Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Canxi hidroxit trong thực hành lâm sàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.18 KB, 14 trang )

Calcium hydroxide
Năm 1920 Hemanm dùng Calcium hydroxide để che tủy trực tiếp, gián tiếp, kích thích
đóng chóp, kích thích sự hình thành chân răng, điều trị tiêu ngót chận răng, thủng chân
răng, gãy chân răng, cắm răng lại, băng thuốc trong nội nha... Mặc dù được dùng nhiều
mục đích khác nhau nhưng cơ chế hoạt động vẫn chưa rõ ràng. Giả thiết do độ pH cao
nên Calcium hydroxide có tính diệt khuẩn và kích tích sự tạo cầu ngà.
A. Đại cương
I. Đặc tính của Calcium hydroxide
Calcium hydroxide là bột không màu không mùi, màu trắng, khối lượng phân tử 74.08,
hoà tan trong nước ít (1.2g/lít ở 25oC) độ hoà tan tăng khi nhiệt độ tăng, không hoà
tan trong alcohol, dung môi có độ pH từ 12.5 đến 12.8. Tính hoà tan thấp là đặc tính
tốt trong lâm sàng nó giúp Calcium hydroxide tồn tại lâu ít bị hoà tan trong dịch mô.
Về sinh học nó là chất kiềm mạnh tác dụng lên mô sống làm phân huỷ mô cứng và diệt
khuẩn. Theo Rehman và cộng sự, Calcium hydroxide bị thủy phân thành ions Ca2+ và
ions OH–, ions OH– quyết định tính kiềm của Calcium hydroxide và khả năng diệt
khuẩn.
Ca(OH)2 ↔ Ca2+ + 2 OH–
Wang và Hume đã đo sự khuyếch tán của OH– vào ngà răng giữa một xoang mặt nhai
và một buồng tủy chứa nước muối sinh lý bằng máy đo độ pH trong 16 ngày. Sau khi
lấy ngà răng ở nhiều độ sâu cho thấy lượng OH– này khuếch tán chậm và ngà răng
cũng có khả năng trung hoà OH–. Tronstad và cộng sự quan sát ở răng khỉ đã băng
thuốc cho thấy nồng độ OH– ở ngà lớp trong cao hơn ở lớp ngoài, pH của cementum
thì không đổi nhưng những nơi không có cementum bao phủ độ pH sẽ cao hơn. Fuss và
cộng sự đo sự thay đổi pH của dịch quanh những răng được điều trị với Calcium
hydroxide trong 10 ngày và nhận thấy có sự thay đổi rất ít. Nerwich nhận thấy sự
khuyếch tán OH– ở vùng cổ răng khuyếch tán nhanh hơn ở vùng chóp.
Sự khuyếch tán này được giải thích do ngà có tính thấm, do tương tác của ngà và các
ions OH–. Tính thấm của ngà răng dựa vào giải phẫu, mật độ, chiều dài, kích thước và
dịch ngà (lượng dịch và điện tích của dịch ngà), ions OH– cũng chịu ảnh hưởng lớn tính
trung hoà, tính hấp thụ và điện tích của ngà răng.


/>
Người chia sẻ:Bàn Chải Đánh Răng


Sự khuyếch tán của ions OH– vào ngà răng khởi đầu là sự khuyếch tán vào ngà quanh
tủy, lúc này tính thấm của ngà là yếu tố chính do khối lượng ngà không đủ để trung
hoà hay hấp thu ions OH–. Khi ions OH– tiếp tục xuyên qua ngà răng thì kích thước ống
ngà giảm, khi đó đặc tính trung hoà là chủ yếu vì khối lượng ngà tăng lên. Ions OH–
phải vượt qua các ảnh hưởng này trước khi tiếp tục khuếch tán. Cuối cùng sau 2-3 tuần
toàn bộ chiều dày của lớp ngà được bão hoà bởi ions OH– (Điều này được chứng minh
khi độ pH lớp ngà ở bề mặt tăng lên) lúc này tính thấm của ngà răng quyết định sự
khuyếch tán của ions OH–.
II. Chuẩn bị Calcium hydroxide
Calcium hydroxide dạng bột được trộn với chất chuyên chở thích hợp sẽ cho ra dạng
paste, paste này có tính kiềm cao. Khi dùng trong nội nha người ta cho thêm vào chất
cản quang hoặc chất khác để cải tiến tính chất hoặc cho vào chất có tính kháng khuẩn.
Theo Estrela và Pesce, chất chuyên chở có một mối liên quan trực tiếp đến nồng độ và
tốc độ phóng thích ions cũng như mức độ kháng khuẩn của paste khi đặt vào vùng
nhiễm khuẩn. Barbosa và cộng sự nhận thấy khi thêm chất làm tăng sức căng bề mặt
vào dung dịch Calcium hydroxide bão hòa sẽ cải thiện tính sát khuẩn và tác động làm
sạch. Ozcelik và cộng sự so sánh sức căng bề mặt khi cho Calcium hydroxide với các
chất chuyên chở khác, kết luận sức căng bề mặt sẽ thấp nhất khi dùng dung dịch thuốc
tê và cao nhất khi dùng nước muối và dung dịch Ringer.
Chọn lựa chất chuyên chở thích hợp rất quan trọng. Stamos và cộng sự kết luận khi cho
Calcium hydroxide vào chất chuyên chở thì sẽ xảy ra phản ứng hoá học làm giảm độ
pH. Sự thay đổi độ pH sẽ thay đổi đặc tính điều trị. Khi trộn Calcium hydroxide với
lidocaine, mepivacaine, nước muối thì độ pH của nó là như nhau.
Nhìn chung thì có 3 nhóm chất chuyên chở được dùng ở 3 dạng là nhờn, nhầy và dầu:
•Nhóm nhờn thì chất chuyên chở chủ yếu là nước, nước muối, thuốc tê (có hay không
có chất co mạch) và dung dịch Ringer. Loại nhờn có độ hoà tan cao khi tiếp xúc với mô

hoặc dịch mô nó sẽ bị hoà tan rất nhanh và bị hấp thu bởi đại thực bào.
• Nhóm nhầy thì chất chuyên chở cơ bản vẫn là nước nhưng sự phóng thích ions OH–
sẽ chậm hơn do đó sẽ có tác động kéo dài hơn, nhóm này khó tan hơn nhóm nhờn. Các
chất chuyên chở khác dùng cho nhóm nhầy là polyethy glycerin và propylen.
•Nhóm dầu không hoà tan trong nước vì nó là chất dầu nên tính hoà tan và khả năng
phân tán của paste vào mô là thấp nhất, các chất chuyên chở là dầu oliu, dầu silicone,
camphor, metacresyl acetate.
/>
Người chia sẻ:Bàn Chải Đánh Răng


Những tình huống lâm sàng yêu cầu sự phóng thích nhanh ions OH– thì ta cần dùng
chất chuyên chở dạng nhờn, từ từ và đồng nhất ta dùng chất chuyên chở dạng nhầy.
Dạng dầu hạn chế sử dụng, chỉ dùng khi cần sự phóng thích ions OH– rất chậm.
B. Ứng dụng của Cacium hydroxide
I. Dùng Calcium hydroxide làm chất băng thuốc nội nha
Vi khuẩn và sản phẩm của nó được xem là nguyên nhân chính gây ra bệnh lý tuỷ và
quanh chóp. Mục đích của điều trị nội nha hiện đại ở những răng bị viêm quanh chóp là
loại bỏ hoàn toàn vi khuẩn trong ống tuỷ. Các dữ liệu cho thấy khi chỉ dùng dụng cụ cơ
học thì không thể loại trừ hết vi khuẩn và các sản phẩm của vi khuẩn.
Calcium hydroxide được coi là chất băng ống tuỷ hiệu quả nhưng tính chất này không
được ổn định lắm. Khi tiếp xúc với Calcium hydroxide có rất ít vi sinh vật mà có thể tồn
tại nhưng một số yếu tố có thể ảnh hưởng đến khả năng kháng khuẩn của Calcium
hydroxide chẳng hạn như giải phẩu phức tạp của ống tủy cản trở việc nhồi đặc Calcium
hydroxide trong ống tuỷ.

1. Tác động kháng khuẩn của Calcium hydroxide
Hầu hết vi khuẩn trong bệnh lý tủy không thể sống được trong môi trường kiềm tính
cao của Calcium hydroxide. Bystrom và cộng sự ghi nhận sau một thời gian ngắn tiếp
xúc trực tiếp với Calcium hydroxide sẽ thấy một số ống tủy loại trừ được vi khuẩn. Do

ions OH– có những gốc phóng thích ra oxidant cao, các gốc này có thể phản ứng với
các phân tử sinh học. Tác động này mạnh và không phân biệt được vì hiếm khi nó phân
tán ra khỏi nơi tạo ra nó. Hiệu quả gây chết của nó tác động chủ yếu lên vi khuẩn theo
3 cơ chế sau:

a. Làm tổn hại màng tế bào chất của vi khuẩn:
Màng tế bào chất của vi khuẩn có chức năng quan trọng đối với vi khuẩn như tính thấm
chọn lọc, sự chuyên chở các dung dịch, các điện tử và sự photpho hoá ở những loài
hiếu khí. Sự tiết ra diếu tố thủy giải, diếu tố và phân tử chuyên chở có chức này trong
sự sinh tổng hợp DNA, polymer màng tế bào, lipit của màng, receptor, protein hoá
/>
Người chia sẻ:Bàn Chải Đánh Răng


hướng đông và những hệ thống dẫn truyền thần kinh.
Ions OH– sẽ gây nên sự perosit lypit dẩn đến sự phá hủy thành phần phospho lypit của
màng tế bào. Các ions OH– sẽ loại bỏ hidro nguyên tử ra khỏi axit béo chưa bão hoà và
tạo ra những gốc không có lypit. Những gốc không có lypit phản ứng với oxi tạo ra
những gốc peroxide lypit. Những gốc này sẽ tiếp tục loại bỏ hidro nguyên tử ra khỏi
axit béo thứ 2 và tạo ra peroxide lypit khác. Do đó peroxide lypit tự nó sẽ tác động như
một gốc tự do, khởi đầu cho một chuỗi phản ứng biến dưỡng gây ra sự mất những axit
béo chưa bão hoà kết quả là sự tổn thương cho màng tế bào.

b. Biến tính protein
Sự biến dưỡng tế bào chủ yếu dựa vào sự hoạt động của nhiều các diếu tố, các diếu tố
này có hoạt động tối ưu và ổn định trong một giới hạn của độ pH, giới hạn này xoay
chung quanh nồng độ pH trung tính. Sự kiềm hoá của Calcium hydroxide sẽ gây ra sự
phá hủy các mối nối ions, mà các mối nối ions giữ vai trò duy trì cấu trúc bậc 3 của
protein. Những thay đổi này một cách thường xuyên sẽ làm mất hoạt động sinh học
của các diếu tố do đó là mất đi sự biến dưỡng của tế bào.


c. Tổn hại DNA
Ions OH– sẽ tác động lên DNA của vi khuẩn gây ra sự cắt đứt cấu trúc xoắn kép, sự
sao chép DNA bị ngăn chặn và hoạt động của tế bào bị xáo trộn. Các gốc tự do sẽ gây
nên những đột biến chết tế bào.
Một cơ chế khác giải thích tác động kháng khuẩn của Calcium hydroxide là do khả năng
hấp thu CO2 trong ống tủy, CO2 này là chất cần thiết cho vi khuẩn, ví dụ
Fusobacterium, Bacteroides, Porphyromonas và Streptococcus. Nếu ions OH– hấp thụ
CO2 thì những vi khuẩn lệ thuộc CO2 không thể tồn tại, vì vậy việc sử dụng Calcium
hydroxide băng thuốc ống tủy sẽ làm xáo trộn mối tương quan qua lại về dinh dưỡng
của các vi khuẩn với nhau. Nó sẽ loại bỏ một số loại vi khuẩn mà sự tồn tại của những
vi khuẩn này là cần thiết cho sự tăng trưởng của một số loại vi khuẩn khác. Và nó sẽ để
lại một số loại vi khuẩn mà sự tồn tại của những vi khuẩn này kìm hãm sự tăng trưởng
của một số loại vi khuẩn khác.

/>
Người chia sẻ:Bàn Chải Đánh Răng


Bystrom và cộng sự trong một nghiên cứu lâm sàng nhận thấy các ống tủy điều trị với
Calcium hydroxide sẽ có ít vi khuẩn hơn với CMCP hoặc CP là do Calcium hydroxide có
thể nhồi vào tủy chân răng và các ions OH– có thể phóng thích trong một thời gian dài.
Stenvens và Grossman cũng nhận thấy Calcium hydroxide có hiệu quả trong ngăn ngừa
sự tăng trưởng của vi sinh vật nhưng ở một mức độ hạn chế so với CMCP và nhấn
mạnh việc cần thiết phải tiếp xúc trực tiếp để có được sự diệt khuẩn.
Calcium hydroxide phát huy tác dụng kháng khuẩn trong ống tủy mạnh khi pH cao
được duy trì. Khi sử dụng Calcium hydroxide như một chất băng ống tủy thì ions OH–
phải cần được phân tán xuyên qua ngà răng và những phần mô tủy còn sót. Các
nghiên cứu đã chứng minh các ions OH– từ Calcium hydroxide sẽ phân tán qua ngà
chân răng.

Bên cạnh các nghiên cứu đầy khả quan đó thì một số nghiên cứu cho kết quả ngược lại.
DiFione nhận thấy ions OH– không có tác động kháng khuẩn ở dạng paste hoặc ở
những dạng làm sẵn, chẳng hạn Pulpdent không có tác dụng khi dùng điều trị vi khuẩn
S. Sanguis. Siqueira và cộng sự cũng cho kết quả tương tự. Haapasalo và Orstavik báo
cáo rằng Calcium hydroxide dạng paste (Calasept) không loại bỏ vi khuẩn trong ống
ngà dù là phần nông của ống ngà. Safavi và cộng sự nhận thấy E. Faecium vẫn sống
trong ống ngà bằng hỗn hợp Calcium hydroxide và nước muối. Haapasalo và Orstavik
nhận thấy Calcium hydroxide cần đến 10 ngày để vô trùng ống ngà bị nhiễm khuẩn.
Siqueira và Uzeda nhận thấy Calcium hydroxide không hiệu quả trong việc loại bỏ vi
khuẩn E. Feacalis và F. Nucleatum sau một tuần tiếp xúc.
Một số yếu tố giải thích tính không hiệu quả trong việc loại bỏ vi khuẩn trong ống ngà
là:
•Ngà răng có tính đệm là do sự hiện diện các chất cung cấp proton như H2PO4-,
H2CO3- và HCO3- nằm trong lớp hydroxyapatite ngậm nước để giúp cho pH không thay
đổi.
•Sự sắp xếp của những tế bào vi khuẩn đóng khúm trong thành ống tủy cũng có thể
làm giảm tác động kháng khuẩn của ions OH– vì những tế bào ở ngoại biên của khúm
sẽ che chở cho những tế bào nằm ở sâu trong ống ngà.
•Sự phân nhánh, những eo và sự gồ ghề của ống tủy phụ cũng góp phần bảo vệ vi
khuẩn khỏi tác động của OH–.
Một trong những khiếm khuyết của Calcium hydroxide là không có khả năng diệt vi
khuẩn Enterococcus hiệu quả. Những vi khuẩn này hiện diện trong những ống tủy chân
răng điều trị thất bại. F. Faecalis kháng với những loại băng thuốc kể cả Calcium
hydroxide. Evans và cộng sự nhận thấy loại vi khuẩn này kháng với Calcium hydroxide
/>
Người chia sẻ:Bàn Chải Đánh Răng


có pH 11.1 nhưng không kháng ở pH 11.5. Việc điều trị trước với Calcium hydroxide có
pH 10.3 dẫn đến sự thích nghi của vi khuẩn này khi tiếp xúc với Calcium hydroxide có

pH 11.5 sau đó. Các tế bào E. Faecalis vẫn tồn tại khi sự tổng hợp protein bị ngăn chặn
do tiếp xúc với Calcium hydroxide. Tuy nhiên việc thêm vào những chất ngăn cản
những bơm proton như CCCP thì nó làm giảm đáng kể sự sống của E. Faecalis trong
Calcium hydroxide. Nói cách khác người ta kết luận sự sống của E. Faecalis trong
Calcium hydroxide không liên quan với sự tổng hợp protein nhưng sự bơm proton chức
năng thì quan trọng cho sự sống còn của E. Faecalis trong môi trường pH cao.
Thời gian cần thiết để Calcium hydroxide vô khuẩn ống ngà đến nay vẫn chưa được
biết. Những nghiên cứu lâm sàng cho những kết quả khác nhau thậm chí là ngược
nhau. Bystrom và cộng sự chứng minh rằng Calcium hydroxide loại bỏ một cách hiệu
quả các vi sinh vật khi đặt thuốc 4 tuần. Reit và Dahlen thấy sự nhiễm trùng vẫn tồn tại
trong 26% ống tủy sau 2 tuần băng thuốc với Calcium hydroxide. Sjogren và cộng sự
nhận thấy băng thuốc với Calcium hydroxide 1 tuần thì loại bỏ vi khuẩn trong ống tủy
trong 100% trường hợp. Barbosa và cộng sự nhận thấy 26,7% trường hợp băng thuốc
với Calcium hydroxide trong 1 tuần cho kết quả nuôi cấy dương tính. Những khác biệt
trong kết quả trình bày có thể do phương pháp nghiên cứu, ví dụ cỡ mẫu quá nhỏ.

2. Tác động khử nội độc tố vi khuẩn
Mô tủy nhiễm khuẩn chứa nhiều yếu tố sinh học bao gồm các tế bào viêm, mô hoại tử
và vi khuẩn. Sự hiện diện của vi khuẩn đưa đến hình thành những chất thải của quá
trình trao đổi chất và những thành phần của tế bào vi khuẩn chết như là nội độc tố.
Schein và Schilder ghi nhận rằng tủy hoại tử có lượng nội độc tố gia tăng. Schonfeld đã
chứng minh nội độc tố trong các sang thương quanh chóp có tương quan mật thiết với
u hạt.
Nội độc tố, hay nói chính xác hơn là PS là 1 thành phần vỏ tế bào vi khuẩn Gr (-).
Phân tử lớn này là chất trung gian của quá trình viêm sẽ được kích hoạt sau khi tế bào
vi khuẩn chết đi. Theo Olenchock, những tế bào vi khuẩn Gr (-) này c n có thể bị thực
bào bởi đại thực bào và phóng thích nội độc tố có độc tính cao hơn.
Theo Safavi, LPS kích thích tạo ra prostaglandins, leukotrienes, yếu tố kích hoạt tiểu
cầu, bổ thể 3a và 5a, interleukin-1 và các chất khác, sự kích hoạt những chất trung
gian này gây ra phản ứng viêm và hình thành mô hạt viêm. LPS giữ vai trò chính trong

quá trình tiêu xương quanh chóp do PS thông qua lipit A kích thích những tế bào miễn
/>
Người chia sẻ:Bàn Chải Đánh Răng


dịch tiết ra những chất trung gian hấp thụ xương như prostaglandin E2... Các tác giả
Safavi và Nichols, Barthel và cộng sự, Olsen và cộng sự đều nhận thấy sử dụng Calcium
hydroxide trong 1 tuần có thể khử được nội độc tố vi khuẩn nhờ sự thủy phân mối nối
ester trong chuỗi lipid A phóng thích ra những axit béo tự do, những axit béo này
không có độc tính.
II. Đóng chóp chân răng (apexification)
Được định nghĩa là sự tạo lên một môi trường mà trong đó các mô của ống tủy và vùng
quanh chóp sau khi tủy chết có thể tạo được một hàng rào vôi hoá ở đỉnh chóp. Hàng
rào vôi hoá này cấu tạo bởi cementum, xương, mô tương tự xương. Việc tạo ra môi
trường này bao gồm việc làm sạch và tạo hình ống tủy để loại bỏ mảnh vụn và vi
khuẩn, sau đó đặt vật liệu kích thích đóng chóp vào ống tủy đến tận chóp răng. Paste
Calcium hydroxide thuần túy là vật liệu hữu hiệu, việc thêm những thuốc khác vào
Calcium hydroxide sẽ không cho hiệu quả đóng chóp.
Trong quá khứ người ta cũng cố gắng thực hiện việc đóng chóp chân răng nhưng kỹ
thuật này được nói nhiều hơn sau khi Frank trình bày 3 trường hợp làm sạch, rửa và
đặt paste CPC và calcium hidroxide. Chụp film X quang 3 tháng, 6 tháng sau thấy có
một hàng rào ở chóp chân răng. Mặc dù vậy thì sự đóng chóp chân răng vẫn xảy ra với
nhiều vật liệu thậm chí ngay cả khi chỉ đơn thuần là làm sạch ống tủy.
Theo Kleier and Barr thì thời gian để đóng chóp là 6 đến 24 tháng (Trung bình là 1 năm
± 7 tháng). Tuy nhiên có trường hợp cần đến 4 năm để đóng chóp hoàn toàn. Y văn
không thống nhất với nhau về quãng thời gian để có sự đóng chóp chân răng. Theo
Tronstad và cộng sự thì cứ mỗi 3 đến 6 tháng thì đặt Calcium hydroxide lại là tốt nhất.
Một số nhà nghiên cứu khác cho rằng chỉ cần đặt lại sau khi có sự tiêu của paste.
Chosack nhận thấy sau khi đặt Calcium hydroxide thì việc lặp lại hằng tháng, 3 tháng
hay trong 6 tháng thì cũng không khác nhau. Trong thời gian chờ đợi đóng chóp nếu có

một sự nhiễm trùng hay dấu hiệu của sự tái nhiễm khuẩn thì cần làm sạch và trám lại
với paste Calcium hydroxide. Nếu sự đóng chóp không hoàn toàn thì tiếp tục nhồi
Calcium hydroxide và tái khám định kỳ.
Theo Grossman những trường hợp mô tủy vùng chóp còn sót lại không bị tổn hại nếu
có lớp tế bào tạo ngà bào đi kèm thì nó có khả năng hoạt động trở lại, hình thành chất
căn bản và sự khoáng hóa với sự điều khiển bởi biểu mô Hertwigis do đó chân răng có
thể tiếp tục hình thành chóp. Pitt Ford cho rằng sự hình thành chóp sẽ phụ thuộc vào
mức độ hoại tử ban đầu, tủy buồng có thể chết hoặc bị viêm không hồi phục nhưng cần
thiết là vùng tủy cận chóp còn lành mạnh (vùng tủy cận chóp khi chưa đóng chóp giàu
/>
Người chia sẻ:Bàn Chải Đánh Răng


mạch máu nên có thể duy trì sự lành mạnh dù tủy buồng có thể đã hoại tử), nếu có
hoại tử hay hình thành apxe ở vùng quanh chóp thì biểu mô Hertwigis có thể đã bị phá
huỷ hoàn toàn.
III. Hình thành chóp chân răng (Apexogenesis)
Sự hình thành chóp chân răng được định nghĩa là khi điều trị một trường hợp tủy sống
ở một răng chưa trưởng thành vẫn cho phép sự tăng trưởng chân răng tiếp tục và đóng
chóp chân răng. Các kỹ thuật điều trị để hình thành chóp chân răng bao gồm lấy tủy
buồng một phần và lấy tủy buồng toàn bộ. Calcium hydroxide là vật liệu dùng trong lấy
tủy buồng hữu hiệu mặc dù có độ kiềm tính cao, các loại hợp chất khác như amonium
hidroxide cũng có tính kiềm nhưng sẽ gây ra hoại tử hoá lỏng khi đặt trực tiếp lên mô
tủy.
Ions Ca2+ của Calcium hidroxide không tham gia vào quá trình hình thành cầu ngà.
Theo Sciaky và Pisanti thì ions Ca2+ trong quá trình hình thành cầu ngà được hệ tuần
hoàn đem đến. Người ta dùng phương pháp đánh dấu bằng đồng vị phóng xạ để xác
định việc trên.
Theo Schroder và Granath, cơ chế dẫn đến sự hình thành cầu ngà bên dưới Calcium
hydroxide có thể do Calcium hydroxide gây ra một sự hoại tử đông đặc trên bề mặt mô

tuỷ. Sự hoại tử đông đặc được khởi đầu bằng sự tổn hại các mạch máu do Calcium
hydroxide gây ra trên các mao mạch gần nơi tiếp xúc. Độ pH cao của Calcium
hydroxide duy trì được tình trạng kiềm tính và tình trạng này cần cho sự hình thành
ngà. Các tế bào bên dưới vùng hoại tử đông đặc có sự bão hoà ions Ca2+ và phân hóa
thành những tế bào tương tự tạo ngà bào. Schroder và Granath quan sát cấu trúc bề
mặt của cầu ngà quay về phía cổ răng bằng kính hiển vi điện tử quét và kính hiển vi
quang học nhận thấy có lỗ mở của những ống ngà và bao quanh là những bó sợi
collagen tương tự những gì ta thấy ở chất tiền ngà.
Seltzer và Bender cho rằng Calcium hydroxide sử dụng che tủy hay dùng trong lấy tủy
buồng thì có 2 tác dụng phụ.
•Gây ra sự khoáng hóa trong ống tủy và cản trở việc nội nha sau đó.
•Có hiện tượng viêm mạn tính dẫn đến khả năng bị nội tiêu.
IV. Sử dụng Calcium hydroxide trong tiêu ngót chân răng
Sự tiêu ngót chân răng được xác định khi có sự tiêu ở cementum hoặc/ và ngà răng,
dựa trên vị trí và sự tiêu ngót người ta chia thành nội tiêu hay ngoại tiêu.
/>
Người chia sẻ:Bàn Chải Đánh Răng


Calcium hydroxide có ảnh hưởng đến vùng tiêu ngót bằng cách làm giảm hoạt động
hủy xương và kích thích sự sửa chữa, tác dụng này do tính kiềm và khả năng thẩm
thấu của Calcium hidroxide. Trong quá trình tiêu ngót, hoạt động của các diếu tố hủy
xương diễn ra trong môi trường axit, Calcium hydroxide tạo ra môi trường kiềm trung
hoà tác dụng này và gây ra sự lắng đọng của mô cứng.
Frank và Weine báo cáo sử dụng Calcium hydroxide kết hợp với CMCP điều trị nội tiêu,
nhận thấy có sự hình thành những mô tương tự cementum và xương ở những vùng bị
khiếm khuyết. Sau khi đặt paste Calcium hydroxide vào những vùng bị tiêu ngót thì ở
lần hẹn tiếp theo Calcium hydroxide làm hoại tử tất cả những mô tủy còn sót lại trong
các khe rãnh của phần nội tiêu. Phần hoại tử sẽ được lấy đi bằng cách bơm rửa với
NaOCl.

Theo Chivian Calcium hydroxide nên đặt vào vùng tiêu ngót mỗi 3 tháng cho đến khi sự
tiêu ngót chấm dứt. Cvek cho rằng sự ngoại tiêu liên quan đến mô tủy hoại tử, muốn
chấm dứt cần làm sạch và sát trùng ống tủy. Khi ngoại tiêu là do chấn thương khớp cắn
cũng cần phải lấy tủy, điều trị bằng Calcium hydroxide và giải quết các vấn đề về khớp
căn. Sau khi điều trị chỉnh nha nếu sự ngoại tiêu vẫn diễn ra tiếp tục ở giai đoạn chỉnh
hình duy trì ta cần phải lấy tủy và điều trị với Calcium hidroxide. Andreasen đã điều trị
thành công sự tiêu ngót chân răng do viêm ở 9 trong 10 trường hợp với Calcium
hydroxide.
V. Điều trị răng bị rơi ra
Những răng bị rơi ra có chóp răng đóng và thời gian ở ngoài miệng trên 1 giờ, cần điều
trị nội nha trước khi cắm lại hoặc sau khi cắm lại 1 tuần đến 10 ngày. Theo Trope trong
một số trường hợp nếu việc nội nha bị trì hoẵn quá lâu hoặc có tiêu ngót thì việc điều
trị sẽ là Calcium hydroxide lâu dài trước khi trán bít. Ông nhấn mạnh việc bắt đầu nội
nha tối đa là 7 đến10 ngày sau khi cấp cứu. Ích lợi của việc dùng Calcium hydroxide lâu
dài là giúp đặt một chất trám bít tạm thời cho đến khi hồi phục lại các dây chằng nha
chu. Theo Cvek, việc thay thuốc mỗi 3 tháng và kéo dài từ 6 đến 24 tháng thì cho kết
quả thành công cao.
Hai nghiên cứu của Hammarstrom cùng cộng sự và Lengheden cùng cộng sự cảnh báo
việc dùng Calcium hydroxide ở răng bị rơi ra có bề mặt chân răng bị tổn thương là
chống chỉ định vì nguy cơ gây hoại tử những tế bào nằm trên bề mặt chân răng.
VI. Che tủy gián tiếp
/>
Người chia sẻ:Bàn Chải Đánh Răng


Che tủy gián tiếp là kỹ thuật giúp bảo vệ tuỷ ở những răng sâu mà không có biểu hiện
lâm sàng của tổn thương tuỷ. Mục đích chính là làm ngưng quá trình sâu răng bằng
cách kích thích sự khoáng hoá ngà, tái khoáng hoá ngà sâu, sát khuẩn, cũng như duy
trì sự sống của tủy. Có nhiều vật liệu và thuốc được sử dụng làm chất che tủy và
Calcium hydroxide là chất lý tưởng nhưng chỉ nên sử dụng trong những trường hợp có

chỉ định và sử dụng với một lớp mỏng và khu trú ngay vùng ngà sát tủy.
Dạng paste với dung môi là nước hay methylcellulose hiện nay không còn dùng làm
chất che tủy vì độ chịu nén thấp, bị hòa tan, cách sử dụng khó khăn và ảnh hưởng
nghiêm trọng đến chất lượng miếng trám. Dạng đông cứng được sử dụng phổ biến vì
có tính chất vật lý tốt như khả năng chịu lực nén, ít bị hòa tan, bám dính với mô ngà
(lực bám dính vẫn còn thấp), thuận lợi trong cách sử dụng... Dạng đông cứng có thể là
hóa trùng hợp như Dycal, ife... hay quang trùng hợp như Prisma V C Dycal, yca...
VII. Che tủy trực tiếp
Che tủy trực tiếp bao gồm việc đặt một vật liệu lên tủy nhằm cố gắng duy trì sự sống
của tủy bị lộ. Một số vật liệu được sử dụng làm chất che tủy nhưng Calcium hydroxide
vẫn là vật liệu chuẩn. Theo Meadow nếu đặt Calcium hydroxide thuần túy sẽ làm hoại
tử 1,5mm mô tủy. Theo Schroder nếu pH 12,5 sẽ gây hoại tử hoá lỏng của lớp tủy gần
nhất và độc tính của Calcium hydroxide sẽ nhanh chóng bị trung hoà khi tiếp xúc với
lớp sâu bên dưới dẫn đến hoại tử đông đặc. Mô hoại tử đông đặc sẽ gây ra một kích
thích nhẹ cho mô tủy bên dưới. Sự kích thích nhẹ này khởi đầu cho một phản ứng viêm
và trong trường hợp không có vi khuẩn thì nó sẽ hình thành một hàng rào mô cứng.
Stanley và Lundy cho rằng Calcium hydroxide loại đông cứng không làm hoại tử lớp
nông mô tủy, việc tạo ra hàng rào mô cứng chỉ có ở Calcium hydroxide thuần túy.
Stanley và cộng sự cho rằng Dycal gây ra sự ướp tủy 0,3 đến 0,7mm, còn loại Prisma
VLC Dycal không gây ra phản ứng viêm. Life và Dycal sẽ bị hoà tan trong khoảng1 đến
2 năm về mặt lâm sàng và đa số cầu ngà bên dưới vật liệu che tủy có các đường hầm
do đó buồng tủy sẽ nhiễm trùng hay hoại tử khi miếng trám có những vi lậu. Một vấn
đề khác nữa là Dycal và Life sẽ bị phân hủy bởi sự soi mòn và rửa khi trám. Với các sản
phẩm mới như Prisma V C Dycal, yca thì Calcium hydroxide sẽ kết hợp với urethane
dimethacrylate bằng cách này nó kết dính với ngà, kháng lại sự soi mòn và rửa.
C. Phản ứng ngoại ý và các ngộ nhận
I. Tăng nguy cơ nứt gẫy chân răng
/>
Người chia sẻ:Bàn Chải Đánh Răng



Cvek tiến hành nghiên cứu với 32 răng cừu chưa đóng chóp chia làm 4 nhóm. Nhóm A
đặt vào nước muối trong 100 ngày ở 6oC, nhóm B đặt calcium hydroxide vào vùng
chóp và trám bít với IRM, nhóm C đặt MTA vào vùng chóp và trám bít với IRM, nhóm D
đặt calcium hydroxide vào vùng chóp sau 30 ngày thay bằng MTA và trám bít với IRM.
Sau 100 ngày tất cả các răng được cố định bằng thạch cao và người ta đo độ gãy ở
răng cửa với máy Inotron ghi nhận kết quả nhóm C > D > A >B. Theo kết quả này
những răng được nội nha mà chưa đóng chóp thì tỉ lệ gãy ở vùng cổ răng cao (> 60%).
Nếu thời gian tiếp xúc với calcium hydroxide dưới 30 ngày thì mức độ ảnh hưởng không
đáng kể và nếu tiếp xúc nhiều hơn thì sẽ làm yếu cấu trúc ngà răng. Andreasen và
cộng sự nhận thấy những răng được bít với Ca(OH)2 thì lực chống nứt gãy giảm còn
một nửa sau 1 năm. Các nghiên cứu giải thích sự gãy ở những răng dùng calcium
hydroxide là do tính kiềm cao, tính kiềm cao này làm trung hoà, hoà tan những chất có
tính axit, mà những chất này có tác dụng như mối nối trong ngà răng.
II. Hiệu quả giảm đau
Một số giả thiết là Calcium hidroxide có tính kháng viêm nên giảm đau hay ions Ca2+
ngăn chặn dẫn truyền đau đều là những giả thiết không đúng với thực tế lâm sàng.
Walton so sánh 140 bệnh nhân chia làm 2 nhóm, một nhóm băng thuốc với Calcium
hidroxide và một nhóm chỉ đặt g n. ết quả cho thấy không có khác biệt về đau giữa 2
nhóm với bất kì giai đoạn nào, hay bất kì chẩn đoán hay triệu chứng nào. Ehrman so
sánh 223 răng chia làm 3 nhóm Nhóm 1 băng thuốc với edermix paste ( edermix là
1 băng thuốc ống tủy có hiệu quả kiểm soát đau sau điều trị tủy viêm quanh chóp cấp)
Nhóm 2 băng thuốc với calcium hydroxide paste (Calcipulpe, Septodont, France) và
Nhóm 3 không băng thuốc. ết luận là răng đau do viêm quanh chóp cấp được băng
thuốc bằng Ledermix sẽ giảm đau có ý nghĩa so với băng thuốc bằng Calcium hidroxide,
hay không băng thuốc. Theo Chance, Tính kháng khuẩn của Calcium hidroxide không
liên quan đến triệu chứng đau của bệnh nhân sau điều trị. Tỷ lệ bênh nhân đau sau khi
băng thuốc với Calcium hidroxide từ trung bình đến nhiều sau điều trị là 30%, nhưng
sau 48 giờ tỷ lệ giảm còn 8%.
Oral Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol Endod 2008;105:666-9).

"The direct toxic effects" là cụm từ được dùng để ám chỉ tác hại của Ca(OH)2 đủ thấy tính
nghiêm trọng của vấn đề. Và cũng từ lâu, các tác giả điều chỉ đích danh nguyên nhân gây
hoại tử mô là do độ pH của Ca(OH)2 quá cao (pH=12) làm kết tủa huyết tương gây nghẽn
mạch máu và hoại tử mô là hậu quả tiếp theo.
Xin xem minh họa dưới đây:

/>
Người chia sẻ:Bàn Chải Đánh Răng


Hoại tử một bên mặt sau khi bơm Ca(OH)2 vào ống tủy.

/>
Người chia sẻ:Bàn Chải Đánh Răng


Hoại tử sau khi bơm Ca(OH)2

Thêm một case nữa cũng Ca(OH)2 bơm vào ống tủy.

/>
Người chia sẻ:Bàn Chải Đánh Răng


Hình ảnh Ca(OH)2 khuyết tán trong động mạch sau khi bơm vào ống tủy.

/>
Người chia sẻ:Bàn Chải Đánh Răng




×