Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

Tài liệu học tập môn luật kinh tế phần doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.43 KB, 115 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

KHOA LUẬT KINH TẾ

TRẦN THỊ NHẬT ANH


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT
KHOA LUẬT KINH TẾ

TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN LUẬT KINH TẾ
PHẦN DOANH NGHIỆP
(TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ)

Người biên soạn: TRẦN THỊ NHẬT ANH

Huế, tháng 5 năm 2015

2
Law school sharpens your mind by narrowing it


CHƯƠNG I
QUY CHẾ PHÁP LÍ CHUNG VỀ THÀNH LẬP, TỔ CHỨC QUẢN LÍ
VÀ HOẠT ĐỘNG DOANH NGHIỆP

1
1

Khái niệm doanh nghiệp, đặc điểm và phân loại doanh nghiệp
Khái niệm doanh nghiệp


Doanh nghiệp là mô hình kinh doanh phổ biến ở nước ta, đa dạng về quy mô và

hình thức sở hữu. Doanh nghiệp là thuật ngữ có nguồn gốc từ lĩnh vực kinh tế học.
Doanh nghiệp có thể được định nghĩa khác nhau tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu thể
hiện những cách nhìn đa dạng về doanh nghiệp. Trong khoa học pháp lí cũng như
pháp luật thực định Việt Nam, doanh nghiệp và công ty là hai khái niệm khác nhau,
khái niệm doanh nghiệp bao gồm trong nó tất cả các loại hình công ty; có nghĩa rằng
công ty là doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp chưa chắc đã là công ty.
Trong pháp luật hiện hành của Việt Nam, định nghĩa về doanh nghiệp và mô tả
các loại hình doanh nghiệp cụ thể có tại Luật Doanh nghiệp 2014.
Khái niệm doanh nghiệp được quy định tại khoản 7 Điều 4 Luật Doanh nghiệp
2014, theo đó doanh nghiệp là tổ chức tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được
đăng kí thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.
Như vậy, về mặt pháp lí doanh nghiệp phải là những đơn vị tồn tại trước hết vì
mục đích kinh doanh.

2

Đặc điểm của doanh nghiệp
Từ định nghĩa về ‘‘doanh nghiệp’’ của LDN 2014 và các quy định khác của

pháp luật hiện hành, có thể nhận thấy các doanh nghiệp nói chung có những đặc điểm
cơ bản sau đây :
Thứ nhất, doanh nghiệp là tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật
và phải dưới một hình thức pháp luật nhất định.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các loại hình doanh nghiệp không phân
biệt hình thức pháp lí hay hình thức sở hữu đều được thành lập theo một thủ tục nhất
định do pháp luật quy định mà chủ yếu là thông qua thủ tục đăng kí kinh doanh tại cơ
quan đăng kí kinh doanh có thẩm quyền để cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh
nghiệp. Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp, doanh nghiệp được


3
Law school sharpens your mind by narrowing it


coi là thành lập và có năng lực chủ thể để tiến hành các hoạt động kinh doanh. Pháp
luật hiện hành thừa nhận các công ty có tư cách pháp nhân ngay từ khi được cấp giấy
chứng nhận đăng kí doanh nghiệp.
Khi thành lập doanh nghiệp để tiến hành hoạt động kinh doanh, các nhà đầu tư
phải lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh trong số những hình thức doanh nghiệp mà
pháp luật hiện hành quy định. Tuy nhiên nhà đầu tư có quyền thành lập nhiều doanh
nghiệp với các hình thức pháp lí khác nhau phù hợp với quy định của pháp luật. Cơ
quan chức năng sẽ không chấp nhận cho nhà đầu tư tiến hành hoạt động kinh doanh
theo một hình thức tổ chức kinh doanh mà không được pháp luật quy định.
Thứ hai, doanh nghiệp có tên riêng, có trụ sở giao dịch, có tài sản và có sử
dụng lao động làm thuê
Với tư cách là một thực thể pháp lí, một chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế
thị trường, cũng giống như các chủ thể pháp luật khác, tất cả các doanh nghiệp đều
phải có tên riêng, chẳng hạn Công ty Cổ phần may Việt Tiến. Về nguyên tắc, tên của
doanh nghiệp do nhà đầu tư lựa chọn và phải tuân theo quy định của pháp luật. Chẳng
hạn, tên doanh nghiệp phải viết bằng các chữ cái trong bảng Tiếng Việt, có thể kèm
theo các chứ cái F, J, W, Z, chữ số và kí hiệu, phải phát âm được và phải gồm hai
thành tố (i) loại hình doanh nghiệp và (ii) tên riêng của doanh nghiệp. Tên chi nhánh,
văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh phải mang tên doanh nghiệp đồng thời kèm
theo cụm từ chi nhánh hoặc văn phòngđại diện. Tên doanh nghiệp không thể trùng hay
gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp khác đã đăng kí, không được sử dụng tên cơ
quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dẫn, tên của tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội để làm toàn bộ hoặc một phần tên riêng của doanh nghiệp, không
được sử dụng từ ngữ, kí hiệu vi phạm truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần
phong mỹ tục của dân tộc.

Mọi doanh nghiệp phải có trụ sở trính, trụ sở chính của doanh nghiệp đặt ở địa
phương nào sẽ quyết định nơi mà doanh nghiệp phải nộp hồ sơ đăng kí kinh doanh để
được cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp, vấn đề quản lí thuế và vấn đề khác
của hoạt động quản lí nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, trụ sở
của doanh nghiệp đặt ở tỉnh A, được cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp bởi
phòng Đăng kí kinh doanh tỉnh A thì không có nghĩa là doanh nghiệp này không được

4
Law school sharpens your mind by narrowing it


kinh doanh ở các địa phương khác. Về nguyên tắc, sau khi đăng kí kinh doanh, doanh
nghiệp được thực hiện hoạt động kinh doanh trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, không
phân biệt nơi đặt trụ sở chính của doanh nghiệp, và có thể mở rộng phạm vi kinh
doanh ra nước ngoài.
Doanh nghiệp phải có tài sản và được quyền sử dụng tài sản đó vào hoạt động
kinh doanh của mình. Doanh nghiệp nào cũng có tài sản để tiến hành hoạt động kinh
doanh. Tài sản của doanh nghiệp được hình thành từ vốn góp của các nhà đầu tư, vốn
do doanh nghiệp huy động và vốn do doanh nghiệp tạo lập thêm trong quá trình hoạt
động kinh doanh. Tài sản của doanh nghiệp là cơ sở, là nguồn vật chất cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, thành lập doanh nghiệp phải có vốn. Vốn
do các nhà đầu tư góp vào công ty và ghi trong điều lệ công ty được gọi là vốn điều lệ
và số vố này có thể thay đổi tăng hoặc giảm theo đúng quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp phải luôn có lao động làm thuê. Về mặt pháp lí, doanh nghiệp là
một thực thể pháp lí hư cấu (artificial legal entiny), được thành lập theo quy định của
pháp luật và chỉ có thể tiến hành hoạt động thông qua những con người cụ thể (những
thể nhân), chính vì vậy việc doanh nghiệp sử dụng lao động trong hoạt động kinh
doanh là lẽ tất nhiên. Ngay cả những người bỏ vốn ra đầu tư thành lập doanh nghiệp,
với tư cách là chủ sở hữu hay thành viên sáng lập công ty, nếu làm việc cho doanh
nghiệp cũng được coi là người lao động trong doanh nghiệp. Chẳng hạn, ông A góp

35% vốn thành lập công ty X và ông A được bổ nhiệm giữ chức Phó Giám đốc công ty
thì ông A cũng được xem là người lao động trong công ty. Tùy từng mối quan hệ, tư
cách của ông A có thể là thành viên công ty hoặc là người quản lí công ty, người lao
động của công ty.
Thứ ba, mục đích hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp là nhằm mục đích kinh
doanh.
Mục đích kinh doanh của doanh nghiệp là một dấu hiệu rất quan trọng để phân
biệt doanh nghiệp với các tổ chức không phải là doanh nghiệp. Với cách quy định hiện
hành trong pháp luật Việt Nam, mục đích kinh doanh phải được hiểu thông qua việc
tiếp cận khái niệm kinh doanh (sẽ được đề cập ở phần 1.2). Tựu trung thì mục đích
kinh doanh của doanh nghiệp hướng đến mục tiêu sinh lợi. Sinh lợi ở đây được hiểu
theo nghĩa rộng bao gồm hoạt động nhằm thu lợi nhuận với ý nghĩa kinh tế đơn thuần

5
Law school sharpens your mind by narrowing it


và cả những hoạt động sinh lợi khác có thể không chỉ là vì lợi ích kinh tế một cách
trực tiếp. Song, xét dưới góc độ thực tiễn, mục tiêu chủ yếu của tất cả các nhà đầu tư
khi thành lập doanh nghiệp tư nhân hay công ty là tìm kiếm lợi nhuận. Mục đích hoạt
động kinh doanh là một thuộc tính không thể tách rời của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cần lưu ý bên cạnh những doanh nghiệp được thành lập với mục
đích thuần túy kinh doanh và thu lợi nhuận, cũng có doanh nghiệp được thành lập và
hoạt động nhằm mục đích thực hiện các nhiệm vụ công ích, phục vụ lợi ích công cộng
chứ không phải tìm kiếm lợi nhuận. Những doanh nghiệp như thế có thể thấy trong số
các công ty thuộc sở hữu nhà nước hiện nay đang hoạt động theo quy định của LDN
2005. Một số doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước được thành lập và hoạt động nhằm
mục đích thực hiện những nhiệm vụ công ích, những nhiệm vụ do cơ quan nhà nước
có thẩm quyền giao chứ không phải là kinh doanh thu lợi nhuận thuần túy như các
doanh nghiệp của giới tư nhân.


2
1

Đăng ký thành lập doanh nghiệp
Quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần
Luật Doanh nghiệp quy định chung về đối tượng được quyền thành lập và quản

lí công ty, doanh nghiệp tư nhân, mặc dù hoạt động quản lí một doanh nghiệp khác
hoàn toàn về bản chất với hành vi thành lập danh nghiệp. Theo quy định tại khoản 1,
Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014, tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước
ngoài đều có quyền thành lập và quản lí doanh nghiệp tại Việt Nam nếu không thuộc
trường hợp bị cấm theo quy định của LDN 2005. Để xác định đúng đối tượng có
quyền thành lập công ty và doanh nghiệp tư nhân, cần phải làm rõ những đối tượng bị
cấm thành lập doanh nghiệp tư nhân và công ty theo pháp luật hiện hành1.
- Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để
thành lập doanh nghiệp kinh doanh, thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình 2;
1 Khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014.
2 Khái niệm về tài sản nhà nước và công quỹ trước đây được quy định hướng dẫn cụ thể tại Điều 14 Nghị định
102/2010/NĐ-CP bao gồm: tài sản được mua sắm bằng vốn ngân sách nhà nước và vốn có nguồn gốc ngân sách
nhà nước; kinh phí được cấp từ ngân sách nhà nước; đất được giao sử dụng để thực hiện chức năng và nhiệm vụ
theo quy định của pháp luật ; tài sản và thu nhập khác được tạo ra từ việc sử dụng tài sản và kinh phí nói trên;
khi phí được tài trợ bởi Chính phủ, tổ chức và cá nhân nước ngoài. Vấn đề thu lợi riêngcho cơ quan, đơn vị mình
đươc hiểu là việc sử dụng thu nhập dưới mọi hình thức có được từ hoạt động kinh doanh, từ góp vốn, mua cổ
phần vào ít nhất một trong các mục đích như chia dưới mọi hình thức cho một số hoặc tất cả cán bộ, nhân viên
của cơ quan, đơn vị trái với quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước; lập quỹ hoặc bổ sung vào quỹ phục

6
Law school sharpens your mind by narrowing it



- Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công
chức, viên chức;
- Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng
trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong
các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ những người được cử làm đại
theo ủy quyền để quản lí phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp;
- Cán bộ lãnh đạo, quản lí nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước, trừ những
người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lí phần vốn góp của Nhà nước tại
doanh nghiệp khác;
- Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất
năng lực hành vi dân sự; tổ chức không có tư cách pháp nhân.
- Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt tù, quyết
định xử lí hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc đang bị
cấm hành nghề kinh doanh, đảm nhiệm chức vụ hoặc làm công việc nhất định liên
quan đến kinh doanh theo quyết định của Tòa án; các trường hợp khác theo quy định
của pháp luật về phá sản, phòng chống tham nhũng.
Lưu ý: trường hợp cơ quan đăng kí kinh doanh có yêu cầu, người đăng kí thành
lập doanh nghiệp phải nộp phiếu lí lịch tư pháp cho Cơ quan đăng kí kinh doanh.
1.3.2. Góp vốn vào doanh nghiệp theo LDN 2014
1.3.2.1. Các đối tượng có quyền góp vốn vào doanh nghiệp
LDN 2014 phân biệt hai nhóm đối tượng được quyền thành lập, quản lí doanh
nghiệp và được quyền góp vốn. Có thể thấy, đối tượng có quyền góp vốn vào công ty
theo quy định tại Khoản 3 Điều 18 LDN 2014 rộng hơn nhiều so với các đối tượng
được quyền thành lập và quản lí doanh nghiệp như đã phân tích trên. Theo luật Doanh
nghiệp, mọi tổ chức, cá nhân, nếu không thuộc trường hợp bị cấm góp vốn, mua cổ
phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh đều
có quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty
vụ lợi ích riêng của cơ quan, đơn vị.


7
Law school sharpens your mind by narrowing it


TÀI LIỆU HỌC TẬP MÔN LUẬT KINH TẾ
TNHH 2 thành viên trở lên
và công tyDOANH
hơp danh.
PHẦN
NGHIỆP
(TÀI LIỆU LƯU HÀNH NỘI BỘ)
Những đối tượng bị cấm góp vốn theo quy định tại LDN 2014 bao gồm:
- Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước góp vốn vào
doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;

- Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về
cán bô, công chức. Như vậy, không phải tất cả cán bộ công chức đều bị cấm góp vốn
vào công ty. Việc xác định những đối tượng bị cấm góp vốn vào công ty căn cứ theo
quy định tại Luật Cán bộ, công chức 2008 và Luật Phòng, chống tham nhũng 2006 3.
Về tỷ lệ sở hữu khi góp vốn vào công ty, xét về mặt nguyên tắc, pháp luật hầu
như không có giới hạn về tỉ lệ sở hữu. Việc phân biệt quyền thành lập và quyền góp
vốn vào doanh nghiệp là cần thiết và có những mục đích, ý nghĩa nhất định. Nếu xét
về kết quả cuối cùng, tổ chức và cá nhân tham gia thành lập doanh nghiệp hay góp vốn
vào doanh nghiệp thì đều trở thành cổ đông, thành viên hay chủ sở hữu của doanh
nghiệp. Song vai trò của người thành lập và người góp vốn đối với công ty có sự khác
biệt rất đáng kể.
1.3.2.2. Tài sản góp vốn vào doanh nghiệp
Điều 35 LDN 2014 quy định tài sản góp vốn vào doanh nghiệp có thể là Việt
Nam đồng, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở
hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kĩ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng

Đông Việt Nam. Đối với quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm
quyền tác giả, quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy
định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối
với các quyền sở hữu trí tuệ nói trên mới có quyền sử dụng các tài sản nói trên để góp
vốn vào doanh nghiệp.
Đối với việc định giá tài sản, Điều 36 LDN 2014 quy định, nếu tài sản góp vốn
không phải là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng phải được các thành
3 Điều 37 Luật Phòng, chống tham nhũng 2006: “Người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, vợ
hoặc chồng của những người đó không được góp vốn vào doanh nghiệp hoạt động trong phạm vi ngành, nghề
mà người đó trực tiếp thực hiện việc quản lý nhà nước”. (Quy định này được dẫn chiếu bởi Điều 20 Luật Cán
bộ, công chức 2008).

8
Law school sharpens your mind by narrowing it


viên, cổ đông sáng lập hoặc tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá và được thể
hiện thành Đồng Việt Nam.
Tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các thành viên, cổ đông
sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí hoặc do một tổ chức thẩm định giá chuyên
nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá thì giá trị
tài sản góp vốn phải được đa số thành viên, cổ đông sáng lập chấp thuận.Trường hợp
tài sản góp vốn được định giá cao hơn so với giá trị thực tế tại thời điểm góp vốn thì
các thành viên, cổ đông sáng lập cùng liên đới góp thêm bằng số chênh lệch giữa giá
trị được định giá và giá trị thực tế của tài sản góp vốn tại thời điểm kết thúc định giá;
đồng thời liên đới chịu trách nhiệm đối với thiệt hại do cố ý định giá tài sản góp vốn
cao hơn giá trị thực tế.
Đối với tài sản góp vốn trong quá trình hoạt động do chủ sở hữu, hội đồng
thành viên đối với công ty TNHH và công ty hợp danh, hội đồng quản trị đối với công
ty cổ phần và người góp vốn thỏa thuận định giá hoặc do một tổ chức thẩm định giá

chuyên nghiệp định giá. Trường hợp tổ chức thẩm định giá chuyên nghiệp định giá thì
giá trị tài sản vốn phải được người góp vốn và doanh nghiệp chấp nhận.
Sau khi được cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp, thành viên công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và cổ đông công ty cổ phần phải chuyển quyền
sở hữu tài sản góp vốn cho công ty. Đối với tài sản có đăng kí quyền sở hữu hoặc giá
trị quyền sử dụng đất thì người góp vốn phải làm thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản
đó hoặc quyền sử dụng đất cho công ty tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Việc
chuyển quyền sở hữu đối với tài sản góp vốn không phải chịu lệ phí trước bạ. Đối với
tài sản không đăng kí quyền sở hữu, việc góp vốn phải được thực hiện bằng việc giao
nhận tài sản góp vốn có xác nhận bằng biên bản. Biên bản giao nhận phải ghi rõ tên và
địa chỉ trụ sở chính của công ty; họ, tên, địa chỉ thường trú, số thẻ căn cước công dân,
Giấy chứng minh nhân dân , Hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác, số
quyết định thành lập hoặc đăng kí của người góp vốn; loại tài sản và số đơn vị tài sản
góp vốn; tổng giá trị tài sản góp vốn và tỉ lệ của tổng giá trị tài sản trong vốn điều lệ
của công ty; ngay giao nhận; chữ kí của người góp vốn hoặc đại diện theo pháp luật
của công ty. Cổ phần hoặc phần vốn góp bằng tài sản không phải là Đồng Việt Nam,

9
Law school sharpens your mind by narrowing it


ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng chỉ được coi là thanh toán xong khi quyền sở hữu hợp
pháp đối với tài sản góp vốn đã chuyển sang công ty. Tài sản được sử dụng vào hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân không phải làm thủ tục chuyển quyền sở
hữu cho doanh nghiệp. Thanh toán mọi hoạt động mua, bán, chuyển nhượng cổ phần
và phần vốn góp và nhận cổ tức của nhà đầu tư nước ngoài đều phải được thực hiện
thông qua tài khoản vốn của nhà đầu tư đó mở tại ngân hàng ở Việt Nam, trừ trường
hợp thanh toán bằng tài sản.
1.3.2.3. Con dấu doanh nghiệp
Quy định về con dấu doanh nghiệp trong LDN 2014 được xem là một trong

những thay đổi đáng lưu ý so với quy định tương tự trong LDN 2005. Theo đó, doanh
nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh
nghiệp và chỉ cần đảm bảo nội dung con dấu doanh nghiệp gồm hai thông tin đó là tên
doanh nghiệp và mã số doanh nghiệp. So với quy định trước đây của LDN 2005 khi
mà hình thức, số lượng, nội dung con dấu con dấu của doanh nghiệp đều phải thực
hiện theo quy định của pháp luật thì nay doanh nghiệp được toàn quyền quyết định
những vấn đề trên. Đây là một trong những quy định nhằm cụ thể hóa và cho thấy sự
tôn trọng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp của các cơ quan nhà nước. Đối với
việc sử dụng con dấu, LDN 2014 quy định trước khi sử dụng, doanh nghiệp có nghĩa
vụ thông báo mẫu con dấu với cơ quan đăng kí kinh doanh để đăng tải công khai trên
Cổng thông tin quốc gia về đăng kí doanh nghiệp. Việc quản lí, sử dụng và lưu giữ con
dấu thực hiện theo quy định của điều lệ công ty. Con dấu được sử dụng trong trường
hợp theo quy định của pháp luật hoặc các bên giao dịch có thỏa thuận về việc sử dụng
con dấu.
1.3.3. Trình tự, thủ tục thành lập doanh nghiệp
1.3.3.2. Hồ sơ đăng kí doanh nghiệp theo LDN 2014
Các đối tượng tiến hành thành lập doanh nghiệp phải lập và nộp đủ hồ sơ theo
quy định của pháp luật tại cơ quan đăng kí kinh doanh có thẩm quyền để tiến hành thủ
tục đăng kí doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ cần nộp một bộ hồ sơ cho cơ quan đăng
kí kinh doanh có thẩm quyền, các giấy tờ nộp trong bộ hồ sơ có thể là bản gốc, hoặc

10
Law school sharpens your mind by narrowing it


bản sao có chứng thực, sao y bởi cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật. Chủ thể thành lập doanh nghiệp phải tự kê khai hồ sơ đăng kí doanh nghiệp
và chịu trách nhiệm về tính đầy đủ, tính hợp pháp, chính xác và trung thực của các
thông tin kê khai trong hồ sơ đăng kí doanh nghiệp. Cơ quan đăng kí kinh doanh chỉ
chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ.

Về cơ bản, một bộ hồ sơ đăng kí doanh nghiệp gồm những loại giấy tờ sau:

1. Giấy đề nghị đăng kí doanh nghiệp (theo mẫu).
2. Điều lệ công ty.4
3. Bản sao hợp lệ của một trong các giấy tờ chứng thực cá nhân hợp pháp của chủ doanh
nghiệp tư nhân, của chủ sở hữu công ty là cá nhân, của các thành viên sáng lập hoặc cổ
đông sáng lập công ty. Đối với các thành viên hoặc cổ đông sáng lập là tổ chức: bản
sao quyết định thành lập, giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp hoặc tài liệu tương
đương khác của tổ chức, văn bản ủy quyền, giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc
chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện theo ủy quyền.

4. Danh sách thành viên hoặc cổ đông sáng lập đối với các loại công ty.
Lưu ý: Trường hợp Cơ quan đăng kí kinh doanh có yêu cầu, người đăng kí thành
lập doanh nghiệp phải nộp phiếu lí lịch tư pháp cho cơ quan đăng kí kinh doanh5.
1.4.3.3. Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp và
điều kiện để được cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp
Cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp cho các
doanh nghiệp tư nhân và công ty là Phòng Đăng kí kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và
Đầu tư (Phòng Đăng kí kinh doanh cấp tỉnh) nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính.
Điều 28 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định doanh nghiệp được cấp Giấy chứng
nhận đăng kí doanh nghiệp khi có đủ các điều kiện sau đây:

- Ngành, nghề đăng kí kinh doanh không bị cấm đầu tư kinh doanh.
4 Doanh nghiệp tư nhân không có điều lệ.
5 Đoạn 2 của điểm e khoản 2 Điều 18 Luật Doanh nghiệp 2014.

11
Law school sharpens your mind by narrowing it



- Tên của doanh nghiệp được đặt theo đúng quy định tại các điều 38, 39, 40 và 42
của LDN 2014;

-

Có hồ sơ đăng kí doanh nghiệp hợp lệ;

- Nộp đủ lệ phí đăng kí doanh nghiệp theo quy định pháp luật về phí và lệ phí.
1.3.3.4. Quy trình thành lập doanh nghiệp
Việc đăng kí thành lập doanh nghiệp tư nhân và công ty các loại được tiến hành
qua các bước sau:
Bước 1: Chuẩn bị hồ sơ.
Người thành lập chuẩn bị hồ sơ thành lập doanh nghiệp theo các quy định
tương ứng đối với loại hình doanh nghiệp như trình bày tại Mục 1.4.2.1 nêu trên. Tuy
nhiên, trong thực tế để thành lập một doanh nghiệp, các nhà đầu tư phải thỏa thuận với
nhau và quyết định các vấn đề liên quan đến hồ sơ công ty như: xác định cổ đông/
thành viên góp vốn, xác định tên doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở, ngành nghề kinh doanh,
mức vốn điều lệ, tỉ lệ góp vốn, tài sản góp vốn, thời hạn góp vốn, cấu trúc quản lí điều
hành... và đặc biệt là các sáng lập viên phải xem xét kĩ và thông qua bản điều lệ công
ty. Các thành viên sáng lập có thể thỏa thuận để cử đại diện tiến hành các thủ tục pháp
lí thành lập công ty; có thể kí kết các hợp đồng phục vụ cho việc thành lập công ty...
Bước 2: Nộp hồ sơ tại cơ quan đăng kí kinh doanh.
Hồ sơ thành lập doanh nghiệp sau khi được chuẩn bị đầy đủ được người thành
lập doanh nghiệp hoặc người được ủy quyền 6 nộp đến cơ quan có thẩm quyền đăng kí
doanh nghiệp như được trình bày ở mục1.4.2.2. Bên cạnh đó, người thành lập doanh
nghiệp cũng có thể đăng kí doanh nghiệp của mình qua mạng điện tử thông qua Công
thông tin đăng kí doanh nghiệp quốc gia. Trong thực tế, việc đăng kí kinh doanh qua
hình thức này đã được cơ quan đăng kí kinh doanh ở nhiều tỉnh, thành triển khai thực
hiện. Tuy nhiên, để có thể thực hiện trọn vẹn các bước đăng kí kinh doanh qua mạng
điện tử và nhận giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp dưới dạng điện tử, người có

nghĩa vụ kí tên trên hồ sơ đăng kí phải có chữ kí điện tử theo quy định của pháp luật
6 Khoản 1 Điều 27 LDN 2014.

12
Law school sharpens your mind by narrowing it


liên quan đến giao dịch điện tử và chứng thực chứ kí điện tử. Đây là vấn đề còn mới
mẻ trong thủ tục đăng kí doanh nghiệp ở nước ta và cần thời gian để hoàn thiện. Người
đăng kí doanh nghiệp chưa có chữ kí điện tử cũng có thể thực hiện một phần hoạt
động đăng kí qua mạng điện tử để tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại.
Bước 3: Cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp. Cơ quan có thẩm quyền
cấp giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp sẽ căn cứ vào việc thỏa mãn các điều kiện
để được đăng kí doanh nghiệp của hồ sơ đăng kí doanh nghiệp theo quy định tại Điều
28 LDN 2014. Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp phải được cấp trong thời hạn
03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đăng kí hợp lệ theo quy định tại khoản 2
Điều 27 LDN 2014.
Với quy định rút ngắn ngắn ngày trả lời hồ sơ đăng kí doanh nghiệp cho thấy
nỗ lực của các nhà lập pháp trong việc cải cách thủ tục hành chính góp phần vào việc
phát huy quyền tự do kinh doanh của các chủ thể kinh doanh.
1.3.3.5. Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp và giá trị pháp lí của giấy
chứng nhận đăng kí doanh nghiệp
Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp được coi như là giấy khai sinh của
doanh nghiệp, là điều kiện tiên quyết để các nhà đầu tư có thể tiến hành hoạt động
kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ được tiến hành các hoạt
động kinh doanh như được quy định trong Giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 30 LDN 2014 thì mã số doanh nghiệp được dùng để thực hiện
các nghĩa vụ về thuế, thủ tục hành chính và quyền nghĩa vụ khác. Như vậy, về nguyên
tắc giấy chứng nhận đăng kí doanh nghiệp và giấy chứng nhận đăng kí đăng kí thuế.


13
Law school sharpens your mind by narrowing it


CHƯƠNG 2
PHÁP LUẬT VỀ DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ HỘ KINH DOANH
2.1. Pháp luật về doanh nghiệp tư nhân
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân
Ở nước ta, trong thời kì kinh tế kế hoạch hóa tập trung, pháp luật chỉ tập trung
điều chỉnh hoạt động của các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế quốc doanh và
tập thể.Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, bước
vào thời kì đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, các văn bản pháp luật thừa nhận sự tồn tại
của thành phần kinh tế tư nhân mới bắt đầu đươc ban hành. Luật Doanh nghiệp tư nhân
1990 và Luật Công ty 1990 được ban hành, cũng từ đó, thuật ngữ “doanhn nghiệp tư
nhân” được sử dụng và biết đến ngày càng nhiều. Tuy nhiên, cho đến nay trong thực tế
vẫn có sự hiểu nhầm về nội hàm của khái niệm này, phổ biến nhất là tình trạng sử dụng
thuật ngữ “doanh nghiệp tư nhân” để chỉ một hoặc nhiều doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế tư nhân. Và như vậy, những người nhầm lẫn đã dùng thuật ngữ “doanh nghiệp tư
nhân” như là một đối trọng để phân biệt với “doanh nghiệp nhà nước” hoặc “doanh
nghiệp quốc doanh” – doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước.
Theo quy định tại Điều 183 LDN 2014 thì DNTN là loại hình doanh nghiệp do một
cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động
của doanh nghiệp. Doanh nghiệp tư nhân không được phát hành bất kì loại chứng khoán
nào, mỗi cá nhân chỉ được quyền thành lập một doanh nghiệp tư nhân.Chủ doanh nghiệp
tư nhân không được đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên công ty hợp danh.Doanh
nghiệp tư nhân không được quyền góp vốn thành lập hoặc mua cổ phần, phần vốn góp
trong công ty hợp danh, công ty TNHH hoặc công ty cổ phần.
Có thể thấy quy định của LDN 2014 kế thừa gần như toàn bộ quy định của
LDN 2005 về khái niệm DNTN, khái nhiệm này cho thấy doanh nghiệp tư nhân theo
quy định của pháp luật Việt Nam có nhiều nét tương đồng với mô hình sole

proprietorshipở nhiều nước khác7. Sole proprietorship được hiểu một cách phổ biến là
một thực thể hoạt động kinh doanh (business entity) do một cá nhân làm chủ, tự quản
7 Viện nghiên cứu quản lí kinh tế trung ương – Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1999), Đánh giá tổng kết Luật Công ty,
Luật Doanh nghiệp tư nhân và Nghị định 66/HĐBT, tr.112.

14
Law school sharpens your mind by narrowing it


lí điều hành và tự chịu mọi trách nhiệm8. Theo quy định của pháp luật hiện hành ở
Việt Nam, các yếu tố cơ bản tạo nên khái niệm doanh nghiệp tư nhân và cũng là những
đặc điểm quan trọng của loại hình doanh nghiệp này bao gồm chủ sở hữu và chế độ
trách nhiệm.Ngoài ra, từ khái niệm và các quy định khác của LDN 2005, hai đặc điểm
về tư cách pháp lí và khả năng huy động vốn của doanh nghiệp tư nhân cũng được thể
hiện. Từ đó, có thể thấy doanh nghiệp tư nhân có 05 đặc điểm sau:
- Doanh nghiệp tư nhân là một loại hình doanh nghiệp:
Doanh nghiệp tư nhân là hình thức tổ chức kinh doanh theo quy định của LDN
2005. Cũng như các loại hình công ty hợp danh, công ty TNHH và CTCP, doanh
nghiệp tư nhân có đầy đủ các dấu hiệu của một doanh nghiệp như nêu tại Khoản 7
Điều 4 LDN 2014, và tham gia kinh doanh bình đẳng như mọi doanh nghiệp khác
trong nền kinh tế thị trường. Dù chỉ có một chủ, doanh nghiệp tư nhân là đơn vị kinh
doanh dưới hình thức một tổ chức, trong đó có người quản lí điều hành, có người lao
động làm công…Chính vì vậy doanh nghiệp tư nhân vẫn thỏa mãn dấu hiệu cơ bản
đầu tiên của doanh nghiệp nói chung: là “một tổ chức kinh tế”. Tuy sự tồn tại và hoạt
động của doanh nghiệp tư nhân lệ thuộc rất nhiều vào các nhân chủ sở hữu, nhưng nó
vẫn là một tổ chức kinh tế được Nhà nước thừa nhận bằng việc cấp giấy chứng nhận
đăng kí doanh nghiệp, có tên riêng, có trụ sở giao dịch.
- Doanh nghiệp tư nhân do một cá nhân đầu tư vốn thành lập và làm chủ:
Doanh nghiệp tư nhân là loại hình doanh nghiệp một chủ, đặc điểm này tương
tự với công ty TNHH một thành viên, khi mà số lượng chủ sở hữu của cả hai loại hình

doanh nghiệp này đều là 01. Chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân dùng tài sản của mình
đầu tư vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, không có sự liên kết và chia sẻ với
bất kì ai khác.Trong doanh nghiệp tư nhân không có sự hùn vốn, không có sự liên kết
giữa các thành viên. Tuy nhiên, khác với công ty TNHH một thành viên, chủ sở hữu
doanh nghiệp tư nhân chỉ có thể là cá nhân, cá nhân này chủ sở hữu, vừa là người sử
dụng tài sản đồng thời cũng là người quản lí hoạt động của doanh nghiệp.

8 Về khái niệm “sole proprietorship”, xem Từ điển Bách khoa trực tuyến Wihipedia.com; Từ điển Bách khoa
trực tuyến về đầu tư Investopedia.com; Từ điển trực tuyến về kinh doanh BusinessDictionary.com; Từ điển thuật
ngữ pháp lí Black’s Law Dictionary, Nxb Thomson Reuters, Hoa Kì.

15
Law school sharpens your mind by narrowing it


Mỗi doanh nghiệp tư nhân chỉ có duy nhất một cá nhân là chủ sở hữu, 9 cá nhân
này theo quy định của LDN 2014 không đồng thời là chủ hộ kinh doanh, thành viên
công ty hợp danh. Quy định trên là một trong những bổ sung mới của LDN 2014 đối
với vấn đề chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân khi quy định một cách cụ thể những hạn
chế của chủ thể này đối với việc thực hiện các mô hình kinh doanh có chế độ trách
nhiệm vô hạn khác. Việc quy định như trên, theo quan điểm tác giả là hoàn toàn hợp lí
bởi lẽ chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân, chủ hộ kinh doanh và thành viên hợp danh
công ty hợp danh đều có chế độ trách nhiệm vô hạn, nếu cho phép chủ sở hữu doanh
nghiệp tư nhân đồng thời thực hiện các mô hình kinh doanh trên sẽ gây ra nguy cơ lớn
trong việc không thanh toán được các khoản nợ cho đối tác khi mà tài sản của hộ kinh
doanh hay là công ty hợp danh không đủ để thanh toán các khoản nợ. Nói cách khác
các chế độ trách nhiệm vô hạn khi kết hợp với nhau sẽ triệt tiêu lẫn nhau. Tuy nhiên,
một điểm không rõ ràng cần lưu ý trong quy định tại Khoản 3 Điều 183 LDN 2014 đó
là quy định chủ doanh nghiệp tư nhân không đồng thời là thành viên công ty hợp danh,
trong khi cần lưu ý rằng công ty hợp danh có hai loại thành viên đó là thành viên hợp

danh và thành viên góp vốn, trong đó thành viên góp vốn có chế độ trách nhiệm hữu
hạn trong phạm vi vốn góp vào công ty hợp danh. LDN 2014 chỉ quy định chung là
chủ doanh nghiệp tư nhân không được làm thành viên công ty hợp danh, như vậy là
không có sự phân biệt giữa thành viên góp vốn và thành viên hợp danh trong khi đặc
điểm về chế độ trách nhiệm của hai loại thành viên này là khác nhau. Trong trường
hợp luật không cho phép chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân được đồng thời là thành
viên góp vốn thì theo logic, hạn chế này cũng phải được quy định tương tự đối với
thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên hoặc chủ sở hữu công ty TNHH 1
thành viên.
Một cá nhân chỉ được thành lập một doanh nghiệp tư nhân.Đây là sự kế thừa
hoàn toàn quy định tương ứng về doanh nghiệp của LDN 2014 đối với LDN
2005.Theo quan điểm truyền thống về loại hình doanh nghiệp tư nhân thì không có sự
phân biệt về quyền, quyền lời và nghĩa vụ của doanh nghiệp với cá nhân người
9 Trước đây, theo quy định tại Nghị định 102/2010/NĐ-CP thì nếu có sự thay đổi về số lượng chủ sở hữu, tức là
tăng lên hơn một, thì doanh nghiệp đó không còn thuộc loại hình doanh nghiệp tư nhân nữa, thay vào đó là loại
hình công ty nhiều chủ. Doanh nghiệp tư nhân lúc này có thể thực hiện thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân
sang hình thức công ty TNHH 2 thành viên trở lên khi chủ sở hữu doanh nghiệp tư nhân huy động thêm người
khác góp vốn vào doanh nghiệp, lúc này tên doanh nghiệp tư nhân sẽ bị xóa khỏi sổ đăng kí kinh doanh.

16
Law school sharpens your mind by narrowing it


chủ.Khi đăng kí làm chủ một doanh nghiêp tư nhân, một cá nhân mặc nhiên lấy tư
cách, khả năng và tất cả tài sản của mình bảo đảm cho hoạt động của doanh
nghiệp.Những yếu tố này mang tính đặc thù, riêng biệt và duy nhất đối với mỗi cá
nhân. Dó đó, không thể sử dụng một cách trùng lặp tại cùng một thời điểm. Hay nói
cách khác, doanh nghiệp tư nhân là hình thức tổ chức kinh doanh đại diện trực tiếp
không tách rời với cá nhân chủ sở hữu.Ở bất kì thời điểm nào, mỗi cá nhân chỉ có thể
làm chủ một doanh nghiệp tư nhân.Khi nào doanh nghiệp tư nhân đó chưa chấm dứt

sự tồn tại về mặt pháp lí thì cá nhân không thể đăng kí làm chủ một doanh nghiệp tư
nhân khác.Hơn thế nữa, pháp luật cũng quy định hạn chế việc làm chủ đồng thời với
hình thức tổ chức kinh doanh có tính đại diện trực tiếp và gắn kết chặt chẽ tương tự.
- Chủ doanh nghiệp tư nhân phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ, nghĩa
vụ tài sản của doanh nghiệp tư nhân bằng toàn bộ tài sản của mình.
Truyền thống pháp lí về doanh nghiệp tư nhân luôn quy định cho doanh nghiệp
này chế độ trách nhiệm vô hạn, do trong doanh nghiệp không có sự tách bạch giữa tài
sản của doanh nghiệp và tài sản của chủ doanh nghiệp.Khoản 1 Điều 183 quy định,
chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi
hoạt động của doanh nghiệp.Toàn bộ tài sản ở đây được hiểu là bao gồm cả tài sản mà
chủ sở hữu đầu tư và kinh doanh trong doanh nghiệp và những tài sản không đưa vào
kinh doanh.Khi hoạt động của doanh nghiệp làm phát sinh các khoản nợ thì chủ doanh
nghiệp có trách nhiệm lấy tài sản, không phân biệt là tài sản trong doanh nghiệp hay
tài sản khác trong khối lượng tài sản của mình, để trả cho các chủ nợ. Mô hình doanh
nghiệp tư nhân trao quyền rộng rãi cho cá nhân chủ doanh nghiệp, đồng thời thiết lập
cơ chế ràng buộc trách nhiệm tài sản ở mức tối đa. Quy định như vậy bảo đảm sự cân
xứng hợp lí quyền lợi của chủ doanh nghiệp và quyền lợi của các chủ thể có giao dịch
với doanh nghiệp.

- Doanh nghiệp tư nhân không có tư cách pháp nhân.
Đối chiếu với quy định về pháp nhân tại Điều 84 BLDS 2005, doanh nghiệp tư
nhân không thỏa mãn hai trong bốn dấu hiệu của một pháp nhân. Đó là “có tài sản độc
lập với cá nhân, tổ chức khác khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó” và “nhân

17
Law school sharpens your mind by narrowing it


danh chính mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập”. Như đã phân tích,
mặc dù được thừa nhận là một tổ chức nhưng doanh nghiệp tư nhân lại không có tài

sản độc lập với tài sản của cá nhân chủ sở hữu doanh nghiệp và doanh nghiệp tư nhân
cũng không tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh.Tài sản của doanh nghiệp
cũng chính là tài sản của tài sản của chủ doanh nghiệp.Bên cạnh đó, tư cách của doanh
nghiệp tư nhân gắn liền và lệ thuộc tư cách của chủ sở hữu doanh nghiệp.Khó có thể
tách rời tư cách của doanh nghiệp và chủ doanh nghiệp trong các quan hệ kinh doanh.
Đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp bắt buộc phải là chủ doanh nghiệp tư nhân,
mà kết quả có khả năng dẫn đến bản án hay quyết định về việc chịu trách nhiệm bằng
tài sản, chủ doanh nghiệp là nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền và nghĩa vụ liên
quan trước trọng tài hoặc tòa án trong các tranh chấp liên quan đến doanh nghiệp. Như
vậy, rõ ràng là doanh nghiệp tư nhân không tự nhân danh chính mình tham gia các
quan hệ pháp luật một cách độc lập, mà lệ thuộc vào tư cách của cá nhân chủ doanh
nghiệp. Đây là biểu hiện quan trọng nhất cho ta thấy doanh nghiệp tư nhân không có
tư cách pháp nhân, bởi vì pháp nhân là tổ chức được thừa nhận có tư tư cách tham gia
vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập như cá nhân.
- Doanh nghiệp tư nhân có khả năng huy động vốn một cách hạn chế.
Khoản 2 Điều 183 LDN 2014 quy định DNTN không được phát hành bất kì
loại chứng khoán nào. Điều này cho thấy khả năng huy động trong công chúng của
loại hình doanh nghiệp này là hầu như không có, luật không cho phép DNTN huy
động vốn bằng việc phát hành chứng khoán.Sự hạn chế này cũng được quy định trong
LDN 2005 và là một quy định phù hợp với đặc điểm pháp lí của DNTN.Tài sản trong
DNTN là một bộ phận trong khối tài sản của chủ doanh nghiệp.Các khoản nợ phát
sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân cũng chính là nợ của chủ
doanh nghiệp.Giả sử doanh nghiệp tư nhân có quyền phát hành chứng khoán, tức là
quyền huy động vốn rộng rãi từ công chúng, thì cũng có nghĩa là cho cá nhân chủ sở
hữu doanh nghiệp tư nhân quyền này. Trong khi hiện nay khó có một cơ chế đủ chặt
chẽ, minh bạch, hiệu quả để giám sát khoạt động của một cá nhân đối với tài sản riêng
của mình – khối tài sản bảo chứng cho việc phát hành chứng khoán, cũng như khó có
thể lường trước, ngăn chặn hay giảm thiểu những biến động, rủi ro bất ngờ đến với
một cá nhân. Đối với việc phát hành cổ phiếu thì lí do để quy định DNTN không được
quyền phát hành cổ phiếu hoàn toàn không phải là đây là đặc điểm chỉ có ở công ty cổ


18
Law school sharpens your mind by narrowing it


phần mà bởi một lí quan trọng đó là cổ phiếu bản chất của nó là một loại chứng khoán
vốn, mua cổ phiếu thực chất là sự kiện pháp lí tạo ra quyền chủ sở hữu đối với một
phần vốn của doanh nghiệp. Mà doanh nghiệp tư nhân thì không thể có nhiều chủ. Vì
vậy, LDN 2014 quy định doanh nghiệp tư nhân không được quyền phát hành bất kì
loại chứng khoán nào.
Khả năng huy động vốn của doanh nghiệp tư nhân rất hạn chế. Khi hoạt động
kinh doanh phát sinh nhu cầu tăng vốn, phương thức phổ biến nhất vẫn là chủ doanh
nghiệp đầu tư thêm.
2.1.2. Tổ chức quản lí doanh nghiệp tư nhân
Đối với mô hình tổ chức quan lí doanh nghiệp tư nhân, LDN 2014 quy định
khác đơn giản và danh cho chủ doanh nghiệp quyền quyết định tối đa về vấn đề này.
LDN 2014 cho phép chủ doanh nghiệp có thể trực tiếp hoặc thuê người khác điều
hành hoạt động kinh doanh.Tuy nhiên, dù thuê người khác điều hành doanh nghiệp thì
chủ doanh nghiệp vẫn luôn là người quản lí doanh nghiệp.Trong trường hợp không tự
mình đảm đương được tất cả công việc quản lí, chủ doanh nghiệp có thể thuê giam
đốc. Quyền, nghĩa vụ và nhiệm vụ cụ thể của giám đốc và các chức danh điều hành nội
bộ khác trong doanh nghiệp, nếu có đều do chủ doanh nghiệp quyết định. Các bộ phận,
phòng, ban trong doanh nghiệp tổ chức như thế nào cũng hoàn toàn phụ thuộc quyền
tự quyết định của chủ doanh nghiệp, pháp luật không điều chỉnh hoặc quy định một
mô hình bắt buộc nào.
Ngoài ra, để đảm bảo mọi hoạt động của doanh nghiệp tư nhân thể hiện và thực
hiện đúng theo ý chí của chủ doanh nghiệp, pháp luật quy định trong mọi trường hợp, chủ
doanh nghiệp là đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư nhân. Vì vậy, trong doanh
nghiệp tư nhân, giám đốc được thuê, nếu có, chỉ là người đại diện theo ủy quyền của chủ
doanh nghiệp. Quy định này đặt ra hai vấn đề cần được chủ doanh nghiệp và các đối tác

cảu doanh nghiệp lưu ý. Đối với DNTN, khi giao kết hợp đồng thuê giám đốc cần lưu ý
thỏa thuận về việc xác định trách nhiệm của giám đốc phải đền bù lại cho chủ doanh
nghiệp như thế nào nếu có lỗi gây ra thiệt hại hoặc khoản nợ cho doanh nghiệp trong quá
trình thực hiện việc quản lí và đại diện cho doanh nghiệp. Đối với đối tác của doanh
nghiệp, khi giao kết hợp đồng với doanh nghiệp mà do giám đốc làm đại diện, nên tìm
hiểu về nội dung và phạm vi ủy quyền của chủ doanh nghiệp cho giám đốc để tránh rủi ro
hợp đồng vô hiệu do người kí kết không có thẩm quyền.
2.1.3. Quyền của chủ doanh nghiệp tư nhân

19
Law school sharpens your mind by narrowing it


Quyền và nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp tư nhân thể hiện rõ mối quan hệ giữa
chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp. Chính sự khác biệt về phạm vi, mức độ quyền và
nghĩa vụ của chủ sở hữu đối với các loại hình chủ thể kinh doanh khác nhau tạo ra
những ưu thế và nhược điểm riêng biệt của từng loại hình, để nhà đầu tư có thể lựa
chọn. Khi trở thành chủ sở hữu hay đồng chủ sở hữu của một loại hình chủ thể kinh
doanh, nhà đầu tư đều có các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong các lĩnh vực tổ chức
quản lí, tài chính, kế hoạch, định hướng kinh doanh, tổ chức lại, tạm ngừng hay chấm
dứt hoạt động chủ thể kinh doanh đó. Đối với loại hình DNTN, pháp luật quy định cho
chủ doanh nghiệp những quyền và nghĩa vụ ở phạm vi, mức độ tối đa, trực tiếp và
không chia sẻ với ai. Cụ thể là, ngoài các quyền liên quan đến vấn đề quản lí tổ chức
doanh nghiệp như đã phân tích, chủ doanh nghiệp tư nhân còn có các quyền và nghĩa
vụ sau đây:

- Quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực tài chính của doanh nghiệp:
Trong DNTN, vấn đề tách bạch tài sản không đặt ra, vì vậy tài sản được sử
dụng vào hoạt động kinh doanh của chủ doanh nghiệp tư nhân không phải làm thủ tục
chuyển quyền sở hữu cho doanh nghiệp. Nguồn vốn hoạt động của doanh nghiệp do

chủ doanh nghiệp đầu tư và đăng kí với cơ quan đăng kí kinh doanh.
Chủ doanh nghiệp có nghĩa vụ đăng kí chính xác số vốn đầu tư, trong đó nếu rõ
vốn bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng và các loại tài sản khác, đối
với vốn bằng tài sản khác còn phải ghi rõ loại tài sản, số lượng và giá trị còn lại của
mỗi loại tài sản.
Toàn bộ vốn và tài sản trong doanh nghiệp, kể cả vốn vay và tài sản thuê do chủ
doanh nghiệp tư nhân tự quyết định việc sử dụng vào hoạt động kinh doanh nhưng
phải ghi chép đầy đủ vào sổ kế toán và báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Quy định
này tôn trọng quyền tự định đoạt của chủ sở hữu đồng thời bảo đảm cơ chế giám sát
của nhà nước và xã hội được thực hiện thông qua kiểm soát hoạt động tài chính của
doanh nghiệp.
Chủ doanh nghiệp có quyền chủ động trong kê khai vốn đầu tư và có quyền
chủ động sử dụng vốn đầu tư một cách linh hoạt theo yêu cầu kinh doanh và nhu cầu
của bản thân. Chủ doanh nghiệp có quyền đầu tư thêm hoặc rút lại vốn đã đầu tư cho
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc tăng hoặc giảm vốn đầu tư
thể hiện quy mô kinh và trong một chừng mực nhất định thể hiện sự thay đổi năng lực

20
Law school sharpens your mind by narrowing it


tài chính, khả năng đảm bảo nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp với các chủ thể có liên
quan, nên pháp luật quy định việc tăng giảm vốn đầu tư phải được ghi chép đầy đủ
trong sổ sách kế toán, phải thông báo với cơ quan đăng kí kinh doanh để điều chỉnh
thông tin về vốn đầu tư của doanh nghiệp, và nếu giảm vốn đầu tư thì chỉ được giảm
sau khi đã thông báo với cơ quan đăng kí kinh doanh.
- Quyền cho thuê doanh nghiệp:
Cho thuê doanh nghiệp tức là chuyển giao quyền chiếm hữu và sử dụng toàn bộ
doanh nghiệp cho người khác trong một thời gian để thu một khoản tiền nhất định gọi
là tiền thuê.

Cần xác định chính xác phạm vi và ý nghĩa của thuật ngữ “toàn bộ doanh
nghiệp”. Có ý kiến cho rằng toàn bộ doanh nghiệp tức là mọi yếu tố gắn liền với doanh
nghiệp, bao gồm tài sản nợ, tài sản có, các mối quan hệ giao dịch và cả uy tín, năng
lực của chủ doanh nghiệp. Điều này không thể thực hiện được trong thực tế. Do đó,
nên hiểu cho thuê doanh nghiệp là cho thuê toàn bộ tài sản trong doanh nghiệp, bao
gồm tài sản hữu hình và tài sản vô hình như nhà xưởng, máy móc nguồn nhân lực, kể
cả tư cách và các vấn đề liên quan đến thương hiệu của doanh nghiệp đó. Tuy nhiên,
việc thuê này vẫn chỉ dừng lại ở hiện trạng doanh nghiệp trong một chỉnh thể vơi ý
nghĩa là một tài sản, chứ không thuê và sử dụng khả năng, uy tín, trí tuệ của chủ doanh
nghiệp.
Cho thuê doanh nghiệp là quyền mà pháp luật trao cho chủ doanh nghiệp tư
nhân. Việc có cho thuê hay không, lựa chọn ai để cho thuê và giới hạn phamjvi quyền
lợi trách nhiệm đối với hoạt động của doanh nghiệp như thế nào hoàn toàn theo sự
thỏa thuận trên cơ sở quyền tự quyết của chủ doanh nghiệp. Bên cạnh đó, việc cho
thuê doanh nghiệp không làm thay đổi chủ sở hữu doanh nghiệp.Vì vậy, chủ doanh
nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp với
tư cách chủ sở hữu. Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên, pháp luật khuyến
khích sự thỏa thuận và quy định chi tiết trong hợp đồng thuê doanh nghiệp về trách
nhiệm và quyền lợi cụ thể của chủ doanh nghiệp
- Quyền và nghĩa vụ trong việc bán, tặng cho doanh nghiệp:
Bản chất của việc bán doanh nghiệp tư nhân là việc chuyển quyền sở hữu doanh
nghiệp cho người khác. Việc bán doanh nghiệp về thực chất là bán toàn bộ tài sản còn
lại trong doanh nghiệp, bởi vì về nguyên tắc, trước khi bán, doanh nghiệp tư nhân đã

21
Law school sharpens your mind by narrowing it


thành toán hết các khoản nợ và thanh lí hết các hợp đồng đã kí kết, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác giữa các bên liên quan.Vì vậy, sau bán doanh nghiệp chủ doanh

nghiệp vẫn phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác mà doanh
nghiệp chưa thực hiện, trừ trường hợp người mua, người bán và chủ nợ của doanh
nghiệp có thỏa thuận khác.Người mua doanh nghiệp phải đăng kí thay đổi chủ doanh
nghiệp tư nhân trong quá trình bán doanh nghiệp.
Theo quan điểm truyền thống thì khác với việc thuê doanh nghiệp tư nhân,
trong thời hạn thuê, người thuê được quyền sử dụng tư cách pháp lí của doanh nghiệp,
bán doanh nghiệp, bán doanh nghiệp tư nhân là chuyển nhượng toàn bộ tài sản trong
doanh nghiệp chứ không chuyển nhượng tư cách pháp lí. Doanh nghiệp tư nhân khi bị
bán là bị tách rời khỏi tư cách cá nhân của chủ sở hữu, tách rời khỏi khối tài sản đảm
bảo trách nhiệm cho hoạt động của nó, vì vậy thực chất từ thời điểm được bán, doanh
nghiệp tư nhân đó chấm dứt tồn tại 10. Người mua doanh nghiệp có thể dùng khối tài
sản này để mở rộng hoạt động kinh doanh hiện có của mình, ví dụ như dùng cơ sở vật
chất nhân lực đó lập thành một chi nhánh mới của công ty, hoặc dùng để đăng kí kinh
doanh dưới hình thức một công ty.
Tóm lại, doanh nghiệp tư nhân là 01 loại hình chủ thể kinh doanh dưới hình
thức doanh nghiệp, có tư cách pháp lí độc lập với các chủ thể kinh doanh khác nhưng
không độc lập với cá nhân chủ doanh nghiệp tư nhân.

2.2. Pháp luật về hộ kinh doanh
Hộ kinh doanh hiện nay có thể nói là một trong những mô hình kinh doanh phổ
biến nhất ở nước ta, có thể dễ dàng bắt gặp hộ kinh doanh ở bất cứ đâu như: cửa hàng
bách hóa, sạp chợ, quán ăn, dịch vụ sửa chữa xe, quán cắt tóc...v..v. Đây là một mô
hình kinh doanh không phải là doanh nghiệp và vì vậy không được quy định trong
LDN 2014. Văn bản gần nhất có hiệu lực quy định về loại hình kinh doanh này là
Nghị định số 78/2015/NĐ-CP.
2.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hộ kinh doanh
10 Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Giáo trình Pháp luật về Chủ thể kinh doanh, Nxb Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, 2013, tr.92.

22

Law school sharpens your mind by narrowing it


2.2.1.1. Khái niệm:
Khái niệm hộ kinh doanh được quy định tại Điều 66 NĐ 78 như sau: Hộ kinh
doanh do một cá nhân là công dân Việt Nam hoặc một nhóm người hoặc một hộ gia
đình làm chủ, chỉ được đăng kí kinh doanh tại một địa điểm, sử dụng không quá 10
lao động, không có con dấu và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với
hoạt động kinh doanh.
Hộ kinh doanh là đơn vị quy mô nhỏ, không là doanh nghiệp nhưng cũng được
thành lập, đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm tiến hành hoạt động
kinh doanh. Hiện nay có một số đơn vị thực hiện sản xuất hoặc thương mại một cách
độc lập thương xuyên nhưng không phải đăng kí kinh doanh, do đó không được coi là
hộ kinh doanh. Đó là những đơn vị sản xuất theo truyền thống tại đại phương và có
những quy định, chính sách riêng như hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm
muối, hoặc những cá nhân có hoạt động dưới hình thức kinh doanh nhưng thực chất
vốn đầu tư nhỏ lẻ, chủ yếu lấy công làm lời hoặc mang tính lưu động không có dịnh
nhưn những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, làm
dịch vụ có thu nhập thấp. Theo Nghị định số 39/2007/NĐ-CP về hoạt động thương
mại một cách độc lập thường xuyên không phải đăng kí kinh doanh, những cá nhân tự
mình hàng ngày thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động được pháp luật cho
phép về mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác nhưng không thuộc đối tượng phải đăng kí kinh doanh bao gồm những cá nhân
thực hiện các hoạt động “buôn bán rong” (buôn bán dạo) là các hoạt động mua, bán
không có địa chỉ cố định (mua rong, bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong).
2.2.1.2. Đặc điểm:
Dựa trên khái niệm của hộ kinh doanh, có thể rút ra đặc điểm của mô hình này
như sau:
- Hộ kinh doanh là một loại hình chủ thể kinh doanh, nhưng không phải là
một loại hình doanh nghiệp.

Hộ kinh doanh đa phần là những chủ thể kinh doanh có quy mô nhỏ, mặc dù hộ
kinh doanh cũng có đăng kí kinh doanh nhưng hoạt động theo quy định của Chính

23
Law school sharpens your mind by narrowing it


phủ, không chịu sử điều chỉnh của LDN. Điều này đồng nghĩa với việc Hộ kinh doanh
hiên này không được nhìn nhận với tư cách là một loại hình doanh nghiệp mà chỉ là
một trong các chủ thể kinh doanh có đăng kí kinh doanh được pháp luật doanh nghiệp
thừa nhận.Chỉ khi quy mô của hộ kinh doanh đạt đến chuẩn do LDN quy định, thì Hộ
kinh doanh mới buộc phải đăng kí thành doanh nghiệp và hoạt động theo LDN. Ngoài
ra, hộ kinh doanh cũng không thường mang đầy đủ yếu tố của một tổ chức kinh tế độc
lập, trong nhiều trường hợp chỉ có một người, vài người (cũng chính là chủ hộ kinh
doanh) hoặc vài thành viên trong hộ gia đình trực tiếp tiến hành hoạt động kinh doanh,
nếu có thuê lao động cũng chỉ số lượng ít với sự phân công giản đơn, không rõ ràng.
Do không phải là tổ chức kinh tế, mức độ lệ thuộc của hộ kinh doanh vào tư cách và
hoạt động của chủ hộ càng cao hơn.
- Hộ kinh doanh có chế độ trách nhiệm vô hạn.
Dù chủ hộ kinh doanh là một cá nhân, một nhóm người hay một hộ gia đình thì
họ đều phải chịu “trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh
doanh”. Nếu là nhóm người hoặc hộ gia đình làm chủ thì tất cả thành viên của nhóm
hay thành viên trong hộ phải liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về hoạt động kinh
doanh. Điều này có nghĩa là khi số nợ trong kinh doanh lớn hơn tài sản đưa vào kinh
doanh chung hoặc tài sản dân sự chung thì mọi thành viên đều có trách nhiệm lấy cả
những tài sản riêng của mình để trả nợ. Tỷ lệ đóng góp tài sản riêng vào để trả nợ tùy
thuộc thỏa thuận và khả năng của các thành viên trong nhóm người hoặc trong hộ kinh
doanh, nhưng trách nhiệm trả nợ phải được thực hiện cho đến khi khoản nợ được
thanh toán hết.
- Hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân.

Đa số hộ kinh doanh không phải là một tổ chức.Kể cả trong trường hợp có dấu
hiệu của tổ chức như sự kết hợp của nhiều người cùng tham gia một hoạt động thì hộ kinh
doanh cũng không có cơ cấu tổ chức tổ chức chặt chẽ. Trong hộ kinh doanh thường
không có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng, ổn định. Hơn nữa, cũng giống như doanh
nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh là một chủ thể kinh doanh không có tài sản độc lập, không
có sự tách bạch về sở hữu.Thực chất trong mô hình hộ kinh doanh, các nhân chủ hộ kinh
doanh hoặc các nhân thành viên trong hộ tiến hành hoạt động kinh doanh và chịu trách

24
Law school sharpens your mind by narrowing it


nhiệm về các rủi ro trong kinh doanh một cách cá nhân thành viên (hoặc liên đới giữa các
cá nhân) và trực tiếp.Dù Nghị định 43/2010/NĐ-CP không quy định một cách cụ thể,
nhưng thực tế hộ kinh doanh không thể nhân danh chính mình tham gia vào các quan hệ
pháp luật. Cá nhân chủ hộ hoặc người đại diện hộ gia đình hay nhóm người có quyền
nhân danh hộ trong cac quan hệ với cơ quan quản lí nhà nước, và là nguyên đơn, bị đơn,
người có quyền và nghĩa vụ liên quan trong các quan hệ tố tụng liên quan đến hộ kinh
doanh. Vì vậy, hộ kinh doanh không có tư cách pháp nhân.
- Hộ kinh doanh có quy mô kinh doanh nhỏ:
Đối với mô hình hộ kinh doanh, pháp luật Việt Nam dùng quy mô làm tiêu chí
để phân biệt giữa Hộ Kinh doanh và Doanh nghiệp.Nếu hộ kinh doanh có sử dụng
thường xuyên hơn 10 lao động phải chuyển đổi sang hoạt động theo hình thức doanh
nghiệp. Hộ kinh doanh chỉ được đăng kí kinh doanh tại một địa điểm. Như vậy, nếu
quy mô hoạt động của hộ kinh doanh tăng lên đến mức có nhu cầu mở thêm địa điểm
kinh doanh, thì chủ sở hữu của hộ kinh doanh đó cũng phải đăng kí kinh doanh dưới
hình thức doanh nghiệp vì pháp luật không giới hạn số lượng địa điểm kinh doanh mà
một doanh nghiệp có thể có.
Mọi hộ kinh doanh có quy mô nhỏ về số lượng lao động và địa điểm kinh
doanh, còn doanh nghiệp có quy mô đa dạng, từ nhỏ, vừa đến lớn.

2.2.2. Đăng kí kinh doanh, tạm ngừng và chấm dứt hoạt động của hộ
kinh doanh
2.2.2.1. Đăng kí kinh doanh:
- Quyền đăng kí kinh doanh của hộ kinh doanh.
Có ba đối tượng có quyền đăng kí kinh doanh dưới hình thức hộ kinh doanh là
cá nhâ, nhóm cá nhân và hộ gia đình. Cá nhân đăng kí kinh doanh dưới hình thức hộ
kinh doanh, dù đơn lẻ hay theo nhóm, phải đảm bảo các điều kiện sau đây: là công dân
Việt Nam, có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự đầy đủ.

- Trình tự thủ tục đăng kí hộ kinh doanh.
Xuất phát từ quy mô và phạm vi hoạt động nhỏ hẹp của hộ kinh doanh, pháp

25
Law school sharpens your mind by narrowing it


×