KỸ NĂNG TRANH TỤNG CỦA LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ
Luật sư Nguyễn Thị Kim Thanh
Thành viên Ban chủ nhiệm
Trưởng VPLS Nguyễn Thanh – Đoàn LSTP Hà Nội
Mục đích
Giúp cho các Luật sư trao đổi và để hiểu sâu hơn về kỹ năng tranh tụng của Luật
sư trong vụ án dân sự, trang bị các kỹ năng nghề nghiệp cần thiết cho các Luật sư
trong việc xác định ngay từ khi khách hàng đặt vấn đề bảo vệ quyền lợi cho họ (có thể
từ khi bắt đầu khởi kiện hay bất kỳ giai đoạn tố tụng nào). Như vậy, với Luật sư tranh
tụng kỹ năng từ giai đoạn khởi kiện đến kỹ năng thu thập chứng cứ phân tích, đánh
giá, sử dụng chứng cứ, kỹ năng viết bản luận cứ, kỹ năng chuẩn bị các việc liên quan
đến trước khi ra phiên tòa, kỹ năng tại phiên tòa sơ thẩm và kỹ năng của Luật sư trong
giai đoạn giám đốc thẩm và tái thẩm thực sự là cần thiết. Xuất phát từ mục đích đó,
trong khuôn khổ bài viết này tôi muốn giới thiệu thêm một số kỹ năng cơ bản trong
tranh tụng dân sự chúng ta hãy cùng tìm hiểu, trao đổi để có kỹ năng tranh tụng tốt
hơn đối với các vụ án dân sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của khách hàng ngày càng
đạt được hiệu qủa.
Yêu cầu
-
Giới thiệu một cách hệ thống các kỹ năng của Luật sư từ khi giúp khách
hàng quyết định khởi kiện, kỹ năng xác định quan hệ tranh chấp; kỹ năng hòa giải; kỹ
năng thu thập, nghiên cứu, đánh giá, sử dụng chứng cứ; kỹ năng viết bản luận cứ cho
đến kỹ năng tranh tụng phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm và trong giai đoạn giám đốc
thẩm và tái thẩm;
-
Đề cập được các đặc thù trong kỹ năng tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm và phúc thẩm;
1
-
Nêu cách thức xử lý một số tình huống phát sinh tại phiên tòa dân sự sơ
thẩm và phúc thẩm nhằm trang bị thêm kinh nghiệm nghề nghiệp cho các Luật sư;
-
Trang bị kỹ năng soạn thảo đơn kháng cáo, nộp đơn kháng cáo và chuẩn
bị tranh tụng giai đoạn phúc thẩm;
-
Trang bị kỹ năng của Luật sư trong việc xác định những điều kiện giám
đốc thẩm, tái thẩm và giúp khách hàng viết đơn khiếu nại.
I. VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRANH TỤNG TRƯỚC KHI THAM GIA
PHIÊN TÒA.
Trong giai đoạn này có thể nói Luật sư tranh tụng đã phải đảm trách một số công
việc của Luật sư tư vấn. Tuy vậy, cần phân biệt là Luật sư tranh tụng làm các công
việc hướng dẫn đương sự trước khi tham gia phiên tòa là một phần việc cần phải làm.
Có thể xây dựng các công việc của Luật sư tranh tụng trước phiên tòa theo bốn hướng
sau đây:
- Hướng dẫn đương sự trong việc quyết định khởi kiện hay không khởi kiện;
- Hướng dẫn đương sự viết đơn khởi kiện;
- Hướng dẫn đương sự thu thập chứng cứ;
- Hướng dẫn đương sự cung cấp chứng cứ cho Tòa án.
1. Hướng dẫn đương sự trong việc quyết định khởi kiện hay không khởi
kiện.
Việc khởi kiện hay không khởi kiện thuộc quyền tự định đoạt của các đương sự.
Trong nhiều trường hợp đương sự cũng không tự quyết định được có nên khởi kiện
hay không. Điều đó ảnh hưởng nhiều đến việc quyết định lợi ích của chính bản thân
họ. Có nghĩa là trong trường hợp cụ thể đó, việc họ khởi kiện thì có lợi hay không có
lợi. Khả năng thắng kiện của họ đến đâu và khả năng của bản án được đưa vào thi
2
hành trong thực tế như thế nào? Tóm lại, các đương sự quan tâm là họ được lợi bao
nhiêu hay không được lợi gì trong trường hợp họ khởi kiện ra trước Tòa án. Luật sư
phải giúp đương sự thực sự hiểu rõ nếu họ khởi kiện thì khả năng họ được lợi sẽ là bao
nhiêu phần trăm cũng như nếu họ không khởi kiện thì quyền và lợi ích hợp pháp của
họ sẽ được bảo vệ như thế nào. Luật sư là người không những chỉ nắm bắt pháp luật
mà còn hiểu được trạng thái tâm lý khách hàng của mình. Không nên chỉ khởi kiện vì
một mục đích là thỏa mãn tính kiêu ngạo và tính hiếu thắng của khách hàng. Ở đây có
thể xảy ra những tình huống khác nhau:
+ Có thể khách hàng muốn khởi kiện nhưng Luật sư thấy không cần thiết, có thể
giải quyết tranh chấp bằng con đường khác;
+ Có thể Luật sư cho rằng cần phải khởi kiện nhưng khách hàng chưa thực sự
thấy cần thiết;
+ Có thể khách hàng muốn khởi kiện nhưng “mặc cả” với Luật sư là phải thắng
được đối phương, trong khi Luật sư không bảo đảm là sẽ thắng;
Kể cả trong trường hợp trên Luật sư đều phải phân tích từ các khía cạnh pháp lý
để đương sự tự nhận thức được việc khởi kiện hay không khởi kiện là cần thiết. Cần
lưu ý đương sự rằng khởi kiện là một quyền của họ nhưng họ có thể không thực hiện
quyền đó mà vẫn bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Ngược lại, trong một
số trường hợp cần lý giải để đương sự thấy rằng khởi kiện là một quyền của họ và nếu
họ không thực hiện quyền đó thì không còn phương cách nào để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ, cũng như nếu họ không thực hiện ngay quyền đó thì quyền đó
cũng có thể bị mất đi cùng với thời gian (Ví dụ: hết thời hiệu khởi kiện).
Sau khi đã hướng dẫn đương sự để đương sự quyết định khởi kiện hay không
khởi kiện thì Luật sư cần tiếp tục thực hiện những công việc tiếp theo. Trong trường
hợp đương sự quyết định không khởi kiện ra trước Tòa án mà lựa chọn một phương
thức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp khác thì Luật sư cũng phải hướng dẫn đương sự
3
thực hiện theo hướng đó. Ví dụ: Khiếu nại lên cơ quan có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật. Trong trường hợp đương sự quyết định khởi kiện ra trước Tòa án có
thẩm quyền thì Luật sư cần tiếp tục hướng dẫn hoặc giải thích cho các đương sự một
số vấn đề sau:
+ Thời hiệu khởi kiện;
+ Thẩm quyền giải quyết vụ án: Khởi kiện ra trước Tòa án nào;
+ Đã có đầy đủ các chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách
hàng hay chưa, cần bổ sung thêm những chứng cứ nào nữa;
+ Thời gian tối đa do luật định để xem xét và giải quyết vụ án này là bao nhiêu;
+ Án phí như thế nào;
+ Dự liệu trước những khó khăn và thuận lợi nếu thực hiện việc khởi kiện;
+ Họ cần phải chuẩn bị những điều kiện gì để tham gia tố tụng được tốt.
2. Hướng dẫn đương sự viết đơn khởi kiện.
Đơn kiện là một văn bản có giá trị tố tụng rất lớn. Đơn kiện thể hiện yêu cầu
chính đáng của đương sự trong vụ án mà họ yêu cầu Tòa án giải quyết. Đơn kiện còn
là văn bản trong đó nguyên đơn trình bày quá trình diễn biến của vụ án cũng như
những lý lẽ, tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn dùng để làm căn cứ. Thông thường
đương sự khi viết cho mình một đơn khởi kiện, họ thường bỏ qua các yếu tố về hình
thức mà chủ yếu chỉ muốn yêu cầu Tòa án xem xét và giải quyết yêu cầu của mình.
Một đơn kiện như thế có thể không bao hàm hết những nội dung mà nguyên đơn muốn
trình bày. Đơn kiện đó cũng không có ý nghĩa tạo ra một sự chú ý từ phía Tòa án. Vì
vậy, Luật sư phải giúp đương sự viết đơn hoặc tự mình viết đơn cho đương sự để ít
nhất một đơn kiện phải thể hiện được các nội dung theo hướng dẫn tại Nghị quyết số
02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng
4
dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp
sơ thẩm” của BLTTDS.
Đơn khởi kiện có thể viết tay. Tuy vậy, Luật sư cần hướng dẫn đương sự viết rõ
ràng và tốt nhất nên đánh máy. Sau khi đương sự đã viết xong đơn khởi kiện hoặc Luật
sư đã viết xong đơn khởi kiện cho đương sự, Luật sư và đương sự cần ngồi với nhau
để xem lại lần cuối cùng trước khi gửi đơn cho Tòa án có thẩm quyền.
3. Hướng dẫn đương sự thu thập chứng cứ.
Để chuẩn bị cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình được tốt,
đương sự cần chuẩn bị cho mình những chứng cứ cần thiết. Những chứng cứ đó đương
sự phải tự mình thu thập. Các chứng cứ mà đương sự có thể tự thu thập được thông
thường bao gồm: Các hồ sơ cá nhân mà đương sự thường giữ một bản, ví dụ: các bản
hợp đồng, các bản di chúc, giấy chứng nhận kết hôn, giấy khai sinh …
Có một số giấy tờ, tài liệu hoặc chứng cứ đương sự phải tự mình thu thập thông
qua các cơ quan chính quyền ở địa phương, ví dụ: giấy xin xác nhận hộ khẩu thường
trú, giấy xin xác nhận hoặc chứng nhận về một sự kiện pháp lý nào đó. Trong một vụ
án thông thường có rất nhiều loại chứng cứ khác nhau. Luật sư cần hướng dẫn các
đương sự nắm bắt được sơ bộ chứng cứ nào là quan trọng đối với việc xem xét và giải
quyết vụ án, trên cơ sở đó giúp đương sự tập hợp các chứng cứ lại theo hướng dẫn của
mình. Thông thường chứng cứ có thể được sắp xếp theo thứ tự ngày tháng, nội dung
hoặc theo hình thức của chứng cứ đó. Đối với những chứng cứ là bản gốc duy nhất,
Luật sư cần hướng dẫn các đương sự photo công chứng lại các bản gốc. Tất cả các
chứng cứ mà đương sự đã thu thập được nhất thiết phải được nhân ra làm hai bản trở
lên. Một bản để nộp cho Tòa án, bản còn lại do Luật sư hoặc đương sự giữ. Việc cung
cấp các chứng cứ đã thu thập được cho Tòa án vào thời điểm nào do Luật sư quyết
định.
4. Hướng dẫn đương sự cung cấp chứng cứ cho Tòa án.
5
Sau khi đã thu thập được các chứng cứ cần thiết Luật sư cần hướng dẫn các
đương sự cung cấp các chứng cứ cho Tòa án. Về nguyên tắc, các chứng cứ sẽ được lần
lượt cung cấp cho Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đương sự. Tuy
vậy, cung cấp chứng cứ nào vào thời điểm nào là một quyết định có tính chất chiến
lược. Có những chứng cứ cần thiết phải được cung cấp ngay để thông qua Tòa án nội
dung của chứng cứ đó được chuyển tải cho phía bên kia. Tuy vậy, có những chứng cứ
nếu cung cấp ngay cho Tòa án và phía đương sự khác biết được có thể gây bất lợi cho
mình. Vì vậy cần cân nhắc kỹ cung cấp chứng cứ nào vào thời điểm nào, Luật sư sẽ
đóng một vai trò rất quan trọng trong trường hợp này.
4.1. Cung cấp chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Đây là giai đoạn rất quan trọng, trong đó Tòa án tiến hành các bước cần thiết để
thu thập chứng cứ và bước đầu đánh giá chứng cứ. Bên cạnh các chứng cứ do phía
mình cung cấp còn có các chứng cứ do đối phương cung cấp. Để làm rõ các yêu cầu
của mình và phản bác các yêu cầu của đối phương Luật sư cần hướng dẫn để các
đương sự chỉ cung cấp cho Tòa án các chứng cứ với mục đích trên. Những chứng cứ
chưa thực sự cần thiết phải cho đối phường biết nên khuyên đương sự chưa cung cấp
cho Tòa án vội.
Mặt khác Luật sư cần chuẩn bị cho đương sự các bài giải trình. Các bài giải
trình này cần trình bày ngắn gọn và nên đi vào trọng tâm của vấn đề. Mỗi một bài giải
trình cần đặt ra cho mình một mục tiêu cụ thể, có nghĩa là: mỗi một bài giải trình cần
giải quyết dứt điểm một vấn đề. Cùng với việc giải trình cần thu thập và cung cấp cho
Tòa án những văn bản tài liệu có liên quan. Các văn bản, tài liệu này giúp Tòa án nhìn
nhận vấn đề một cách chính xác và có hiệu quả. Nếu biết được các lập luận của đối
phương thì cũng cần thiết phải chuẩn bị các bài giải trình để phản bác lại các lập luận
đó. Các phản bác nên ngắn gọn, sắc bén, có tính thuyết phục và phải luôn được phân
tích, nhìn nhận từ góc độ pháp lý. Khi cung cấp chứng cứ cho Tòa án nên thể hiện rõ
6
quan điểm của mình là chứng cứ này dùng để chứng minh cho yêu cầu nào của mình
và tại sao? Cũng cần đề xuất luôn phương án để Tòa án xem xét.
4.2. Cung cấp chứng cứ tại phiên tòa.
Tại phiên tòa các đương sự có quyền bổ sung chứng cứ, nguyên đơn có quyền
thay đổi nội dung yêu cầu, bổ sung yêu cầu hoặc đề xuất các yêu cầu. Tuy vậy, bởi vì
các phần việc của Tòa án nói chung đã được chuẩn bị kỹ trước khi Tòa án mở phiên
tòa do đó việc cung cấp thêm chứng cứ mới của đương sự không nên làm xáo trộn các
công việc chuẩn bị của Tòa án trước đó. Các chứng cứ cung cấp tại phiên tòa có thể là
những chứng cứ mà đương sự đã thu thập được trước đó nhưng chưa cung cấp cho
Tòa án, cũng có thể là các chứng cứ mà đương sự mới thu thập được. Việc cung cấp
các chứng cứ tại phiên tòa phải thực sự gây được sự chú ý của Tòa án nếu không nói
chứng cứ do mình cung cấp có thể giúp Tòa án nhìn nhận lại vụ tranh chấp một cách
có lợi cho mình hơn.
5. Chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
Hồ sơ khởi kiện là hồ sơ mà nguyên đơn nộp cho Tòa án khi khởi kiện vụ án ra
trước Tòa. Hồ sơ khởi kiện thông thường bao gồm:
- Đơn khởi kiện;
- Các tài liệu chứng minh hoặc giải trình trực tiếp cho yêu cầu của nguyên đơn;
- Các tài liệu về tư cách pháp nhân của nguyên đơn;
- Các tài liệu, chứng cứ kèm theo;
- Các văn bản pháp luật liên quan.
Mục đích của việc lập hồ sơ khởi kiện là nhằm tập hợp một cách có hệ thống các
tài liệu, chứng cứ và những vấn đề liên quan đến vụ án mà nguyên đơn đang yêu cầu
Tòa án xem xét giải quyết.
6. Trao đổi với Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
7
Trao đổi được đề cập ở đây thực chất là các giải trình của khách hàng của mình
gửi cho Tòa án trong trường hợp cần trả lời một yêu cầu của Tòa án hoặc cần giải trình
một vấn đề nào đó liên quan đến một vấn đề mà đương sự khác nêu ra trái với quan
điểm của mình. Các giải trình này còn có thể được thể hiện dưới dạng các sửa đổi, bổ
sung các tài liệu mà mình đã cung cấp cho Tòa án trước đó nhưng bị hiểu nhầm, hiểu
không đúng hoặc bị xuyên tác. Vì vậy, dù giải trình do khách hàng ký tên thì Luật sư
cũng phải giúp khách hàng soạn thảo hoặc ít ra phải giúp khách xem lại lần cuối cùng
trước khi gửi Tòa án. Cũng cần lưu ý là các văn thư này trở thành nguồn chứng cứ rất
quan trọng mà Tòa án, Viện kiểm sát và các đương sự khác có thể sử dụng trong vụ án.
Vì vậy, khi soạn các văn bản này cần hết sức thận trọng cả về hình thức và nội dung,
nên ngắn gọn, dễ hiểu, trong sáng. Về nội dung phải chứa đựng và khẳng định lại các
quan điểm mà Luật sư hoặc khách hàng đã trình bày trước đó. Tuyệt đối không đưa ra
các quan điểm trái ngược với các quan điểm đã đưa ra trước đó trong cùng một vụ án.
7. Chuẩn bị cá nhân của Luật sư trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Luật sư phải làm việc rất bận rộn. Một mặt,
vừa phải chuẩn bị cho khách hàng của mình, một mặt Luật sư phải tự chuẩn bị cho
mình. Những phần việc Luật sư cần chuẩn bị cho mình có thể được thể hiện dưới dạng
sau:
- Thu thập chứng cứ;
- Nghiên cứu hồ sơ vụ án;
- Nghiên cứu và đánh giá chứng cứ;
- Chuẩn bị đề cương bản luận cứ;
- Làm việc với Tòa án khi cần thiết.
7.1. Thu thập chứng cứ.
8
Có những trường hợp Luật sư phải tự mình đi thu thập, xác minh chứng cứ tại
một số cơ quan, xí nghiệp, địa phương mà khách hàng không thể tự làm được. Ví dụ
trường hợp Luật sư cần gặp Cục địa chính, UBND thành phố, UBND quận, huyện…
để yêu cầu các cơ quan này cung cấp hoặc xác nhận về một tình tiết nào đó có liên
quan đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng của mình. Trong một
số trường hợp, khi giao tiếp với các cơ quan này Luật sư cần mang theo giấy giới thiệu
của Đoàn Luật sư và/hoặc giấy giới thiệu của Tòa án đã thụ lý vụ án. Những chứng cứ,
tài liệu mà Luật sư xác minh thu thập được cần thông báo cho khách hàng của mình,
đồng thời cũng cần thiết phải cung cấp cho Tòa án.
7.2. Nghiên cứu hồ sơ vụ án.
* Nghiên cứu hồ sơ vụ án là một công việc hết sức quan trọng và cần thiết. Vụ
án dù đơn giản đến đâu thì Luật sư cũng phải dành thời gian để nghiên cứu hồ sơ vụ
án. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện, có hệ thống, khách quan giúp
Luật sư nắm bắt được những mặt mạnh, mặt yếu của khách hàng của mình, trên cơ sở
đó hình thành các luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ. Việc nghiên cứu
hồ sơ vụ án có thể đi theo những hướng khác nhau tùy thuộc vào việc Luật sư tham
gia tố tụng từ giai đoạn nào. Nguyên tắc là nghiên cứu một cách toàn diện nhưng
không nhất thiết phải nghiên cứu lại những vấn đề mà mình đã biết trước đó.
* Nghiên cứu hồ sơ một cách toàn diện;
* Nghiên cứu hồ sơ của nguyên đơn;
* Nghiên cứu hồ sơ của bị đơn;
* Nghiên cứu các tài liệu của bị đơn (trong trường hợp là Luật sư của nguyên
đơn). Là Luật sư của nguyên đơn thì cần thiết bắt đầu việc nghiên cứu hồ sơ từ tài liệu
do phía bị đơn cung cấp. Thông thường tài liệu của phía bị đơn cung cấp có thể bao
gồm các tài liệu mà bị đơn dùng để phản bác lại yêu cầu của nguyên đơn, các tài liệu
chứng minh cho các yêu cầu, phản yêu cầu của bị đơn;
9
* Nghiên cứu các tài liệu do Tòa án xác minh thu thập được.
7.3. Nghiên cứu và đánh giá chứng cứ.
Nghiên cứu chứng cứ là việc trực tiếp thụ cảm, xem xét, phân tích và so sánh
chứng cứ. Mục đích của nghiên cứu chứng cứ là nhìn nhận chứng cứ dưới góc độ trực
giác để bước đầu xác định giá trị chứng minh của từng chứng cứ. Đánh giá chứng cứ
là quá trình xác định giá trị chứng minh của chứng cứ và tính hiệu quả của chứng cứ
trong tổng thể vụ án. Khác với Tòa án, Luật sư nghiên cứu và đánh giá chứng cứ là để
bảo vệ cho thân chủ của mình. Như vậy không loại trừ những trường hợp trong quá
trình nghiên cứu và đánh giá chứng cứ, Luật sư phát hiện ra những chứng cứ bất lợi
cho khách hàng của mình. Chứng cứ bản thân nó tồn tại khách quan do đó kể cả Luật
sư cũng không thể loại bỏ sự hiện diện và giá trị chứng minh của chứng cứ được. Luật
sư có thể không khai thác các chứng cứ đó. Đối với những chứng cứ có lợi, Luật sư
nên tận dụng triệt để. Quá trình đánh giá chứng cứ còn tìm ra các bất hợp lý trong các
chứng cứ do các đương sự khác cung cấp, Luật sư cần phải tận dụng những điều đó để
vạch ra cho Tòa án thấy được những bất cập liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi
ích của đối thủ của mình. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc tìm ra được những chứng
cứ có lợi cho thân chủ của mình vậy.
Chứng cứ trong hồ sơ vụ án được thể hiện dưới nhiều dạng khác nhau. Có thể là:
một bản hợp đồng, một bản di chúc, một tờ giấy khai sinh, một kết luận giám định.
Nhiều khi bản thân các chứng cứ này đứng riêng lẻ thì không tạo nên giá trị chứng cứ,
nhưng nếu phân tích, so sánh chúng với nhau thì thấy rõ sự khác biệt và chính sự khác
biệt đó lại tạo nên giá trị chứng minh.
7.4. Chuẩn bị đề cương bản luận cứ Luật sư.
Đề cương luận cứ Luật sư là văn bản có ý nghĩa tố tụng rất lớn. Một mặt nó
phản ánh quan điểm của Luật sư, phản ánh tâm tư nguyện vọng của khách hàng, thể
hiện mong muốn của cả Luật sư và thân chủ của mình thông qua các yêu cầu mà Luật
10
sư đề xuất. Mặt khác nó cũng là cơ hội để Luật sư phân tích, nhận định và giải thích
pháp luật nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ của mình. Để có
được một bản luận cứ sắc sảo, có tính thuyết phục cần làm tốt các khâu chuẩn bị sau
đây:
- Vạch cho mình một đề cương chi tiết;
- Lắp đặt những phần đã được ghi chép theo đề cương;
- Tìm các văn bản pháp luật áp dụng;
- Trình bày các nhận định và kết luận dưới dạng đơn giản;
- Chuẩn bị các luận cứ để phản bác lại ý kiến của đối phương;
+ Cơ cấu của bản luận cứ
Bản luận cứ của Luật sư thông thường bao gồm các phần sau đây:
- Phần mở đầu;
- Phần nội dung;
- Phần kết luận và đề xuất.
* Trong phần mở đầu: Luật sư tự giới thiệu mình, nếu cần thiết có thể nêu thêm
về bối cảnh nhận tham gia tố tụng với tư cách là Luật sư tranh tụng trong vụ án này.
* Phần nội dung nên lần lượt trình bày theo các ý sau:
- Nêu tóm tắt diễn biến vụ án;
- Phân tích hợp lệ hoặc bất hợp lệ trong việc Tòa án đã thụ lý giải quyết vụ án
này:
+ Thẩm quyền của các vụ án (bao gồm cả thời hiệu khởi kiện);
+ Tư cách của đương sự trong vụ án;
+ Khẳng định yêu cầu Tòa án tiếp tục tiến hành xét xử hoặc cần thiết phải hoãn
xử, tạm đình chỉ, đình chỉ nếu có căn cứ.
11
- Xác định quan hệ pháp luật tranh chấp;
- Xác định những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án để bảo vệ quyền lợi cho
thân chủ nhận định về các tình tiết đó;
- Ở mỗi phần nhận định đều viện dẫn văn bản pháp luật áp dụng và nêu rõ tại sao,
căn cứ vào đâu để đưa ra các nhận định như vậy;
- Sau mỗi phần nhận định cần có kết luận. Kết luận chỉ được đưa ra sau khi có
đầy đủ chứng cứ để khẳng định nó.
* Phần kết luận và đề xuất: Cần thiết phải nhắc lại kết luận của mình và yêu cầu
cụ thể đối với Tòa án. Các yêu cầu cần rõ ràng, cụ thể. Trong phần kết luận cũng nêu
rõ căn cứ vào văn bản pháp luật nào để yêu cầu Tòa án xét xử như vậy.
+ Viết bản luận cứ
Trước hết cần vạch sẵn một đề cương về bản luận cứ của mình. Tất nhiên việc
chuẩn bị và viết bản luận cứ của Luật sư là một công việc được tiến hành liên tục ngay
từ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và kéo dài cho đến khi Luật sư trình bày xong bản
luận cứ đó trước tòa án và nộp cho Tòa án. Ở đây chỉ lưu ý một số điểm để Luật sư
vạch trước cho mình một đề cương bản luận cứ nhằm thực hiện quá trình này được tốt.
+ Viết phần mở đầu
Bản luận cứ thường bắt đầu bằng câu: Kính thưa hội đồng xét xử. Nhiều Luật sư
mở đầu Bài luận cứ của mình bằng cách thưa gửi rất khác nhau. Về nguyên tắc, Luật
sư chỉ cần Kính thưa Hội đồng xét xử là đủ, cũng có thể là Thưa Tòa hoặc Thưa quý
Tòa! Nếu Luật sư quá lạm dụng việc thưa gửi có thể không những không tác dụng tốt
mà còn ngược lại. Mặc dù cho đến thời điểm này chúng ta chưa có một quy định nào
về việc này.
Sau đó Luật sư có thể tự giới thiệu về mình và bối cảnh nhận tham gia tố tụng
với tư cách là Luật sư trong vụ án.
12
+ Viết phần nội dung
Phần nội dung là phần chính của bản luận cứ. Một số nội dung như tóm tắt diễn
biến của vụ án, phân tích tính hợp pháp, đúng đắn hoặc không hợp lệ của việc Tòa án
thụ lý giải quyết vụ án, phân tích thẩm quyền của Tòa án, thời hiệu khởi kiện, những
thủ tục được áp dụng từ khi khởi kiện và thụ lý vụ án cho đến thời điểm Tòa án xét xử
vụ án, tư cách của đương sự trong vụ án, khẳng định việc yêu cầu Tòa án tiếp tục tiến
hành xét xử hoặc cần thiết phải hoãn xử, tạm đình chỉ, đình chỉ nếu có căn cứ, xác
định quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định những vấn đề cần làm sáng tỏ trong vụ án
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cần thiết được viết trước. Đối với những nội dung
khác như: nhận đinh về các tình tiết cần làm sáng tỏ trong vụ án để bảo vệ quyền lợi
của thân chủ, trình bày các chứng cứ và đánh giá các chứng cứ đó, các kết luận được
rút ra sau khi nhận định và đánh giá chứng cứ…..trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Luật
sư cũng chưa cần phải viết một cách quá chi tiết mà chỉ cần viết nháp theo một đề
cương đã được vạch sẵn để tiện cho việc bổ sung, sửa chữa. Đối với những nội dung
này nhất thiết phải được bổ sung, sửa đổi lại cho phù hợp sau khi Luật sư đã trực tiếp
tham gia vào quá trình xét hỏi và tranh luận công khai tại phiên tòa. Một số nội dung
đã được chuẩn bị sẵn trong giai đoạn chuẩn bị xét xử cũng có thể bị thay đổi cho phù
hợp với những tình tiết vừa mới được sáng tỏ tại phiên tòa.
Lưu ý là trong phần này, những vấn đề như chứng minh được các yêu cầu của
khách hàng của mình là rất quan trọng. Muốn làm được điều này đòi hỏi phải lần lượt
nêu ra các yêu cầu, hoặc phản yêu cầu đó và dùng các chứng cứ để chứng minh, làm
rõ. Khi nhận định, phân tích hoặc kết luận nhất thiết phải căn cứ vào các quy định của
pháp luật. Khi sử dụng các quy định pháp luật để làm căn cứ phải kiểm tra trước hiệu
lực của các văn bản đó.
+ Viết phần kết luận bản luận cứ
Phần kết luận bao gồm hai nội dung chính: Khẳng định lại các quan điểm (các
kết luận) của mình thông qua quá trình phân tích, chứng minh trong phần nội dung và
13
đề xuất với Tòa án phương án giải quyết nhằm thỏa mãn yêu cầu của đương sự. Phần
kết luận phải được trình bày rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu, đủ ý, tránh hiểu nhầm và phải
có căn cứ pháp luật. Không đề xuất chung chung như “đề nghị tòa án xử buộc bị đơn
phải trả lại toàn bộ nợ gốc và lãi theo quy định của pháp luật hoặc đề nghị tòa án xét
xử theo pháp luật nhằm bảo vệ lợi quyền lợi chính đáng cho khách hàng của tôi…..”
Những yêu cầu về án phí cũng cần thiết phải được đề cập đến trong phần đề
xuất. Các thời hạn, thời hiệu hoặc các liên đới về quyền và nghĩa vụ cũng cần được
làm rõ. Các quy đổi ngoại tệ hoặc tính tương đương để quy đổi từ tiền này sang loại
tiền khác hoặc từ tài sản sang tiền hoặc ngược lại cũng cần phải được trình bày một
cách rõ ràng, đồng thời các khoản đã được một bên thanh toán trước đó cũng cần được
giải quyết.
8. Ghi chép.
Lần đầu tiên gặp Luật sư, khách hàng thường dành phần lớn thời gian để trình
bày về vụ việc của mình. Thông thường đây là các thông tin một chiều, chưa được tham
vấn và nhiều khi còn thô. Tuy vậy, có thể những lần tiếp xúc sau, khách hàng sẽ có
nhiều gọt rũa, lược bớt các nội dung mà họ cho là không cần thiết cho họ hoặc không có
lợi cho họ. Vì vậy, việc ghi chép để giữ lại những “thông tin sạch” này là rất quan trọng.
Nó rất có thể sẽ là các thông tin mà từ đó Luật sư có thể khai thác thêm được những
thông tin khác quan trọng. Khi nghe và ghi chép các thông tin ban đầu từ phía thân chủ,
Luật sư nên cẩn trọng trong việc khẳng định những điểm mà Luật sư cho là thân chủ có
thể bị nhầm lẫn hoặc chưa suy nghĩ chín chắn. Những ngụy biện ban đầu của khách
hàng cũng phải được Luật sư làm rõ ngay từ đầu để tránh phải mất thời gian vì những
thông tin đó sau này.
8.1. Ghi chép trong quá trình thu thập chứng cứ.
Trong giai đoạn này nhiều khi Tòa án, Luật sư của đối phương, các đương sự
đều có thể có những biểu hiện, những ý kiến có liên quan đến việc Tòa án giải quyết vụ
14
án. Vì vậy, Luật sư cần theo dõi, ghi chép những thông tin đó nhằm giúp có một cái
nhìn toàn diện về vụ án, về các bên, về những diễn biến bên ngoài mà trong hồ sơ nhiều
khi không bao giờ thể hiện hết.
8.2. Ghi chép trong giai đoạn hòa giải.
Nói chung khi tiến hành hòa giải, các bên cũng như tòa án đều mong muốn đạt
được những lợi ích nhất định. Tuy vậy, không phải lúc nào các mong muốn của các
bên cũng đều đạt được. Vì vậy, ghi chép lại diễn biến của giai đoạn này để có cơ sở
cho các giai đoạn tiếp theo, thậm chí những ý kiến, quan điểm của các bên có thể được
sử dụng lại trong phần xét hỏi nhằm nhắc lại cho họ rằng đã có lúc họ bày tỏ những
mong muốn như thế nhưng họ đã không đạt được và bây giờ họ vẫn còn cơ hội để
thực hiện những mong muốn đó. Ngoài ra, khi biết được quan điểm của đối phương
trong giai đoạn hòa giải, Luật sư cũng có thể dựa vào đó để giúp đương sự điều chỉnh
yêu cầu hoặc phản yêu cầu của mình. Nếu không ghi chép lại những diễn biến đó, rất
có thể sẽ bị quên hoặc nhớ không chính xác.
8.3. Ghi chép trong giai đoạn xét xử.
Trong giai đoạn này Luật sư phải tham gia xét hỏi, phải đặt các câu hỏi, phải
tham gia tranh luận, vì vậy, tất cả những gì diễn ra tại phiên tòa phải được Luật sư ghi
chép lại cẩn thận. Luật sư phải ghi chép từ các câu hỏi của HĐXX, của đại diện VKS,
Luật sư của đối phương, của những người tham gia tố tụng khác. Để tiện theo dõi nên
chia ra thành các cột, mỗi cột chứa một nội dung, thông tin của một người tham gia tố
tụng hoặc tiến hành tố tụng. Những người này nếu có quan hệ với nhau hoặc các hành
vi của họ có thể ảnh hưởng đến nhau thì nên xếp họ gần nhau. Ví dụ, xếp cột nguyên
đơn bên cạnh cột bị đơn, cột Tòa án với cột nguyên đơn.... Các ghi chép này luôn được
lưu giữ một cách có hệ thống để sử dụng cho cả quá trình tố tụng, cả trong giai đoạn
phúc thẩm (xem thêm phần Luật sư trong giai đoạn xét hỏi).
9. Làm việc với thân chủ.
15
Thân chủ là đối tượng của hoạt động tranh tụng của Luật sư. Vì quyền và lợi ích
hợp pháp của thân chủ mà Luật sư làm việc. Vì vậy trước khi đưa ra một ý tưởng gì
cũng nên thông báo cho khách hàng của mình được biết. Trong trường hợp có bất
đồng quan điểm giữa thân chủ và luật sư, nếu luật sư có đầy đủ cơ sở cho là mình
đúng thì nên thuyết phục khách hàng nghe theo ý kiến của mình trên cơ sở phân tích
cho họ thấy từ góc độ luật pháp. Cả hai thái cực hoặc: “dĩ hòa vi quý” hoặc “cố đấm
ăn xôi” đều không phải là phương án tốt. Nên trình bày rõ ràng, ngắn gọn những quan
điểm mà Luật sư có ý định trình bày trước tòa. Nếu đã chuẩn bị xong bản luận cứ thì
nên gửi cho khách hàng một bản. Cũng cần nói rõ là bản luận cứ luôn luôn ở trong
tình trạng có thể bị thay đổi, cập nhật cho phù hợp nhưng mục đích cuối cùng là bảo
vệ quyền và lợi ích của khách hàng. Cũng nên cho khách hàng biết qua diễn biến của
phiên tòa có thể xảy ra, dự báo những điều cần thiết có lợi hoặc bất lợi cho khách
hàng.Trong bất kỳ trường hợp nào thì dự báo cũng nên trung thực, khách quan nhưng
không bi quan hoặc chủ quan thái quá. Cần hướng dẫn cho khách hàng một số công
việc cần thiết khi họ phải trả lời các câu hỏi trước tòa. Nếu cần nên tập dượt trước cho
thuần thục, nên cho khách hàng biết rằng họ có thể từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào
hoặc nhờ Luật sư trả lời hộ trong trường hợp cần thiết.
Làm việc với thân chủ cũng quan trọng như làm việc với Tòa án hoặc Viện kiểm
sát. Thân chủ trong phần lớn các trường hợp có thể cung cấp cho Luật sư những thông
tin chính xác và rất quan trọng.
Để các buổi làm việc với khách hàng có hiệu quả, Luật sư nên vạch ra cho mình
một kế hoạch, theo đó, Luật sư cần gặp khách hàng vào những hôm nào, bàn về những
việc gì và mục đích hay kết quả cần đạt được từ những buổi làm giệc đó là gì.
10. Kỹ năng của luật sư trong giai đoạn hòa giải.
Việc hòa giải có thể được tiến hành theo hai cách: các đương sự tự hòa giải với
nhau và hòa giải do thẩm phán tiến hành. Trong cả hai cách này, Luật sư đều cần thiết
phải tham gia. Ngoài ra Luật sư cũng có thể tham gia hòa giải trực tiếp với bên kia
16
trong trường hợp được ủy quyền. Để việc hòa giải tiến hành có hiệu quả cần thiết phải
có những chuẩn bị sau đây:
10.1. Chuẩn bị tài liệu, chứng cứ cho thân chủ trước khi hòa giải.
Nhìn chung các chứng cứ cần sử dụng khi hòa giải không có gì khác so với các
chứng cứ của toàn bộ vụ án. Tuy vậy cũng cần phải phân loại chúng theo yêu cầu khác
nhau để khi sử dụng những chứng cứ này đối phương thấy được họ đang được lợi
hoặc nếu họ tiếp tục theo đuổi vụ kiện thì sẽ gặp bế tắc.
Về nguyên tắc các tài liệu chứng cứ của khách hàng (trong trường hợp họ là
nguyên đơn) đều đã được thể hiện trong Hồ sơ khởi kiện. Trước khi tham gia hòa giải
Luật sư chỉ cần tập hợp lại và giới thiệu qua cho nguyên đơn biết để trong quá trình
hòa giải, nguyên đơn có thể tự mình đưa ra được các chứng cứ để minh họa cho giải
trình của mình. Để giúp cho khách hàng nắm bắt một cách hệ thống và dễ hiểu thì
Luật sư nên sắp xếp lại Hồ sơ khởi kiện để phục vụ riêng cho giai đoạn hòa giải. Đối
với trường hợp khách hàng của mình là bị đơn thì Luật sư cũng căn cứ vào bộ hồ sơ
mà khách hàng cùng với Luật sư đã chuẩn bị trước đó và cũng sắp xếp lại tương tự
như trong trường hợp làm cho nguyên đơn.
10.2. Thỏa thuận trước với thân chủ về các yêu cầu cần đạt được trong hòa
giải, những vấn đề cần nhượng bộ.
Trước khi hòa giải, luật sư cần thỏa thận trước với khách hàng của mình về một
số yêu cầu cần đạt được sau khi nhượng bộ là như thế nào.Thông thường không phải
lúc nào đương sự cũng sẵn sàng đồng ý với Luật sư để nhượng bộ đối phương, nhất là
trong những trường hợp liên quan đến danh dự hoặc các quyền lợi tinh thần.
+ Thông báo cho khách hàng về tình trạng pháp lý của họ;
+ Những ưu thế và bất lợi cho họ;
+ Những ưu thế và bất lợi của đối phương;
17
+ Các chứng cứ của cả hai bên;
+ Khả năng đối phương sẽ phản ứng như thế nào khi mình đưa ra các đề xuất;
+Đưa ra các giải pháp nhượng bộ để khách hàng lựa chọn;
+ Thống nhất với khách hàng về một số giải pháp tối ưu.
10.3. Thỏa thuận về án phí.
Án phí cũng là một nội dung rất quan trọng trong hòa giải. Trong nhiều trường
hợp các bên thỏa thuận được với nhau về nội dung giải quyết tranh chấp nhưng lại
không thỏa thuận được với nhau về án phí bởi án phí cũng là một khoản đóng góp rất
đáng kể, nhất là trong những vụ án có giá ngạch lớn. Tùy từng trường hợp mà Luật sư
tư vấn cho khách hàng của mình chấp nhận mức án phí bao nhiêu là phù hợp và cần
thiết để tạo thuận lợi cho bên đối phương. Tất nhiên nếu hai bên không thỏa thuận để
đi đến thống nhất về ai phải chịu và chịu bao nhiêu thì án phí sẽ được quyết định theo
pháp luật.
II. KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRANH TỤNG TẠI PHIÊN TÒA SƠ
THẨM.
Giai đoạn tranh tụng tại phiên tòa có một ý nghĩa gần như quyết định đối với
Luật sư tranh tụng. Trong giai đoạn này Luật sư thể hiện hết tài thao lược của mình,
bộc lộ hết các quan điểm và ý tưởng của mình. Một Luật sư được đánh giá công khai
là tốt hay tồi phần lớn là thông qua giai đoạn tranh tụng. Vì vậy chuẩn bị tốt cho giai
đoạn này là điều sống còn đối với Luật sư (và cả đối với thân chủ của mình nữa).
1. Những vấn đề cần lưu ý trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa.
1.1. Về các yêu cầu hoãn phiên tòa.
“Điều 199. Sự có mặt của đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự
18
1. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự hoặc người đại diện của họ,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt; trường hợp có
người vắng mặt thì Hội đồng xét xử hoãn phiên tòa, trừ trường hợp người đó có
đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Tòa án thông báo cho đương sự, người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự biết việc hoãn phiên tòa.
2. Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tòa,
nếu vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng thì xử lý như sau:
a) Nguyên đơn, người đại diện theo pháp luật vắng mặt mà không có người
đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu khởi kiện của người đó, trừ trường hợp
người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Nguyên đơn có quyền khởi kiện lại, nếu
thời hiệu khởi kiện vẫn còn;
b) Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập
vắng mặt mà không có người đại diện tham gia phiên tòa thì Tòa án tiến hành xét
xử vắng mặt họ;
c) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vắng mặt mà
không có người đại diện tham gia phiên tòa thì bị coi là từ bỏ yêu cầu độc lập của
mình và Tòa án quyết định đình chỉ việc giải quyết đối với yêu cầu độc lập có người
đó, trừ trường hợp người đó có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có quyền khởi kiện lại đối với yêu cầu độc
lập đó, nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn;
d) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt thì Tòa án
vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ.”
......
19
Như vậy, theo quy định của pháp luật, HĐXX chỉ có quyền hoãn phiên tòa trong
một số trường hợp nhất định. Trong những trường hợp HĐXX đề nghị hoãn phiên tòa
không theo các căn cứ nêu trên Luật sư có quyền đề xuất ý kiến để phản đối quyết
định hoãn đó. Ngoài ra, trong một số trường hợp mặc dù không có các căn cứ do Luật
định nhưng theo thông lệ và được chấp nhận tại các Tòa án nhân dân thì Luật sư cũng
không nên quá gay gắt khi bày tỏ quan điểm phản đối của mình. Ngược lại, Luật sư có
thể tận dụng những cơ hội như vậy nếu thấy việc hoãn phiên tòa là cần thiết và có lợi
cho thân chủ của mình.
1.2. Về các yêu cầu cung cấp thêm chứng cứ hoặc triệu tập thêm người làm
chứng.
Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa trước khi kết thúc chủ tọa phiên tòa thường
hỏi những người tham gia tố tụng xem có ai yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng
hoặc cung cấp thêm bằng chứng hay không, nếu có người yêu cầu thì HĐXX xem xét
và quyết định. Như vậy, trong trường hợp cần phải triệu tập thêm người làm chứng
hoặc cung cấp thêm bằng chứng, Luật sư cần triệt để tận dụng cơ hội đó. Như trong
phần cung cấp chứng cứ đã nêu có thể có những chứng cứ mà trước đó thân chủ của
mình hoặc Luật sư chưa có cơ hội hoặc chưa muốn cung cấp cho Tòa án thì là cơ hội
tốt để cung cấp cho Tòa án những chứng cứ đó. Nếu Tòa án không đặt câu hỏi về việc
yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc cung cấp thêm bằng chứng mà Luật sư
thấy cần thiết phải làm việc đó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho khách hàng
của mình thì Luật sư phải chủ động đề xuất với HĐXX để HĐXX xem xét và quyết
định.
Thực tiễn cho thấy Luật sư chưa tận dụng triệt để quyền của mình trong giai
đoạn này để đề nghị Tòa án triệu tập thêm người làm chứng.
1.3. Luật sư trong giai đoạn xét hỏi.
20
Giai đoạn xét hỏi tại phiên tòa là giai đoạn điều tra công khai có sự tham gia của
tất cả những người tham gia tố tụng. Trong giai đoạn này các chứng cứ được lần lượt
công bố, phân tích, so sánh, nghiên cứu và tự thân nó bộc lộ giá trị chứng minh của
chúng. Luật sư cần phải có mặt tại phiên tòa trong suốt thời gian xét xử, trừ trường
hợp đặc biệt. Luật sư cần phải chú ý theo dõi quá trình HĐXX tiến hành thủ tục xét
hỏi tại phiên tòa. Về mặt thủ tục, Luật sư có quyền được đặt các câu hỏi để bảo vệ
quyền lợi cho khách hàng của mình bằng cách thông qua các câu trả lời để khẳng định
công khai những vấn đề cần phải làm sáng tỏ trong vụ án.
1.3.1. Ghi chép diễn biến của phiên tòa.
Khi theo dõi thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, Luật sư cần phải ghi chép đầy đủ lời
trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người đại
diện của đương sự, kiểm sát viên, người làm chứng, người giám định, quá trình xem
xét vật chứng. Việc ghi chép phải bảo đảm nguyên tắc ngắn gọn, đầy đủ và làm nổi bật
được những ý chính. Đối với những tình tiết đặc biệt cần phải ghi chép riêng biệt hoặc
phải nhấn mạnh để dễ lưu ý khi xem xét lại. Bản ghi chép này là tiền đề để Luật sư đặt
các câu hỏi cho thân chủ của mình hoặc cho những người tham gia tố tụng khác để họ
tự mình khẳng định công khai trước Tòa những vấn đề cần được làm rõ. Trong quá
trình ghi chép cũng cần lưu ý cả những câu hỏi và câu trả lời của HĐXX cũng như của
những người tham gia tố tụng khác. Thông thường, thông qua các câu hỏi của HĐXX
hoặc đại diện VKS, Luật sư sơ bộ có thể nắm bắt được những quan điểm cơ bản của
họ. Thông qua đó Luật sư có thể điều chỉnh bản luận cứ của mình hướng vào việc làm
sáng tỏ các quan điểm của HĐXX và VKS mà Luật sư đã dự đoán theo hướng có lợi
cho thân chủ của mình. Ghi chép các quá trình xét hỏi tại phiên tòa còn có ý nghĩa
quan trọng trong việc dùng chính những quan điểm đó để làm cơ sở phản bác của
mình trong trường hợp cần thiết. Nếu có điều kiện, khi ghi chép Luật sư cần sử dụng
các loại mực khác nhau để dễ ghi nhớ khi xem xét lại.
1.3.2. Đặt các câu hỏi.
21
Luật sư có quyền đặt các câu hỏi để yêu cầu thân chủ của mình hoặc những
người tham gia tố tụng khác trả lời cho Tòa án nhằm làm rõ những tình tiết quan
trọng. Khi đặt các câu hỏi, Luật sư cần lưu ý chỉ nên đặt các câu hỏi đúng vào trọng
tâm, ngắn gọn, dễ trả lời. Không bao giờ Luật sư vừa đặt các câu hỏi vừa tự mình giải
thích các câu hỏi đó cũng như vừa gợi ý trả lời các câu hỏi đó. Trong những trường
hợp khi các câu hỏi của Luật sư được các đương sự trả lời mà Luật sư thấy cần thiết
phải nhấn mạnh thì đề nghị HĐXX lưu ý và đề nghị thư ký phiên tòa ghi nhận điều đó
vào biên bản phiên tòa. Những câu hỏi và câu trả lời mà Luật sư đã đặt ra và được
nghe trả lời trong quá trình thẩm vấn tại phiên tòa đều có thể được Luật sư sử dụng để
cập nhật và bổ sung cho bản luận cứ của mình. Trong trường hợp trong bản luận cứ
Luật sư nhắc lại những câu trả lời của đương sự ngay tại phiên tòa thì Luật sư cũng
phải nhấn mạnh là điều đó đã được chính các đương sự tự mình khẳng định tại phiên
tòa hôm nay. Đối với các câu hỏi dành cho thân chủ của mình, Luật sư không nên đặt
ra những vấn đề hóc búa mà trước đó Luật sư chưa có điều kiện trao đổi với thân chủ.
Chỉ nên đặt những câu hỏi mà từ trước đó Luật sư đã trao đổi với thân chủ của mình,
hai bên đã thống nhất về câu hỏi và câu trả lời. Thân chủ cũng đã được thông báo
trước về ý định của Luật sư khi muốn mình trả lời những câu hỏi đó. Thực tiễn hành
nghề của các Luật sư cho thấy Luật sư không nên hỏi thân chủ của mình quá nhiều.
Tránh tình trạng biến phần xét hỏi thành phần tranh luận. Trong phần xét hỏi Luật sư
chỉ nên đặt các câu hỏi để các đương sự trả lời và ghi chép lại đầy đủ những tình tiết
cần thiết chứ không bình luận gì thêm. Tất cả việc đánh giá chứng cứ, nhận định và
kết luận về những gì đã diễn ra trong phần xét hỏi cần thiết phải được thể hiện trong
phần tranh luận.
1.4. Tranh luận tại phiên tòa.
Trong phần tranh luận nếu có sự tham gia của Luật sư, Luật sư của nguyên đơn
sẽ được trình bày quan điểm của mình trước HĐXX. Trong phần tranh luận, khi trình
bày quan điểm của mình Luật sư cần nhận định về các tình tiết quan trọng của vụ án,
22
trình bày quá trình đánh giá chứng cứ và khẳng định giá trị chứng minh của các chứng
cứ mà Luật sư đã đánh giá. Luôn luôn dùng các văn bản pháp luật làm căn cứ cho
những nhận định và kết luận của mình. Trong quá trình tranh luận, thông thường
người tham gia tranh luận chỉ có quyền đáp lại ý kiến của người khác một lần đối với
mỗi ý kiến mà mình không đồng ý. Khi đáp lại ý kiến mà mình không đồng ý Luật sư
nên trình bày ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề đồng thời nếu cần thiết dùng ngay lập
luận của họ để phán bác lại. Trong bất kỳ trường hợp nào thì Luật sư cũng phải tôn
trọng sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa, tránh tình trạng tranh cãi đối với những
người tham gia tranh luận. Trong bất kỳ trường hợp nào thì mục đích của việc tranh
luận cũng là để làm:
- Sáng tỏ những tình tiết cần chứng minh của vụ án trên cơ sở đó bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Không được lồng các ý tưởng mang tính
chủ quan hoặc cá nhân để trình bày trong phần tranh luận. Nếu thấy đã tranh luận về
các vấn đề nhưng vẫn chưa rõ hoặc chưa khẳng định được những tình tiết chính trong
vụ án thì Luật sư có thể đề nghị HĐXX quay trở lại phần thẩm vấn. Cần lưu ý là khác
với thủ tục tranh luận tại phiên tòa hình sự, trong các phiên tòa dân sự, Luật sư không
cần tranh luận với VKS mà VKS có quyền là người cuối cùng trình bày quan điểm của
mình và đề xuất hướng giải quyết vụ án để HĐXX xem xét và quyết định. Sau khi đại
diện VKS trình bày kết luận của mình thì những ngươi tham gia tranh luận không phát
biểu gì thêm;
- Trình bày bản luận cứ của Luật sư;
Như trên đã nêu bản luận cứ của Luật sư đã được chuẩn bị trước đó, Luật sư đã
có sự trao đổi với thân chủ của mình và thống nhất với nhau về các yêu cầu cũng như
các phương án mà Luật sư đề xuất với HĐXX. Bản luận cứ cũng đã được Luật sư
hoàn chỉnh, cập nhật những ý mới và bổ sung thông qua quá trình xét hỏi tại phiên tòa.
Trong phần tranh luận, Luật sư trình bày bản luận cứ của mình công khai trước Tòa để
HĐXX và những người tham gia tố tụng khác nắm bắt được quan điểm của Luật sư về
23
nhận định và đánh giá chứng cứ cũng như những kết luận và các đề xuất của Luật sư
nhằm bảo vệ quyền lợi cho thân chủ của mình. Bản luận cứ của Luật sư là một tài liệu
tố tụng rất quan trọng, không chỉ có ý nghĩa giúp HĐXX có thêm các dữ liệu quan
trọng khi nghị án mà còn có giá trị trong các giai đoạn xét xử tiếp theo nếu bản án sơ
thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Cần sử dụng một phương pháp trình bày bản luận cứ
thích hợp đối với từng vụ án riêng biệt. Có thể vừa kết hợp đọc, nói hoặc trình bày có
giải thích trên cơ sở những tình tiết chính của bản luận cứ. Dù Luật sư trình bày bản
luận cứ dưới dạng đọc hay dạng nói thì bản luận cứ cũng phải được đánh máy rõ ràng,
khúc chiết. Đối với những phần mà cần thiết phải bổ sung trong phần xét hỏi Luật sư
nên dành những khoảng trống trong bản luận cứ để cập nhật những tư liệu một cách rõ
ràng mà HĐXX có thể chấp nhận được. Như trên đã nêu, ngoài việc viện dẫn các văn
bản pháp luật khi nhận định và đánh giá chứng cứ cũng như là việc kết luận những
tình tiết của vụ án, Luật sư cần đính kèm theo bản luận cứ của mình các phần trích dẫn
của các tài liệu văn bản đó.
Thực tiễn hành nghề cho thấy một Luật sư thu hút được sự quan tâm của HĐXX
hoặc của những người tham gia tố tụng và những người tham dự phiên tòa không phải
bằng một bài phát biểu đánh máy sẵn, dài dòng mà là nội dung của bài phát biểu đó đề
cập được đến những vấn đề gì, có thực sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của
khách hàng hay không? Có đề xuất được với Tòa án những biện pháp có căn cứ, đúng
pháp luật, giúp Tòa án ra được một bản án có sức thuyết phục hay không?
Thông thường Luật sư nên tận dụng các cơ hội để nói hoặc trình bày hơn là đọc
bài luận cứ. Trong quá trình trình bày, Luật sư nên viện dẫn các chứng cứ viết sẵn, đưa
ra trước Tòa án các tài liệu chứng minh cho những gì mình đang nói. Kết hợp so sánh,
phân tích, đối chiếu với các tình tiết vừa được kiểm tra công khai tại phiên tòa, không
nên lệ thuộc quá nhiều vào bài luận cứ đã viết sẵn.
Lưu ý:
24
- Khi trình bày bản luận cứ của mình, Luật sư đang gửi đến cho HĐXX và những
người tham gia tố tụng một bản thông điệp. Như vậy, không phải nói những gì mình
thích mà nói những gì Tòa án có thể chấp nhận được.
- Bản luận cứ chỉ có một mục đích duy nhất là thuyết phục Tòa án bởi những yêu
cầu phù hợp pháp luật của Luật sư nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng của mình;
- Bản luận cứ là cách thức để chuyển tải ý nghĩ, vì vậy, để việc chuyển tải thông
tin có hiệu quả, bản luận cứ cũng phải tuân theo những quy định nhất định;
- Việc truyền đạt thông tin không chỉ là trên giấy tờ và lời nói, mà còn thể hiện ở
cử chỉ và điệu bộ.
Tóm lại, khi ở phiên tòa, Luật sư trình bày bản luận cứ của mình sẽ giúp Tòa án
hiểu được các quan điểm của mình, do đó phải lựa chọn một hình thức phù hợp để đạt
được kết quả. Sau khi trình bày xong nên cung cấp cho tòa một bản sao để họ nghiên
cứu được đầy đủ nội dung luật sư cần đề cập.
1.5. Các công việc cần tiến hành sau phiên tòa sơ thẩm.
Luật sư nên giúp đương sự thực hiện quyền kháng cáo. Nếu thấy quyết định của
bản án không phù hợp với yêu cầu của mình đã đề ra thì theo yêu cầu của thân chủ,
Luật sư cần hướng dẫn cho họ hoặc tự mình soạn thảo Đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa
án cấp trên xem xét lại theo trình tự phúc thẩm.
Đơn kháng cáo là một văn bản của đương sự khi họ không đồng ý với quyết
định của Tòa án đã xét xử sơ thẩm và yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án theo
trình tự phúc thẩm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
III. KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN PHÚC THẨM,
GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM VỤ ÁN DÂN SỰ.
1. Kỹ năng của Luật sư khi tham gia phúc thẩm.
25