Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Hoạt động triều cống, lễ sính trong quan hệ ngoại giao giữa việt nam và trung quốc thế kỉ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.49 MB, 129 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
------------------------------

NGUYỄN THI ̣KHUYÊN

HOẠT ĐỘNG TRIỀU CỐNG, LỄ SÍNH TRONG QUAN HỆ NGOẠI
GIAO GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM 1858

Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số

: 60220113

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC VIỆT NAM HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận án này là kết quả nghiên cứu của cá nhân tôi.
Các số liệu và tài liệu được trích dẫn trong luận án là trung thực. Kết quả nghiên
cứu này không trùng với bất cứ công trình nào đã được công bố trước đó.
Tôi xin chịu trách nhiệm với lời cam đoan của mình.
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Thị Khuyên




LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn thạc sĩ, ngoài những cố gắng của bản
thân, em đã nhận được sự giúp đỡ quý báu, nhiệt tình từ Thầy cô và bạn bè.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cô giáo hướng
dẫn của em - TS. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh. Trong suốt thời gian qua, Cô đã luôn
động viên, tận tình chỉ bảo, định hướng nhận thức và phương pháp nghiên
cứu để em có thể hoàn thành luận văn của mình.
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Thị Khuyên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 3
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 10
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu .......................... 10
5. Giả thiết khoa học ....................................................................................... 10
6. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 10
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu ...................................................................... 11
8. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 11
9. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 12
10. Cấu trúc của luận văn ................................................................................ 12
CHƢƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG
TRIỀU CỐNG, LỄ SÍNH GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC TỪ
NĂM 1802 ĐẾN NĂM 1858 ......................................................................... 13
1.1. Bối cảnh thế giới, khu vực và Việt Nam .................................................. 13

1.2. Những đặc điểm tác động đến hoạt động triều cống, lễ sính giữa Việt
Nam và Trung Quốc từ năm 1802 đến năm 1858 ........................................... 16
1.2.1. Đặc điểm lịch sử.................................................................................... 16
1.2.2. Đặc điểm địa lý ..................................................................................... 17
1.2.3. Đặc điểm chính trị - xã hội ................................................................... 19
1.2.4. Đặc điểm về hệ tư tưởng ....................................................................... 23
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 26
CHƢƠNG 2: NGUYÊN NHÂN, DIỄN BIẾN CỦA HOẠT ĐỘNG
TRIỀU CỐNG, LỄ SÍNH TRONG QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA
VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM 1858 ......... 28
2.1. Nguyên nhân của hoạt động triều cống, lễ sính ....................................... 28
2.2. Diễn biến của hoạt động triều cống, lễ sính ............................................. 33


2.2.1. Hoạt động triều cống ............................................................................ 33
2.2.2. Hoạt động lễ sính .................................................................................. 49
2.2.3. Hoạt động “thương mại triều cống” .................................................... 54
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 62
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM, THỰC CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG TRIỀU
CỐNG, LỄ SÍNH TRONG QUAN HỆ NGOẠI GIAO GIỮA VIỆT NAM
VÀ TRUNG QUỐC TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM 1858 ............................... 63
3.1. Đặc điểm của hoạt động triều cống, lễ sính trong quan hệ ngoại giao giữa
Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1802 đến năm 1858 ................................... 63
3.1.1. Hoạt động triều cống, lễ sính giữa hai nước diễn ra trong thời bình .. 63
3.1.2. Dấu ấn đậm nét của Nho giáo trong hoạt động triều cống, lễ sính giữa
hai nước ........................................................................................................... 64
3.1.3. Đặc điểm của hoạt động triều cống, lễ sính giữa Việt Nam và Trung
Quốc trong tương quan so sánh với hoạt động triều cống, lễ sính giữa các
nước Đông Nam Á và Việt Nam trong cùng thời gian .................................... 69
3.1.4. Mục đích chính trị đậm nét hơn mục đích kinh tế trong hoạt động triều

cống, lễ sính giữa hai nước ............................................................................. 77
3.2. Thực chất của hoạt động triều cống, lễ sính trong quan hệ ngoại giao giữa
Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1802 đến năm 1858 ................................... 79
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 91
KẾT LUẬN .................................................................................................... 93
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 96
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 105


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: Thống kê các sứ đoàn Việt Nam sang triều cống nhà Thanh giai
đoạn 1802 - 1858...................................................................................... 39
Bảng 2: Thống kê các sứ đoàn Việt Nam sang triều cống nhà Thanh giai
đoạn 1802 – 1858. .................................................................................... 44
Bảng 3: Thống kê các sứ đoàn Việt Nam sang lễ sính nhà Thanh giai đoạn
1802 - 1858 .............................................................................................. 50
Bảng 4: Thống kê số lần sứ bộ Việt Nam sang Trung Hoa thuần túy mua hàng
hóa theo lệnh của triều đình giai đoạn 1802 - 1858 ........................................ 60
Bảng 5: Thống kê đoàn sứ bộ các nước Đông Nam Á đến triều cống nhà
Nguyễn (Việt Nam) giai đoạn 1802 - 1858 .................................................... 70
Bảng 6: Thống kê đoàn sứ bộ các nước Đông Nam Á đến lễ sính nhà Nguyễn
(Việt Nam) giai đoạn 1802 -1858 ................................................................... 71


DANH MỤC PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Những sự kiện về hoạt động triều cống, lễ sính trong mối quan hệ
ngoại giao giữa triều Nguyễn (Việt Nam) và nhà Thanh (Trung Quốc) từ năm
1802 đến năm 1885 ....................................................................................... 105
Phụ lục 2: Những sự kiện về hoạt động triều cống, lễ sính giữa triều Nguyễn
(Việt Nam) và các nước trong khu vực Đông Nam Á từ năm 1802 đến năm

1858 ............................................................................................................... 117


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

CHỮ CÁI

NGHĨA CỦA CHỮ CÁI

VIẾT TẮT

VIẾT TẮT

1

ĐNLT

Đại Nam liệt truyện

2

ĐNTL

Đại Nam thực lục

3

NXB

Nhà xuất bản


4

STT

Số thứ tự

5

VSTGCM

Việt sử thông giám cương mục

6

KHXH

Khoa học xã hội

7

TP

Thành phố

8

DSHNVNTMĐY

Di sản Hán nôm Việt Nam thư mục


SỐ THỨ TỰ

đề yếu


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời kỳ phong kiến của Việt Nam, mối quan hệ bang giao với
Trung Quốc là nhân tố quan trọng có tác động đến sự thịnh suy của mỗi
vương triều. Đến đầu thế kỷ XIX, khi Việt Nam chưa tham gia nhiều vào các
quan hệ quốc tế thì các mối quan hệ trọng yếu của Việt Nam mới chỉ giới hạn
trong khu vực mà trước hết là với nước láng giềng Trung Hoa.
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trước hết là quan hệ giữa hai nước đồng
văn, có chung đường biên giới. Chính đặc trưng về vị trí địa lý ấy là điều kiện
thuận lợi đầu tiên cho tình giao hiếu giữa hai bên. Tuy nhiên, trong mối quan hệ
này, Trung Quốc luôn chiếm vị trí “thượng phong”. Xét về diện tích lãnh thổ và
dân số, tính đến thời nhà Thanh, Trung Quốc là nước lớn trên thế giới với diện
tích hơn 9 triệu km2, gần bằng ngày nay (9 triệu 630.690 km2) [65, tr.165 – 172].
Không những vậy, Trung Quốc còn nổi tiếng là một quốc gia có nền văn minh lâu
đời ẩn chứa trong đó cả hệ thống triết học, vũ trụ quan và nhân sinh quan sâu sắc.
Người Trung Quốc luôn tự hào về bề dày truyền thống văn hóa của dân tộc mình.
Chính sự ưu việt về văn hóa ấy đã góp phần quan trọng làm nên thế “thượng
phong” của Trung Quốc trong mối quan hệ với các nước láng giềng nhỏ bé xung
quanh như Việt Nam, Xiêm, Cao Ly… Nhất là trong thời phong kiến, dưới ảnh
hưởng đậm nét của tư tưởng Nho giáo với quan niệm về trật tự trên - dưới giữa
nước lớn và nước nhỏ thì điều này lại càng được chứng thực sinh động.
Trong bối cảnh ấy, để đảm bảo cho mối quan hệ hòa hiếu giữa hai dân
tộc, tránh nạn binh đao xảy ra, cha ông ta từ nghìn xưa đã vận dụng đường lối
ngoại giao hòa bình, tuy kiên quyết mỗi khi nền độc lập bị đe dọa nhưng lại rất

mềm mỏng, nhún nhường trong quan hệ với đại quốc Trung Hoa. Trong nửa
đầu thế kỷ XIX, khi quan hệ giữa hai nước ở trong thời bình thì nhà Nguyễn đã
cầu phong, triều cống, lễ sính Trung Quốc theo lệ. Đây cũng là những hoạt

1


động quan trọng bậc nhất trong quan hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn với triều
Thanh thời bấy giờ.
Nếu triều cống là hoạt động dâng tiến lễ vật của triều Nguyễn cho triều
Thanh theo định kỳ bắt buộc dựa trên quy định của cả hai bên thì lễ sính là
hoạt động tặng phẩm vật nhân những lần thăm hỏi, không có kỳ hạn nhất
định, thường được tiến hành khi hai bên muốn giao hiếu, báo tin thắng trận
hoặc được sách phong. Số lượng tặng phẩm, thời hạn nộp cống, tần suất của
hoạt động lễ sính, việc tiếp đãi sứ thần khi họ đặt chân tiến cống, lễ sính triều
đình Trung Hoa, việc đáp lễ của nhà Thanh dành cho nhà Nguyễn sau mỗi dịp
nhận phương vật tiến cống hay lễ sính… sẽ được chứng thực đầy sinh động
trong nửa đầu thế kỷ XIX, một mặt phản ánh thái độ nhún nhường, mềm dẻo
của Nguyễn triều trong mối quan hệ với nước lớn Trung Hoa, mặt khác cũng
cho thấy thái độ, cách thức ứng xử ngoại giao của nhà Thanh dành cho nước
“chư hầu” Việt Nam. Do đó, tìm hiểu hoạt động triều cống, lễ sính giai đoạn
này sẽ giúp chúng ta phần nào tái dựng được những nét cơ bản nhất trong
quan hệ bang giao giữa hai nước.
Đặc biệt, trong nửa đầu thế kỷ XIX, khi mối quan hệ Việt – Trung chưa
chịu tác động của nhân tố thứ ba là thực dân Pháp thì những hoạt động bang
giao, trong đó có hoạt động triều cống, lễ sính, vẫn đang diễn ra thuận theo
thông lệ xưa nay và do triều đình hai bên hoàn toàn tự quyết định. Vì vậy, nửa
đầu thế kỷ XIX có thể coi là thời kì tiêu biểu khi xem xét đặc trưng của hoạt
động triều cống, lễ sính cũng như đặc điểm, thực chất của mối quan hệ Việt –
Trung thời phong kiến.

Hơn nữa, nghiên cứu quan hệ bang giao của Việt Nam với Trung Quốc
nửa đầu thế kỷ XIX cũng góp phần giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn, toàn
diện hơn về công lao cũng như hạn chế của vương triều cuối cùng trong lịch
sử phong kiến Việt Nam. Những thành công lẫn những hạn chế trong đường

2


lối, chính sách ngoại giao của Nguyễn triều thời bấy giờ sẽ tác động không
nhỏ đến vị thế, tiềm lực đất nước và số phận của cả dân tộc trong giai đoạn
lịch sử về sau.
Đặt trong bối cảnh hiện nay khi mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung
Quốc đang còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập thì việc nghiên cứu lịch sử ngoại
giao giữa Việt Nam với Trung Quốc trong quá khứ, từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm cả thành công lẫn thất bại để vận dụng trong thực tiễn ngoại giao
hiện nay, thiết nghĩ là vô cùng cần thiết.
Xuất phát từ những lí do nói trên, tác giả đã chọn đề tài: “Hoạt động
triều cống, lễ sính trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc
từ năm 1802 đến năm 1858” làm đề tài luận văn của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên cơ sở những công trình nghiên cứu của các học giả đi trước, chúng
tôi tạm chia thành hai nhóm tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu của mình
như sau:
2.1. Những công trình nghiên cứu chung về nhà Nguyễn
Nhà Nguyễn – triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam đã nhận
được sự quan tâm nghiên cứu của không ít các học giả trong và ngoài nước.
Có thể kể đến một số các tác phẩm tiêu biểu như:
Tác phẩm Việt Nam sử lược của tác giả Trần Trọng Kim, Nxb Tân
Việt, Sài Gòn, năm 1954 (in lần thứ năm) đã nghiên cứu tiến trình lịch sử Việt
Nam từ thượng cổ đến khi Pháp xâm lược và cai trị Việt Nam. Trong tác

phẩm này, tác giả đã tập trung nghiên cứu về các triều vua nhà Nguyễn như:
Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Qua tác phẩm, chúng ta có thể
có cái nhìn khái quát về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, giáo
dục… của Việt Nam dưới vương triều này. Đây sẽ là cơ sở góp phần giúp
chúng ta lí giải được đặc trưng hoàn cảnh chi phối đến đường lối ngoại giao

3


của triều Nguyễn với Trung Quốc cũng như với các nước trong khu vực Đông
Nam Á thời bấy giờ.
Tiếp đó, chúng ta phải kể đến tác phẩm Lịch sử chế độ phong kiến Việt
Nam được xuất bản vào năm 1965 do tác giả Phan Huy Lê chủ biên, Tập III:
Từ thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX, Nxb Giáo dục. Tác phẩm gồm có ba
phần biên soạn về lịch sử Việt Nam từ đầu thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XIX.
Riêng phần III, tác giả tập trung nghiên cứu về “Giai đoạn khôi phục lại chế
độ phong kiến chuyên chế phản động của nhà Nguyễn. Về tình hình khủng
hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam trước năm 1858”. Bên cạnh đó, cũng
trong phần III ở chương XIII, tác giả đã đề cập đến “chính sách đối ngoại của
nhà Nguyễn xâm lược các nước láng giềng và bế quan tỏa cảng”, trong đó có
bàn ngắn gọn về quan hệ với Trung Quốc.
Đến năm 1997, tác giả Trương Hữu Quýnh cho ra đời tác phẩm Đại
cương lịch sử Việt Nam, tập I (từ nguyên thủy đến năm 1858) được in bởi Nxb
Giáo dục. Tiếp đó, năm 1998, tác giả Đinh Xuân Lâm tiếp tục cho ra đời cuốn
Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II cũng được in bởi Nxb Giáo dục. Có thể coi
đây là những cuốn sách giáo trình cung cấp đầy đủ những kiến thức cơ bản
nhất về tiến trình lịch sử Việt Nam qua các thời kỳ, trên tất cả các lĩnh vực từ
kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội, giáo dục… Đây cũng được coi là tư liệu
cung cấp kiến thức nền tảng, cơ bản giúp chúng ta có thể hiểu được nhưng
chính sách ngoại giao của triều Nguyễn được thực thi trong thời kỳ này.

Bên cạnh đó, còn phải kể đến những bài viết chuyên khảo được đăng
trên các tạp chí nghiên cứu chuyên ngành như:
Năm 1993, tạp chí Nghiên cứu Lịch sử kết hợp với Viện sử học đã cho
ra số chuyên đề “Nhà Nguyễn trong lịch sử nửa đầu thế kỷ XIX” với những
bài viết tiêu biểu như: Sơ bộ nhận thức về nhà Nguyễn; Suy nghĩ về bộ máy
nhà nước quân chủ trung ương tập quyền Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX; Triều
Nguyễn trước âm mưu bành trướng của tư bản phương Tây (1802 – 1858);

4


Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX; Vài nét về vai trò,
đặc điểm Nho giáo thời Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX; Quân đội nhà Nguyễn;
Vài ý kiến về nông nghiệp Việt Nam nửa đẩu thế kỷ XIX; Vài nét về thủ công
nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX; Vài nét về thương nghiệp Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XIX; Thư mục về nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX.
Trong bài viết Sơ bộ nhận thức về nhà Nguyễn, GS. Văn Tạo đã tập
trung đưa ra những nhận định về công trạng cũng như “cái tội” của triều
Nguyễn giúp người đọc có được những nhận thức đúng đắn nhất về triều đại
cuối cùng trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Cũng trong chuyên đề đó, GS.Đinh Xuân Lâm đã viết Triều Nguyễn
trước âm mưu bành trướng của tư bản phương Tây (1802 – 1858). Tác giả đã
chỉ ra cho người đọc thấy được nguyên nhân vì sao thực dân phương Tây
muốn xâm lược Việt Nam hay đứng trước những âm mưu xâm lược đó, nhà
Nguyễn đã có những hành động gì?
Trong chuyên đề này còn phải kể đến bài viết của tác giả Tạ Ngọc Liễn
với nhan đề Vài nét về vai trò, đặc điểm của Nho giáo thời Nguyễn nửa đầu
thế kỷ XIX. Trong bài viết, tác giả đã làm sáng tỏ vai trò, đặc điểm của Nho
giáo triều Nguyễn; đồng thời chỉ ra tầm ảnh hưởng của Nho giáo tới các lĩnh
vực của xã hội, trong đó có lĩnh vực chính trị - ngoại giao. Cũng từ đó, tác giả

đã đưa ra nhận xét về mặt hạn chế của Nho giáo đối với chính sách cai trị đất
nước nói chung và chính sách ngoại giao của triều Nguyễn nói riêng nửa đầu
thế kỷ XIX.
Đến năm 2009, tạp chí Cộng sản số 799 đã đăng bài viết Về hội thảo
khoa học chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế
kỷ XVI đến thế kỷ XIX của Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê. Tác giả
đã tổng kết lại về sự cần thiết trong việc phải nhận thức và đánh giá về các
chúa Nguyễn và triều Nguyễn một cách khách quan, công bằng cũng như đưa
ra những cơ sở khoa học để ghi nhận một số cống hiến tích cực của các chúa

5


Nguyễn và triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc. Bên cạnh đó, tác giả còn chỉ ra
những mặt hạn chế và tiêu cực của vương triều cuối cùng trong lịch sử phong
kiến Việt Nam, trong đó có lĩnh vực ngoại giao.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu về lịch sử triều Nguyễn nhận
được sự quan tâm khá nhiều từ các học giả. Đây sẽ là cơ sở giúp ta có cái nhìn
khái quát nhất về tình hình xã hội Việt Nam dưới triều Nguyễn. Để từ đó có
thể hiểu và lý giải được những đặc điểm trong chính sách ngoại giao mà nhà
Nguyễn đã thực thi.
2.2. Những công trình nghiên cứu về ngoại giao Việt – Trung và hoạt
động triều cống, lễ sính Trung Quốc của triều Nguyễn trước năm 1858
Trong sách vở của Việt Nam từ trước đến nay đều có ghi lại những
quan hệ bang giao giữa hai nước Việt - Trung. Trong các sách sử của Trung
Quốc cũng phản ánh mối quan hệ ấy.
Dưới triều Nguyễn, rất nhiều bộ sử được biên soạn đã phản ánh lịch sử
bang giao giữa Việt Nam và Trung Quốc thời kỳ này. Trong đó, bộ Đại Nam
Thực Lục (ĐNTL) và Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ (KĐĐNHĐSL) là
những bộ sử ghi chép đầy đủ nhất về những sự vật, sự việc, điển lệ… liên

quan đến quan hệ ngoại giao giữa triều Nguyễn – Triều Thanh như: Thể thức
sai sứ, triếu cống, tiếp sứ, sắc phong, ngày tháng cử sứ thần sang Trung Quốc
và đón sứ thần nhà Thanh sang ta, danh mục phẩm vật cống, danh mục sứ
thần và số lượng các thành viên trong mỗi sứ bộ, lộ trình và diễn tiến đi sứ…
Tuy nhiên, trong cuốn KĐĐNHĐSL phần ghi chép về các sứ bộ sang Thanh
không được ghi chép một cách bài bản, chi tiết và cụ thể như ĐNTL.
ĐNTL là bộ biên niên sử do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn dưới
thời vua Tự Đức, bổ túc vào các triều như Duy Tân và Khải Định. Bộ sử đã
ghi chép những sự kiện quan trọng xảy ra trên khắp nước ta, từ thời các chúa
Nguyễn đến triều Khải Định (phần chính biên). Đây sẽ là nguồn tài liệu quan

6


trọng cung cấp những sự kiện liên quan đến hoạt động bang giao một cách
chính xác nhất giữa hai nước Việt – Trung trong giai đoạn này.
Ngoài ra, còn phải kể đến tác phẩm Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc
thế kỷ XV – đầu thế kỷ XVI của tác giả Tạ Ngọc Liễn viết vào năm 1995, Nxb
Khoa học xã hội. Có thể coi đây là một trong những công trình đầu tiên của
Việt Nam nghiên cứu về lịch sự quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung
Quốc. Trong tác phẩm của mình, tác giả đã tập trung nói đến quá trình thiết
lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc (nhà Minh) sau năm
1427, vấn đề cầu phong và triều cống thế kỷ XV- đầu thế kỷ XVI trong quan
hệ giữa hai nước. Mặc dù tác giả chỉ giới hạn vấn đề nghiên cứu của mình
trong phạm vi quan hệ chính trị, ngoại giao trong một thế kỷ, nhưng các mối
quan hệ chính trị- ngoại giao này lại mang đặc trưng chung cho cả mối quan
hệ Việt – Trung ở các giai đoạn tiếp theo.
Đến năm 2005, tác giả Nguyễn Thế Long đã cho ra đời cuốn sách Bang
giao Đại Việt, tập 5, triều Nguyễn. Trong cuốn sách, tác giả tập trung nói về
những câu chuyện bang giao giữa triều Nguyễn với triều Thanh như: Những

quan điểm về việc đi sứ triều Thanh; những lần phong vương cho vua Gia
long ở Thăng Long năm 1804; hay câu chuyện đi sứ của sứ thần Ngô Thị
Nhân Tĩnh và những vần thơ đi sứ chứa chan tình cảm…
Tiếp đó, công trình nghiên cứu của tác giả Tôn Hoằng Niên (孙宏年著)
với nhan đề 清代中越宗藩关系研究 (Nghiên cứu Quan hệ tông phiên Trung Việt thời Thanh), Nxb Giáo dục Hắc Long Giang (黑龙江教育出版社) ra đời.
Công trình với dung lượng dày 420 trang đã tái hiện lại quan hệ tông phiên
Việt – Trung từ năm 1644 đến năm 1885 trên tất cả các bình diện (chính trị,
kinh tế, văn hóa…). Trong đó, quan hệ chính trị được đề cập đến với các hoạt
động như cầu phong, ban sắc phong và triều cống giữa nhà Thanh và các triều
đại phong kiến Việt Nam thời bấy giờ. Những dẫn chứng sinh động về hoạt

7


động ngoại giao thời kì này cùng với các bảng thống kê về hoạt động cầu
phong, triều cống giữa hai nước được Tôn Hoằng Niên ghi chép trong tác
phẩm sẽ là những tư liệu quan trọng để chúng ta có cơ sở so sánh, đối chiếu
với những tài liệu trong nước.
Đến năm 2014, tác giả Nguyễn Thị Mỹ Hạnh đã bảo vệ thành công
luận án tiến sĩ Sự chuyển biến của quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và
Trung Quốc từ năm 1802 đến 1885 tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam. Luận án đã đưa ra cái nhìn khá toàn diện về mọi khía cạnh của mối
quan hệ Việt – Trung trong suốt thế kỷ XIX, làm cơ sở để chúng ta có cái
nhìn khái quát nhất về mối quan hệ giữa hai nước trong thế kỷ nhiều biến
động này. Song, vì luận án nghiên cứu mối quan hệ ấy cả trước và sau năm
1858, đi vào nhiều phương diện khác nhau nên hoạt động triều cống, lễ sính
trước 1858 của triều Nguyễn mới chỉ được điểm qua hết sức khái lược, chiếm
dung lượng trang rất khiêm tốn.
Ngoài những tác phẩm tiêu biểu nêu trên, không thể không nhắc đến
những bài viết bàn về những khía cạnh khác nhau trong quan hệ Việt – Trung

ở giai đoạn này. Có thể kể đến một số những bài viết tiêu biểu như:
Năm 1997, trên Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, số 6, tác giả Đinh Dung đã
viết bài Thử tìm hiểu ảnh hưởng của Nho giáo trong đường lối ngoại giao của
Triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX. Trong bài viết của mình, tác giả đã chỉ ra
những dấu ấn của Nho giáo trong đường lối ngoại giao của Việt Nam ở thế kỷ
XIX cũng như những hạn chế trong đường lối ngoại giao dưới triều Nguyễn
“đường lối ngoại giao theo tư duy Nho giáo là một trong những nguồn gốc
sâu xa dẫn tới tư tưởng sợ hãi phương Tây, đồng thời tạo nên tính bất biến,
bảo thủ trong quan hệ ngoại giao với Thanh triều, của các vua đầu thời
Nguyễn” [8, tr.75]. Cùng với đó, “Trước sự tiến triển của tình hình thế giới,
đường lối chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn trở nên phi thực tế - lạc hậu.

8


Hai khó khăn luôn cản trở quan hệ ngoại giao triều Nguyễn với phương Tây
là vấn đề “cấm đạo” và buôn bán” [8, tr.76].
Đến năm 2009, trong Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9, tác giả YuInsun
đã cho công bố bài viết “Lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc thế kỷ XIX
thể chế triều cống thực và hư”. Tác giả trình bày rõ việc triều đình nhà Nguyễn
công nhận quyền lực của hoàng đế nhà Thanh, tự xưng là hạ thần và duy trì
quan hệ triều cống [91, tr.23]. Điều này đã được quy định rất rõ ràng: “Việt
Nam phải triều cống hai năm một lần, 4 năm phải cử sứ giả sang chầu một lần
hoặc gộp hai lần triều cống làm một” [91, tr.23].
Ngoài ra, chúng ta không thể không nhắc đến bài viết của tác giả
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc số 7 (95),
năm 2009 với nhan đề: “Hoạt động triều cống trong quan hệ bang giao giữa
triều Nguyễn (Việt Nam) với triều Thanh (Trung Quốc)”. Bài viết đã phác họa
khái quát hoạt động triều cống trong mối quan hệ bang giao giữa Việt Nam và
Trung Quốc suốt hai giai đoạn: 1802 - 1858 và 1858 - 1885.

Có thể thấy, cho đến nay đã không ít những công trình nghiên cứu về
bang giao Việt Nam thời kỳ này. Tuy nhiên, những công trình hay bài viết có
tính hệ thống về nền ngoại giao của vương triều Nguyễn trong nửa thế kỷ (từ
năm 1802 đến năm 1858) thì lại chưa có. Cũng như chưa có tác phẩm nào
chuyên sâu nghiên cứu về hoạt động triều cống, lễ sính giữa hai nước Việt –
Trung trong giai đoạn đất nước đang còn độc lập, tự chủ này. Hơn nữa, trong
cùng khung thời gian từ 1802 đến 1858, hoạt động triều cống, lễ sính giữa Việt
Nam và Trung Quốc có điểm gì giống và khác với hoạt động triều cống, lễ sính
giữa Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á hay hoạt động triều
cống, lễ sính giữa Nhật Bản, Triều Tiên và Trung Quốc thời bấy giờ? Cho đến
nay những câu hỏi ấy vẫn còn đang bị bỏ ngỏ. Trả lời câu hỏi này sẽ giúp chúng
ta hiểu rõ hơn đặc điểm, thực chất của mối quan hệ bang giao Việt – Trung và

9


đặc trưng cơ bản trong đường lối ngoại giao của vương triều Nguyễn đối với các
quốc gia láng giềng đương thời.
Với đề tài: “Hoạt động triều cống, lễ sính trong quan hệ ngoại giao
giữa Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1802 đến năm 1858”, chúng tôi mong
muốn đưa ra một cái nhìn hệ thống, khách quan, đa chiều về hai trong số
những hoạt động bang giao quan trọng bậc nhất của quan hệ Việt – Trung thời
bấy giờ. Từ đó, hy vọng rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho nền
ngoại giao Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
- Phác dựng lại hoạt động triều cống, lễ sính – hai trong ba hoạt động
bang giao quan trọng bậc nhất của quan hệ Việt – Trung từ năm 1802 đến
năm 1858 (bên cạnh hoạt động cầu phong).
- Từ những thành tựu và hạn chế của nền ngoại giao Việt Nam trong
suốt nửa thế kỷ (từ năm 1802 đến năm 1858) rút ra bài học kinh nghiệm cho

nền ngoại giao Việt Nam hiện nay.
4. Khách thể và đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: Việt Nam và Trung Quốc
4.2. Đối tượng nghiên cứu
- Hoạt động triều cống và lễ sính giữa Việt Nam và Trung Quốc trong
giai đoạn nửa đầu thế kỉ XIX.
5. Giả thiết khoa học
- Khi nghiên cứu về hoạt động triều cống và lễ sính giữa Việt Nam và
Trung Quốc trong giai đoạn từ năm 1802 đến năm 1858, một vấn đề trọng tâm
đặt ra là Việt Nam độc lập hay bị phụ thuộc trong quan hệ với Trung Quốc?
Giả thiết đặt ra là Việt Nam độc lập về thực chất trong quan hệ bang giao với
Trung Quốc ở giai đoạn này dù nhún nhường triều cống, lễ sính Trung Hoa.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan về bối cảnh lịch sử tác động đến nền ngoại giao
Việt Nam từ năm 1802 đến năm 1858.
10


- Nghiên cứu nguyên nhân, diễn trình, kết quả, ý nghĩa của hoạt động triều
cống, lễ sính trong quan hệ bang giao Việt – Trung từ 1802 đến 1858. Từ đó, rút
ra được đặc trưng, thực chất của những hoạt động này cũng như bài học kinh
nghiệm quý báu cho mối quan hệ ngoại giao Việt – Trung trong bối cảnh mới.
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Được xác định từ năm 1802 đến năm 1858 (tức là
khi triều Nguyễn được thành lập ở nước ta năm 1802, mở đầu mối quan hệ giữa
hai vương triều phong kiến: Triều Nguyễn ở Việt Nam với vương triều Mãn
Thanh ở Trung Quốc, đến năm 1858 khi thực dân Pháp vào xâm lược Việt Nam).
- Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu trong không gian lãnh thổ Việt
Nam và Trung Quốc giai đoạn 1802 - 1858.
8. Phƣơng pháp nghiên cứu

- Phương pháp lịch sử: Với đề tài này, phương pháp lịch sử là phương
pháp đặc biệt quan trọng. Với phương pháp này, người viết sẽ tiếp cận và giải
quyết vấn đề theo trình tự thời gian của tiến trình lịch sử từ xa đến gần.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Sử dụng những kiến thức,
phương pháp của nhiều chuyên ngành có liên quan như chính trị, lịch sử, văn
hóa để xem xét những phương diện tác động của nền ngoại giao Việt Nam từ
năm 1802 đến năm 1858.
- Phương pháp thống kê: Sử dụng phương pháp này để thống kê các sự
kiện, các vấn đề ngoại giao có liên quan nhằm cung cấp những chất liệu cần
thiết để giải quyết các vấn đề đặt ra.
- Phương pháp so sánh: Để có thể đưa ra được những nhận định khách
quan về mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1802
đến năm 1858 thì đây được coi là phương pháp hữu hiệu. Trong luận văn, tác
giả đã so sánh hoạt động triều cống, lễ sính Việt Nam – Trung Quốc với hoạt
động triều cống, lễ sính giữa các nước Đông Nam Á và Việt Nam; hay so
sánh hoạt động triều cống, lễ sính Việt – Trung với hoạt động triều cống, lễ
sính giữa Nhật Bản và Trung Quốc trong cùng thời gian. Có sử dụng phương

11


pháp so sánh này mới có thể rút ra được đặc điểm, thực chất của quan hệ
ngoại giao Việt – Trung thời bấy giờ.
9. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở giải quyết nhiệm vụ đặt ra, luận văn có một số đóng góp
như sau:
Thứ nhất, ý nghĩa khoa học
- Luận văn tái hiện một cách hệ thống và khách quan hoạt động triều
cống, lễ sính – hai trong số những hoạt động bang giao quan trọng bậc nhất
của mối quan hệ Việt Nam –Trung Quốc từ năm 1802 đến năm 1858. Qua đó,

góp phần nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn về vương triều Nguyễn, đặc biệt
đóng góp cũng như hạn chế trên phương diện ngoại giao của vương triều này
trong lịch sử dân tộc.
Thứ hai, ý nghĩa thực tiễn
- Từ những thành tựu và hạn chế của nền ngoại giao dân tộc trong quá
khứ sẽ giúp chúng ta rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho nền ngoại
giao Việt Nam trong thời đại mới.
- Nội dung luận văn và hệ thống tư liệu tham khảo được sưu tầm
trong quá trình thực hiện luận văn là nguồn tài liệu có giá trị phục vụ công
tác giảng dạy, nghiên cứu lịch sử ngoại giao của triều Nguyễn nói riêng
và lịch sử bang giao Việt Nam – Trung Quốc nói chung.
10. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận văn
được chia làm ba chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Những nhân tố tác động đến hoạt động triều cống, lễ sính
giữa Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1802 đến năm 1858.
Chương 2: Nguyên nhân, diễn biến của hoạt động triều cống, lễ sính
trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc từ năm 1802 đến năm 1858.
Chương 3: Đặc điểm, thực chất của hoạt động triều cống, lễ sính trong
quan hệ Việt Nam – Trung Quốc từ năm 1802 đến năm 1858.

12


CHƢƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG
TRIỀU CỐNG, LỄ SÍNH GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC
TỪ NĂM 1802 ĐẾN NĂM 1858

1.1. Bối cảnh thế giới, khu vực và Việt Nam
Trên bình diện thế giới, một dấu mốc quan trọng của lịch sử thế giới

thời cận đại thế kỷ XIX là sự phát triển một cách nhanh chóng của chủ nghĩa
tư bản trên phạm vi toàn thế giới. Châu Âu và Bắc Mỹ đã tiến hành cách
mạng tư sản từ thế kỷ thứ XVI và đến những năm 50 của thế kỷ XIX thì hoàn
thành. Từ đây, chủ nghĩa tư bản trở thành hệ thống trên thế giới và giai cấp tư
sản trở thành giai cấp thống trị có quyền lực vô hạn về kinh tế. Để phát triển
kinh tế, giai cấp tư sản đã không ngừng cải tiến kỹ thuật sản xuất, lao động
máy móc dần thay thế cho lao động chân tay, đưa năng suất lao động tăng cao
chưa từng có.
Nhằm đáp ứng cho nhu cầu phát triển ngày càng mạnh mẽ của nền
công nghiệp tư bản, các nước tư bản Âu, Mỹ đã ra sức chạy đua trong công
cuộc tìm kiếm thị trường tiêu thụ, nguyên liệu và nhân lực sản xuất. Chính
điều đó đã trở thành động cơ thôi thúc các nước đế quốc ráo riết đi tìm kiếm
và xâm chiếm thuộc địa. Trong cuộc chạy đua ấy, châu Á đã trở thành một
miếng mồi béo bở của các nước tư bản Âu – Mĩ bởi nơi đây có nguồn tài
nguyên thiên nhiên vô cùng phong phú, nguồn nhân lực dồi dào và nhân công
rẻ mạt, thị trường tiêu thụ lại rộng lớn. Không những vậy, ở đây đang trong
tình trạng nghèo nàn, lạc hậu về kinh tế, suy thoái về chính trị.
Bước vào thế kỷ XIX, tại châu Á, nếu nhìn riêng lẻ từng quốc gia thì
chúng ta vẫn thấy có sự phát triển nhất định, nhưng đặt trong thế so sánh với
phương Tây thì nhìn chung châu Á có trình độ phát triển chậm chạp và kém
hơn hẳn. Đại đa số các nước châu Á lúc này đều đang tồn tại nền kinh tế nông

13


nghiệp với kỹ thuật canh tác lạc hậu, năng suất lao động thấp, chế độ sở hữu
ruộng đất phong kiến đã và đang triệt tiêu động lực sản xuất của người lao
động, đời sống nhân dân lao động nói chung còn nhiều thiếu thốn và nghèo
nàn. Công – thương nghiệp cũng không có sự phát triển, mọi hoạt động
thương mại buôn bán đều bị cản trở bởi chính sách hạn chế ngoại thương, một

chính sách mà hầu như các nước châu Á nào cũng đều áp dụng như một cách
tự vệ chống lại nguy cơ xâm lược của các nước phương Tây. Nhà nước phong
kiến lại ra sức sử dụng ngân sách của quốc gia để xây cung điện, lăng tẩm...
Có thể thấy, đại đa số giai cấp thống trị của châu Á về cơ bản thiếu sự
chuẩn bị kĩ càng để đối phó với nguy cơ ngoại xâm, không tích cực xây dựng
và củng cố quốc phòng, chấn hưng và phát triển kinh tế, lại không chịu thực
hiện đổi mới trên các phương diện về chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa.
Chính điều đó đã khiến cho các nước trong khu vực châu Á tự làm mình suy
yếu. Tất cả những yếu tố đó đã khiến cho châu Á trở thành một “miếng mồi
béo bở”, hấp dẫn các nước tư bản phương Tây thời bấy giờ. Sự mãnh liệt
trong tham vọng xâm lược của các nước đế quốc đã biến hàng loạt các nước
trong khu vực châu Á thành thuộc địa hoặc nửa thuộc địa.
Trong cuộc chạy đua vào châu Á đó, tư bản Anh, Pháp, Mỹ, Hà Lan…
là những nước chiếm được nhiều thuộc địa hơn cả. Riêng khu vực Đông Nam
Á, Anh và Pháp đã khống chế nhiều vùng kinh tế - chính trị quan trọng của
con đường biển từ Âu sang Á.
Tại Đông Nam Á, khoảng thời gian từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX
cũng bắt đầu quá trình suy thoái của chế độ phong kiến. Đối diện với văn
minh phương Tây và cùng với đó là nguy cơ xâm lược của chủ nghĩa tư bản,
giai cấp cầm quyền của các vương triều phong kiến nơi đây lúc này đều đang
lúng túng, bế tắc. Họ quẩn quanh trong đường lối đối nội, đối ngoại cũ kỹ,
không tìm thấy đường lối thích hợp để thay đổi vận mệnh đất nước và bắt kịp
vận hội mới của thời đại.

14


Trong bối cảnh lịch sử đó, Việt Nam không thể đứng ngoài những biến
động chính trị mà tư bản phương Tây tạo nên trong quá trình tìm kiếm thuộc
địa và khu vực ảnh hưởng. Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, khu vực

mà thực dân Pháp ráo riết tìm cách đặt ách thống trị, đặc biệt là sau khi Pháp
thất bại với Anh trong việc tranh giành quyền lợi trên bán đảo Ấn Độ từ cuối
thế kỷ XVIII.
Có thể nói, vào nửa đầu thế kỷ XIX, cũng như các nước trong khu vực
Châu Á cùng thời, Việt Nam trong mọi đường nối đối nội hay đối ngoại của mình
đều phải tính đến nguy cơ của chủ nghĩa đế quốc. Chính bối cảnh lịch sử đầy biến
động ấy sẽ có tác động không nhỏ đến thái độ, nội dung, phương thức bang giao
của triều Nguyễn đối với các nước xung quanh, trong đó có Trung Quốc.
Hơn nữa, khác với những vương triều trước, triều Nguyễn được thành
lập trong hoàn cảnh rất đặc biệt, chính đều này đã ảnh hưởng lớn đến quá
trình tồn tại của nó. Nhà Nguyễn ra đời trên cơ sở tiêu diệt nhà Tây Sơn – một
vương triều vốn đã chiếm được nhiều cảm tình của nhân dân. Vương triều
Tây Sơn mà đứng đầu là Quang Trung đã có công lao to lớn trong sự nghiệp
thống nhất và bảo vệ đất nước. Ra đời trong hoàn cảnh như vậy, vương triều
Nguyễn bị rơi vào vị thế bất lợi về mặt tâm lý, sẽ không nhận được nhiều
thiện cảm từ quần chúng nhân dân ngay từ ban đầu. Hơn thế, một vương triều
phong kiến dựa vào thế lực bên ngoài để thành lập và củng cố quyền lực của
mình như vương triều Nguyễn thì lại càng khiến cho nhân dân bất bình. Do
đó, không thể như những triều đại khác trước đó, triều Nguyễn lúc mới thành
lập đã không khẳng định được uy tín, quyền lực của mình với nhân dân cũng
như tính chính thống của mình bằng cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Vì vậy,
ngay từ đầu, triều Nguyễn đã mong muốn duy trì quan hệ bang giao với nhà
Thanh với việc xin phong vương, triều cống, lễ sính để khẳng định được tính
chính thống của triều đại mình, qua đó cũng là để tạo dựng được uy tín– điều
mà ngay khi thành lập triều Nguyễn đã không có được.

15


Song, dù vậy, những cố gắng nhất định trong việc phát triển kinh tế,

giao thông vận tải, văn hóa, giáo dục…của triều Nguyễn ở giai đoạn này cũng
đã góp phần quan trọng cho công cuộc bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, đảm bảo
được tính thống nhất, độc lập của dân tộc ta trong mối quan hệ ngoại giao với
Trung Quốc ở nửa đầu thế kỷ XIX.
1.2. Những đặc điểm tác động đến hoạt động triều cống, lễ sính
giữa Việt Nam và Trung Quốc từ năm 1802 đến năm 1858
1.2.1. Đặc điểm lịch sử
Đầu thế kỷ XIX, Việt Nam chưa tham gia nhiều vào các hoạt động
chính trị quốc tế. Quan hệ ngoại giao của Việt Nam thời kỳ này chủ yếu tập
trung vào các nước láng giềng. Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia láng
giềng có mối liên hệ từ thời cổ đại. Khi vua Gia Long lên ngôi, lập nên vương
triều Nguyễn thì mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc lại tiếp nối truyền
thống vốn có trước đó.
Lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha đã để lại những bài học
ngoại giao quý giá cho nhà Nguyễn. Đó là bài học về đường lối ngoại giao
khôn khéo, linh hoạt, nhún nhường, khoan hòa nhưng đầy kiên định. Điển
hình như sau hai lần chiến thắng quân Tống, ba lần chiến thắng quân Mông –
Nguyên hay sau khi đè bẹp ách xâm lược của quân Minh thế kỷ XV…các
triều đại phong kiến Tiền Lê, Lý, Trần, Lê sơ…đã giảng hòa, chịu cống nạp
để tái lập mối quan hệ hòa bình với đại quốc Trung Hoa. Đây là lối ứng xử
ngoại giao mà triều đại nào trong lịch sử Việt Nam cũng áp dụng trong quan
hệ với Trung Hoa láng giềng và triều Nguyễn cũng không là ngoại lệ.
Trong quan hệ với Trung Quốc từ xưa, ông cha ta luôn tỏ ra “biết mình,
biết người”. Cuối thế kỷ XVIII, Quang Trung – Nguyễn Huệ sau chiến thắng
quân Thanh, đã thi hành một chính sách ngoại giao thời hậu chiến trên cơ sở
nhận thức đúng đắn vị thế của Việt Nam: “Về phía Bắc thì nước ta hăng hái
chống cự không để cho nước Tàu chinh phục, nhưng vẫn biết phận mình nhỏ
yếu nên đời vua nào cũng chịu xưng thần” [1, tr.37]. Câu nói đó của Quang

16



Trung một lần nữa minh chứng cho đường lối ngoại giao mềm dẻo, nhún
nhường, đầy linh hoạt của nước ta. Đường lối ngoại giao hòa bình đó sẽ được
triều Nguyễn kế thừa và phát huy, nhằm duy trì mối quan hệ giao hảo giữa hai
nước Việt – Trung.
Đặc biệt, ra đời trong bối cảnh khi chưa khẳng định được quyền lực và
tính chính thống của mình bằng cuộc chiến đấu chống ngoại xâm như nhiều
vương triều trước đó, nhất là nhân dân Bắc Hà và các sĩ phu đang một lòng
hướng về nhà Lê, thì việc duy trì hoạt động cầu phong, triều cống và lễ sính với
Trung Hoa lại càng trở nên hết sức cần thiết. Trên thực tế, tầng lớp sĩ phu và
quan lại chỉ coi Vua là chính thống khi Vua được Hoàng đế Trung Hoa phong
vương. Một khi Trung Quốc công nhận vua Nguyễn cũng có nghĩa là trên thực
tế nhà Lê không còn tồn tại, và triều Nguyễn đã xác lập được quyền lợi cũng
như vị trí của mình một cách chính thức trong quan hệ quốc tế. Hơn thế, sự
thừa nhận một ông vua và phong vương cho ông vua đó cũng là một cam kết
đảm bảo an ninh, duy trì quan hệ hòa hiếu giữa đôi bên [39, tr.25 - 26].
Như vậy, truyền thống ngoại giao hòa bình, mềm dẻo của cha ông ta
trong lịch sử quan hệ với Trung Hoa đã trở thành nhân tố quan trọng tác động
không nhỏ đến đường lối ngoại giao của vương triều Nguyễn trong nửa đầu
thế kỷ XIX. Những bài học kinh nghiệm trong quá khứ sẽ là hành trang lịch
sử vô giá cho vương triều phong kiến cuối cùng này.
1.2.2. Đặc điểm địa lý
Ngay từ khi lập nước, tổ tiên ta đã có quan hệ ngoại giao với các nước lân
bang, trong đó trước hết là với Trung Hoa. Mối quan hệ này trước tiên phản ánh
đường lối ngoại giao mang tính bắt buộc do hoàn cảnh địa lý đặc thù của hai
quốc gia quy định. Vị trí địa lý đặc biệt của Việt Nam là một nhân tố góp phần
hình thành nên đường lối ngoại giao của triều Nguyễn đối với Trung Quốc.
Nhìn địa đồ lúc bấy giờ chúng ta thấy rõ đất nước ta nằm trên bán đảo
Đông Phương, phía Bắc giáp Trung Quốc, phía Đông giáp biển Đông, phía


17


×