Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tổng hợp các chuyên đề môn tài chính công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.57 KB, 13 trang )

CHUYÊN ĐỀ 2: HIỆU QUẢ VÀ CÔNG BẰNG
Câu hỏi 1: Vận dụng vấn đề Thu - Chi của chính sách tài chính công trên mối quan hệ
giữa hiệu quả - công bằng:
1/ Cải cách tài chính để xây dựng một hệ thống y tế công bằng, hiệu quả và phát
triển:
+ Chính phủ đã phát hành trái phiếu để huy động thêm nguồn lực đầu tư cho y tế,
“hằng năm dùng NSNN chi cho sự nghiệp y tế trung bình hằng năm là 22% (2002-2006)”
trên tinh thần nghị quyết số 18 của Quốc Hội, năm 2007 có 36.8 triệu người tham gia
BHYT, chiếm 43% dân số.
+ Viện trợ nước ngoài cho y tế ngày càng tăng, hiện chiếm khoảng 8% NSNN chi
cho y tế được đầu tư đúng và góp phần quan trọng trong phát triển hệ thống y tế như tăng
cường hiệu quả viện trợ trên cơ sở cam kết Hà Nội và chương trình hành dộng Accra.
+ Xã hội hoá để huy động nguồn lực của xã hội đầu tư cho y tế, tiếp tục triển khai
cơ chế tự chủ tài chính cho các cơ sở y tế công lập, xây dựng cơ chế tài chính minh bạch,
rõ ràng.
+ Các dịch vụ chǎm sóc sức khoẻ ở nông thôn cần được tài trợ chủ yếu bằng nguồn
ngân sách của Chính phủ (lấy từ thuế) ở mức 75% tổng chi phí. Phần còn lại sẽ được bổ
sung từ sự đóng góp của cộng đồng, các loại hình bảo hiểm y tế (10%), viện trợ nước
ngoài (10%) và viện phí thu trực tiếp (5%). Trước mắt chưa thể giảm thu viện phí, nên
phải cố gắng tǎng ngân sách từ nguồn Trung ương.
+ Các dịch vụ chǎm sóc sức khoẻ ở thành thị cũng được lấy từ thuế - nhưng ít hơn,
ở mức 50 - 60% tổng chi phí. Nguyên nhân của việc thấp hơn là vì nguồn thu từ thuế của
Việt Nam có hạn, bảo hiểm y tết nguyện và bắt buộc có thể mở rộng ra từ 20 - 25% trong
tổng chi phí cho các dịch vụ y tế ở đô thị, viện phí là 10% và viện trợ nước ngoài là 5%.
2/ Đầu tư cho hệ thống giáo dục
Năm 2008, Bộ GD-ĐT ước chi cho giáo dục và đào tạo là 76.200 tỷ đồng, chiếm
20% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng 14,1% so với ước thực hiện năm 2007. Ưu tiên
đầu tư ngân sách bảo đảm giữ mức tỷ lệ 20% tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và
có thể tăng thêm lên đến 21%-22% đồng thời thực hiện có hiệu quả cơ chế tự chủ đối với
các cơ sở giáo dục công lập.
3/ Đảm bảo an sinh xã hội và xậy dựng hệ thống an ninh quốc phòng


Trước mắt, ưu tiên cho việc phát triển cơ sở hạ tầng cấp bách; ưu tiên tiêu thụ sắt
thép, chương trình nhà ở xã hội, nhà ở sinh viên, nhà ở khu công nghiệp, DN vừa và nhỏ.
Dùng 1tỷ USD để kích cầu tiêu dùng, ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng và tiêu dùng, tăng
chi có trọng điểm cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và những vùng khó khăn, nhất là
61 huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.
4/ Tạo việc làm , giảm tỷ lệ nghèo đói, nâng cao chất lượng cuộc sống.
kế hoạch năm 2009 tạo việc làm cho khoảng 1.7 triệu lao động, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống
12%.
5/ Xử lý ô nhiễm môi trường:


Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội năm 2009, trong đó xử lý ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng phải đạt 65% kế hoạch.
Câu hỏi 2: Đánh giá sự lựa chọn chính sách thu – chi của chính phủ Việt Nam? Xây
dựng Thu - Chi hợp lý.
1/ Đánh giá sự lựa chọn chính sách thu – chi của Chính phủ Việt Nam
THU:
- Dự kiến tổng thu ngân sách Nhà nước năm nay vượt 23,5% so với dự toán và tăng
26,3% so với kết quả thực hiện năm ngoái. thu ngân sách chứa đựng nhiều yếu tố đột biến,
không ổn định. Trong 76 nghìn tỷ đồng vượt dự toán, có tới 35,4 nghìn tỷ đồng từ chênh
lệch giá dầu thô bình quân dự kiến thực hiện xấp xỉ 105 USD. Thu từ xuất khẩu vượt
23.500 tỷ đồng và thu từ đất vượt 5.500 tỷ đồng so với dự toán đầu năm. Cả ba yếu tố này
đều rất bấp bênh, đặc biệt trong bối cảnh giá dầu thô tiếp tục giảm mạnh, xuất khẩu cũng
bị đe dọa khi thế giới đối mặt với nguy cơ suy thoái.
- Quy mô NSNN (tính cả dầu thô) hiện nay đạt trên 25% GDP. Đó là sự phụ thuộc
quá nặng nề của NSNN vào kinh tế đối ngoại, dầu thô, bán khoáng sản, nhượng quyền sử
dụng đất... Thống kê cho thấy, nếu không tính dầu thô thì mức thu NSNN chỉ đạt khoảng
17%-18%.
Đó là chưa kể cơ cấu thu NSNN vẫn còn bao gồm nguồn thu từ bán khoáng sản;
nhượng quyền sử dụng đất và thu nhập từ chứng khoán. Nếu bóc tách tất cả những phần

thu này ra thì sẽ còn rất xa mới đạt tỉ lệ 25% GDP. Cơ cấu thu, chi ngân sách vẫn chưa ổn
định, không có sự bền vững và còn nhiều điểm chưa hợp lý.
“Chỉ tính riêng trong lĩnh vực thu thuế đã có nhiều vấn đề chưa hợp lý. Hạn chế lớn
hiện nay là Nhà nước đã đưa quá nhiều chính sách xã hội vào lĩnh vực thuế. Đối tượng,
địa phương miễn thuế quá nhiều. Sự không tách bạch trong các chính sách trợ cấp xã hội
và chính sách thuế đã dẫn đến tình trạng nhiều địa phương, cá nhân lợi dụng điều này để
ưu đãi ngầm, không minh bạch và nảy sinh nhiều tiêu cực
- một số khoản thu lâu nay còn thiếu kiểm soát, như toàn bộ số tiền bán cổ phần của
Nhà nước sau khi trừ đi các khoản chi phí hợp lý trong quá trình cổ phần hóa. Các khoản
cổ tức Nhà nước đầu tư tại các doanh nghiệp ước tính tại thời điểm này hàng năm khoảng
từ 5000 đến 6000 tỷ đồng
CHI:
- Tốc độ tăng chi luôn có xu hướng lớn hơn tốc độ tăng thu. Tình trạng chi vượt dự
toán đã diễn ra trong nhiều năm liền.
Giai đoạn từ năm 2001-2007, Tốc độ tăng chi bình quân hằng năm đạt 18,5%. Bội
chi NSNN trong giai đoạn này về cơ bản đuợc cân đối ở mức 5% GDP và thực hiện ở mức
4,9%-5% GDP. Nếu chỉ xét ở tỷ lệ so với GDP, cũng thấy bội chi NSNN trong 7 năm trở
lại đây tăng cao hơn các năm trước đó khá nhiều (bình quân khoảng 4,95% GDP) vì giai
đoạn năm 1991-1995, mức bội chi NSNN so với GDP chỉ ở mức 2,63% và giai đoạn từ
năm 1996-2000 ở mức 3,87% so với GDP. Nếu chỉ xem xét bội chi NSNN so với GDP thì
chưa thấy hết sự tăng lên của nó trong những năm gần đây; đặc biệt những năm gần đây,
ngoài NSNN được cân đối, đã có một lượng vốn lớn được đưa ra đầu tư các công trình
giao thông và thuỷ lợi thông qua hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ không cân đối
vào NSNN. Ngoài ra, phải kể đến lượng công trái giáo dục được phát hành để thu hút tiền


cho đầu tư kiên cố hoá trường lớp học cũng là một lượng tiền lớn cân đối ngoài NSNN.
Nếu cộng cả hai loại trên vào cân đối NSNN, bội chi NSNN trong những năm qua không
phải chỉ 5% GDP mà cao hơn (khoảng 5,8-6,2% GDP).
- Chính phủ đã ban hành nhiều biện pháp thắt chặt chi tiêu, hạn chế đầu tư công.

Tuy nhiên, theo đánh giá của Ủy ban Tài chính và Ngân sách Quốc hội, thực hiện dự toán
chi ngân sách chưa nghiêm, hiệu quả chưa cao, tiết kiệm chưa triệt để. Chi đầu tư phát
triển ước cả năm đạt 118 nghìn tỷ đồng, tăng 18,3% so dự toán, chiếm 24,9% tổng chi
ngân sách Nhà nước. Nhưng giải ngân vẫn chậm, đầu tư dàn trải, phân giao vốn đầu tư
không đúng quy định, vi phạm trong đầu tư xây dựng cơ bản vẫn khá phổ biến. Tỷ lệ giải
ngân vốn xây dựng cơ bản đến hết tháng 40% so với kế hoạch đã điều chỉnh (28,5 nghìn
tỷ đồng). Dự tính cả năm chỉ đạt 20 nghìn tỷ đồng, bằng 54% kế hoạch ban đầu và 70% kế
hoạch điều chỉnh của Chính phủ.
- Mặc dù chúng ta đã kiểm soát bội chi NSNN từ hai nguồn là vay nước ngoài và
vay trong nước nên sức ép tăng tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức
ép tăng chi tiêu của Chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư là tăng lên.
- Năm 2008 đã cắt giảm 20% chi tiêu công nhưng trên thực tế lại tăng 10%, chi
quản lý hành chính tăng 13,3% dự toán và tăng 26,6% so với năm 2007. Tình trạng hội
nghị còn nhiều, việc thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí hiệu quả còn thấp.
2/ Xây dựng thu – chi hợp lý:
- Năm 2009, Chính phủ đặt mục tiêu tổng thu ngân sách vào khoảng 418 nghìn tỷ
đồng, tăng 4,76% so với ước thực hiện năm nay; bội chi ngân sách 87,3 nghìn tỷ đồng,
bằng 4,8% GDP.
Nguồn thu nội địa từ bản thân nền kinh tế chỉ chiếm 46% là quá thấp. Những nguồn
thu bấp bênh lại quá cao. Đề nghị Chính phủ xây dựng lại phương án thu ngân sách 2009
cho vững chắc hơn”. Đề nghị Chính phủ dự báo chính xác giá dầu thô và nên có 2-3
phương án nguồn thu để ngân sách chủ động ứng phó với tình huống có thể xảy ra. Cần
sớm có kế hoạch tạo nguồn thu mới, cơ cấu lại nguồn thu ngân sách cho bền vững và công
bằng, hợp lý hơn. Theo hướng bên cạnh các biện pháp chống thất thu, thu đúng, thu đủ,
xóa bao cấp, cần xây dựng mới và nâng mức thu các sắc thuế, các lĩnh vực sử dụng nhiều
tài nguyên, nhiều phúc lợi công cộng làm ô nhiễm môi trường và các tầng lớp dân cư có
mức sống cao”. Ðặc biệt, cần kiểm tra, thanh tra các khoản thu từ khu vực doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài, nhất là các doanh nghiệp kinh doanh ô-tô...
Bên cạnh đó cần khắc phục thêm một căn bệnh nữa là bệnh “hoành tráng”. “Mỗi
tỉnh một tờ báo, một đài truyền hình, xong lại một trường đại học, sắp tới mỗi tỉnh lại một

viện nghiên cứu nữa, rồi bến cảng, sân bay, sân golf, nhà máy bia… Có đáng làm nhiều
như thế không? Rõ ràng phải khắc phục căn bệnh hoành tráng này.
- Từ 1-1-2009 chúng ta đưa Luật thuế thu nhập cá nhân vào, cho nên phải sớm sửa
đổi Bộ luật hình sự nhằm xử lý nghiêm khắc hành vi trốn thuế, nợ thuế, nên xử cho phá
sản các đối tượng này”.
- Tập trung các khoản vay do Trung ương đảm nhận. Các nhu cầu đầu tư của địa
phương cần được xem xét và thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên. Thực hiện như vậy
tránh được đầu tư tràn lan, kém hiệu quả và để tồn ngân sách quá lớn và quản lý chặt chẽ
số bội chi NSNN. Hiện tại, chúng ta đang đứng trước mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn cho đầu


tư phát triển với nguồn lực hạn hẹp. Nếu thực hiện thắt chặt, hạn chế vay để đầu tư sẽ kìm
hãm sự phát triển của nền kinh tế đang có nhu cầu vốn rất cao. Nhưng nếu chúng ta không
kiểm soát chặt chẽ các khoản vay nợ của NSNN, nhất là vay của ngân sách địa phương,
thì nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc gia, sự bền vững của NSNN. Thực hiện
đầu tư tập trung cũng có lợi là bảo đảm phát triển hài hoà, cân đối giữa các vùng, miền
trong toàn quốc. Kinh nghiệm của Trung Quốc: nghiêm cấm ngân sách các địa phương
vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào, các khoản chi đầu tư của địa phương được xem xét
tính toán và bổ sung từ ngân sách trung ương.
- Giải quyết tốt mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường xuyên, nhất là
ngân sách các địa phương. Do vậy, khi các địa phương vay vốn để đầu tư, sẽ kiên quyết
không bố trí nguồn chi thường xuyên cho việc vận hành các công trình khi hoàn thành và
đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng các công trình, làm giảm hiệu quả
đầu tư. Có như vậy, các địa phương phải tự cân đối nguồn kinh phí này chứ không thể yêu
cầu cấp trên bổ sung ngân sách.
- Nếu chấp nhận bội chi ngân sách địa phương thì cần quản lý và giám sát chặt chẽ
việc vay vốn. Các khoản vốn vay chỉ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và phát triển các cơ
sở kinh tế. Các khoản vay của ngân sách địa phương cần được tổng hợp và báo cáo Quốc
hội để tổng hợp số bội chi NSNN hằng năm. Vấn đề vay vốn của các địa phương không
được kiểm soát chặt chẽ chẳng những tạo ra nguy cơ vay vốn tràn lan, đầu tư kém hiệu

quả mà còn ảnh hưởng đến tính bền vững của NSNN trong tương lai. Bội chi NSNN hằng
năm không được kiểm soát chặt chẽ trước khi trình Quốc hội, mức bội chi thực tế khác với
mức bội chi báo cáo cáo Quốc hội. Điều đó tạo nên gánh nặng nợ cho NSNN, bởi NSNN
là một thể thống nhất và đa số các địa phương trông chờ chủ yếu vào ngân sách trung
ương, do vậy suy cho cùng, các khoản nợ của ngân sách địa phương sẽ là gánh nợ của
NSNN trong khi việc đầu tư lại dàn trải, kém hiệu quả./
(Soạn thảo: Nguyễn Thị Thuỳ Dương)
CHUYÊN ĐỀ 3: PHÂN TÍCH NGÂN SÁCH
1/ Hiện nay QH quy định thuế suất cho từng sắc thuế, theo các anh chị vấn đề này giao
cho địa phương tự quy định được không? Tại sao?
Nếu địa phương được phân định những nguồn thu gắn liền với kết quả tăng trưởng
kinh tế trên địa bàn thì cơ chế phân định nguồn thu sẽ kích thích địa phương tích cực trong
nuôi dưỡng, phát triển và khai thác nguồn thu.
Trong bối cảnh của một nền kinh tế chuyển đổi, cần nhìn nhận một cách khách quan
và xác định hướng tăng cường mức độ tự chủ của địa phương trong quá trình phân cấp
ngân sách. Địa phương chỉ thật sự cân đối được ngân sách khi có quyền thay đổi thuế suất
một số sắc thuế hoặc có thể tự đặt ra các sắc thuế riêng của mình. Tuy nhiên, trong điều
kiện cụ thể của Việt Nam, việc để địa phương tự định ra các sắc thuế của riêng mình hay
thay đổi cơ cấu thuế hiện hành có thể sẽ tạo ra sự cạnh tranh về thuế giữa các địa phương,
khuyến khích sự di chuyển vốn, lao động và hàng hóa giữa các địa phương có lợi về thuế,
do đó sẽ làm thay đổi phân bổ sản xuất và tiêu dùng, mở rộng khoảng cách giàu nghèo
giữa các địa phương.
Hơn nữa, hiện nay năng lực quản lý của chính quyền địa phương chưa cao, chưa
đồng đều và đặc biệt hơn cơ chế giám sát còn yếu kém nên việc cho phép địa phương


quyết định về các sắc thuế sẽ dẫn đến tùy tiện và làm suy yếu sự quản lý thống nhất của
Nhà nước. Song không phải vì thế mà lại duy trì quá lâu việc trung ương độc quyền quyết
định chính sách thuế. Điều này làm triệt tiêu tính năng động của chính quyền địa phương,
tạo ra sự phụ thuộc và ỷ lại của chính quyền địa phương vào trung ương, không khuyến

khích địa phương khai thác nguồn lực tài chính và nâng cao hiệu quả quản lý nguồn lực.
2/ Theo Luật Ngân sách thì ĐP không được quyền vay nợ để bù đắp thâm hụt NSĐP,
theo các anh chị có nên cho phép ĐP được quyền vay nợ để bù đắp thâm hụt NSĐP
không? Tại sao?
Nên cho phép ĐP được quyền vay nợ để bù đắp thâm hụt NSĐP vì một số lý do sau:
- Với giải pháp NSTW không bổ sung toàn bộ thiếu hụt, mà chỉ trợ cấp một phần
cho NSĐP, thì vay nợ của chính quyền địa phương là công cụ hiệu quả để địa phương bù
đắp phần thiếu hụt nhằm cân đối NSĐP. Hơn thế nữa, nếu có cơ cấu vay nợ tốt, các địa
phương có thể cải thiện cả hiệu quả kinh tế và cả sự công bằng qua các thế hệ. Vấn đề
quan trọng để các khoản vay của địa phương được sử dụng hiệu quả là phải quản lý ngân
sách chặt chẽ. Điều này sẽ ngăn chặn tình trạng các chính quyền địa phương chuyển trách
nhiệm của mình cho chính quyền trung ương, bằng cách chuyển dịch vụ nợ lên cấp trên
hay bằng cách trì hoãn chi tiêu.
- Thực hiện chuyển đổi theo kinh tế thị trường, quá trình đô thị hóa nhanh nên nhu
cầu vốn đầu tư là rất lớn.
- Xu hướng tập trung hóa trong quản lý ngân sách và giảm các khoản chuyển giao
từ TW xuống ĐP đang là xu hướng chung được nhiều nước thực hiện.
 kích thích KT-XH của ĐP phát triển
 Tạo ra sự công bằng giữa các thế hệ
 Cân đối hài hòa thu chi NSĐP
Mặt trái:
- Vay nợ làm gia tăng lãi suất  chèn ép đầu tư của khu vực tư
- Tạo gánh nặng nợ nếu chi tiêu quá mức và quản lý không hiệu quả
3/ Nguyên tắc cân đối NSNN
- Đảm bảo đóng góp tích cực vào quản lý nền KT-XH trên cơ sở duy trì nguồn thu
với hệ thống thuế suất hợp lý, ổn định và phân bổ chi tiêu công hiệu quả.
- Đảm bảo kiểm soát được mức bội chi và kiểm soát được nợ công
- Đảm bảo tính linh hoạt và tích cực
- Xây dựng hệ thống nguyên tắc lập NS và quản lý chi tiêu công hiệu quả:
Tính tổng thể và tính kỷ luật tài chính

Tính linh hoạt và tiên liệu
Tính trung thực
Thông tin minh bạch và trách nhiệm.
- Cân đối NSNN phải giảm thiểu các bất bình đẳng giữa các ĐP.
4/ Chuyển giao việc thu thuế TNCN từ TW cho ĐP có phù hợp không? Tại sao?


Thuế thu nhập đối với cá nhân có thu nhập cao (mà tương lai sẽ được đổi thành
Thuế thu nhập cá nhân) có thể là khoản thu đầu tiên nên chuyển thành khoản thu 100%
của địa phương.
- Thuế thu nhập đối với cá nhân có thu nhập cao ở Việt Nam được phân định là
khoản thu được phân chia theo tỷ lệ giữa trung ương với địa phương với nhằm mục đích
giúp Nhà nước có thể thực hiện được vai trò điều tiết thu nhập, tạo công bằng xã hội.
- Sẽ thúc đẩy địa phương quan tâm quản lý nguồn thu một cách chặt chẽ hơn, chú ý
nhiều đến khu vực kinh doanh, tăng trưởng kinh tế để nuôi dưỡng và khai thác nguồn thu.
Theo đánh giá, khả năng gia tăng nguồn thu của sắc thuế này là khả thi nếu được quản lý
tốt.
5/ Những giải pháp nào trong chi tiêu và cân đối NSNN để đảm bảo an toàn trong điều
kiện khủng hoảng kinh tế toàn cầu?
Trong chi tiêu:
- Tiếp tục các chính sách về chặt chẽ chi tiêu Chính phủ và đầu tư khu vực công
nhằm tránh xảy ra nguy cơ thâm hụt ngân sách. Việc thắt chặt chi tiêu Chính phủ và
chuyển các khoản đầu tư công sang cho khu vực tư nhân sẽ góp phần vào việc giảm thuế
cho khu vực doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân. Các doanh nghiệp sẽ có thêm được
nguồn vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh và thị trường. Đẩy mạnh đầu tư cho các dự án
cơ sở hạ tầng, hạ tầng kỹ thuật lớn, quan trọng mà trong các thời điểm trước đây chưa có
điều kiện đầu tư thì nay đầu tư để kích thích kinh tế phát triển.
- Thắt chặt hơn nữa đầu tư công, trong đó phải làm rõ được 3 yếu tố: tiêu chí, cơ chế
thực hiện, chế tài và kiểm soát lợi ích gắn liền việc cắt giảm, giãn tiến độ các dự án đầu tư
từ Ngân sách Nhà nước… Hiện mới có chủ trương, chưa có tiêu chí rõ ràng, chế tài cũng

chưa có hoặc chưa đủ hiệu lực… Cần sớm triển khai bước chuyển chiến lược trọng tâm
đầu tư phát triển từ khu vực nhà nước bấy lâu nay (vẫn kém hiệu quả) sang khu vực kinh
tế ngoài nhà nước.
- Việc chính phủ chi tiêu nhiều cho đầu tư phát triển (thông qua vay nợ) đặc biệt là
các nguồn vốn từ phát hành trái phiếu CP để tải trợ cho các DNNN, trong khi các doanh
nghjie65p này sử dụng vốn không hiệu quả và không đúng mục đích có thể tạo ra sự chèn
lấn đối với khu vực tư nhân.
Cân đối NSNN
- Đẩy mạnh tiến trình tái cấu trúc nền kinh tế, đảm bảo cho kinh tế tăng trưởng
nhanh, bền vững và ổn định
- Đẩy mạnh chính sách cải cách khu vực công
- Đẩy mạnh chính sách cải cách, sắp xếp lại các DNNN, kiên quyết thực hiện chính
sách tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
- Đẩy mạnh chính sách xã hội hóa, tăng cường sự tham gia của khu vực tư trong
việc cung cấp một số hàng hóa và dịch vụ công
- Chuyển dịch cơ cấu thu ngân sách nhà nước theo hướng bền vững
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách thuế và cải cách công tác quản lý thu


- Khai thác nguồn thu từ tài sản công trên cơ sở tăng cường quản lý công sản
- Hoàn thiện hoạt động vay nợ trong và ngoài nước để bù đắp bội chi ngân sách nhà
nước
- Chấn chỉnh lại việc tôn trọng kỷ luật tài khóa tổng thể, khắc phục tình trạng thu
chi NSNN thoát ly dự toán quá xa
- Cần xây dựng quan hệ cân đối giữa chi thường xuyên và chi đầu tư từ NSNN
- Hoàn thiện hệ thống các định mức phân bổ chi tiêu NSNN
- Đẩy mạnh công tác thí điểm lập khuôn khổ chi tiêu trung hạn
- Tích cực chuẩn bị các điều kiện cần thiết để trong dài hạn có thể chuyển đổi
phương thức soạn lập NSNN dựa vào các yếu tố đầu vào sang phương thức soạn lập
NSNN dựa vào đầu ra.

- Khắc phục tình trạng NSTW cân đối thay NSĐP trên cơ sở tăng tính chủ động và
trách nhiệm cho các địa phương
- Tổ chức hệ thống NSNN không mang tính chất lồng ghép
- Hoàn thiện cách thức đo lường bội chi và biện pháp bù đắp bội chi ngân sách nhà
nước
- Hoàn thiện chính sách quản lý nợ công để cân đối ngân sách nhà nước bền vững
(Soạn thảo: Nguyễn Việt Trung)
CHUYÊN ĐỀ 4: NGOẠI TÁC
Ở KHU VỰC TƯ CP ÁP DỤNG GIẢI PHÁP NÀO ĐỂ GIẢI QUYẾT NGOẠI TÁC ?
LIÊN HỆ Ở VN (GIÁO DỤC, Y TẾ…)






Vấn đề ngoại tác đang nghiên cứu là ngoại tác gây hại.
CP có thể áp dụng các cách thức sau để giải quyết vấn đề ngoại tác ở khu vực tư:
Áp dụng hình thức xử phạt bằng tiền hoặc rút giấy phép hoạt động đối với những
đơn vị kinh doanh gây ra ngoại tác.
Giám sát công tác đền bù, giải tỏa, hỗ trợ di dời đối với các dự án, công trình do
Khu vực tư nhân đảm trách.
Hoàn thiện hệ thống pháp lý.
Thu phí môi trường hoặc lập quỹ để khắc phục ảnh hưởng của ngoại tác.

LIÊN HỆ Ở VN
Về y tế: việc KV tư phát triển các bệnh viện, trung tâm chăm sóc sức khỏe đem lại
lợi ích trong việc khám chữa bệnh. Với tiềm lực kinh tế cao, Bệnh viện tư trang bị trang
thiết bị khám chữa bệnh tối tân, bệnh nhân không cần phải ra nước ngoài điều trị. Nhưng
điều đó đồng nghĩa bệnh nhân nghèo không thể khám chữa bệnh tại BV tư.

CP can thiệp bằng cách ký cam kết khi cho phép thành lập BV tư là: mỗi năm BV tư
phải đăng ký khám chữa bệnh miễn phí cho bao nhiêu bệnh nhân. Và tổ chức khám từ
thiện theo định kỳ tại địa phương nào đó do CP chỉ định, yêu cầu……..


Về Giáo dục: việc xuất hiện các trường học tư thục, quốc tế... đem lại môi trường
học tập tốt hơn, điều kiện thực tập nghiên cứu tốt, giáo trình theo tiêu chuẩn hiện
đại….Điều này giúp học sinh bắt kịp với trình độ nước ngoài…Nhưng cũng có ngoại tác
là những điều kiện này chỉ dành cho những đối tượng có tiền.
Cp can thiệp bằng cách : yêu cầu một số môn về Lịch sử hoặc một số môn đặc biệt
sẽ được giảng dạy theo giáo trình Việt Nam. Đồng thời mỗi năm, trường tư này bắt buộc
phải cấp học bổng toàn phần cho 1 số học sinh, sinh viên có thành tích học tập xuất sắc.
Vđề đầu thu hút đầu tư nước ngoài: chúng ta đều biết ở các nước phát triển việc
thu phí môi trường là rất cao, do đó, các nước ít phát triển thường được các công ty - tập
đoàn quốc tế lựa chọn để đặt nhà máy, trong đó VN chúng ta là một ví dụ. Việc thu hút
đầu tư kéo theo vđ ngoại tác là ô nhiễm môi trường.
Cp có thể can thiệp bằng cách kiểm tra thường xuyên công tác vệ sinh môi trường ở
các doanh nghiệp này. Đồng thời tiến hành thu phí môi trường để lập quỹ cải tạo môi
trường khu vực xung quanh.
Vấn đề các tòa cao ốc văn phòng quá nhiều, dẫn đến việc tập trung 1 lượng lớn
người làm việc tại một khu vực. Điều này dẫn đến việc kẹt xe, tiếng ồn, khói bụi. ,….
CP có thể thu phí giao thông đối với các chủ cao ốc này để xây dựng hệ thống giao
thông công cộng đến các khu vực tập trung cao ốc, khuyến khích ng lao động dùng các
phương tiện công cộng này….
(Soạn thảo: Vũ Chu Bảo Ngọc)
CHUYÊN ĐỀ 5: HÀNG HOÁ CÔNG
Liên hệ tại VN: Hàng hoá nào khư vực tư tham gia và không được tham gia?
Tính kết hợp 2 khu vực cung cấp hàng hoá công cộng?Nhà nước phải có cơ chế quản
lý, quy chế ràng buộc khi tư nhân tham gia?
TLời:

A/ Hàng hoá công: là loại hàng hoá có các đặc điểm:
+ Nhằm thoả mãn nhu cầu chung của xã hội,
+ Không loại trừ hoặc có thể loại trừ cá nhân trong xã hội về việc hưởng lợi hàng hoá
đó,
+ Không trả tiền (thông qua thu thuế) hoặc phải trả tiền (dưới hình thức phí, lệ phí),
+ Có thể do khu vực công (Nhà nước) hoặc khu vực tư nhân cung cấp.
B/ Hàng hoá nào khu vực tư nhân được tham gia và không được tham gia ?
+ Hàng hoá khu vực tư nhân không được tham gia: an ninh quốc phòng, năng lượng,
hàng không, kiểm soát ô nhiễm dựa trên thị trường và chi phí ngoại sinh, ngọn hải đăng, …
Vì: những hàng hoá này không có cạnh tranh trong tiêu dùng (sự tiêu dùng của tôi không
làm giảm sự tiêu dùng của bạn) và không loại trừ tiêu dùng (mội khi một vùng, khu vực nào
đó trong quốc gia được bảo vệ, thì mọi người sống trong khu vực đó cùng hưởng thụ sự bảo
vệ đó).
An ninh quốc phòng: con người không thể thanh toán cho từng đơn vị hàng hoá mà
họ sử dụng mà phải mua một tổng thể cho toàn bộ quốc gia, cung cấp dịch vụ quốc phòng
cho một cá nhân không có nghĩa là những người khác ít được bảo vệ hơn, bởi vì trên thực


tế tất cả mọi người đều tiêu thụ các dịch vụ quốc phòng này cùng nhau. Do vậy, không
một khu vực tư nhân nào có thể bán dịch vụ quốc phòng cho các công dân của quốc gia
mà vẫn duy trì được hoạt động kinh doanh, hay là không có đủ nguồn lực để sản xuất máy
bay chiến đấu phản lực. Đó là lý do chính giải thích vì sao chính phủ phải điều hành quốc
phòng và dùng thuế để chi cho quốc phòng.
Kiểm soát ô nhiễm dựa trên thị trường và chi phí ngoại sinh: Khi đối mặt với vấn đề ô
nhiễm không khí, nước hoặc đất đai, …mà do các thành phần kinh tế gây ra, nhưng không có
một cá nhân hay một pháp nhân nào sở hữu buộc các thành phần kinh tế phải ngừng gây ô
nhiễm. Do vậy, Nhà nước phải can thiệp vào để hiệu chỉnh sự mất cân bằng để buộc những
người sản xuất và tiêu dùng sản phẩm đó phải thanh toán cho những chi phí này, bằng cách
đưa ra các quy định pháp luật bảo vệ môi trường, đánh thuế những thành phần kinh tế gây ô
nhiễm.


+ Hàng hoá khu vực tư nhân được tham gia: các dịch vụ cơ sở hạ tầng (CSHT điện nước, giao thông vận tải, viễn thông, nhà ở và quá trình đô thị hoá, ..), xe bus, công
chứng; chứng thực các giấy tờ; bằng; .., dịch vụ buôn bán nhỏ, cung cấp nước sạch, an
sinh xã hội, thông tin liên lạc, y tế và giáo dục, … Sự tham gia của khu vực tư nhân trong
lĩnh vực cung cấp các hàng hoá công sẽ là một phần quan trọng trong việc đáp ứng các
nhu cầu về Xã hội chung. Vì:
1/ Kết quả tốt hơn: Sự tham gia của khu vực tư nhân vào cung cấp các hàng hoá
công cho xã hội sẽ mang lại hàng loạt lợi ích. Những lợi ích này bao gồm một thực hiện
tốt hơn, tầm bao phủ rộng hơn và tính bền vững cao hơn nhờ vào hiệu quả đạt được với
năng lực quản lý, sự sáng tạo và khả năng định hướng theo yêu cầu khách hàng, khả năng
thu hồi chi phí cao hơn và việc sử dụng kỹ thuật tiên tiến.
2/ Bổ sung tài chính: Các dự án cung cấp hàng hoá công từ các nguồn vốn tư nhân
có thể giúp làm giảm nhu cầu về vốn của các dự án cung cấp hàng hoá công trọng điểm.
Hiện nay, nước ta các khoản chi tiêu công cộng chủ yếu được dùng cho mục đích giảm
nghèo, nâng cao giáo dục, y tế, phát triển mạng lưới giao thông công cộng, … thì việc
đóng góp tài chính của khu vực tư nhân vào các dự án hàng hoá công này sẽ giúp giải
phóng các nguồn vốn ngân sách quốc gia để dùng vào việc đầu tư lĩnh vực khác trọng
điểm hơn, mặt khác tài chính khu vực tư nhân cũng giúp thay đổi cơ bản cơ cấu chi phí
(chi) của NSNN.
3/ Chuyển gánh nặng thanh toán từ người chịu thuế sang người tiêu dùng: Các
nhà cung cấp hàng hoá công dường như thúc đẩy sự chuyển dịch việc thanh toán sang cho
người sử dụng hàng hoá bởi vì mục đích của họ là doanh thu và bù đắp chi phí. Hiện nay,
nước ta giá của các hàng hoá như điện và nước nhìn chung được ấn định thấp hơn chi phí
thực, việc này khó có thể duy trì trong thời gian dài trong bối cảnh nhu cầu ngày càng
tăng. Việc chuyển chi phí sang cho người sử dụng có ưu điểm là giải phóng nguồn đóng
thuế để sử dụng vào các lĩnh vực khác nơi mà lợi ích xã hội lớn hơn.
C/ Tính kết hợp 2 khu vực (Nhà nước - Tư nhân) cung cấp hàng hoá công cộng?
+ Trên những khía cạnh khác nhau của hàng hoá công đã được lập kế hoạch từ
trước,
+ Các cơ cấu vốn liên kết các nguồn vốn của khu vực Nhà nuớc và khu vực tư nhân,



+ Cơ quan vận hành tại mỗi giai đoạn của các dự án cung cấp hàng hoá công (thiết
kế, hoàn thiện, thực hiện và cấp vốn),
+ Xác định mục tiêu cần đạt được khi cung cấp hàng hoá công của các bên,
+ Có sự phân chia rủi ro giữa Khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân.
D/ Nhà nước phải có cơ chế quản lý, quy chế ràng buộc khi tư nhân tham gia?
Để đảm bảo việc các dự án hàng hoá công có hiệu quả, giảm thiểu tối đa các tiêu
cực, các rủi ro có thể xảy ra, đặc biệt là các dự án xây dựng nhà ở, đô thị, CSHT có vốn
đầu tư và quy mô lớn nếu bị thất bại sẽ làm thiệt hại đến lợi ích của nhiều người, nhiều đối
tác mà khu vực tư nhân được tham gia thì Nhà nước phải chuyển giao dần từng phần cho
các đối tác khác, Nhà nước từ chỗ là người vừa thiết kế vừa thi công sang chỉ đóng vai trò
là người hoạch định chiến lược vĩ mô và kiểm soát theo đúng nghĩa “nhà nước định
hướng” còn các lực lượng khác sẽ là người thực hiện. Cụ thể:
+ Thứ nhất, Nhà nước chuyển từ thống trị, ban phát sang là người bảo vệ (bằng
pháp luật), hỗ trợ (bằng chính sách), tạo điều kiện (vật chất và tinh thần) cho khu vực tư
nhân.
+ Thứ hai, phân quyền được coi là nền tảng của quản lý Nhà nước hiện đại. Cơ sở
đảm bảo cho phân quyền thành công là một hành lang pháp lý hoàn thiện, một bộ máy
công quyền mạnh, trong sạch và đội ngũ công chức chuyên nghiệp.
+ Thứ ba, coi khu vực tư nhân là đối tác quan trọng nhất cùng Nhà nước trong phát
triển và cung cấp hàng hoá công cho xã hội.
+ Thứ tư, tăng cường nhiều hơn vai trò tham gia của người dân trong việc phát triển
và sử dụng các hàng hoá công.
VD: Hiện nay, trong vấn đề phát triển đô thị và hạ tầng giao thông, hệ thống xe bus,
… cho thấy các thành phố lớn như TP. Hà Nội và TP.HCM đã và đang chuyển giao rất
mạnh mẽ cho khu vực tư nhân đảm nhiệm. Việc Nhà nước đảm nhiệm hầu hết các dự án
phát triển CSHT kỹ thuật lớn như hiện nay là không ổn, bởi nếu có sự cố thì chẳng thể nào
người nhà nước lại đưa nhau ra toà phân xử được (ví dụ: Sập dẫn cầu Cần Thơ năm 2007,
…). Mặt khác, hiện nay đang xảy ra tình trạng khắc phục các dự án đã đi vào hoạt động

mà Nhà nước đảm nhiệm, điều đó Nhà nước lại phải bỏ tiền ra khắc phục mà tiền đó nói
chung cũng lại là tiền thuế của dân đóng góp (ví dụ: cầu Văn Thánh, cầu Bình Triệu, cầu
Thăng Long, …).
(Soạn thảo: Nguyễn Duy Tuyển)
CHUYÊN ĐỀ 7: LỰA CHỌN CHÍNH SÁCH CÔNG
Đánh giá về việc lựa chọn các chính sách công của Việt Nam, tại sao một số chính
sách được đông đảo người dân ủng hộ nhưng lại không hiệu quả?
Trong việc phân bổ nguồn lực:
- Đang tồn tại một mâu thuẫn cơ bản trong chính sách kinh tế của Việt Nam, đó là
trong khi khu vực dân doanh trong nước và đầu tư nước ngoài là hai khu vực năng động
nhất thì khu vực nhà nước lại luôn nhận được những khoản đầu tư và sự ưu ái của nhà
nước. Mặc dù tinh thần của Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp thống nhất
2005 rất tiến bộ nhưng động năng này không biết có thể được tiếp tục duy trì hay không.


- Những tập đoàn Nhà nước này hiện đang mở rộng hoạt động một cách nhanh
chóng và đầy tham vọng sang nhiều lĩnh vực khác nhau như bất động sản, dịch vụ tài
chính, ngân hàng, lữ hành, và cả phân phối điện thoại di động nữa.
- Hiện nay đã và đang xuất hiện một lớp doanh nghiệp mới mang danh cổ phần hóa
nhưng thực chất đã được tư nhân hóa một cách nội bộ và qua đó biến tài sản nhà nước
thành sở hữu riêng của mình. Đồng thời cũng xuất hiện một lớp doanh nghiệp khác, về
hình thức là tư nhân, nhưng trên thực tế có mối quan hệ chặt chẽ và gần gũi với những
người có thẩm quyền trong hệ thống nhà nước và lợi dụng mối quan hệ này để trục lợi
thông qua việc đoạt được những hợp đồng béo bở hay những khoản tín dụng mềm.
- Các doanh nghiệp dân doanh thường có quy mô nhỏ, hoạt động kinh doanh đơn
giản, và khả năng có hạn trong việc tiếp cận thông tin thương mại và công nghệ. Bên cạnh
đó, đất đai và tài chính là những khó khăn thường trực của nhiều doanh nghiệp dân doanh,
mặc dù tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam trong những năm qua luôn rất cao. Các
doanh nghiệp dân doanh thường phàn nàn rằng ngân hàng thường chỉ cho họ vay ngắn hạn
và ít khi đồng ý cho họ vay dài hạn.

Đánh giá chính sách (Trích báo cáo Havard về kinh tế Việt Nam)
1. Giáo dục
Đầu tư một cách hết sức mạnh mẽ cho giáo dục ở tất cả các cấp. Tuy nhiên chất
lượng giáo dục thấp không chỉ kìm hãm sự phát triển của quốc gia mà nó còn gây ra và
duy trì sự bất công bằng. Những gia đình khá giả cố gắng tạo điều kiện cho con cái họ có
được một nền học vấn tốt và những kỹ năng khan hiếm một cách tương đối, nhờ vậy sau
này tìm được việc làm với mức lương cao hơn. Các gia đình nghèo hơn không thể cho con
em mình đi du học hay học ở những trường hàng đầu trong nước, và vì vậy mức độ sẵn
sàng cho thị trường lao động kém hơn và phải nhận mức lương thấp hơn
2. Cơ sở hạ tầng và Đô thị hóa
Xây dựng CSHT cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa nhanh đòi hỏi
các nguồn lực của Chính phủ phải được sử dụng một cách hiệu quả nhưng sự thất bại
trong quản lý đô thị, các nước Đông Nam Á còn có xu hướng đầu tư quá mức vào các dự
án khổng lồ mà trong hầu hết trường hợp đều chứng tỏ là chưa cần thiết và lãng phí. Á ô
nhiễm, ùn tắc, đắt đỏ, và ngập nước. Nghèo đói, tội phạm và sự bất lực trong việc cung
cấp các dịch vụ đô thị cơ bản như giao thông, điện, nước sạch là những tai họa của các
thành phố. Quá trình đô thị hóa nhanh chóng đã để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về môi
trường, gây nên sự bất mãn và trong một số trường hợp dẫn tới biểu tình của người dân đô
thị.
3. Doanh nghiệp cạnh tranh quốc tế
Các công ty dựa dẫm vào vị thế độc quyền trên thị trường nội địa nhờ vào sự hỗ trợ
của nhà nước và không phải chịu áp lực của cạnh tranh sẽ không nỗ lực hoặc không chấp
nhận rủi ro để tìm kiếm thị trường mới hay cải tiến sản phẩm và quá trình sản xuất. Thời
gian và năng lượng của đội ngũ cán bộ sẽ được dành cho việc duy trì sự ưu ái của nhà
nước thay vì tìm cách cải tiến, giảm chi phí, tăng chất lượng, và chuyển sang các dòng sản
phẩm mới. Càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu nhưng chúng vẫn dựa chủ yếu
vào các biện pháp cắt giảm chi phí thay vì cải tiến hay khai thác hiệu quả kinh tế theo quy
mô.



4. Hệ thống tài chính
Các nước Đông Nam Á đã thành công trong việc huy động một tỷ lệ đầu tư rất cao
nhưng lại thất bại trong việc lặp lại kỳ tích tăng trưởng của các nước Đông Á, trong đó
nguyên nhân chủ yếu là suất sinh lợi của các khoản đầu tư ở các nước Đông Nam Á thấp
hơn nhiều. Tham nhũng chắc chắn là một trong những thủ phạm khi các quỹ đầu tư công
bị bòn rút và thay đổi mục đích sử dụng, và hệ quả là chi phí kinh doanh bị đội lên cao.
Trong khi việc đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào niềm tin của các tác nhân tham gia thị
trường, vào sự minh bạch và đầy đủ về thông tin, và vào khả năng thực thi các quy định
pháp luật về điều tiết và quản lý thị trường
Bên cạnh tham nhũng thì một nguyên nhân quan trọng khác hoạt động tự do hóa tài
chính được thực hiện quá sớm, trong khi hệ thống tài chính được thiết kế không thích hợp
và chưa sẵn sàng. Kết quả là sự xuất hiện của các khoản đầu cơ rủi ro và sự hình thành của
bong bóng tài sản
5. Hiệu năng của Nhà nước
Có sự cách ly giữa các nhà làm chính sách và các nhóm lợi ích đặc biệt, nhất là đối
với những nhóm cản trở phát triển công nghiệp nhanh và bền vững
Chính phủ xây dựng CSHT kinh tế, đầu tư thích đáng cho giáo dục, y tế, và an ninh
công cộng với một mức chi phí chấp nhận được, đồng thời thỏa mạn được kỳ vọng của
nhân dân về chất lượng. Kinh tế vĩ mô ở các nước này được điều hành một cách thận trọng
bởi những nhà chuyên môn thực sự, trong đó mục tiêu phát triển chung của đất nước luôn
được đặt lên hàng đầu. Đối chiếu lại với kinh nghiệm gần đây của Việt Nam, ngoại trừ an
ninh và ổn định chính trị thì người dân tương đối thất vọng đối với các dịch vụ thiết yếu.
Đồng thời, uy tín khó khăn lắm mới có được của nhà nước trên phương diện quản lý vĩ mô
đang dần bị xói mòn vì một số sai lầm do không theo kịp được với sự phức tạp ngày càng
tăng của nền kinh tế.
6. Công bằng
Bất bình đẳng về thu nhập vẫn tồn tại ở các nước Đông Nam Á trên cả ba phương
diện quan trọng của chính sách phát triển con người, đó là giáo dục, y tế, và lưới an sinh
xã hội. Học vấn và sức khỏe là hai điều kiện thiết yếu để một người trở thành thành viên
có ích cho xã hội. Lưới an sinh xã hội bảo vệ những bộ phận dễ bị tổn thương nhất của xã

hội, như những người nghèo ở nông thôn và thành thị, khỏi những cú sốc hay thăng trầm
của nền kinh tế toàn cầu. Cần nhấn mạnh thêm rằng cho đến tận gần đây, các nước Đông
Á nhìn chung cũng chưa cung cấp cho người dân của mình những chương trình bảo hiểm
xã hội hào phóng. Tuy thế, như đã nói ở trên, các nước này đã đạt được một mức độ công
bằng xã hội cao do ngay từ đầu những nhân tố cơ bản đã được xây dựng một cách đúng
đắn, trong đó quan trọng nhất là chất lượng giáo dục và y tế công cộng rất tốt.
Chất lượng giáo dục thấp không chỉ kìm hãm sự phát triển của quốc gia mà nó còn
gây ra và duy trì sự bất công bằng. Những gia đình khá giả cố gắng tạo điều kiện cho con
cái họ có được một nền học vấn tốt và những kỹ năng khan hiếm một cách tương đối, nhờ
vậy sau này tìm được việc làm với mức lương cao hơn. Các gia đình nghèo hơn không thể
cho con em mình đi du học hay học ở những trường hàng đầu trong nước, và vì vậy mức
độ sẵn sàng cho thị trường lao động kém hơn và phải nhận mức lương thấp hơn
Y tế công cộng vừa là một nhân tố cấu thành nên phúc lợi, đồng thời có ảnh hưởng
quan trọng đối với năng suất của lao động và an sinh của người dân. Nếu trong gia đình có


một người ốm thì cả nhà sẽ bị ảnh hưởng không chỉ vì bị mất một nguồn thu nhập mà còn
phải trả viện phí, nhiều khi rất cao so với thu nhập bình thường. Một hệ thống y tế quá đắt
đỏ hoặc có chất lượng dịch vụ kém đẩy những người không may mắn vào hoàn cảnh túng
quẫn và buộc con em họ không được tiếp tục đến trường.
Một trong những khía cạnh đáng thất vọng nhất trong sự phát triển của các nước
Đông Nam Á là việc người giàu tránh không phải trả những khoản thuế được coi là hợp lý
và ở mức độ rất phải chăng. Nhiều người trở nên giàu kếch xù nhờ đầu cơ đất đai nhưng
lại chỉ phải đóng một khoản thuế bất động sản có tính tượng trưng, hoặc thậm chí hoàn
toàn không phải đóng thuế
Khía cạnh cuối cùng của phân phối thu nhập công bằng liên quan đến đất đai. Ở
Phi-lip-pin, trong khi nhiều người lao động không có lấy một tấc đất cắm rùi, thì một số ít
người khác lại sở hữu rất nhiều đất.
Ở Việt Nam và Trung Quốc, mặc dù phân phối đất ban đầu khá công bằng nhưng sự
công bằng này đang bị phá vỡ một cách nhanh chóng do quá trình chuyển đổi từ đất nông

nghiệp sang đất công nghiệp và đô thị. Quá trình này đã làm một số người kể cả quan
chức nhà nước giàu lên vô cùng nhanh chóng, trong khi khiến nhiều nông dân thực sự trở
thành “vô sản” và ngân sách nhà nước thì không những không được cải thiện mà còn thất
thoát thêm do chi phí đền bù.
Hiện nay, các chính sách công của Việt Nam hướng tới nhằm đảm bảo tăng trưởng
kinh tế bền vững, các mục tiêu xã hội như xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống của
người dân, bảo vệ môi trường…đây là những chính sách mà người dân rất ủng hộ nhưng
trong thực tế việc triển khai những dự án này lại không mang lại hiệu quả như mong đợi.
Việc này có thể do những lý do sau:
- Tình trạng tham nhũng
- Thể chế chính trị
- Bộ máy hành chính
- Tính không minh bạch
- Chiến lược phát triển kinh tế xã hội (không khoa học, đầu tư dàn trải, lãng phí, không
hiệu quả…)
 Dẫn đến phân bổ nguồn lực không hiệu quả và không hợp lý.
(Soạn thảo: Nguyễn Việt Trung)



×