việt Nam trở thành một nước độc lập, tự chủ. Hiện thực cách mạng và
hai cuộc kháng chiến đã làm cho văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng có
bước chuyển biến quan trọng. Từ chỗ bộc lộ khát vọng giải phóng cá nhân, mưu
cầu hạnh phúc thông qua các tiểu thuyết của các nhà văn Tự lực văn đoàn như
Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam,… miêu tả đời sống người nông
dân nghèo trong cảnh sưu cao, thuế nặng, bị chế độ phong kiến bóc lột trắng
trợn, dã man thông qua tiểu thuyết của các nhà văn hiện thực như Ngô Tất Tố,
Nguyễn Công Hoan, Nam Cao,… tiểu thuyết đã chuyển mình sang thời kỳ mới:
Đề tài công nông binh xuyên suốt nền văn học. Văn học cách mạng lúc này, lấy
tinh thần Dân tộc – Khoa học – Đại chúng nêu lên trong Đề cương văn hoá Việt
Nam (1943) làm kim chỉ nam [15]. Văn nghệ sĩ nhận đường và đi theo cách
mạng, tập trung ngòi bút cho sự nghiệp cách mạng vĩ đại của cả dân tộc [58,
489]. Văn học cách mạng đặt những bước non trẻ đầu tiên trong hành trình mới.
Các nhà văn bắt đầu xâm nhập vào thực tế cuộc sống sản xuất và chiến đấu. Con
trâu của Nguyễn Văn Bổng, Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Xung kích của Nguyễn
Đình Thi là những tiểu thuyết tiêu biểu của giai đoạn kháng chiến chống Pháp.

15



Những năm miền Bắc hòa bình bước vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa
rồi bước vào cuộc chiến đấu chống lại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,
hàng loạt tác phẩm ở các đề tài khác nhau ra đời như Đất nước đứng lên của
Nguyên Ngọc, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Vùng trời, Cao
điểm cuối cùng của Hữu Mai, Cái sân gạch, Vụ lúa chiêm của Đào Vũ, Đi bước
nữa, Nắng của Nguyễn Thế Phương, Dấu chân người lính, Cửa sông của
Nguyễn Minh Châu, Bão biển của Chu Văn, Những tầm cao của Hồ Phương,
Chiến sỹ của Nguyễn Khải, Mặt trận trên cao của Nguyễn Đình Thi, Hòn đất
của Anh Đức, Gia đình má Bảy của Phan Tứ, Đất Quảng (tập 1) của Nguyên
Ngọc,… Nhà văn với tư cách chiến sỹ, làm nghĩa vụ của một công dân, đã sử
dụng văn chương như một vũ khí hữu hiệu. Sử thi là cảm hứng cũng là âm
hưởng chủ đạo của văn học thời kỳ này [28]. Bên cạnh đề tài về chiến tranh cách
mạng và người lính, nông thôn cũng là một đề tài lớn. Nông thôn với việc ra vào
hợp tác xã trong thời kỳ chiến tranh, là hậu phương lớn của tiền tuyến lớn trong
những năm chống Mỹ đã được các nhà văn tái hiện. Tiểu thuyết viết về nông
thôn thời kỳ này đã thể hiện được vai trò của người nông dân trong cách mạng
dân tộc dân chủ và bảo vệ Tổ quốc. Đương nhiên, vì viết theo cảm hứng sử thi
nên những vấn đề tiêu cực, vấn đề thân phận con người ở nông thôn còn chưa
được đề cập nếu không muốn nói đấy là vấn đề nhạy cảm. Nó có thể ảnh hưởng
tới nhiệm vụ cổ vũ cho cuộc chiến đấu nên nhà văn chưa được phép nói tới. Thế
cho nên mới có một Cái sân gạch được ngợi ca, một Đi bước nữa bị phê phán
kịp thời. Bức tranh nông thôn, xu hướng chung bức tranh văn học mang xu
hướng sử thi. Văn học chưa có nhiều màu sắc, hình mảng. Mặc dù càng về cuối
cuộc chiến tranh đã bắt đầu đi vào những vấn đề của hiện thực nông thôn có
phần phức tạp, bộn bề.

16



Đất nước thống nhất (1975), chuyển mình sang giai đoạn đổi mới (1986).
Đây là sự kiện trọng đại, đánh dấu những chuyển biến trọng đại của lịch sử dân
tộc nói chung và lịch sử văn chương nói riêng. Đây là thời đại mới, như Hà Xuân
Trường trong bài viết Văn học nghệ thuật trong đổi mới tư duy (Văn nghệ, số
1/1987) nêu lên: “Ngày nay, quần chúng yêu cầu hiện thực được miêu tả với các
chiều, những nhân vật phải được miêu tả với chiều sâu tâm lý xã hội, chiều sâu
tình cảm và trí tuệ. Quần chúng không chỉ bắt chước, học theo nhân vật, mà còn
muốn tranh luận với nhân vật, với tác giả để cùng tìm chân lý. Do đó có nhân vật
trở nên phức tạp, chứa đầy mâu thuẫn, kể cả nhân vật anh hùng, văn chương trở
nên gồ ghề, gai góc, ngang bướng. Cuộc sống phải được thể hiện đúng như nó
đang diễn ra, đồng thời văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa, bằng chức năng và
ưu thế của mình, lại phải soi rọi, lý giải, chỉ rõ xu thế phát triển của nó. Tác giả
phải bàn luận, đấu tranh với quần chúng thưởng thức của mình, tiếp thêm nghị
lực cho họ trong cuộc sống đầy mâu thuẫn hiện nay, gợi thêm cho họ những suy
nghĩ mới mẻ để tự họ hoàn thiện nhân cách và bản lĩnh” [66].
Cùng với sự chuyển mình của đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, tiểu
thuyết với tư cách là một loại hình tự sự cỡ lớn cũng đã có sự chuyển động. Đổi
mới tư duy nghệ thuật, đặc biệt là quan niệm về hiện thực và con người không
chỉ là nhiệm vụ đặt ra với nhà văn mà thực tế là sự đòi hỏi tự thân văn học và
công chúng. Trong sự vận hành chung của thể loại, nhìn lại những năm tiền đổi
mới (1975-1985), không thể phủ nhận sự xuất hiện của một loại tiểu thuyết gây
tiếng vang một thời như tín hiệu dự báo mở ra một thời kỳ mới trong sáng tạo và
tiếp nhận văn chương hiện đại như Miền cháy (1977) của Nguyễn Minh Châu,
Cha và con và… (1979) của Nguyễn Khải, Đứng trước biển (1984) của Nguyễn
Mạnh Tuấn, Mưa mùa hạ (1982), Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn

17


Kháng,… Các tác phẩm thời kỳ này đã có khuynh hướng mở rộng đề tài, phát

huy cảm hứng từ văn học giai đoạn trước. Nông thôn là đề tài được chú ý, nổi
bật là tiểu thuyết Cù lao tràm của Nguyễn Mạnh Tuấn. Tiểu thuyết này gây tiếng
vang vì nó động đến cơ chế quản lý, điều hành, tình trạng mất dân chủ trong
nông nghiệp ở nông thôn. Đất nước hết chiến tranh mà sản xuất ở nông thôn vẫn
đình trệ. Căn bệnh cố hữu kéo dài mấy thập niên để lại di chứng không nhỏ trong
đời sống, xã hội. Đây chính là vấn đề được Hoàng Minh Tường trở lại ở một
góc nhìn riêng, ở cấp độ khác trong Thủy hỏa đạo tặc, Đồng sau bão, Ngư phủ,
Thời của Thánh Thần.
Có thể khẳng định tiểu thuyết Việt Nam, trong quá trình vận động không
chỉ đổi mới nội dung mà còn đổi mới về hình thức nghệ thuật. Từ năm 1986, tư
tưởng cởi trói cho văn nghệ đã trở thành động lực để các nhà văn phát huy sáng
tạo. Không khí những năm đầu đổi mới, hai ngày làm việc quan trọng của Tổng
bí thư Nguyễn Văn Linh với văn nghệ sĩ, những khẩu hiệu đổi mới, cởi trói, cứu
mình,… vang lên, tạo động lực, khí thế cho đời sống xã hội nói chung và cho
văn nghệ nói riêng [52]. Các nhà văn đã đối diện với chính mình, với những vấn
đề nhức nhối trong xã hội, từ đó có những tìm tòi, thể hiện mới trong tác phẩm.
Tư duy nghệ thuật đã vận động theo hướng dân chủ hóa. Tất cả các cấp độ từ đề
tài, nội dung, hình thức tác phẩm, cốt truyện, nhân vật, giọng điệu đa dạng,
phong phú, lời văn đa nghĩa… Tiểu thuyết giai đoạn này tập trung miêu tả vấn
đề cách sống, cách quản lý sản xuất, vai trò của gia đình, bản lĩnh cá nhân. Điểm
nhìn con người được dịch chuyển về nhiều phía, nhiều góc độ. Bên cạnh sự ngợi
ca xuất hiện sự phê phán, nhận thức lại. Vấn đề mất - còn trong chiến tranh, vấn
đề đạo đức nhân cách, thân phận con người trong các tác phẩm của Nguyễn
Minh Châu, đối thoại giữa lối sống và lối nghĩ trong sáng tác của Nguyễn Khải,

18


con người trong quan hệ đời thường trong sáng tác của Ma Văn Kháng, vấn đề
quản lý nông thôn, xí nghiệp trong sáng tác của Nguyễn Mạnh Tuấn,… Tư duy

nghệ thuật đã thay đổi hẳn. Từ cảm hứng sử thi, tác phẩm thời kỳ này cho thấy
rất nhiều cảm hứng khác nhau như cảm hứng thế sự, đời tư, con người cá nhân
với đầy đủ tâm tư, suy nghĩ thay thế cho con người tập thể, con người cộng
đồng. Kiểu con người toàn nguyên với tất cả các trạng thái, nhu cầu, phương
diện, từ ý thức đến vô thức, từ hiện tại đến quá khứ và tương lai, con người bản
thể,… được tập trung chú ý trong tiểu thuyết nói riêng và văn chương nghệ thuật
nói chung. Con người sử thi đã dần nhường chỗ cho con người thế sự đời tư, con
người ở giữa cuộc đời với muôn vàn những liên hệ, tương tác, muôn màu, muôn
vẻ. Thế giới vô thức, tâm linh, cái xấu, cái ác, cái phi nhân,… cũng từng bước
hiện diện để làm toàn diện, đầy đủ hơn nhận thức của con người về đời sống, cõi
sống [1, 243-255].
Văn học đã có sự đổi mới tư duy tiểu thuyết từ phương diện tiếp cận hiện
thực đến quan niệm nghệ thuật về con người. Nếu giai đoạn 1945-1975, con
người trong các sáng tác là con người cộng đồng, con người xả thân vì nghĩa lớn
thì con người trong giai đoạn này được nhận thức như một thực thể riêng tư, cụ
thể, đời thường mà vẫn mang ý nghĩa nhân loại. Có thể nói không quá cực đoan
rằng, con người hậu chiến với tính toàn diện của nó, trong tiểu thuyết, đã từng
bước tiếp cận với mô hình con người tổng quát mang tính nhân loại, toàn cầu.
Sống thực với chính mình và với hiện thực của thời đại, đất nước, có thể nói là
đòi hỏi sống còn. Đúng như Lê Ngọc Trà đã nhận định: “Như vậy xét theo một
khía cạnh nào đó, vấn đề văn học phản ánh hiện thực cũng là vấn đề tính công
khai của xã hội và sự thành thật của nhà văn. Thành thật và công khai là một
trong những bí quyết và sức mạnh của sự sống, sự phát triển. Che đậy, khép kín,

19


đóng cửa là dấu hiệu của sự yếu ớt, sẽ dẫn đến tự tiêu diệt. Khi đã già, L. Tolstoi
vẫn chép vào vở câu nói của nhà văn Anh John Ruskin: “Hãy sống cho công
khai cởi mở. Ở đâu còn bưng bít là ở đó còn tội ác và hiểm họa. Những gì tốt đẹp

và an lành của đời sống con người đều trực tiếp phụ thuộc vào thái độ công khai
cởi mở ấy” [61]. Văn học hôm nay sẽ còn lại với mai sau không chỉ là bức tranh
hiện thực về số phận con người mà còn là ký ức về bộ mặt tinh thần, tư tưởng,
thị hiếu của xã hội, là nhân chứng về bản lĩnh và nhân cách của con người cầm
bút, là di sản của lịch sử trong dòng chảy bất tận của thời gian.
Từ sự thay đổi quan niệm về con người đã thay đổi tư duy trong sáng tác
của các nhà văn. Tiểu thuyết hướng vào những giá trị nhân văn, phần giá trị sâu
sắc nhất trong bản thể con người. Mối quan hệ riêng - chung, gia đình - xã hội,
vấn đề nhân phẩm, tính cách, đời tư được đề cập sâu sắc. Nhân vật trong tiểu
thuyết với trăm nghìn hoàn cảnh, số phận khác nhau, như Kiên trong Nỗi buồn
chiến tranh của Bảo Ninh, Khuê trong Dòng sông Mía của Đào Thắng, Giang
Minh Sài trong Thời xa vắng của Lê Lựu,… Từ các góc nhìn khác nhau, các tác
giả đã đưa đến cho người đọc một hiện thực đa dạng về đời sống, thân phận con
người. Con người được hình dung từ nhiều chiều, được tái hiện với tất cả cung
bậc cảm xúc, đời sống nội tâm phong phú. Sự phù hợp giữa con người tự nhiên
và con người xã hội đã khiến cho hình tượng về con người hoàn thiện hơn, đa
diện và chân thực hơn. Con người với tất cả cái tốt - cái xấu đan xen, biết yêu
thương - căm thù, lừa lọc - thành thực và luôn đấu tranh giằng xé giữa đúng - sai,
thiện – ác, hạnh phúc – khổ đau hiện lên trong các tác phẩm văn học cho thấy
quá trình đi sâu hơn vào bản thể của sự tồn tại. Người nông dân được nhìn thấy
mặt tích cực ở bản tính tư hữu trong lao động sản xuất, trong sự vun vén cho

20


×