Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Dạy học kịch bản văn học tôi và chúng ta ở lớp 9 theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

NGUYỄN THỊ HUYỀN

DẠY HỌC KỊCH BẢN VĂN HỌC “TÔI VÀ CHÚNG TA”
Ở LỚP 9 THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI

Chuyên ngành: LL&PP DH Bộ môn Văn – Tiếng Việt
Mã ngành: 60 14 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Hữu Bội

THÁI NGUYÊN - 2016
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân,
được thể hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Hoàng Hữu Bội.
Các số liệu và kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung
thực và chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác. Các thông
tin, số liệu trích dẫn trong luận văn đều đã được trích rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu trách nghiệm về nghiên cứu của mình.
Thái Nguyên, tháng 04 năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Thị Huyền

XÁC NHẬN

XÁC NHẬN

CỦA TRƯỞNG KHOA CHUYÊN MÔN

CỦA CÁN BỘ HƯỚNG DẪN

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



i


LỜI CẢM ƠN
Với tất cả tấm lòng kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành
cảm ơn sự hướng dẫn khoa học, tận tình và độ lượng của Thầy giáo. TS. Hoàng
Hữu Bội trong quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, khoa Sau Đại học, các Thầy
giáo, Cô giáo khoa Ngữ Văn - trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên và các
Thầy giáo, Cô giáo đã tận tâm giảng dạy, tạo mọi điều kiện thuận lợi, hướng dẫn
và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu đề tài này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các đồng chí lãnh đạo và giáo viên
trường THCS Trung Lương, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên và những
người thân yêu, đã luôn ở bên tôi động viên, giúp đỡ, khích lệ tôi trong những
ngày học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 04 năm 2016

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Huyền

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



ii


MỤC LỤC
Lời cam đoan ...................................................................................................... i
Lời cảm ơn ........................................................................................................ ii
Mục lục ............................................................................................................. iii
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 10
4. Mục đích nghiên cứu................................................................................ 10
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................... 10
6. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 11
7. Cấu trúc luận văn ..................................................................................... 11
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 12
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI .. 12
1.1. Cơ sở lí luận .......................................................................................... 12
1.1.1. Vấn đề loại thể trong văn học ......................................................... 12
1.1.2. Kịch bản văn học ............................................................................ 14
1.1.3. Đặc trưng thể loại của kịch bản văn học......................................... 17
1.1.4. Phương pháp dạy kịch bản văn học theo đặc trưng thể loại ........... 26

1.2. Lưu Quang Vũ và kịch bản văn học “Tôi và chúng ta”........................ 32
1.2.1.Vài nét sơ lược về tác giả Lưu Quang Vũ ....................................... 32
1.2.2. Kịch bản văn học “ Tôi và chúng ta” .............................................. 33
1.3. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 36
1.3.1. Thực trạng dạy học đoạn trích kịch bản văn học “Tôi và chúng ta” . 36
1.3.2. Thực trạng cảm thụ văn học của học sinh với kịch bản văn học ... 38
CHƯƠNG 2. ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC KỊCH BẢN VĂN HỌC “TÔI VÀ
CHÚNG TA” ..................................................................................................... 41
2.1. Trước giờ lên lớp .................................................................................. 40
2.1.1. Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài.................................... 40
2.1.2. Định hướng cho học sinh những tư liệu liên quan đến bài học ...... 41
2.1.3. Xây dựng hệ thống câu hỏi cho học sinh chuẩn bị bài ................... 42
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



iii


2.2. Tổ chức dạy đọc hiểu kịch bản văn học “Tôi và chúng ta” trong giờ học
...................................................................................................................... 43
2.2.1. Tạo hứng thú, kích thích nhu cầu học tập cho học sinh ................. 43
2.2.2. Tổ chức cho học sinh cảm nhận tác phẩm bằng các hoạt động nghệ
thuật........................................................................................................... 45
2.2.3. Xây dựng tình huống có vấn đề bằng hệ thống câu hỏi gợi mở ..... 46
2.2.4. Sử dụng lời bình đúng thời điểm .................................................... 48
2.2.5. Phát huy tinh thần đối thoại trong giờ dạy và học kịch bản văn học .....50
2.2.6. Củng cố bài học .............................................................................. 51
2.3. Sau giờ học ............................................................................................ 53
2.3.1. Rèn luyện thói quen học bài ở nhà ................................................. 53

2.3.2. Ôn lại bài mới học xong trên lớp .................................................... 54
2.3.3. Đổi mới cách ra đề kiểm tra............................................................ 55
2.3.4. Thường xuyên cung cấp những thông tin phản hồi hữu ích đến học
sinh ............................................................................................................ 57
2.4. Định hướng về nội dung dạy học .......................................................... 58
CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ................................................ 68
3.1. Những vấn đề chung của thực nghiệm ................................................. 68
3.1.1. Mục đích, ý nghĩa thực nghiệm ...................................................... 68
3.1.2. Phương pháp thực nghiệm .............................................................. 69
3.1.3. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm ................................. 69
3.2. Nội dung và cách thức tiến hành thực nghiệm ..................................... 70
3.2.1. Nội dung thực nghiệm .................................................................... 70
3.2.2. Cách thức tiến hành thực nghiệm ................................................... 70
3.2.3. Thiết kế dạy học thực nghiệm......................................................... 71
3.3. Phân tích và đánh giá kết quả thực nghiệm .......................................... 91
3.4. Phân tích kết quả thực nghiệm .............................................................. 92
PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 97
PHỤ LỤC

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



iv


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
1.1. Dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại là một vấn đề

đã được đặt ra từ lâu trong thực tế giảng dạy văn học ở trường Trung học. Đây
cũng là vấn đề quan tâm của nhiều giáo viên trong quá trình đổi mới phương
pháp dạy học.
Loại thể văn học thuộc về ý thức, về cách thể hiện cuộc sống trong văn
học cũng như cách cấu tạo và biểu hiện nội dung trong tác phẩm văn học cụ
thể. Tác phẩm văn học tồn tại trong những hình thức của các loại thể văn học.
Không có tác phẩm nào tồn tại ngoài hình thức quen thuộc của loại thể. Vì vậy
tìm hiểu một tác phẩm văn học về nội dung cũng như nghệ thuật không thể xem
nhẹ đặc trưng loại thể. Nói cách khác là phải vận dụng kiến thức lý luận văn
học về thể loại trong việc dạy học văn. Đây là vấn đề có ý nghĩa phương pháp
luận. Bởi tác phẩm văn học nào cũng thuộc một loại thể nhất định. Mỗi loại thể
có những đặc điểm thi pháp riêng. Có xác định được thể loại thì mới có thể hiểu
thấu đáo giá trị nội dung tư tưởng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
Đã có nhiều tài liệu bàn về dạy học tác phẩm văn học theo thể loại, nhất là
đã có nhà sư phạm bàn về dạy tác phẩm văn học theo loại hình KỊCH. Song vấn
đề dạy học kịch theo đặc trưng thể loại ở các tác phẩm của nhà viết kịch lỗi lạc
Lưu Quang Vũ thì chưa có nhiều tài liệu bàn tới. Bởi thế chúng tôi mạnh dạn chọn
đề tài này để nghiên cứu – Đề tài “ Dạy học kịch bản văn học “Tôi và chúng ta”
ở lớp 9 theo đặc trưng thể loại”.
1.2. “Tôi và chúng ta” là một trong số ít kịch bản văn học được đưa vào
chương trình dạy học Trung học. Khi giảng dạy tác phẩm này, mặc dù giáo
viên đã vận dụng các phương pháp dạy học mới, song vẫn còn nhiều vướng
mắc, hiệu quả giảng dạy chưa cao. Qua thực tế giảng dạy, chúng tôi thấy học
sinh chưa thực sự hứng thú và còn gặp nhiều khó khăn trong việc cảm thụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



1



kịch bản văn học: học sinh không nắm được đặc trưng thể loại, không hiểu
thấu đáo ý nghĩa hàm ẩn sau ngôn ngữ kịch… Thực tế đó đã thôi thúc chúng
tôi đến đề tài này: “Dạy học kịch bản văn học “Tôi và chúng ta” ở lớp 9 theo
đặc trưng thể loại”. Chọn đề tài nghiên cứu này, chúng tôi hi vọng sẽ tìm ra
được một phương án dạy học có hiệu quả để có thể giúp chính bản thân mình
và các bạn đồng nghiệp vượt qua được những khó khăn trong quá trình dạy
học kịch bản văn học của Lưu Quang Vũ.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những ý kiến bàn luận vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo đặc
trưng thể loại
Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo đặc trưng loại thể nói chung và
dạy kịch bản văn học theo đặc trưng loại thể nói riêng đã được nghiên cứu từ
lâu, có thể kể tới những công trình như:
- Cuốn “Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể” của các tác giả
Trần Thanh Đạm, Huỳnh Lí, Hoàng Như Mai, Phan Sĩ Tấn và Đàm Gia Cẩn,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 1971. Cuốn sách góp phần làm rõ nhiều vấn đề trong
mối quan hệ giữa loại thể và PPDH Văn. Các tác giả đi sâu vào ba thể loại: tự
sự, trữ tình và kịch, sau đó gợi ý phân tích nhiều thể nhỏ cụ thể như: thơ, biền
văn (hịch, cáo, phú, văn tế,...), truyện, kí, kịch,.... Tác giả Trần Thanh Đạm
khẳng định: “Nhà văn sáng tác theo loại thể thì người đọc cũng tiếp nhận theo
loại thể và người dạy cũng giảng dạy theo loại thể... [20, tr. 30]. Giảng dạy tác
phẩm văn học theo loại thể chính là một phương diện lớn của việc giảng dạy
tác phẩm văn học trong sự thống nhất giữa hình thức với nội dung, một sự giảng
dạy đi đúng với quy luật và bản chất của văn học, đồng thời đảm bảo hiệu quả
giáo dục cao nhất [20, tr. 44]. Cũng trong cuốn sách này, tác giả Huỳnh Lý có
bài Kịch và giảng dạy kịch đề cập đến nhiều vấn đề khi giảng dạy kịch: khái
niệm về kịch, vị trí của kịch trong các loại hình nghệ thuật, đặc trưng của kịch
mà người giảng dạy kịch cần chú ý, sự khác nhau giữa bi kịch và hài kịch, quá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




2


trình phát triển của kịch nói ở nước ta, những vở kịch trong chương trình văn
học cấp III. Từ đó, tác giả nhận định: “Chúng ta không giảng dạy kịch với tính
cách là một loại hình nghệ thuật mà chỉ giảng dạy kịch bản về phương diện văn
học [20, tr. 239].
Có thể nói, cuốn sách đã giúp GV thuận tiện hơn khi tiếp cận tác phẩm
văn học từ đặc trưng loại thể.
- Với cuốn “Cảm thụ và giảng dạy Văn học nước ngoài” - NXB Giáo dục,
2003, tác giả Phùng Văn Tửu đã có những đóng góp quan trọng cho việc dạy
kịch có hiệu quả. Ông viết: “Khi giảng kịch, chúng ta chú ý đến đặc trưng của
loại hình nghệ thuật này để học sinh khỏi rơi vào tình trạng thấy học kịch chẳng
khác gì học truyện ngắn hay tiểu thuyết...” [18].
Điều đó có nghĩa là, ông muốn nhấn mạnh đến đặc trưng loại thể của kịch
khi giảng dạy. Phân tích một đoạn kịch phải gắn liền với kết cấu, với bối cảnh,
không gian, thời gian, lời thoại nhân vật, hành động, xung đột. Tất cả những
yếu tố trên là những định hướng ban đầu giúp ta tiếp cận kịch bản văn học còn
hướng tiếp nhận tác phẩm kịch theo đặc trưng loại thể thì chưa được chỉ ra rõ
ràng, cụ thể.
- Tác giả Nguyễn Viết Chữ trong cuốn “Phương pháp dạy học tác phẩm
văn chương (theo loại thể)” - NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2001 cũng khẳng
định: “Việc xác định loại thể là vấn đề mấu chốt trong quá trình phát triển khoa
học PPDH tác phẩm văn chương” [3, tr. 99]. Từ đây tác giả đưa ra phương
pháp, biện pháp cụ thể dạy học tác phẩm tự sự, tác phẩm trữ tình, các tác phẩm
văn học nước ngoài. Còn riêng với tác phẩm kịch, ông mới chỉ dừng lại ở mức
độ khơi gợi chứ chưa đưa thành một chương của cuốn sách.

- Tài liệu Bồi dưỡng GV thực hiện chương trình, SGK lớp 11 môn Ngữ
văn - NXB Giáo dục, 2007, cũng nêu rõ: “Khi giảng kịch, phải làm sao để
học sinh cảm nhận được đặc trưng của thể loại, tránh học kịch mà như học
tiểu thuyết hay truyện ngắn...” [19, tr. 192]

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



3


Rõ ràng, phân tích một tác phẩm văn chương không thể không chú ý tới
đặc trưng loại thể của nó. Ý thức về loại thể giúp người dạy, người học định
hướng đúng việc phân tích tác phẩm văn học. Tùy thuộc vào thể loại của đối
tượng phân tích mà tìm cách tiếp cận cho phù hợp.
2.2. Những ý kiến phẩm bình về kịch của Lưu Quang Vũ
- Cuốn “Lưu Quang Vũ – về tác gia và tác phẩm” của Lý Hoài Thu – Lưu
Khánh Thơ, NXB Giáo dục (2007) có bài viết “ Con đường sáng tạo của một
tài năng” của nhà nghiên cứu Ngô Thảo bàn về phong cách kịch Lưu Quang
Vũ. Theo tác giả, phong cách kịch Lưu Quang Vũ có những điểm nổi bật sau:
+ Phạm vi đề tài rộng rãi: từ cổ tích dân gian, từ lịch sử, dã sử đến các đề
tài hiện đại.
+ Lưu Quang Vũ có khả năng đặc biệt trong việc tạo tình thế kịch. Trong
mỗi tình thế kịch, điều đáng quý là Vũ đã tạo dựng được một thế giới nhân vật.
Hàng loạt các nhân vật truyền thuyết, lịch sử được Vũ làm mới lại và định hình
trong những đường nét được chấp nhận. Mỗi vở kịch Lưu Quang Vũ đều xây
dựng được những nhân vật đáng nhớ.
+ Lưu Quang Vũ có biệt tài xây dựng những nhân vật phụ có tính cách, có
cá tính và rất “sống”. Vũ đặc biệt chú ý quá trình phát triển của tính cách nhân

vật. Nếu bố cục vở kịch của Vũ thường không có gì rối rắm thì trong phân tích
tâm lí, ông lại chú ý đến những bước phát triển tâm lí, đột biến, những điểm
ngoặt trong tính cách tạo nên những xen kịch bất ngờ, lý thú mà sâu sắc.
+ Nét đặc sắc nổi bật của kịch Lưu Quang Vũ là ngôn ngữ nhân vật thường
không chỉ tự nhiên, gọn, sáng sủa mà còn nhiều sức gợi nghĩ…Ngôn ngữ kịch
của ông thường tự nhiên nhiều lang ý tứ.
- Cuốn “Lưu Quang Vũ tác phẩm chọn lọc” – nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam (2009), có bài viết mở đầu “Lưu Quang Vũ – Tài năng và lao động nghệ
thuật” đã đánh giá “Kịch là nơi Lưu Quang Vũ có thể bộc lộ trực tiếp hơn những
khám phá và nhận thức của mình, là nơi ông có thể đóng góp được một cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



4


trực tiếp và tích cực hơn cho cuộc sống” và “Viết kịch là để sống cho mọi
người. Chọn cho mình con đường viết kịch, Lưu Quang Vũ đã tìm ra con đường
ngắn nhất để đến với công chúng khán giả, để có dịp được bộc lộ những gì
mình đang ấp ủ. Mỗi một vở kịch là một mặt cắt của hiện thực, ở đó hiện lên
những số phận, những cảnh đời khác nhau. Có niềm vui, nỗi buồn, có khổ đau,
hạnh phúc. Ngòi bút của ông khi đau đớn xót xa, lúc thâm trầm sâu lắng, khi
mạnh mẽ đanh thép, lúc lại nghiệt ngã chua cay hoặc cao giọng phê phán. Ông
gửi gắm trong đó những tâm tư, tình cảm, khát vọng, những trăn trở về tình
yêu, hạnh phúc, những suy tư về lẽ sống, lẽ làm người, cả những dự cảm về sự
sống và cái chết…
Trong khoảng thời gian ngắn gần 10 năm, Lưu Quang Vũ đã sáng tác được
hơn 50 vở kịch, một khối lượng đồ sộ khiến nhiều người kinh ngạc. Ông được
đánh giá là “nhà viết kịch xuất sắc của thời kỳ hiện đại”. Nhà phê bình sân khấu

Ngô Thảo – nguyên Phó Tổng thư ký Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam đã nhận
xét: “Có đến ba phần tư số nghệ sĩ Nhân dân, nghệ sĩn ưu tú của Việt Nam (ở
lĩnh vực sân khấu) phải hàm ơn Lưu Quang Vũ”. Trong lịch sử sân khấu nước
ta, thời kỳ của Lưu Quang Vũ có lẽ là thời kỳ sôi động, giàu sức sống nhất, thu
hút đông đảo người xem nhất. Những năm 80, kịch của Lưu Quang Vũ xuất
hiện đã làm thay đổi tư duy của người biểu diễn cũng như của công chúng yêu
sân khấu. Nhiều bài viết của các nhà nghiên cứu phê bình đã đánh giá cao tài
năng, tâm huyết và những đóng góp của Lưu Quang Vũ đối với nền sân khấu
nói riêng và với nền văn học nước nhà nói chung. Ông cũng là một trong những
người tiên phong trong phong trào đổi mới văn hóa văn nghệ, dùng ngòi bút
của mình góp phần đem lại những điều tốt đẹp cho cuộc sống.
Lưu Quang Vũ đã góp phần đem đến cho sân khấu những năm 80 của thế
kỷ XX một sức sống mới. Ông đã kết hợp và phát huy được những thế mạnh
của mình khi đến với loại hình nghệ thuật có tính chất tổng hợp như sân khấu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



5


Kịch của Lưu Quang Vũ khai thác nhiều đề tài, đi vào khám phá muôn mặt của
đời sống xã hội và con người. Căn cứ vào cốt truyện của kịch bản, có thể phân
chia, sắp xếp kịch Lưu Quang Vũ ra làm nhiều loại: Loại dựa vào một số tích
cũ của văn học dân gian rồi viết lại; Loại dựa vào một cốt truyện văn học để
chuyển thành kịch; Loại sáng tác về đề tài hiện đại tiêu biểu như kịch bản văn
học “Tôi và chúng ta”.
Năm 1984, vở “Tôi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ đã gây được tiếng
vang lớn, được khán giả hoan nghênh nhiệt liệt. Với vở kịch này Lưu Quang
Vũ đã mở đầu cho đề tài đổi mới trong cơ chế sản xuất và quản lý, góp một

tiếng nói quan trọng đấu tranh chống tiêu cực, xây dựng hình tượng con người
mới trong cơ chế mới. Vở kịch đã chứng tỏ một sự nhạy bén trong những vấn
đề thời sự, tạo ra sự tranh luận sôi nổi, gay gắt về vấn đề đổi mới. Vở kịch là
tiếng nói nghệ thuật về những điều mà mọi người đang trăn trở, những điều mà
những người can đảm đã nghĩ, đã làm và có khi là phải trả giá cho những việc
làm đó. Lưu Quang Vũ đã công khai bảo vệ tư tưởng mới, lối nghĩ mới, cách
làm ăn năng động sáng tạo, đồng thời phê phán cơ chế quan liêu bao cấp trong
lĩnh vực quản lý kinh tế và cả trong lĩnh vực tinh thần. Với vở kịch này Lưu
Quang Vũ được coi là một trong những tác giả mở đầu cho đề tài đổi mới. Với
“Tôi và chúng ta”, Lưu Quang Vũ đã nói lên niềm khát khao của cả cộng đồng.
“Như một hồi kèn khởi động cho cả đất nước bước vào thời kỳ mới mạnh mẽ
và bão táp dưới ngọn cờ của Đảng” (Vũ Hà, báo Hà nội mới, ngày 10/10/2000).
Trong nhiều vở kịch của mình Lưu Quang Vũ đã thể hiện tư tưởng cái triết
lý phương Đông sâu sắc. Đó là nỗi trăn trở về sự sống và cái chết. Có thể nói
đây là tư tưởng xuyên suốt trong kịch của ông, nó chi phối những tư tưởng khác
như ý tưởng về cái thiện, cái ác, về lòng tốt, về lẽ sống, lẽ làm người. Năm 18
tuổi, chàng thanh niên Lưu Quang Vũ đã ghi những dòng nhật ký tràn đầy dự
cảm lo âu về cuộc sống và cái chết: “Rất có thể một điều vô lý nào đó tới cắt
đứt cuộc đời ta. Cái chết, ta không sợ nó nhưng nếu chết bây giờ thì uổng quá.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



6


Chưa làm được gì cả, ăn hại 17 năm thế rồi chết ư? Thần chết ơi, ta chẳng cần
nhiều đâu. Độ 20 năm nữa, khi ta đã trả nợ xong, khi có thể coi là đã làm được
chút gì đó cho đời, ta sẽ chẳng ân hận gì khi nhắm mắt”. Và chính “tâm hồn
anh dằn vặt cuộc đời anh”, những dự cảm tưởng như mơ hồ ấy đã đeo đẳng

Lưu Quang Vũ suốt cả cuộc đời, như là một ám ảnh định mệnh.
Có thể nói kịch Lưu Quang Vũ đã bắt đúng mạch của cuộc sống, đáp ứng
được những điều mọi người trăn trở, những tâm sự đau đớn của khán giả. Vì
thế mà ông đã gặt hái được rất nhiều thành công giữa lúc sân khấu đang “đói”
những kịch bản hay, theo sát cuộc sống đương thời. Kịch Lưu Quang Vũ là
tiếng nói trẻ trung, nhiệt tâm, sức lực, sự hiểu biết cuộc sống của người nghệ sĩ
đồng thời cũng là kết quả của một tình yêu, của lòng say mê và khát vọng nghệ
thuật. Trên đôi vai lực lưỡng của mình, Lưu Quang Vũ đã gánh đỡ cả một nhu
cầu to lớn về kịch bản cho hàng chục đoàn kịch trong cả nước. Có thể nói Lưu
Quang Vũ là nhà viết kịch sáng giá nhất trong những năm 80 của thế kỷ XX
đầy biến động. Chính sự sáng suốt của lý trí và chất men say của thơ đã tạo nên
những nét đặc sắc trong kịch của ông và làm nổi bật chân dung của một người
nghệ sĩ tài năng, một hiện tượng độc đáo của nền văn học nghệ thuật nước nhà.
2.3. Những tài liệu hướng dẫn dạy học kịch bản văn học “Tôi và chúng ta”
- Sách giáo viên Ngữ văn 9 tập 2 (NXB Giáo dục Việt Nam, 2013) đã trình
bày như sau:
+ Tên bài học: Bài 33: TÔI VÀ CHÚNG TA (Trích cảnh ba)
+ Kết quả cần đạt: Hiểu được tính cách của các nhân vật tiêu biểu Hoàng
Việt, Nguyễn Chính; từ đó thấy được cuộc đấu tranh gay gắt giữa những con
người mạnh dạn đổi mới với những kẻ mang tư tưởng bảo thủ, lạc hậu. Hiểu
thêm về đặc điểm của thể loại kịch.
+ Nôi dung bao gồm:
 Giới thiệu vài nét cơ bản về tác giả và tác phẩm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



7



 Hướng dẫn HS xác định các vấn đề cơ bản về nguyên tắc, cơ chế; chủ
nghĩa tập thể; ý nghĩa đối với sự phát triển của đất nước những năm bấy giờ;
phân tích: tình huống kịch, mẫu thuẫn cơ bản, tính cách của các nhân vật tiêu
biểu và trình bày cảm nhận.
+ Luyện tập: Gợi ý cho HS trình bày tóm tắt sự phát triển của mâu thuẫn
kịch trong đoạn trích theo yêu cầu của SGK.
Qua việc khảo sát, chúng tôi nhận thấy: Bài học tập trung, bám sát vào các
câu hỏi trong SGK và có hướng theo đặc trưng thể loại kịch. Nhưng, từ việc
soạn bài ở nhà HS sẽ đọc lại phần bài đã soạn chứ không cần suy nghĩ thêm các
vấn đề mới hay lựa chọn một cách trình bày mới sao cho dễ học, dễ nhớ hơn.
Và chưa có nội dung khắc sâu kiến thức về thể loại kịch.
- Trong cuốn “Dạy – học theo chuẩn kiến thức, kĩ năng Ngữ văn 9” tập 2 (Chủ
biên Nguyễn Khắc Phi, NXB Giáo dục Việt Nam, 2011) đã xác định cụ thể kiến
thức và kĩ năng bài học qua ba ý: nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa đoạn trích. Cuối
cùng là hướng dẫn tự học với hai câu trình bày: trình bày tóm tắt sự phát triển mẫu
thuẫn kịch và trình bày cảm nhận về cuộc đấu tranh giữa hai phái. So với SGK thì
ở đây bài học được định hướng theo đặc trưng thể loại rõ ràng hơn.
- Trong cuốn “Thiết kế bài học Ngữ Văn 9 theo hướng tích hợp” ( Hoàng
Hữu Bội, NXB Giáo dục, 2005) đã nêu rõ định hướng dạy học, đó là: dẫn dắt
HS đi từ văn bản tới việc tái hiện cuộc xung đột “nảy lửa” diễn ra giữa phái đổi
mới và phái bảo thủ tại phòng làm việc của Giám đốc xí nghiệp; sau đó nhận
xét về tính cách một số nhân vật tiêu biểu cho những phái; cuối cùng rút ra chủ
đề của cảnh ba vở kịch Tôi và chúng ta. Từ định hướng đó, tác giả triển khai
tiến trình bài học qua bốn ý cụ thể:
+ Tiếp xúc bước đầu với văn bản ( đọc văn bản; tìm hiểu vài nét về tác giả
và tác phẩm; tóm tắt kịch bản Tôi và chúng ta).
+ Thâm nhập vào cuộc tranh luận “nảy lửa” giữa phái đổi mới và phái bảo
thủ ( hai gợi dẫn).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




8


+ Nhận xét tính cách của các nhân vật ( một gợi dẫn).
+ Tìm hiểu nội dung tư tưởng của cảnh ba ( một gợi dẫn).
Với bốn gợi dẫn, tác giả đưa HS đến những nội dung cơ bản của bài học
qua việc bám sát vào lời nói, hành động và xung đột của các nhân vật, để từ đó
hiểu nội dung tư tưởng của đoạn trích. Về cơ bản, tác giả cũng đã hướng HS
đến những đặc trưng của thể loại kịch.
- Cuốn Thiết kế bài giảng Ngữ văn Trung học cơ sở 9, tập 2 ( Nguyễn Văn
Đường (chủ biên), NBX Hà Nội,2012) đã có một điểm mới là dạy tích hợp với
nhiều bài học ( Tích hợp với đoạn kịch Bắc Sơn, đoạn kịch Ông Giuốc – đanh
học làm quý tộc, với bài Tổng kết phần Văn học và bài Kiểm tra tổng hợp).
Việc dạy tích hợp này sẽ tạo điều kiện cho HS được so sánh với các kịch bản
văn học khác. Định hướng dạy học trong cuốn sách này cũng đưa đoạn trích
vào tìm hiểu theo thể loại nhưng trong hoạt động bốn còn bị trùng lặp ở việc
phân tích, tìm hiểu nhân vật. Hoạt động tổng kết và luyện tập được mở rộng
hơn với sáu nội dung:
1. Dự đoán xu thế và kết quả của cuộc đấu tranh trong vở kịch như thế nào.
2. Mâu thuẫn trong đoạn trích vở kịch đã giải quyết đến mức nào? Vì sao?
3. Tính cách các nhân vật và mâu thuẫn kịch được giải quyết và làm rõ
chủ yếu bằng phương tiện gì?
4. Đọc lại nội dung Ghi nhớ trong SGK.
5. Tập diễn đoạn kịch trên trong buổi ngoại khóa.
6. Chuẩn bị soạn bài Tổng kết Văn học.
Trong nghiên cứu khoa học thì việc xác định, định hướng nghiên cứu là
công việc rất quan trọng. Vì có định hướng đúng thì mới có những biện pháp ,
phương pháp nghiên cứu phù hợp. Những định hướng trên sẽ giúp chúng tôi

biết được những người nghiên cứu trước tìm hiểu, nghiên cứu và giải quyết vấn
đề ở mức độ nào, học đã có những ý kiến, luận điểm và kết luận gì. Từ đây,
chúng tôi sẽ kế thừa những thành tựu đó và phát triển thêm sao cho phù hợp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



9


với đề tài mà chúng tôi đang nghiên cứu. Đây sẽ là cơ sơ để chúng tôi xây dựng
chương hai: Định hướng dạy học.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Kịch bản văn học: “Tôi và chúng ta” và phương
pháp dạy học kịch bản văn học này theo loại thể.
- Phạm vi nghiên cứu:
Đoạn trích “Tôi và chúng ta” ( trích cảnh ba) trong SGK; hoạt động dạy
và học trích đoạn kịch bản văn học ấy của giáo viên và học sinh lớp 9.
4. Mục đích nghiên cứu
Tìm ra một phương pháp dạy học vừa phù hợp với đặc điểm thể loại của
kịch bản văn học đó, vừa phù hợp với đặc điểm tiếp nhận của học sinh lớp 9.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, cần giải quyết ba nhiệm
vụ sau:
5.1. Nghiên cứu vấn đề trên bình diện lí thuyết
- Loại thể trong văn học Việt Nam.
- Đặc trưng của loại hình kịch.
- Phương pháp dạy kịch bản văn học theo loại thể.
5.2. Nghiên cứu vấn đề trên bình diện thực tiễn

- Vị trí của tác phẩm “Tôi và chúng ta” ( Lưu Quang Vũ) trong chương
trình Ngữ văn cấp THCS.
- Hiểu biết của HS lớp 9 với kịch bản văn học và kịch của Lưu Quang Vũ,
đặc biệt là kịch bản văn học “Tôi và chúng ta”.
- GV với việc dạy đoạn trích kịch bản “Tôi và chúng ta” ở trên lớp.
5.3. Thực nghiệm sư phạm
Luận văn sẽ đề xuất một thiết kế bài học trích đoạn kịch bản văn học “Tôi
và chúng ta” và tiến hành dạy thực nghiệm để kiểm chứng tính khả thi và hiệu
quả của thiết kế mà luận văn đã đề xuất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



10


6. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết nhiệm vụ trên chúng tôi vận dụng một số phương pháp
nghiên cứu như sau:
- Phương pháp đọc và xử lí tư liệu được tác giả sử dụng trong quá trình
làm luận văn. Tác giả đã tìm tòi, tra cứu các tài liệu liên quan đến đề tài để giải
quyết các nhiệm vụ của đề tài
- Phương pháp phân tích được tác giả sử dụng để giới thuyết lịch sử vấn
đề và xây dựng cơ sở lí luận cho đề tài; phân tích các số liệu khảo sát xây dựng
cơ sở thực tiễn cho đề tài.
- Phương pháp hệ thống, thống kê các tài liệu nghiên cứu về dạy học theo
đặc trưng thể loại, về tác giả Lưu Quang Vũ và trích đoạn “Tôi và chúng ta”
- Phương pháp so sánh khi tiến hành phân tích tài liệu và kết quả thực
nghiệm.
- Phương pháp tổng hợp các lí thuyết để tập hợp các ý kiến, phân tích phục

vụ yêu cầu của luận văn.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn hoạt động dạy và học của giáo
viên và học sinh trong trường trung học hiện nay bằng cách dự giờ, phiếu khảo
sát điều tra. Từ đó rút ra các kết luận đáng tin cậy.
7. Cấu trúc luận văn
Cấu trúc của luận văn gồm ba phần: Mở đầu, Nội dung và Kết luận.Phần
nội dung luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Định hướng dạy học kịch bản văn học “Tôi và chúng ta”.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
Ngoài ra, luận văn còn phần phụ lục và tài liệu tham khảo.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



11


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Vấn đề loại thể trong văn học
Theo cuốn “150 thuật ngữ văn học” ( Lại Nguyên Ân biên soạn, NXB
Đại học quốc gia Hà Nội, 2011): “Phạm trù phân loại các tác phẩm văn học,
vốn dĩ đa dạng đồng thời có sự giống nhau, từng nhóm một, theo một dấu hiệu
nhất định. Các nhóm lớn nhất là những “loại”; mỗi loại gồm những nhóm nhỏ
hơn là những “thể” (hoặc “thể loại”, “thể tài”)”. [1,tr.190]
Trong lịch sử văn học, ở cấp độ phân chia những loại, có uy tín nhất là

cách phân chia của Aristoteles, theo đó toàn bộ các tác phẩm văn học gồm ba
loại lớn:
1) Tự sự.
2) Trữ tình.
3) Kịch.
Cơ sở sự phân chia này là sự giống nhau về các kiểu tổ chức ngôn từ, về
việc hoạt động nhận thức trong tác phẩm hướng vào khách thể, hoặc về tính hành
vi phát ngôn nghệ thuật. Ngôn từ có thể hoặc là miêu tả thế giới đối tượng (thực
hiện chức năng miêu thuật), hoặc là biểu hiện trạng thái của người đang phát
ngôn (thực hiện chức năng biểu cảm), hoặc là tái hiện quá trình giao tiếp bằng
lời nói (thực hiện chức năng giao tiếp); mỗi loại văn học nêu trên ứng với một
chức năng của ngôn từ và mang đặc trưng thẩm mĩ riêng.
Tự sự bao quát tồn tại với đặc tính tạo hình, quảng tính thời gian – không
gian, tính biến cố (tính sự kiện). Trữ tình ghi lại thế giới bên trong cá nhân với
những xung đột nội quan, với sự hình thành và thay đổi của các ấn tượng, mộng
tưởng, tâm trạng, liên tưởng, trầm tư, xúc động (tính biểu cảm). Còn kịch ghi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



12


lại những hành vi ngôn ngữ trong định hướng ý chí – cảm xúc của chúng, trong
đặc tính xã hội – tâm ly của chúng, trong sự tự do nội tại và điều kiện hóa ngoại
tại của chúng, tức là trong sự tương quan hai mặt biểu cảm – sự kiện của chúng;
điều này cho phép nhận thấy ở loại văn học kịch sự hòa trộn những nét của trữ
tình và tự sự.
Cách phân loại văn học trên đây ứng với cách phân nhóm nghệ thuật trong
mỹ học, theo đó có nhóm các nghệ thuật miêu tả, nhóm các nghệ thuật biểu

hiện và các nhóm nghệ thuật diễn xướng (miêu tả - biểu cảm). Cách phân loại
văn học trên đây cũng gắn với hai phạm trù chủ thể và khách thể (cùng sự tương
tác giữa chúng) trong nhận thức luận. Tiền đề của việc phân loại là tính chất đa
hình đa dạng của ngôn từ như phương tiện nghệ thuật vốn có sự gần gũi (trong
các khả năng tạo hình, biểu hiện, thể hiện động thái) với màu sắc, âm thanh,
động tác. Sự khác nhau giữa các loại văn học tùy thuộc ở khả năng kết hợp với
các nghệ thuật khác: trữ tình với âm nhạc (bài hát), kịch với pantomim (sân
khấu), tự sự với đồ họa và hội họa (sách có minh họa), v.v. Đôi khi cách chia
thành ba loại văn học như trên có sự tương đồng với các phạm trù “ngôi” và
“thì” trong tâm lý học ngôn ngữ: trữ tình thì ứng với ngôi thứ nhất và thì hiện
tại; kịch úng với ngôi thứ hai và thì tương lai; tự sự ứng với ngôi thứ ba và thù
quá khứ.
Trong phạm vi mỗi loại văn học là các thể (“thể loại” hoặc “thể tài”),
chúng được phân chia căn cứ vào các tố chất thẩm mĩ chủ đạo, vào giọng điệu,
vào dung lượng và cấu trúc chung của tác phẩm. Dung lượng thường phụ thuộc
và loại văn học và giọng điệu; ví dụ trữ tình thường có dung lượng nhỏ; kịch chỉ
có một số kích cỡ do bị quy định bởi việc diễn xướng; chất anh hùng ca, chất bi
kịch đòi hỏi sự khai triển “dài hơi”, v.v... kích cỡ tác phẩm đôi khi còn tùy thuộc
ở ý đồ tác giả.
Nhiều thể còn được chia nhỏ hơn, căn cứ vào các nguyên tắc cụ thể được
quy định sẵn. Diện mạo các thể phong phú và phồn tạp còn do các dạng thức
mang tình lịch sử và các dạng thức mang tính dâm tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



13


Các lý thuyết về thể thường không bao quát được toàn bộ hệ thống, không

xác định được chính xác vị trí một tác phẩm trong hệ thống.
Mỗi thể (tức là một “diện mạo” chung mà người ta hình dung được do
trừu xuất từ một loạt tác phẩm thuộc thể ấy) là một khối thống nhất những đặc
điểm hình thức trên những điểm căn bản: kết cấu, hình tượng, ngôn ngữ, tiết
tấu. Có những khác biệt nhất định về thể tài ở những tác phẩm thuộc các đề tài
khác nhau và của những nghệ sĩ khác nhau. Tuy vậy, mỗi thể là một thành tạo bền
vững, ổn định; mỗi thể là một hệ thống những thành tố hình thức đã thấm nhuần
những hàm nghĩa nhất định.
Trong sự phát triển lịch sử, các thể liên tục bị biến đổi, bị cải tạo, nhất là
trong sáng tác của những tác giả xuất sắc. Có những thể được hình thành qua
nhiều thế kỉ, sau một thời gian dài tồn tại, đã lụi tàn. Tuy nhiên các thể cũng
bộc lộ tính bền vững, “sống dai”; các hình thức từng được đề xuất hiếm khi bị
bỏ qua; nhiều khi một thể được tái sinh dưới dạng mới.
Thể loại văn học phản ánh những hướng phát triển bền vững của văn
học;sự tồn tại của thể loại văn học có ý nghĩa như sự bảo lưu, đổi mới các hướng
phát triển ấy. Thể loại văn học, do vậy vừa mới vừa cũ, vừa biến đổi vừa ổn
định.
1.1.2. Kịch bản văn học
• Khái niệm về kịch
Cuốn “Từ điển thuật ngữ văn học” của nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình
Sử, Nguyễn Khắc Phi chia thuật ngữ kịch theo hai cấp độ: cấp độ loại hình và
cấp độ thể loại.
Theo đó mà xác định được, kịch là một trong ba phương thức cơ bản của
văn học (kịch, tự sự, trữ tình). Kịch vừa thuộc sân khấu vừa thuộc văn học. Nó
vừa để diễn lại vừa để đọc vì kịch bản chính là phương diện văn học của kịch.
Song nói đến kịch là phải nói đến sự biểu diễn trên sân khấu của các diễn viên
bằng hành động, cử chỉ, điệu bộ và lời nói ( riêng kịch câm thì không nói bằng
lời).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




14


Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc
những xung đột muôn thuở mang tính nhân loại (như giữa thiện và ác, cao cả
và thấp hèn, ước mơ và hiện thực…). Những xung đột ấy được thể hiện bằng
một cốt truyện có cấu trúc chặt chẽ qua hành động của các nhân vật và theo
những quy tắc nhất định của nghệ thuật kịch. Trong kịch thường chứa đựng
nhiều kịch tính, tức là sự căng thẳng do tình huống tạo ra đối với nhân vật.
Phần lớn kịch được xây dựng trên hành động bên ngoài với những diễn
biến của chúng và theo những nguyên tắc có sự đấu tranh chống lại của các
nhân vật. Tuy nhiên, cũng có hành động bên trong qua đó nhân vật chủ yếu là
suy ngẫm và chịu đựng một tình huống xung đột bên trong hết sức căng thẳng.
Trong kịch, những lời phát biểu của các nhân vật (trong đối thoại hoặc độc
thoại) nói lên hành động, ý chí và sự khám phá tích cực của họ có một ý nghĩa
quyết định. Còn những lời trần thuật (câu chuyện kể của nhân vật về những
điều đã qua, sự thông báo của người dẫn truyện, những lời chỉ dẫn của tác giả
trong kịch bản) chỉ đóng vai trò thứ yếu và nhiều khi không cần đến.
Về mặt kết cấu, vở kịch thường chia làm nhiều hồi, cảnh, nhằm tạo ra sự
trùng hợp giữa thời gian, địa điểm và hành động kịch, dồng thời làm cho cái
được trình diễn mang màu sắc xác thực của cuộc sống. Qua các thế kỉ khác
nhau, mối quan hệ giữa ba yếu tố: thời gian, địa điểm, hành động trong kết cấu
của kịch không ngừng thay đổi tùy theo quan niệm của người sáng tạo và quy
mô, tầm vóc của những sự kiện, biến cố được phản ánh.
Trên cấp độ loại hình, kịch bao gồm nhiều thể loại: bi kịch, hài kịch, chính
trị, cùng nhiều tiểu loại và biến thể khác nhau.
Và, mặt khác, Thuật ngữ “kịch” được hiểu là dùng để chỉ một thể loại văn
học – sân khấu có vị trí tương đương với bi kịch và hài kịch. Với ý nghĩa này,

kịch cũng còn gọi là chính kịch. Cũng giống như hài kịch, kịch tái hiện cuộc
sống riêng của con người bình thường nhưng mục đích chính không phải để
cười nhạo, chế giễu các thói hư tật xấu, mà là mô tả cá nhân trong các mối quan
hệ chứa đựng kịch tính đối với xã hội. Và cũng giống với bi kịch, kịch chú
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



15


trọng tái hiện những mâu thuẫn gay gắt, song những xung đột của nó không
căng thẳng đến tột độ, không mang tính chất vĩnh hằng và về nguyên tắc có thể
giải quyết ổn thỏa. Còn các tính cách của kịch thì không có gì đặc biệt, phi
thường.
Kịch hình thành như một thể loại vào nữa sau thế kỉ XVIII qua sáng tác
của các nhà Khai sáng ở Đức và Pháp. Nó hướng về những lợi ích tinh thần đạo
đức, về lí tưởng của các lực lượng dân chủ tiến bộ đương thời. Trong qua trình
phát triển của kịch, tính kịch bên trong của nó ngày càng cô đọng, dồn nén hơn.
Nó cũng tiếp nhận những thủ pháp nghệ thuật, phương tiện biểu đạt của các thể
loại văn học sân khấu như bi hài kịch, kịch hề… để tăng thêm sức hấp dẫn và
tác động nghệ thuật của nó đối với công chúng.
Ở Việt Nam, kịch ra đời vào cuối những năm 20 của thế kỉ XX, với những
sáng tác như Chén thuốc độc của Vũ Đình Long, Kim tiền của Vi Huyền Đắc…
Từ sau Cách mạng tháng Tám, kịch ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong
đời sống văn học – sân khấu và xã hội ở nước ta.
Như vậy, nói đến kịch là nói đến một hình thức nghệ thuật đặc biệt, được
diễn viên biểu diễn trên sân khấu với các hành động, cử chỉ và lời nói. Từ đó,
bộc lộ suy nghĩ, tính cách của nhân vật và thấy được giá trị nội dung, nghệ thuật
của vở kịch. Kịch có nhiều đặc điểm riêng biệt, ngoài sự tồn tại ở hình thức

biểu diễn trên sân khấu thì kịch còn có thể đọc, tức là kịch bản văn học.
• Kịch bản văn học
Kịch bản văn học là một trong bốn thể loại cơ bản của văn học (thơ, kí,
truyện và kịch). Bêlinxki cho rằng: Tác phẩm kịch là “ sự dung hợp giữa các
yếu tố đối lập của tính khách quan tự sự và tính chủ quan trữ tình”, kịch chính
là nơi dung hợp hai yếu tố tự sự và trữ tình. Kịch bản văn học – một trong
những thể loại chính của văn học tiêu biểu cho phương thức phản ánh – phương
thức kịch. Kịch bản là một bộ phận của văn học, nó vừa thuộc nghệ thuật sân
khấu vừa thuộc nghệ thuật ngôn từ. Là một vở diễn trên sân khấu, sống cùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



16


với công chúng khán giả và cũng là một tác phẩm văn học, tồn tại cùng công
chúng độc giả. Tuy nhiên, kịch bản văn học không thể bộc lộ đầy đủ vẻ đẹp
như một vở kịch được trình diễn trên sân khấu. Những nhà viết kịch đều phải
thừa nhận mối liên kết chặt chẽ giữa kịch bản văn học với bộ môn nghệ thuật
sân khấu, trong đó kịch bản văn học là “linh hồn” là cái gốc cho sự thành công
mang ý nghĩa trọn vẹn của kịch sân khấu. Như vậy, kịch bản văn học là một bộ
phận hợp thành của nghệ thuật sân khấu và nó không chỉ sống đời sống gắn bó
với nghệ thuật sân khấu, mà còn có đời sống riêng của nghệ thuật ngôn từ.
1.1.3. Đặc trưng thể loại của kịch bản văn học
Có rất nhiều ý kiến, khái niệm và cách phân chia khác nhau về kịch bản
văn học, tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của luận văn thì về cơ bản kịch
có những đặc trưng sau:
- Xung đột kịch
Kịch bắt đầu từ xung đột. Phađeep khẳng định: “Xung đột là cơ sở của

kịch”. Hiểu theo nghĩa hẹp, xung đột trong tác phẩm kịch là sự phát triển cao
nhất sự mâu thuẫn của hai hay nhiều lực lượng đối lập thông qua một sự kiện
hay một diễn biến tâm lí cụ thể được thể hiện trong mỗi màn, mỗi hồi kịch.
Có nhiều loại xung đột khác nhau. Có xung đột biểu hiện của sự đè nén,
giằng co, chống đối giữa các lực lượng, có xung đột được biểu hiện qua sự đấu
tranh nội tâm của một nhân vật, có xung đột là sự đấu trí căng thẳng và lí lẽ
thuyết phục đối phương giữa hai lực lượng…
Xung đột kịch cần phải phản ánh qua những mâu thuẫn cơ bản của xã hội
và thời đại, nói cách khác là luôn mang tính lịch sử cụ thể. Ở những thời đại
khác nhau có những xung đột khác nhau.
Do tính chất sân khấu qui định cho nên trong khi phản ánh hiện thực, tác
giả kịch bản buộc phải bước vào những mâu thuẫn trong cuộc sống đã phát
triển đến chỗ xung đột, đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách này hay cách

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



17


khác. Vì vậy, có thể nói, xung đột là đặc điểm cơ bản của kịch. Hêghen cho
rằng “ Tình thế giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch”.
Trong kịch bản văn học “Tôi và chúng ta”, bằng cách để cho Giám đốc
Hoàng Việt công bố kế hoạch mở rộng sản xuất và phương án làm ăn mới trước
cuộc họp của các cán bộ quản lí xí nghiệp, tác giả đã tạo ra tình huống xung đột
trực tiếp giữa hai phái qua những đối thoại của các nhân vật. Tư tưởng đổi mới
của Hoàng Việt đã đụng chạm tới các quan niệm và quy định vốn được coi là
những nguyên tắc không thể thay đổi, nên đã gặp phải sự phản đối của Trưởng
phòng Tổ chức lao dộng, Trưởng phòng Tài vụ, Quản đốc Trương và nhất là

của Phó giám đốc Nguyễn Chính. Cảnh ba mới chỉ là mở đầu cuộc xung đột
giữa hai phái, sẽ còn tiếp diễn gay gắt trong những cảnh sau của vở kịch. Nhưng
cảnh này, mỗi phái đã bộc lộ rõ quan điểm của mình, đồng thời cho thấy cuộc
đấu tranh sẽ còn quyết liệt, cái mới không phải dễ dàng chiến thắng cái bảo thủ
lạc hậu.
- Hành động kịch
Hành động chính là đặc trưng của kịch. Hêghen cho rằng: “ Nội dung chủ
yếu của tự sự là sự kiện, của trữ tình là tâm trạng và của kịch là hành động”.
Trong kịch, nếu xung đột được coi là điều kiện cần thiết làm nảy sinh tác phẩm,
thì hành động lại là yếu tố duy trì sự vận hành của tác phẩm. Hành động là sự
thể hiện trực tiếp nội dung của xung đột kích. Vì vậy, hành động là yếu tố đặc
trưng không thể thiếu đối với bất kì một kịch bản văn học nào.
Hành động kịch được thể hiện qua suy nghĩ, hành vi, động tác, ngôn ngữ
của nhân vật. Hành động kịch thường phát triển theo hướng thuận chiều với
xung đột kích. Xung đột càng căng thẳng thì hành động càng trở nên quyết liệt.
Như vậy, hành động kịch không phải những hành động đơn lẻ, ngắt quãng mà
là một chuỗi hành động liên tục xoay quanh xung đột. Hành động kịch ở dây
chính là cốt truyện kịch được tổ chức một cách thống nhất, chặt chẽ trong khuôn
khổ của một chính thể nghệ thuật.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



18


Cụ thể, sau một năm về làm quyền giám đốc xí nghiệp Thắng Lợi, Hoàng
Việt đã nhận ra xí nghiệp đang đứng bên bờ vực thẳm, mọi người tự đánh lừa
mình, lừa cấp trên bằng việc hoàn thành các kế hoạch một cách giả tạo. Nay

với tư cách là quyền giám đốc, nhận thấy những bất hợp lí đó, Hoàng Việt quyết
định củng cố lại xí nghiệp và thực thi phương án làm ăn mới, dứt khoát không
tuân thủ theo những lối mòn các nguyên tắc lạc hậu đã kìm hãm sự phát triển
của xí nghiệp, với ý kiến của Hoàng Việt về kế hoạch mở rộng sản xuất và
phương án làm ăn mới không được sự đồng thuận và chia sẻ của những người
bảo thủ đang là cộng sự của mình. Muốn mở rộng quy mô sản xuất thì cần phải
thêm nhiều công nhân. Trưởng phòng Lao động cho rằng: biên chế trên cho ta
có thế. Trưởng phòng Tài vụ nói không có quỹ lương cho hợp đồng, không
chịu chi tiền để sửa chữa vật tư máy móc, dù đã có lệnh chi của giám dốc.
Việc giảm biên chế của quản đốc phân xưởng đã gây phản ứng mạnh mẽ đến
quản đốc Trương. Hoàng Việt cho đó là thừa, Trương cho đó một chức quan
trọng không thể thiếu. Nhất là Phó Giám đốc Nguyền Chính, người chỉ luôn
miệng dựa vào cấp trên để không tán thành kế hoạch đối mới của Hoàng Việt.
Tình trạng ngưng trệ sản xuất của xí nghiệp đã đến lúc phải giải quyết bằng
những quyết định táo bạo. Sau quá trình tìm hiểu kĩ càng, quyền giám đốc
Hoàng Việt quyết định công bố kế hoạch mở rộng sản xuất và phương án làm
ăn mới. Như vậy, có nghĩa là Việt và Sơn đã công khai tuyên chiến với cơ chế
quản lí và phương thức tổ chức đã trở nên lỗi thời. Những công bố của Hoàng
Việt liên tiếp gây bất ngờ đối với nhiều người.
Phản ứng của trưởng phòng Tổ chức lao động và trưởng phòng Tài vụ
liên quan đến biên chế, đến quỹ lương. Phản ứng của Quản đốc phân xưởng
Trương liên quan đến hiệu quả sản xuất và quản lí công nhân. Khi Hoàng Việt
khẳng định phải đổi mới, phản ứng của nhóm người này càng lúc càng gay gắt.
Những xung đột trên chứng tỏ muốn mở rộng quy mô sản xuất, xí nghiệp cần
phải có nhiều thay đổi mạnh mẽ, đồng bộ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN




19


Những tình tiết mà tác giả đưa ra chứng minh cho mâu thuẫn căng thẳng
giữa cái mới và cái cũ. Điều đó thể hiện qua tính cách của các nhân vật tiêu
biểu, mà tính cách chủ yếu được bộc lộ qua hành động và ngôn ngữ.
Đứng trước những khó khăn rất lớn của xí nghiệp, Hoàng Việt đã triệu tập
cuộc họp toàn thể ban lãnh đạo để trình bày kế hoạch mở rộng sản xuất và
phương án làm ăn mới. Theo Việt, muốn phát triển quy mô sản xuất, phải tận
dụng hết khả năng lao động của công nhân, mà muốn vậy thì phải lo đủ nguồn
vật tư, nguyên liệu.
Sau đó là phải trang bị các loại máy móc mới và nâng cao trình độ tay
nghề của công nhân. Phương hướng mới của Giám đốc Hoàng Việt đưa ra đụng
chạm tới chỉ tiêu kế hoạch sản xuất của xí nghiệp do cấp trên đưa xuống. Mà
quỹ lương của xí nghiệp thì chỉ đủ trả cho số công nhân trong biên chế. Muốn
mở rộng sản xuất thì phải cần thêm thợ, có nghĩa là cần cổ tiền để trả lương cho
thợ, mà tiền thì không có. Những quy định về luật pháp, về quyền hạn và trách
nhiệm của một giám đốc, Hoàng Việt cũng không có. Gay nhất là phần lớn
thành viên trong ban lãnh đạo không ủng hộ. Hoàng Việt đã làm thế nào để giải
quyết những khó khăn to lớn đó.
Trước hết, Việt giải quyết vấn đề quỹ lương bằng một quyết định bất ngờ
và táo bạo: Trước mắt, chúng ta sẽ dừng việc xây nhà khách, sẽ có tiền trả đủ
hai tháng lương. Sau này sẽ truy hoàn.
Tiếp đó, việc tu sửa máy móc hỏng hóc, đặt ra chế độ lương khoán theo sản
phẩm để từ đó nâng cao mức lương của công nhân.
Lời phát biểu chính xác và đầy nhiệt huyết của Giám đốc Hoàng Việt đã
được mọi người hoan hô rầm rộ. Là người trung thực, Hoàng Việt dũng cảm
đấu tranh với niềm tin là chân lí sẽ thắng. Mạnh dạn thay đổi bộ máy lãnh đạo
bảo thủ và không có năng lực. Khi bà Trưởng phòng tài vụ không chịu chi tiền,
Việt nói : “ Nếu không thi hành, sẽ có người khác làm thay chị… Cô Loan kế

toán – Trưởng phòng tài vụ, hãy chuẩn bị cho công nhân lĩnh lương mới từ
thảng tới”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – ĐHTN



20


×