Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO đề CƯƠNG ôn THI môn tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về CHỦ NGHĨA xã hội, đại học và SAU đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.61 KB, 29 trang )

MÔN TƯ TƯỞNG HCM VỀ CNXH
Câu 1. Phân tích TT HCM về CNXH. Phê phán quan điểm sai
trái?
1. Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Từ giữa thế kỷ XIX, đất nước ta bị thực dân Pháp xâm lược và
thống trị, nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh nô lệ lầm than, “một cổ hai
tròng”, bị bọn đế quốc và phong kiến áp bức, bóc lột. Nhiều cuộc khởi
nghĩa chống Pháp trong phong trào Cần Vương do các sĩ phu yêu nuớc
lãnh đạo đã nổ ra (khởi nghĩa Hương Sơn của Phan Đình Phùng, khởi
nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám v.v..), nhưng tất cả đều bị đàn áp
đẫm máu. Tiếp đến là các phong trào yêu nước, như phong trào Đông Du
do Phan Bội Châu khởi xướng, phong trào Duy Tân của Phan Châu Trinh,
Huỳnh Thúc Kháng, phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục do Lương Văn
Can, Nguyễn Quyền lãnh đạo v.v.., đều bị thất bại. CMVN rơi vào bế tắc
về đường lối.
Trong bối cảnh đó, với khát vọng và “ham muốn tột bậc là làm sao
cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”, người thanh niên yêu
nước Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã quyết tâm
ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Trên hành trình qua khắp
năm châu, bốn biển, Người đã có điều kiện nghiên cứu kỹ lưỡng về các
cuộc cách mạng tư sản Âu - Mỹ và các thể chế chính trị xã hội đương thời.
Người rút ra kết luận, các cuộc CMTS là các cuộc ''cách mệnh không đến
nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước đoạt công
nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”, “nó chỉ mang lại quyền lợi cho một
số ít người”. Theo quan điểm của Người: chúng ta đã hy sinh làm cách
mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền
giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới
khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”.
Năm 1917, CMT10 Nga thắng lợi, mở ra một TĐ mới trong LS loài
người - TĐQĐ từ CNTB lên CNXH. Bằng trí tuệ thiên tài, phẩm chất, nhân


cách và năng lực hoạt động thực tiễn của mình, từ CNYN, CTHCM đã đi đến
với CN M-L. Khi đọc bản Sơ thảo luận cương về các vấn đề DT và thuộc địa
của Lênin, Người đã vui mừng đến phát khóc lên, ngồi trong phòng mà
Người nói to như truớc đồng bào đang đau khổ: Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta. Từ sự phân tích, nhìn nhận

một cách khách quan, KH, Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, CN
nhiều, nhưng CN chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là CN
Lênin”.
Chủ tịch HCM quyết định lựa chọn đưa CMVN đi theo con đường
của CM tháng Mười, theo quỹ đạo của CMVS. Người nói: “Chỉ có CNXH
và CNCS mới giải phóng được các DT bị áp bức và những người lao động
trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Đây là bước chuyển vô cùng quan trọng đối
với CMVN, bởi nó chấm dứt sự khủng hoảng về đuờng lối, mở ra hướng
đi mới cho lịch sử ĐT.
Trên nền tảng lý luận của CN M–L, đồng thời xuất phát từ điều
kiện, hoàn cảnh lịch sử thực tiễn VN, CTHCM đã xây dựng sáng tạo học
thuyết cách mạng giải phóng dân tộc và phát triển đất nước của VN. Trong
đó, vấn đề cơ bản nhất, xuyên suốt nhất là: “ĐLDT gắn liền với CNXH''.
Đó là sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, khách quan, phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại, đáp ứng khát vọng thiêng liêng của toàn thể nhân
dân VN, giải quyết triệt để những mâu thuẫn nội tại của CMVN.
Theo quan điểm của CTHCM: “CMGPDT phải phát triển thành
CMXHCN thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn”. Bởi chỉ có gắn bó
mục tiêu ĐLDT với CNXH, đưa CMVN vào quỹ đạo CNVS phù hợp với
xu thế phát triển của TĐ thì mới huy động được sức mạnh của DT với sức
mạnh của TĐ, sức mạnh trong nước và sức mạnh quốc tế để giành ĐL, TD
cho TQ và chỉ có CNXH mới bảo vệ vững chắc ĐLDT, mới đem lại TD,
hạnh phúc cho nhân ND (trong quan niệm của Người khi nước giành được
độc lập nhưng ND còn chưa được tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng

có ý nghĩa gì).
TTHCM về CMDT, DC, tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua giai đoạn
phát triển TBCN, đã được chính thức khẳng định trong Cương lĩnh đầu
tiên năm 1930 của Đảng ta: “làm tư sản dân quyền CM và thổ địa CM để
đi tới XHCN”. Tư tưởng của Người đã đặt nền móng cho việc hình thành
đường lối, tạo nên thắng lợi vĩ đại của CMVN hơn 83 năm qua.
Giương cao ngọn cờ ĐLDT và CNXH, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đứng đầu là CTHCM, nhân dân ta đã ĐK một lòng, nhất tề đứng dậy, tiến
hành thắng lợi tổng khởi nghĩa CM tháng Tám (1945), phá tan xiềng xích
nô lệ của TD, PK lập ra Nhà nước Dân chủ nhân dân đầu tiên ở ĐNA, mở
ra một kỷ nguyên mới trong LS nước ta - kỷ nguyên ĐLDT và tiến lên
CNXH.


2
2.Đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
a. Cách tiếp cận của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
* HCM tiếp cận tư tưởng CNXH từ quan điểm HTKT-XH của
Mác. Luận điểm cơ bản của M-Ă về 1 xh mới với những đặc trưng bản
chất là xóa bỏ chế độ người bóc lột người dựa trên TH về TLSX, xóa bỏ
tình trạng bị áp bức về CT, nô dịch về tinh thần. Lênin đã phát triển luận
điểm về CNXH ở điều kiện CNTB đã chuyển sang giai đoạn độc quyền,
tức giai đoạn ĐQCN. CMT10 Nga năm 1917 đã làm cho lý luận trở thành
hiện thực: CNXH với tư cách là 1 xh mới, một bước phát triển cao và tốt
đẹp hơn so với CNTB. HCM khẳng định vai trò quyết định của sức sx đối
với phát triển của xh cũng như đối với sự chuyển biến từ xh nọ sang xh
kia. Bác cũng khẳng định, trong LS loài người có 5 hình thức QHSX
chính, và nhấn mạnh "không phải quốc gia dt nào cũng đều trải qua các
bước phát triển tuần tự như vậy". Bác sớm đến với tư tưởng quá độ tiến
thẳng lên CNXH không trải qua giai đoạn TBCN.

*HCM đã tiếp cận CNXH từ quan điểm DVLS khoa học, từ sự
giác ngộ về SMLS của GCCN-GC trung tâm của TĐ. NAQ trực tiếp
tham gia PTCN, khi trở thành người cộng sản Người đã tìm hiểu và viết
nhiều bài về GCCN (ấn, nhật, trung, thổ nhĩ kỳ...). Tuy hoạt động ở nước
ngoài người vẫn theo dõi phong trào công nhân ở VN. Năm 1922, lần đầu
CN ở Chợ Lớn bãi công, NAQ coi đó là "dấu hiệu chứng tỏ GCCN đã bắt
đầu giác ngộ về lực lượng và giá trị của mình"..."chúng ta phải ghi lấy dấu
hiệu của thời đại". "GCCN ở chính quốc không phải chỉ tỏ tình ĐK với
những người anh em ở đấy bằng lời nói mà thôi, mà còn phải giác ngộ,
giáo dục họ về ý thức tổ chức và pp tổ chức".
*HCM tiếp cận CNXH từ CNYN và truyền thống VH tốt đẹp của
dt.
Từ đặc điểm ls dt: nước ta không trải qua thời kỳ CHNL mang đậm
dấu ấn PK phương đông, mâu thuận GC không gay gắt, quyết liệt, kéo dài,
như ở phương tây, do đó hình thành quốc gia dt từ sớm; ngày từ buổi đầu
dựng nước, chúng ta liên tục phải đấu tranh chống ngoại xâm, hình thành
CNYN truyền thống; Là nước NN, lấy đất và nước làm nền tảng với chế
độ công điền hình thành cộng đồng thêm bền chặt. Tất cả điều này là giá
trị cơ bản của tinh thần và tư tưởng XHCN ở VN: tinh thần yêu nước, yêu
thương đùm bọc trong họan nạn đấu tranh, cố kết cộng động quốc gia dt.

Từ truyền thống văn hóa lâu đời, bản sắc riêng: đó là nền văn hóa
lấy nhân nghĩa làm gốc, trừ độc, trừ tham, trọng đạo lý; nền văn hóa mang
tính dân chủ; có tính chất khoan dung; một dt trọng hiền tại; hiếu học...
Tư duy triết học PĐ: coi trọng hòa đồng, đạo đức nhân nghĩa.
HCM quan niệm, CNXH là thống nhất với văn hóa, đạo đức, "CNXH là
giai đoạn phát triển cao hơn so với CNTB về mặt văn hóa và giải phóng
con người".
* HCM tiếp cận CNXH từ yêu cầu thực tiễn của CMVN và xu
hướng phát triển của thời đại.

CMVN đầu thế kỷ 20 đặt ra yêu cầu khách quan là tìm 1 ý thức hệ
mới, đủ sức vạch ra đường lối và phương pháp CM đúng đắn đem lại
thắng lợi cho CMVN. CMVN đòi hỏi có 1 GC tiên tiến đại diện cho PTSX
mới, có hệ tư tưởng độc lập, có ý thức tổ chức và trở thành GC tự giác
đứng lên làm CM. HCM sớm nhìn thấy PTYN VN đang rơi vào khủng
hoảng về đường lối, vì vậy CM chưa đem lại GPDT. Tư tưởng ĐLDT gắn
liền với CNXH xuất phát từ thực tiễn CMVN.
CMT10 Nga giành thắng lợi đã mở ra con đường hiện thực cho
gpdt ở phương đông: ĐLDT gắn liền với CNXH. NAQ đã bắt đầu truyền
bá tư tưởng CNXH trong dân.
*HCM đến với CNXH từ tư duy độc lập sáng tạo tự chủ. Đặc điểm
của định hướng tư duy tự chủ sáng tạo là: định hướng tư duy trên cơ sở
thực tiễn; luôn tìm tận gốc của sự vật, hiện tượng; kết hợp lý trí khoa học
và tình cảm cách mạng. Tư duy của HCM là tư duy rộng mở và văn hóa.
Con đường đi lên CNXH ở nước ta được khẳng định bởi tính ưu
việt của một chế độ xã hội tốt đẹp, với mục tiêu cao cả đó là GPXH,
GPCN khỏi mọi áp bức, bất công, tạo điều kiện để phát triển toàn diện con
người. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh LSVN, CNXH là vấn đề rất mới, nhất
là trong điều kiện nước ta KT còn nghèo nàn, lạc hậu, bị chiến tranh tàn
phá nặng nề, kẻ thù lại thường xuyên chống phá, xuyên tạc, cho nên nhiều
người còn nhận thức mơ hồ về CNXH, hoài nghi về tính hiện thực của
CMXH và con đường đi lên CMXH ở nước ta.
b. Bản chất và đặc trưng tổng quát của CNXH
CTHCM cho rằng, CNXH không phải là những gì cao siêu, huyền
bí. Quan điểm của CYHCM về CNXH hết sức cụ thể, giản dị, dễ hiểu:
''CNXH là làm sao cho dân giầu, nước mạnh”, “mục đích của CNXH là
không ngừng nâng cao mức sống của ND”, “CNXH là mọi người cùng ra
sức lao động SX để được ăn no, mặc ấm và có nhà ở sạch sẽ”. Nguời
khẳng định XHXHCN là “một thế giới không có người bóc lột người, mọi



3
người sung sướng,vẻ vang, tự do, bình đẳng, xứng đáng là thế giới của loài
người”.
Đối với điều kiện, đặc điểm của VN, một nước nông nghiệp lạc
hậu, có xuất phát điểm thấp, chưa kinh qua giai đoạn phát triển TBCN, thì
mục tiêu ban đầu của CNXH phải đặt ra một cách thiết thực: “Làm cho
người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người giàu thì giàu
thêm. Người nào cũng biết chữ. Người nào cũng biết ĐK, yêu nước”.
Theo TTHCM, XHXHCN luôn là sự thống nhất biện chứng của
các yếu tố KT, CT, VH, XH. Người nói: “xã hội ngày càng tiến, vật chất
ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là CNXH''. Cụ thể hơn, Bác
cho rằng CNXH phải “có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa
và khoa học tiên tiến”. Còn về CT, XHXHCN là do ND làm chủ, bao
nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, quyền hành và
lực lượng đều ở mọi người dân, mọi cán bộ, công chức NN đều là công
bộc của dân.
Tuy nhiên, CTHCM cũng chỉ ra rằng, con đường đi lên CNXH
không hoàn toàn bằng phẳng, mà có vô vàn khó khăn, phức tạp cần phải
vượt qua. Người nhận định: “XD CNXH là một cuộc đấu tranh cách mạng
phức tạp, gian khổ và lâu dài '', “ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại” bởi
“biến đổi một XH cũ thành một XH mới, không phải là một chuyện dễ'',
“thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng, lạc hậu còn
khó khăn hơn nhiều”. Người lưu ý, tuy CNXH có mục tiêu, nguyên lý
chung, nhưng cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm LS cụ thể
của mỗi nước khi bước vào XD CNXH. Người viết: “Tùy hoàn cảnh mà
các DT phát triển theo con đường khác nhau. Có nước đi thẳng lên CNXH.
Có nước thì phải kinh qua chế độ dân chủ mới, rồi tiến lên CNXH''. Theo
Người, TKQĐ ở VN sẽ phải trải qua nhiều bước, “bước ngắn, bước dài,
tùy theo hoàn cảnh'', nhưng: “chớ ham làm mau, ham rầm rộ. Đi bước nào

vững vàng, chắc chắn bước ấy, cứ tiến tới dần dần'. Người căn dặn, phải
nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, chống giáo điều, rập khuôn
kinh nghiệm nước ngoài. Người nói: “Ta không thể giống Liên Xô, vì LX
có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác...Ta có thể đi con đường
khác để tiến lên CNXH".
c. Những điều kiện đảm bảo CM thành công, XD thành công
CNXH trên đất nước ta
Điều quan trọng nhất, theo CTHCM, truớc hết phải có Đảng.

CM có Đảng LĐ như tầu có lái mới vượt qua được phong ba bão
táp; phải XD và tăng cường vai trò LĐ của Đảng, ĐCS là nhân tố quyết
định thành công của sự nghiệp CM, của việc XD CNXH ở nước ta. Đảng
phải lấy CN M-L làm nền tảng TT. Do vậy, CTHCM hết sức quan tâm tới
công tác XD Đảng; yêu cầu Đảng phải nâng cao bản lĩnh CT, tư tưởng, trí
tuệ, vận dụng một cách sáng tạo những nguyên lý của CN M-L về XD
CNXH vào hoàn cảnh thực tiễn nước ta; phải thường xuyên XD Đảng
vững mạnh về tổ chức, CT, tư tưởng và đạo đức; XD Đảng trong sạch,
vững mạnh, giữ gìn ĐK thống nhất trong Đảng "như giữ gìn con ngươi
của mắt mình”; XD đội ngũ cán bộ, đảng viên để mỗi cán bộ, đảng viên
phải “xứng đáng là nguời lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của
ND”.
Cùng với XD Đảng, CTHCM hết sức chú trọng XD, tăng cường
vai trò quản lý của NN, bởi đó chính là nhân tố đảm bảo cho thực hiện
thắng lợi các mục tiêu XD CNXH ở nước ta.
Bác nói: “Nếu không có ND thì chính phủ không đủ lực lượng.
Nếu không có Chính phủ, thì ND không ai dẫn đường”. XD NN, theo Bác
thì điều quan trọng hàng đầu là NN đó phải là NN của ND, chăm lo lợi ích
của ND, phục vụ ND.
Cơ sở XH của NN là khối ĐK toàn DT trên nền tảng LM C-N-T do
Đảng LĐ. Đồng thời, phải XD được bộ máy NN gọn nhẹ, hoạt động có

hiệu lực, hiệu quả; phải nhanh chóng XD và hoàn thiện hệ thống pháp luật,
cơ chế, chính sách trên các lĩnh vực.
Theo Bác, sự nghiệp XD CNXH là sự nghiệp của toàn dân, do đó
cần phát huy tính tích cực, chủ động của toàn dân, của Mặt trận Tổ quốc,
các tổ chức đoàn thể nhân dân, tạo điều kiện để ND, MTTQ, các đoàn thể
ND thực hiện đầy đủ vai trò của mình trong công cuộc XD đất nuớc,
BVTQ, góp phần XD thành công CNXH.
Theo TTHCM, “muốn xây dựng CNXH phải có con người
XHCN".
Con người là yếu tố quyết định. Do đó, Bác đặc biệt quan tâm tới
việc tuyên truyền, vận động, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng con người, đặc
biệt là thế hệ trẻ. Bác đòi hỏi phải giáo dục, đào tạo con người một cách
toàn diện: đức, trí, thể, mỹ; đặc biệt là giáo dục, rèn luyện về đạo đức, vì
“sức có mạnh mới gánh được nặng, đi được xa.
Người CM phải có ĐĐCM làm nền tảng mới hoàn thành được
nhiệm vụ CM vẻ vang'', “có ĐĐCM thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất


4
bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước...khi gặp thuận lợi và thành công
vẫn khiêm tốn, lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt
hưởng thụ, khôngcông thần, không quan liêu, không hủ hóa”.
Theo Bác, ĐĐCM, nói một cách tóm tắt, “là tuyệt đối trung thành
với đảng,với ND. Đặt lợi ích của Đảng và của ND lao động lên trên, lên
trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ ND. Vì
Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc”, là
"cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
Để trở thành con người XHCN, theo Bác, mỗi người phải “học tập,
học tập nữa, học tập nữa. Học chính trị, thời sự, kỹ thuật”, “muốn rèn
luyện ĐĐCM, thì chúng ta phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến

bộ nữa...không phải chỉ ở tại nhà trường, có lên lớp, mới học tập, tu
dưỡng, rèn luyện và tự cải tạo đuợc. Trong mọi hoạt động CM chúng ta
đều có thể và đều phải học tập, tự cải tạo”.
Bác đặc biệt nhấn mạnh để rèn luyện ĐĐCM, để trở thành con
người XHCN thì phải chống CNCN, vì do CNCN mà sinh ra nhiều tính
xấu, “do CNCN mà sinh ra công thần, do công thần sinh ra kiêu ngạo, kèn
cựa, địa vị...cũng do CNCN mà lo lắng tiền đồ bản thân, chỉ biết vun vén
cho bản thân mình”; “vì chưa gột sạch CNCN cho nên có đảng viên còn kể
công với Đảng. Có ít nhiều thành tích, thì họ muốn Đảng “cảm ơn” họ. Họ
đòi ưu đãi, họ đòi danh dự và địa vị. Họ đòi hưởng thụ. Nếu không thoả
mãn yêu cầu của họ thì họ oán trách Đảng, cho rằng “họ không có tiền
đồ”, họ “bị hy sinh”. Rồi dần dần họ xa rời Đảng, thậm chí phá hoại chính
sách và kỷ luật của Đảng”. Vì vậy, Bác yêu cầu mọi người, nhất là mỗi cán
bộ, đảng viên phải quét sạch CNCN.
Nhìn lại chặng đường 83 năm qua, Đảng ta luôn kiên định mục
tiêu, lý tưởng CNXH, con đuờng đi lên CNXH mà CTHCM đã lựa chọn,
LĐ ND ta giành đuợc những thắng lợi hết sức to lớn. TTHCM về CNXH
vê con đường đi lên CNXH đã trở thành tư tưởng chỉ đạo, là “sợi chỉ đỏ”
xuyên suốt trong đường lối của Đảng, là nhân tố quyết định mọi thắng lợi
của CMVN.
3.Ngày nay, tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, thay đổi khó
lường. Hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu thế lớn. Nhưng xung đột vũ
trang, tranh chấp lãnh thổ, khủng bố QT, xung đột DT, TG... vẫn diễn ra ở
nhiều nơi. CM KHCN và TCH tạo cơ hội cho các nuớc phát triển, nhưng
cạnh tranh, tranh giành thị truờng, các nguồn nguyên liệu, năng lượng,
nguồn lực KHCN giữa các quốc gia, các tập đoàn KT diễn ra quyết liệt,
đặt các quốc gia, nhất là các nước đang và kém phát trển trước những
thách thức gay gắt.
Ở trong nước, bên cạnh thững thuận lợi cơ bản do những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa LS mà Đảng và ND ta đã giành được trong sự nghiệp

đổi mới làm tăng thế và lực, uy tín quốc tế của đất nước, chúng ta cũng

đang đứng trước những khó khăn, thách thức to lớn. Chất lượng, hiệu quả,
sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Cơ cấu KT chuyển dịch chậm, ổn
định kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc. Một số lĩnh vực xã hội còn có
những mặt yếu kém như GD, ĐT, khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe
ND, quản lý các hoạt động VH, bảo đảm TTAN XH, an toàn giao thông; tệ
tham nhũng, lãng phí chậm được khắc phục, gây bức xúc trong ND. Các
thế lực thù địch, cơ hội CT chống phá sự nghiệp CM của ND ta hết sức
quyết liệt, bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, thâm độc: tuyên truyền vu cáo,
xuyên tạc, đẩy mạnh hoạt động “DBHB”, âm mưu gây bạo loạn, bất ổn
chính trị. Thêm vào đó, mặt trái của cơ chế thị truờng tác động làm suy
thoái TT, ĐĐ, LS của không ít cán bộ, đảng viên... làm ảnh hưởng đến
lòng tin của ND với Đảng, với chế độ.
Trong bối cảnh đó, Đảng ta, ND ta khẳng định kiên định và vận
dụng sáng tạo CN M-L, TTHCM; kiên định mục tiêu ĐLDT gắn liền
CNXH, mục tiêu đã được CTHCM lựa chọn và được LS phát triển của DT
ta gần một thế kỷ qua chứng minh rằng: chỉ có con đường XHCN mới bảo
đảm cho DT ta có nền ĐL thật sự, đất nước ta phát triển ổn định, phồn
vinh, ND ta có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Đó là con đường đúng đắn,
phù hợp với quy luật phát triển của TĐ.
Vận dụng sáng tạo TTHCM về CNXH, trong hoàn cảnh mới, Đảng
ta tiếp tục tìm tòi, ngày càng làm sáng tỏ hơn về CNXH và con đường đi
lên CNXH ở nước ta. XHXHCN mà ND ta XD, được khẳng định trong
Cương lĩnh và văn kiện các đại hội của Đảng, là xã hội:
Dân giàu, nuớc mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh;
Do nhân dân làm chủ;
Có nền KT pt cao dựa trên LLSX hiện đại và QHSX tiến bộ phù
hợp;
Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;

Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện;
Các DT trong cộng đồng VN BĐ, ĐK, tôn trọng và giúp nhau
cùng PT.
Có NN pháp quyền XHCN của ND, do ND vì ND do ĐCS lãnh
đạo;
Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Đảng ta luôn xác định XD CNXH ở nước ta là một quá trình cải
biến cách mạng sâu sắc, triệt để, một cuộc đấu tranh phức tạp giữa cái cũ
và cái mới để tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của ĐSXH;
vì vậy, nhất định phải trải qua một TKQĐ lâu dài, nhiều bước phát triển,
không thể đơn giản, chủ quan, nóng vội.


5
Câu 2. Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ. Phê phán
quan điểm sai trái?
CTHCM-danh nhân văn hóa, anh hùng giải phóng dân tộc, lãnh tụ
vĩ đại cuả dân tộc ta. Di sản tư tưởng của Người được thể hiện sinh động
với nhiều nội dung khác nhau, trong đó vấn đề dân chủ có một vị trí đặc
biệt nổi bật. Bởi, suốt cuộc đời hoạt động Cm của Người tất cả cũng vì tự
do, DC và sự tiến bộ của con người. Người chẳng những để lại cho chúng
ta một hệ thống các quan niệm, quan điểm sâu sắc và hiện đại về dân chủ xét về mặt lý luận - mà còn nêu gương mẫu mực thực hành dân chủ - xét
về mặt thực tiễn - cho chúng ta noi theo. Việc tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu
quan điểm về DC của CTHCM vẫn còn nguyên giá trị đối với việc xây
dựng nền DCXHCN ở nước ta hiện nay
Nét đặc sắc trong phương pháp tiếp cận, trong quan điểm và
quan niệm của Hồ Chí Minh về dân chủ
Phương pháp tiếp cận
Thứ nhất, từ vấn đề dân chủ qua những kiến giải và trong hoạt

động thực tiễn của HCM chúng ta càng thấy rõ sự thống nhất giữa tư
tưởng với phương pháp và phong cách của Người. Đó là những tư tưởng
lý luận về DC trong đó chứa đựng không ít những triết lý và tỏ rõ cả minh
triết dân chủ của Người luôn thống nhất hữu cơ với phương pháp DC, nhất
là phương pháp thực hành DC với phong cách DC, thể hiện đậm nét trong
ứng xử DC của HCM.
Thứ hai, HCM tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa tư tưởng lý luận
dân chủ phương Tây đồng thời kế thừa một cách sáng tạo những tinh hoa
tư tưởng và triết lý phương Đông, truyền thống cộng đồng và dân chủ làng
xã của dân tộc ta. Từ chỗ đứng của con người mác-xit để bàn luận và giải
quyết vấn đề dân chủ và dân tộc ở nước ta Hồ Chí Minh thực sự là một
kiểu mẫu kết hợp lý luận với thực tiễn, nhà tư tưởng dân chủ đồng thời là
nhà thực hành dân chủ điển hình của Việt Nam trong thế kỷ XX.
HCM không chủ trương lập ngôn, không theo đường trước tác mà
chủ yếu là hành động, là thực hành để dân chủ trở thành phổ biến và thực
chất. Vậy nên, những gì Người nói, Người viết về dân chủ đều hướng
tới cách làm dân chủ, thực hiện dân chủ thực chất, không bày vẽ phù
phiếm, không hình thức khoa trương. Tiếp cận dân chủ của Hồ Chí Minh
cái được rút ra, được khái quát là từ người nghiên cứu, chứ bản thân
HCM, Người không trực tiếp thể hiện. Đây là kết quả nghiên cứu tư tưởng

dân chủ HCM từ góc độ phương pháp luận, gợi mở những định hướng
nghiên cứu DC trong điều kiện hiện nay.
Nét đặc sắc tư duy và tư tưởng dân chủ, lý luận và thực tiễn dân
chủ Hồ Chí Minh biểu hiện ở những điểm sau đây:
Một, Người đặt vấn đề dân chủ trong mối quan hệ không tách rời
với tự do, công bằng và bình đẳng. Dân chủ cũng không thể tách rời dân
tộc và độc lập dân tộc. Trên phương diện con người - cá nhân chủ thể, dân
chủ thể hiện thành quyền của con người, quyền của công dân, quyền được
sống, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc, quyền bình đẳng. HCM nhìn nhận

dân chủ trong quan hệ với quyền con người - nhân quyền và dân quyền.
Hai, Hồ Chí Minh quan niệm dân chủ không chỉ là vấn đề lợi ích,
quyền lực và thể chế gắn với chế độ nhà nước, luật pháp mà còn là những
giá trị làm người, giá trị thuộc về phẩm giá, nhân cách, tự trọng và tự chủ
của con người.
Ba, HCM quan tâm tới nội dung toàn diện của dân chủ, không chỉ
là dân chủ trong kinh tế (phải phát triển sản xuất, thoát đói nghèo, trở nên
giàu có) để chăm lo lợi ích vật chất cho người dân mà còn là dân chủ
trong chính trị(nhà nước do dân ủy quyền, không được lạm quyền, cướp
quyền của dân, phải dùng quyền của dân để phục vụ và bảo vệ dân, phải
cải cách thể chế bầu cử, phải kiểm soát việc thi hành quyền), lại phải bảo
đảm dân chủ trong đời sống tinh thần để người dân dám nói, dám nghĩ,
được bảo đảm tự do tư tưởng, thực hiện dân chủ trong sáng tạo văn hóa,
trong thụ hưởng văn hóa.
Bốn, Hồ Chí Minh chú trọng đặc biệt vấn đề dân chủ trong Đảng,
nhất là khi Đảng cầm quyền. Dân chủ trong Nhà nước, trong công tác Mặt
trận và các đoàn thể, trong đời sống chính trị.
Năm, theo Hồ Chí Minh, dân chủ phải thể hiện trong cơ cấu xã hội,
trong các quan hệ từ gia đình đến nhà trường và xã hội, dân chủ của công
nhân, nông dân, trí thức, thanh niên, phụ nữ, trong quan hệ dân tộc và tôn
giáo, cả trong quan hệ quốc tế giữa các nhà nước và chính phủ.
Sáu, dân chủ là động lực của tiến bộ và phát triển. Do đó, vấn đề là
ở chỗ, không chỉ giáo dục nhận thức, ý thức về dân chủ mà phải thực hành
dân chủ, thực hành rộng rãi thực chất. Dân chủ để bảo đảm đoàn kết, để
thực hiện công bằng và bình đẳng.
Bảy, HCM xem xét DC như một phương pháp LĐ và quản lý, nó
quan trọng và cần thiết không kém gì sự gương mẫu, nêu gương thuyết
phục và cổ vũ mọi người noi theo.



6
Tính công khai, minh bạch (về luật pháp, chính sách, thông tin),
tính quy định trách nhiệm, tính ràng buộc giữa quyền và nghĩa vụ từ cán
bộ công chức tới công dân, đó là những yêu cầu không thể thiếu để bảo
đảm dân chủ thực chất.
Tám, dân chủ còn là vấn đề đạo đức. Muốn thực hiện dân chủ trong
xã hội, trong Nhà nước phải có luật pháp, phải quy định nền nếp, kỷ luật,
kỷ cương đồng thời phải có đạo đức,nhất là ở người lãnh đạo, nắm chức
vụ, giữ quyền hành.
Chín, DC và thực hành DC là phương thuốc hữu hiệu để chống
tham nhũng (quan liêu, lãng phí, tham ô) bảo vệ sự trong sạch, vững mạnh
của thể chế, của chế độ.
Mười, DC phải trở thành văn hóa DC, với hai nhân tố cốt yếu là
luật pháp và đạo đức, phải được thể hiện trong lối sống, trong ứng xử giữa
người với người, với tự mình, tức là tự ứng xử.
Bản chất của dân chủ
Trong quan niệm của các nhà kinh điển, dân chủ là quyền lực
thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể sáng tạo lịch sử. Nhân dân tự quy
định, tự quyết định lấy cuộc sống và vận mệnh của mình. C. Mác và Ph.
Ăng-ghen cho rằng, dân chủ là hình thái biểu hiện của quyền lực nhà nước
mà nhân dân phải tổ chức và kiểm soát được. V.I. Lê-nin đặc biệt nhấn
mạnh sự tham gia của quần chúng vào công việc quản lý nhà nước.
HCM đưa ra một luận đề rất ngắn gọn, cô đọng, lột tả được thực
chất, bản chất của dân chủ. Theo HCM, dân chủ có nghĩa là dân là
chủ và dân làm chủ. Người khẳng định đồng thời vị thế và năng lực của
dân trong tư cách chủ thể, là người chủ XH, chủ NN. Chỉ với luận điểm
này, Hồ Chí Minh đã thực hiện một cuộc cách mạng trong nhận thức về
dân chủ, so với tư tưởng dân chủ thời phong kiến và cả dân chủ tư sản.
Các nhà tư tưởng với ý thức hệ phong kiến quan niệm dân chủ là chủ của
dân. Dưới chế độ phong kiến, quyền lực và quyền uy đều tập trung trong

tay nhà vua. Dân chỉ là thần dân, thảo dân, là bề tôi tự nhiên chịu ơn huệ
và bị trói buộc bởi luật lệ và những quy định của triều đình. Dân chủ tư
sản chỉ đem lại lợi ích và quyền lực cho một thiểu số người giàu có.
Định nghĩa dân chủ của Hồ Chí Minh phủ định tất cả những quan
niệm ấy, để khẳng định vai trò chủ động, tích cực của dân. Người nhấn
mạnh, trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trên thế giới không
gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Người còn nhấn mạnh,
dân chủ là của quý báu nhất trên đời của dân. Như vậy, Người coi dân chủ

là một giá trị, một tài sản (thành quả do đấu tranh giải phóng mà có) nên
dân phải được làm chủ, là chủ thể sở hữu tài sản ấy. Nó quy định tính tất
yếu nhà nước phải là của dân. Dân là chủ sở hữu NN của mình. NN chỉ là
chủ thể đại diện cho chủ thể ủy quyền là dân.
Trong tác phẩm nổi tiếng “Dân vận” (năm 1949), Người đã cô đúc
lý luận DC ngay ở phần mở đầu tác phẩm, trong đó Người nói rõ: Nước ta
là nước DC. Bao nhiêu lợi ích thuộc về dân. Bao nhiêu quyền đều là của
dân. Quyền hành và lực lượng là ở nơi dân.
Cũng do đó, tôn trọng dân chủ thì tất yếu phải đề cao dân, phải trọng
dân (tôn trọng, kính trọng, lễ phép) và trọng pháp (pháp luật để bảo vệ
dân).
Dân chủ với sự nổi bật địa vị, vai trò, sức mạnh của dân như vậy
nên bản chất của dân chủ là một bản chất nhân văn (đề cao giá trị con
người) và một bản chất pháp lý (nhà nước pháp quyền với luật pháp là tối
thượng để bảo vệ dân). Nhân văn và pháp lý là hai thuộc tính nổi bật của
dân chủ.
Vai trò, tác dụng của dân chủ
Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của dân nên đồng thời khẳng định
sức mạnh của dân chủ như một sức mạnh giải phóng, giải phóng ý thức tư
tưởng, giải phóng mọi tiềm năng xã hội, nhờ đó phát huy được mọi khả
năng sáng tạo, làm nở rộ những tài năng, sáng kiến của nhân dân, tạo ra

những nguồn lực dồi dào cho tiến bộ và phát triển.
Theo HCM, tác dụng thúc đẩy, phát triển để hướng tới tiến bộ, văn
minh của dân chủ được thể hiện trên nhiều lĩnh vực: sản xuất, làm kinh tế
vì ích nước lợi nhà, thoát được đói nghèo, dần dần trở nên giàu có. Nhờ có
dân chủ mà thể chế, luật pháp, bộ máy nhà nước mới có sức mạnh, mới
hướng vào mục tiêu phục vụ dân, bảo vệ dân. Nhờ có dân chủ mà Đảng
mới phát huy được uy tín, ảnh hưởng xã hội rộng lớn trong dân. Quan hệ
gần gũi, mật thiết giữa Đảng và Nhà nước thì phải có dân chủ, dân sẽ dám
nói, dám nghĩ, dám làm. Cán bộ đảng viên thì có gan nói, gan làm, dám
chịu trách nhiệm. Có dân chủ, thực hiện tự do tư tưởng, tự do thảo luận,
tranh luận để tìm ra chân lý thì sẽ khắc phục được thói áp đặt, quan liêu,
mệnh lệnh. Bảo đảm và phát huy được dân chủ thì quyền tự do tư tưởng
hóa ra quyền tự do phục tùng chân lý. Đây là một tác dụng vô cùng to lớn,
kích thích mọi khả năng sáng tạo, nhất là đối với giới trí thức.
Do đó, Nhà nước phải phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính
trị của toàn dân. Chính phủ là chính phủ của toàn dân, chính phủ rất mong


7
đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm trọn nhiệm vụ
của mình là người đầy tớ trung thành, tận tụy của dân. Sức của dân rất lớn.
Lực lượng của dân dồi dào. Sáng kiến của dân là vô tận. Dân có trăm tai
nghìn mắt ở cơ sở nên hiểu tình hình, hiểu cán bộ. Giám sát thanh tra của
dân làm cho những sai trái, khuất tất sẽ lộ ra, nhờ đó mà kịp sửa chữa,
chấn chỉnh. Bộ máy có trong sạch, cán bộ có liêm khiết thì mới phục vụ
được dân. Muốn vậy phải dựa vào dân. Phải đưa mọi vấn đề cho dân thảo
luận và tìm cách giải quyết.
Vai trò, tác dụng của dân chủ còn ở chỗ, dân chủ thúc đẩy đoàn kết,
tăng cường đồng thuận và ngăn chặn quan liêu, tham nhũng. Có dân chủ
thực chất, tức là bảo đảm sự tôn trọng, tin cậy và bình đẳng thì mới đoàn

kết thực chất được. Có dân chủ và đoàn kết thì xã hội mới đồng thuận, để
đồng tâm hiệp lực vào công cuộc xây dựng chế độ, phát triển kinh tế, văn
hóa vì hạnh phúc chung.
Nội dung toàn diện của dân chủ
Luôn thấm nhuần quan điểm toàn diện và thực tiễn, Hồ Chí Minh
đã chỉ ra sự cần thiết phải quan tâm đến mọi mặt của đời sống và chú ý hài
hòa các mối quan hệ. Trọng tâm có bốn vấn đề phải coi là quan trọng
ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa. Không được xem nhẹ một
mặt nào. Nội dung toàn diện của dân chủ thể hiện ở các mặt ấy. Người nêu
trước hết là dân chủ trong chính trị. Người khẳng định, nước ta là nước
dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Bởi thế, thực hiện dân chủ
chính trị thì phải bảo đảm phát huy quyền làm chủ của dân. Đây là bản
chất của dân chủ mà cũng là bản chất của chủ nghĩa xã hội. Phải thể chế
hóa quyền dân chủ chính trị, quyền làm chủ của dân qua Hiến pháp và các
đạo luật, qua thể chế bầu cử để dân được tự do lựa chọn người xứng đáng
làm đại diện cho mình. Ủy quyền kèm theo kiểm tra, giám sát thực hiện
quyền. Dân là chủ thì từ Chủ tịch nước, các bộ trưởng cho đến tất cả các
công chức, viên chức phải là người phục vụ dân, chịu sự kiểm tra, giám
sát, đánh giá, bãi miễn của dân theo luật định.
Mỗi công dân đều có quyền bầu cử, ứng cử để cùng lo việc nước.
Quyền ấy phải được tôn trọng và bảo vệ. Người công dân là con người
chính trị, có quyền tham gia chính sự. Người kêu gọi các tầng lớp nhân
dân ta, công nhân, nông dân, lao động trí óc, các nhà công thương, đồng
bào thiểu số, ai nấy hãy làm tròn nghĩa vụ của người công dân, người chủ
nước nhà.Và Người tha thiết mong muốn, làm cho các dân tộc anh em dần

dần tự quản lấy mọi công việc của mình, để mau chóng phát triển kinh tế
và văn hóa của mình, để thực hiện các dân tộc bình đẳng về mọi mặt.
Trong khi đề cập tới dân chủ chính trị, HCM còn bàn tới phương
thức thực hiện DC, DC trực tiếp và tự quản sẽ phải ngày một phát triển

cùng với dân chủ gián tiếp (qua cơ chế bầu cử, chọn người đại diện).
Dân chủ chính trị đòi hỏi mọi cán bộ đảng viên, công chức, từ
người lãnh đạo quản lý có chức vụ, quyền hành đến nhân viên thường đều
phải hết lòng hết sức phục vụ dân, làm đầy tớ cho dân chứ không phải làm
“quan cách mạng”, không được lên mặt “quan cách mạng”, là dân chủ chứ
không phải “quan chủ”.
Để thực hiện dân chủ chính trị, Nhà nước phải là nhà nước mạnh,
quản lý theo luật pháp để bảo vệ dân và phục vụ dân. Vì dân, Đảng phải là
một đảng chân chính cách mạng, trong sạch, có dũng khí tự phê bình và
phê bình, không che giấu khuyết điểm, sai lầm, lãnh đạo Nhà nước và xã
hội, làm tất cả vì hạnh phúc của dân, nhất là phải luôn luôn liên hệ mật
thiết với dân chúng. Các đoàn thể do dân lập ra phải làm tốt công tác dân
vận, cho đúng và cho khéo, chăm lo bảo vệ lợi ích và tổ chức đời sống văn
hóa cho quần chúng đoàn viên, hội viên.
Dân chủ trong kinh tế, quan trọng nhất là bảo đảm công ăn việc
làm cho mỗi người dân, phải tôn trọng lợi ích, trước hết là lợi ích vật chất
để ai ai cũng có ăn, có mặc, có nhà ở, được học hành, được chăm sóc sức
khỏe. Lợi ích phải được phân phối công bằng, không chia đều theo lối
bình quân. Như thế lại là không công bằng. Phải thực hiện quyền được lao
động, quyền có việc làm. Nhà nước phải có kế hoạch, chính sách lo công
ăn việc làm cho dân, khuyến khích dân chủ động tự lo việc làm, quan tâm
xóa đói, giảm nghèo và khuyến khích dân làm giàu, miễn là làm giàu
chính đáng bằng sức lao động của mình, được pháp luật cho phép. Người
lao động phải làm chủ tư liệu sản xuất, làm chủ việc quản lý kinh tế, làm
chủ việc phân phối sản phẩm lao động.
Trong dân chủ kinh tế, Người đặc biệt quan tâm tới nông dân ở
nông thôn. Người nhấn mạnh, bao giờ ở nông thôn, nông dân thực sự nắm
chính quyền, nông dân được giải phóng thì mới là dân chủ thực sự. Muốn
nông dân có lực lượng dồi dào thì phải làm cho họ có ruộng cày, có cơm
ăn, áo mặc, nhà ở. DC trong kinh tế phải gắn liền với dân chủ trong chính

trị, phải tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát để không xảy ra tình trạng
quan liêu, lãng phí, tham ô, gây tổn hại tới lợi ích của người dân và lợi ích
chung của xã hội.


8
HCM nhìn nhận rất sâu về tình trạng quan liêu từ góc độ đạo đức
của cán bộ công chức. Quan liêu là do xa dân, khinh dân, sợ dân, không
tin dân, không hiểu dân, không thương dân. Tham ô, lãng phí là kẻ thù của
dân, chống tham ô, lãng phí, quan liêu là dân chủ.
Để thực hiện đầy đủ và thực chất dân chủ chính trị, dân chủ kinh
tế, giữ cho chế độ bền vững, nhân dân được thụ hưởng lợi ích và quyền
của mình, theo HCM, phải đề cao luật pháp, tăng cường đạo đức. Pháp
luật phải thẳng tay trừng trị những kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào,
làm nghề gì.
DC trong KT còn phải chú trọng tới năng suất, chất lượng, hiệu
quả lao động, sản xuất và kinh tế để dân ngày càng no đủ, khá giả mà xã
hội cũng ngày càng phồn vinh, đất nước phú cường, dân có giàu thì nước
mới mạnh. Phải giảm dần những khoản đóng góp của dân, bớt gánh nặng
cho dân. Thuế do dân đóng góp phải phục vụ lợi ích của dân.
Tính hiện thực, giá trị thực tế của dân chủ là ở chỗ đời sống vật
chất, tinh thần của dân có được nâng cao hay không? Dân chỉ biết đến độc
lập, tự do, dân chủ khi dân được ăn no mặc đủ. Nếu nước được độc lập mà
dân không được hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa
lý gì.
Dân chủ còn phải được thể hiện trong quản lý xã hội, giải quyết
các vấn đề xã hội, thực thi các chính sách xã hội và an sinh xã hội cho
dân.
Các vấn đề xã hội là vô cùng lớn và phức tạp, liên quan đến đời
sống của tất cả mọi người dân, sao cho người dân không rơi vào cảnh thất

nghiệp, nghèo đói, thất học, đau ốm, không có nhà ở, người già cô đơn, trẻ
mồ côi không ai chăm sóc. Xã hội phải ổn định, bình yên, các tệ nạn tội
phạm phải được giải quyết, phải dùng luật pháp kết hợp với giáo dục và
hành chính. Tóm lại là phải bảo đảm cho dân được an sinh và an ninh. Dân
chủ trong lĩnh vực xã hội đòi hỏi ở Đảng và Chính phủ trách nhiệm rất
nặng nề, phải thường xuyên quan tâm giải quyết một cách thiết thực, cụ
thể, vì dân.
Hồ Chí Minh chú trọng tới các lĩnh vực giáo dục, y tế, môi trường,
các quan hệ dân tộc, tôn giáo, các thế hệ, từ người già đến trẻ thơ, từ nông
thôn, công nhân, chiến sĩ bộ đội, công an đến thanh niên, phụ nữ, từ các trí
thức lớn, các nhân tài của quốc gia cho đến đồng bào nghèo ở miền núi,
vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Hoài bão, khát vọng, ham muốn và ham
muốn tột bậc của Người cũng chỉ xoay quanh độc lập tự do cho Tổ quốc,

hạnh phúc cho đồng bào. Không chỉ lo đời sống hằng ngày cho dân,
Người còn quan tâm đến sự tiến bộ, trưởng thành của thế hệ trẻ, các giới,
các ngành, đặc biệt là sự bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ.
Nói tới thanh niên, Người nhấn mạnh, thanh niên là công dân của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, một nước văn hóa độc lập, tự do.
Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà mình.
Đối với phụ nữ, Người cho rằng, nếu không giải phóng được phụ
nữ, không thực hiện bình đẳng nam nữ thì mới chỉ là chủ nghĩa xã hội một
nửa.
Rõ ràng, thực hiện dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ thực sự cho
nhân dân, không chỉ thực hiện dân chủ chính trị, dân chủ kinh tế, xã hội,
thực hiện quyền và lợi ích mà còn cần phải xây dựng đạo đức lành mạnh,
phải chống chủ nghĩa cá nhân - một thứ giặc ở trong lòng. Nếu không
đánh bại chủ nghĩa cá nhân thì không thể xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội. Nếu không đánh thắng chủ nghĩa cá nhân thì cũng không thể thi
hành dân chủ đầy đủ, thực chất được.

Dân chủ trong văn hóa, tinh thần, theo nghĩa rộng, bao gồm cả
giáo dục, khoa học kỹ thuật - công nghệ. Là nhà văn hóa lớn, kiệt xuất, lại
là người thực hành dân chủ đến nơi, Người đặc biệt quan tâm tới dân chủ
trong đời sống văn hóa. Muốn có dân chủ trong văn hóa phải thực hiện
giải phóng tư tưởng, giải phóng ý thức xã hội, bảo đảm tự do tư tưởng. Có
như vậy, con người ta mới nghĩ thật, nói thật, tránh rơi vào tình trạng phân
thân, sống giả dối. Nói tới văn hóa theo tinh thần dân chủ, Người coi trọng
tự do tư tưởng để tạo động lực cho sáng tạo.
Trong nhà trường cũng phải có dân chủ, trong quan hệ thầy - trò
phải có dân chủ, thầy yêu quý trò, trò phải kính trọng thầy, nhưng dân chủ
phải có kỷ cương, không phải “cá đối bằng đầu”.
Gia đình là tế bào, là hạt nhân của xã hội. Dạy đạo đức, rèn luyện
nhân cách cho con người bắt đầu từ trong gia đình, muốn vậy, trong gia
đình phải có dân chủ và kỷ cương, phải có đạo lý, tình nghĩa.
Về nguyên tắc dân chủ tập trung
Đây là một nguyên tắc cốt tử của tổ chức đảng cộng sản, cũng
đồng thời là nguyên tắc của nhà nước trong tổ chức và quản lý. Các tổ
chức chính trị trong hệ thống chính trị cũng phải theo nguyên tắc này.
Nguyên tắc dân chủ tập trung là một phương diện cấu thành nội
dung tư tưởng dân chủ của HCM. Ở đây, HCM có sự sáng tạo khi vận
dụng nguyên lý kinh điển mác-xit về dân chủ. Hồ Chí Minh diễn đạt


9
nguyên tắc này là dân chủ tập trung. Cái mới ở Hồ Chí Minh là đặc biệt
chú trọng tới dân chủ, vận dụng đúng đắn quan hệ giữa dân chủ và tập
trung, bảo đảm cho mối quan hệ này là lành mạnh, tích cực, không bị lệch
lạc
cực
đoan.

Nói về Đảng Lao động Việt Nam tại Đại hội II (năm 1951) và khi
Đảng ra công khai, Người nhấn mạnh, về tổ chức, Đảng Lao động Việt
Nam theo chế độ dân chủ tập trung. Người nhiều lần giải thích rằng thảo
luận, tranh luận thẳng thắn, nói rõ và nói hết ý kiến, cùng nhau tìm tòi
chân lý, đạt tới sự thống nhất, đó là dân chủ. Tôn trọng quyết định, chỉ thị,
nguyên tắc, chấp hành mệnh lệnh chỉ huy, chấp hành nghị quyết của các
cấp lãnh đạo, của người lãnh đạo, đó là tập trung.
Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Kết
hợp giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân phụ trách, đó là dân chủ tập trung.
Đảng là một tổ chức cách mạng, phải thống nhất tư tưởng, ý chí, hành
động. Kỷ luật của Đảng nghiêm minh, là “kỷ luật sắt” nhưng là kỷ luật tự
giác. Cũng có khi Người sử dụng khái niệm tập trung dân chủ nhưng vẫn
luôn luôn nhấn mạnh dân chủ, tập trung trên cơ sở dân chủ. Người cũng
thẳng thắn phê bình các lãnh đạo của Đảng có lúc, có nơi, không được dân
chủ, cần phải chú trọng sửa chữa. Vấn về sâu xa là ở chỗ, dân chủ không
đối lập với tập trung, rất cần tập trung. Tập trung không đối lập với dân
chủ, phải luôn luôn dựa trên cơ sở dân chủ. Dân chủ chỉ đối lập với quan
liêu, chuyên chế, độc tài. Tập trung chỉ đối lập với phân tán, cục bộ, tự do
vô chính phủ. Dựa trên dân chủ, xuất phát và hướng đích tới dân chủ thì sẽ
có tập trung lành mạnh, không biến thành tập trung quan liêu. Dân chủ
phải được bảo đảm bởi tập trung, dẫn tới tập trung để không rơi vào tự do
vô chính phủ, bè phái, cục bộ. Nguyên tắc dân chủ tập trung, coi dân chủ
là mục đích, tập trung là điều kiện, phương thức thực hiện.
Cái khó là sự cụ thể hóa và vận dụng sao cho đúng. Nó biểu hiện
thành các nguyên tắc, các quy định: thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới
phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương và Đại hội.
Là một nhà dân chủ giữ vững nguyên tắc, nhưng rất tinh tế trong
ứng xử, Hồ Chí Minh luôn đề cao tự phê bình và phê bình, tôn trọng ý
kiến khác, không đồng nhất thiểu số với sai lầm, bởi đa số không phải khi
nào cũng đúng. Phải căn cứ vào thực tiễn, khi thực tiễn đã làm sáng tỏ sự

thật đúng - sai thì phải xem xét lại các kết luận, không thành kiến với
người có ý kiến thiểu số, mang ý kiến thiểu số vẫn có quyền bảo lưu tới
cấp trung ương nhưng đồng thời phải tôn trọng nghị quyết, quyết định của

cấp trên. Hồ Chí Minh đã rất chú trọng những nguyên tắc đó và thực hành
mẫu mực, có lý có tình, tôn trọng tổ chức, tôn trọng con người, tôn trọng
nhân cách từng người. Đó cũng là tiêu biểu cho văn hóa dân chủ của Hồ
Chí Minh./.


10
QUÁN TRIỆT TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN CHỦ
Dân chủ là khát vọng ngàn đời của nhân loại; là động lực, mục tiêu
của sự phát triển trong công cuộc đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng con
người. Có thể thấy, trong xã hội đã có nhiều người viết và nói về vấn đề
“dân chủ” rất hay. Song, để đi vào cuộc sống thì lại không đơn giản.
Người dân chỉ mong muốn giản dị là được quyền phát biểu chính kiến của
mình, nói đúng nguyện vọng của mình, nói thật thực trạng mình đang
chứng kiến, làm những điều gì có lợi cho mình, đồng bào mình, dân tộc
mình. Có thể khẳng định, đó là bản chất cơ bản nhất của dân chủ. Chủ tịch
Hồ Chí Minh định nghĩa điều này thật nôm na dễ hiểu : “Dân chủ là để
người dân được mở cái miệng ra”.
Hồ Chí Minh còn quan niệm dân chủ có nghĩa là “Dân là chủ,
Chính phủ là đầy tớ”. Khi xác định như thế, có lúc đem quan niệm “dân
là chủ” đối lập với quan niệm “quan chủ”. Đây là quan niệm được Hồ
Chí Minh diễn đạt ngắn, gọn, rõ nghĩa, đi thẳng vào bản chất của khái
niệm trong cấu tạo quyền lực.
Mở rộng theo ý đó, Hồ Chí Minh cho rằng : “Nước ta là nước dân
chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ. Nhân dân có quyền lợi làm
chủ, thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ vững đạo đức

công dân…”. Trong tác phẩm “Thường thức chính trị” viết năm 1953,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc nhở Đảng và Nhà nước ta phải thực hành
dân chủ. Người khẳng định :
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.
Tựu chung, quan niệm Hồ Chí Minh về dân chủ được biểu đạt qua
hai mệnh đề ngắn gọn : “Dân là chủ” và “Dân làm chủ”. Khi biểu đạt như
thế, chúng ta có thể hiểu rằng, dân là chủ, nghĩa là đề cập đến vị thế của
người dân; còn dân làm chủ nghĩa là đề cập đến năng lực và trách nhiệm
của dân. Cả hai vế luôn luôn đi đôi với nhau, thể hiện vị trí, vai trò, quyền

và trách nhiệm của người dân. Xã hội nào bảo đảm quyền hành và lực
lượng đều thuộc về nhân dân thì đó là một xã hội thực sự dân chủ.
Dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,… Trong đó, dân chủ thể hiện trên lĩnh
vực chính trị là quan trọng nhất, nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung
trong hoạt động của Nhà nước.
Ngay từ năm 1941, trong Chương trình hoạt động của Việt Nam
độc lập đồng minh hội (Mặt trận Việt Minh), Hồ Chí Minh đã “thiết kế”
một chế độ dân chủ cộng hòa cho nước ta sau khi cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân thực hiện thắng lợi. Đó là chương trình thực hiện mục
tiêu dân chủ, xác định rõ quyền và trách nhiệm của nhân dân trước vận
mệnh của nước nhà; gắn độc lập, tự do của Tổ quốc với quyền lợi của từng
người dân. Nhờ hướng đến mục tiêu dân chủ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và

Đảng ta đã thức tỉnh quần chúng nhân dân làm nên thắng lợi vẻ vang của
Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Với thắng lợi của cuộc Cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân, một tuyên bố về chế độ dân chủ ở Việt Nam đã
được Hồ Chí Minh nêu trong bản “Tuyên ngôn độc lập”khai sinh ra nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945, trong đó các giá trị về dân
chủ được gắn liền với đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc.
Dân chủ ở nước Việt Nam mới được thể hiện và được bảo đảm
trong đạo luật cơ bản nhất đó là các bản Hiến pháp do Hồ Chủ tịch chủ trì
xây dựng và được Quốc hội thông qua. Hiến pháp năm 1946, bản Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thể hiện rõ nhất và
thấm đậm nhất tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh. Điều thứ 1, Hiến pháp
đã khẳng định “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn dân Việt Nam,
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Có
thể nói, Hiến pháp năm 1946 là Hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Việt
Nam mới, phù hợp với giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của
nước ta và đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện quyền lực của
nhân dân.
Tiếp thu các giá trị về dân chủ đã được Ðảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và toàn dân ta khởi dựng từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên (ngày
6/1/1946), lập nên một chính thể dân chủ rộng rãi, với bản Hiến pháp 1946
lịch sử, trong suốt quá trình lịch sử từ năm 1946 đến năm 1985, quan điểm
về quần chúng nhân dân luôn được Đảng ta xác định là một trong những
vấn đề mấu chốt của cách mạng. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ


11
VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra quan điểm “lấy dân làm gốc” với
phương châm “dân biết, dân bàn, dân kiểm tra”.
Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VIII) ban hành Chỉ thị số 30 về xây dựng và thực hiện Quy chế dân

chủ cơ sở đã mở ra giai đoạn mới về thực hiện các quyền công dân trong
đời sống xã hội. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và lần thứ
VIII thì vấn đề dân chủ được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, tiêu biểu là kinh
tế và quyền công dân đã ngày càng được bảo đảm.
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
Cộng sản Việt Nam, vấn đề dân chủ được đưa vào với tư cách là mục tiêu
phát triển “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” nhưng
vẫn quy định là đảng viên không được làm kinh tế tư nhân. Dân không chỉ
có quyền mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định và thi hành các chủ
trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước. Đến Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X, quan điểm về dân chủ của Đảng ngày càng được
rộng mở, cụ thể là thực hiện “dân chủ hóa” tất cả các mặt của đời sống xã
hội, trước hết là dân chủ về kinh tế. Theo chủ trương của Đại hội, đảng
viên được làm kinh tế tư nhân, góp phần làm cho nền kinh tế nước ta phát
triển nhanh và mạnh hơn. Bên cạnh đó, bản chất dân chủ của Nhà nước
Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh được Đại hội X xác định rất
rõ: “Nhà nước là đại diện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là
người tổ chức thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Mọi đường lối,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều phản ánh lợi ích của
đại đa số nhân dân”.
Đặc biệt, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), quan điểm về dân
chủ của Đảng ta có sự thay đổi căn bản, thể hiện ở các đặc trưng : “Dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; có nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân
tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo…”. Có thể thấy, sự

thay đổi vị trí của từ “dân chủ” và “công bằng” không đơn thuần chỉ là vấn
đề câu chữ, thay đổi trật tự từ ngữ mà còn thể hiện quan điểm nhất quán rõ
ràng của Đảng trong việc coi vấn đề dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động

lực trong phát triển kinh tế – xã hội, từng bước xây dựng xã hội ngày càng
“đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ kính yêu hằng mong ước. Điều
này cũng sẽ trả lời cho một câu hỏi mà nhiều người trong đó có một bộ
phận thanh niên vẫn còn hoang mang, thắc mắc : “Xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng là một xã hội như thế nào?”
Và trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 của
Đảng ta cũng khẳng định : “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con
người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự
phát triển. […] Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện
đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi
khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực
phát triển đất nước…”
Điều này còn được thể hiện trong bài diễn văn ra mắt sau khi được
bầu làm người đứng đầu Đảng khóa XI, tân Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng đã long trọng cam kết trước toàn Đảng, toàn dân “kiên định độc lập
dân tộc, phát huy dân chủ; sáng tạo, không ngừng nỗ lực phấn đấu, học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách của Chủ tịch Hồ Chí
Minh”. [8] Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc họp báo sau đó,
không ít lần nhắc đến từ dân chủ và nhấn mạnh phải xây dựng cơ chế như
thế nào để có dân chủ thực chất chứ không phải là dân chủ hình thức, là
“trình diễn cho có dân chủ”. Điều cốt yếu là thực hành dân chủ chủ rộng
rãi trong Đảng và trong nhân dân, nói phải đi đôi với làm. Như đồng chí
Trần Xuân Bách – cố Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng từng
có nhận định : “Dân chủ không phải là ban ơn, không phải là mở rộng
dân chủ hay dân chủ mở rộng… Dân chủ là quyền của dân, với tư cách là
người làm nên lịch sử, không phải là ban phát – do tấm lòng của người

lãnh đạo này hay người lãnh đạo kia. Thực chất của dân chủ là khơi
thông trí tuệ của toàn dân tộc và đưa đất nước đi lên kịp thời đại…”
Như chúng ta đều biết, trình độ dân chủ của xã hội trên thực tế ở các
nước trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng hoàn toàn không phụ
thuộc vào số lượng của các đảng phái, mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
như: chất lượng của chính bản thân đảng cầm quyền; chế độ chính trị của
quốc gia; trình độ dân trí, mà trình độ dân trí là sự tổng hòa của các yếu tố
truyền thống, học vấn, văn hóa;… Hiện nay, xã hội Việt Nam chỉ có một
đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam và đang là đảng cầm quyền.
Điều này trên thực tế đã được toàn dân tộc Việt Nam thừa nhận và được
ghi vào Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992. Sự lãnh


12
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không tự nhiên mà có và không phải cứ
tự nhận mà được. Đó là kết quả của sự hy sinh, phấn đấu không mệt mỏi
của toàn Đảng qua các thời kỳ cam go của cách mạng. Đảng đã được nhân
dân Việt Nam tin yêu, trao trọng trách dẫn đường phát triển cho dân tộc.
Dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, nước ta đang
tiếp tục công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN, mở cửa, hội nhập nền kinh tế
quốc tế, vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Vì vậy, yêu cầu về dân chủ hóa trong đời sống của đất nước ngày
càng cao. Tuy nhiên, để quan điểm của Ðảng về dân chủ đi vào cuộc sống,
Văn kiện Ðại hội Ðảng lần thứ XI đã xác định: “Dân chủ gắn liền với kỷ
luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật
bảo đảm” đồng thời với nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân,
năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân dân.
Sắp tới, ngày 22/5/2011, cử tri cả nước sẽ bỏ phiếu bầu đại biểu
Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ

2011 – 2016. Có lẽ mong muốn lớn nhất của người dân là cơ chế dân chủ
phải bắt đầu ngay từ cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân lần này.
Bầu cử phải làm sao phải thật sự dân chủ, thể hiện ước nguyện của cử tri
và đồng thời cũng thể hiện một tầm cao mới của dân tộc,… Bởi vì, suy
cho cùng mỗi bước đi phù hợp với thực tiễn là mỗi bước biết vượt qua
chính mình (quá khứ) để đi về phía tương lai. Quyết tâm của Đảng ta về
việc thực hành dân chủ là tín hiệu vui khi đất nước bước vào một thập niên
mới, bắt đầu bằng mùa xuân mới. Như những lời ca bất hủ của nhạc sĩ
Phạm Tuyên : “Đảng đã cho ta một mùa xuân đầy ước vọng, một mùa
xuân tươi tràn ánh nắng khắp nơi nơi, […] Và rồi từ đây ánh dương soi
đời mới. Tiến theo cờ Đảng đã thấy tương lai sáng tươi”. Quyết tâm này
không chỉ được những đảng viên mà toàn xã hội đồng tình. Ý Đảng lòng
dân thuận thì như Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “việc gì cũng xong”./.


13
Câu 3. Phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
Ý nghĩa của vấn đề?

Chủ tịch HCM, anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà
văn hóa kiệt xuất của dân tộc ta và của nhân loại, đã để lại cho
chúng ta một di sản tinh thần vô giá, một hệ thống tư tưởng về
nhiều mặt.Trong đó tư tưởng về ĐĐK là tư tưởng nổi bật, có giá
trị trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc ta và của
toàn nhân loại. Đấy là tư tưởng xuyên suốt và nhất quán trong
tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn của HCM và đã trở
thành chiến lược CM của Đảng ta, gắn liền với những thắng lợi
vẻ vang của dt
I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Tư tưởng HCM về ĐĐKDT có nguồn gốc từ nhiều yếu tố và được
hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu nước và truyền
thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là đã vận
dụng và phát triển sáng tạo, chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với tình hình
và điều kiện cụ thể của VN trong từng giai đoạn cách mạng.
1-Truyền thống yêu nước, nhân ái, tinh thần cố kết cộng đồng của
dân tộc Việt Nam.
Đề cập đến chủ nghĩa yêu nước của dân tộc, chủ tịch Hồ Chí Minh
viết: ” Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý
báu của ta từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy
lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt
qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp
nước”.
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, tinh thần yêu nước
gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc Việt
Nam đã hình thành và củng cố, tạo thành một truyền thống bền vững. Tinh
thần ấy, tình cảm ấy theo thời gian đã trở thành lẽ sống của mỗi con người
Việt Nam, làm cho vận mệnh mỗi cá nhân gắn chặt vào vận mệnh của
cộng đồng, vào sự sống còn và phát triển của dân tộc. Nó là cơ sở của ý
chí kiên cường, bất khuất, tinh thần dũng cảm hy sinh vì dân, vì nước của
mỗi con người Việt Nam, đồng thời là giá trị tinh thần thúc đẩy sự phát

triển của cộng đồng và của mỗi cá nhân trong quá trình dựng nước và giữ
nước, làm nên truyền thống yêu nườc, đoàn kết của dân tộc. Dù lúc thăng,
lúc trầm nhưng chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc
Việt Nam bao giờ cũng là tinh hoa đã được hun đúc và thử nghiệm qua
hàng nghìn năm lịch sử chinh phục thiên nhiên và chống giặc ngoại xâm
bảo vệ Tổ quốc của ông cha ta. Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn
kết, cộng đồng của dân tộc Việt Nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa cho sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.

2- Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin
CN M-L cho rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân
dân là người sáng tạo lịch sử; giai cấp vô sản muốn thực hiện vai trò là
lãnh đạo cách mạng phải trở thành dân tộc, liên minh công nông là cơ sở
để xây dựng lực lượng to lớn của cách mạng. CN Mác-lênin đã chỉ ra cho
các dân tộc bị áp bức con đường tự giải phóng. Lê-nin cho rằng, sự liên
kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nhân với nông dân là hết
sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. Rằng nếu
không có sự đồng tình và ửng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ
tiên phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể
thực hiện được.
Đó là những quan điểm lý luận hết sức cần thiết để HCM có cơ sở
khoa học trong sự đánh giá chính xác yếu tố tích cực cũng như những hạn
chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng của
các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế
giới, từ đó hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc.
3- Tổng kết những kinh nghiệm thành công và thất bại của các
phong trào cách mạng Việt Nam và thế giới.
Không chỉ được hình thành từ những cơ sở lý luận suông, tư tưởng
này còn xuất phát từ thực tiễn lịch sử của dân tộc và nhiều năm bôn ba
khảo nghiệm ở nước ngòai của Hồ Chí Minh.
a-Thực tiễn cách mạng Việt Nam
Là một người am hiểu sâu sắc lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ
nước của dân tộc mình, Hồ Chí Minh nhận thức được trong thời phong
kiến chỉ có những cuộc đấu tranh thay đổi triều đại nhưng chúng đã ghi lại
những tấm gương tâm huyết của ông cha ta với tư tưởng “Vua tôi đồng
lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức” và “Khoan thư sức dân để làm
kế sâu rễ bền gốc là thượng sách giữ nước”. Chính chủ nghĩa yêu nước,
truyền thống đoàn kết của dân tộc trong chiều sâu và bề dày của lịch sử



14
này đã tác động mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh và được người ghi nhận như
những bài học lớn cho sự hình thành tư tưởng của mình.
Năm 1858, thực dân Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, từ đó, các
phong trào yêu nước , chống pháp liên tục nổ ra, rất anh dũng, nhưng cuối
cùng đều thất bại. Hồ Chí Minh đã nhận ra được những hạn chế trong chủ
trương tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm
bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử trong giai đọan này. Đây cũng
chính là lý do, là điểm xuất phát để Người quyết tâm từ Bến cảng Nhà
Rồng ra đi tìm đường cứu nước.
b- Thực tiễn cách mạng thế giới
Từ 1911 đến 1941 Hồ Chí Minh đã đi đầu khắp hết các châu lục.
Cuộc khảo nghiệm thực tiễn rộng lớn và công phu đã giúp Người nhận
thức một sự thực:
“Các dân tộc thuộc địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu
tranh của họ chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết
tập hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các nước
tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 thành công đã đưa Hồ Chí
Minh đến bước ngoặt quyết định trong việc chọn con đường cứu nước,
giải phóng dân tộc, giành dân chủ cho nhân dân. Từ chỗ chỉ biết đến Cách
mạng Tháng Mười theo cảm tính, Người đã nghiên cứu để hiểu một cách
thấu đáo con đường Cách mạng Tháng Mười và những bài học kinh
nghiệm quý báu mà cuộc cách mạng này đã mang lại cho phong trào cách
mạng thế giới. Đặc biệt là bài học về sự huy động, tập hợp, đoàn kết lực
lượng quần chúng công nông binh đông đảo để giành và giữ chính quyền
cách mạng.
II. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh là một hệ thống
những luận điểm, nguyên tắc, phương pháp giáo dục, tập hợp và tổ chức
cách mạng và tiến bộ, nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc
và sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ
và chủ nghĩa xã hội. Nói một cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng cố,
mở rộng lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp, giải phóng con người.
1- Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, bảo đảm thành công
của cách mạng.

Với Hồ Chí Minh, đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của
nhân dân ta. Người cho rằng: Muốn giải phóng các dân tộc bị áp bức và
nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng cách mạng vô sản.
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết
phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp
với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn
được Người coi là vấn đề sống còn của cách mạng.
- Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng
cơ bản, nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
- Đoàn kết quyết định thành công cách mạng. Vì đoàn kết tạo nên
sức mạnh, là then chốt của thành công. Muốn đưa cách mạng đến thắng lợi
phải có lực lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc
thành một khối thống nhất. Giữa đoàn kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt
chẽ, qui mô của đoàn kết quyết định quy mô,mức độ của thành công.
- Đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách
mạng.
Tại sao Đế quốc Pháp có ưu thế về vật chất, về phương tiện chiến
tranh hiện đại lại phải thua một Việt Nam nghèo nàn, lạc hậu trong cuộc
chiến xâm lược? Đó là vì đồng bào Việt Nam đã đoàn kết như Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định:

“Toàn dân Việt Nam chỉ có một lòng: Quyết không làm nô lệ. Chỉ có
một chí: Quyết không chịu mất nước. Chỉ có một mục đích: Quyết kháng
chiến để tranh thủ thống nhất và độc lập cho Tổ quốc. Sự đồng tâm của
đồng bào ta đúc thành một bức tường đồng vững chắc xung quanh Tổ
quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm bức
tường đó, chúng cũng phải thất bại”.
Chính sức mạnh của lực lượng toàn dân đoàn kết làm nên thắng lợi
của Cách Mạng Tháng Tám. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh phân tích:
“ Vì sao có cuộc thắng lợi đó?
Một phần là vì tình hình quốc tế thuận lợi cho ta. Nhất là vì lực
lượng của toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa
phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo là cờ Việt Nam để tranh lại quyền
độc lập cho Tổ quốc.Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết.
Không ai thắng được lực lượng đó”.
Từ thực tiễn đó, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận:


15
“Sử dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người
như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại, lúc nào dân ta không đoàn kết
thì bị nước ngoài xâm lấn”.
Và Người khuyên dân ta rằng:
“Dân ta xin nhớ chữ đồng:
Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”
Đây chính là con đường đưa dân ta tới độc lập, tự do.
2- Đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách
mạng
Hồ Chí Minh cho rằng “ Đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu,
nhiệm vụ hàng đầu của đảng mà còn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cả dân tộc”. Bởi vì, đại đoàn kết dân tộc chính là nhiệm vụ của quần

chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập
hợp, đoàn kết quần chúng tạo thành sức mạnh vô địch trong cuộc đấu
tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho con
người.
3-Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, “dân” chỉ mọi con dân đất Việt, con
rồng cháu tiên, không phân biệt dân tộc đa số, người tín ngưỡng với
người không tín ngưỡng, không phân biệt già trẻ , gái, trai, giàu, nghèo.
Nói dến đại đoàn kết dân tộc cũng có nghĩa phải tập hợp mọi người dân
vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Người đã nhiều lần nói rõ: “ ta
đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập tổ quốc; ta còn phải đoàn
kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ
quốc và phụng sự nhân dân thì ta đoàn kết với họ”.
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống
yêu nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung,
độ lượng với con người. Xác định khối đại đoàn kết là liên minh công
nông, trí thức. Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân.
Người cho rằng: liên minh công nông- lao động trí óc làm nền tảng cho
khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đại
đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có
thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
4- Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có tổ
chức là Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng
Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng theo những nguyên
tắc:

- Trên nền tảng liên minh công nông (trong xây dựng chế độ xã hội
mới có thêm lao động trí óc) dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Mặt trận hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương, dân chủ lấy việc
thống nhất lợi ích của tầng lớp nhân dân làm cơ sở để củng cố và không

ngừng mở rộng.
- Đoàn kết lâu dài, chặt chẽ, đoàn kết thực sự, chân thành, thân ái
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng
lớp khác nhau của Hồ Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” – Lấy cái chung, đề
cao cái chung, để hạn chế cái riêng, cái khác biệt.
Đầu năm 1951, tại hội nghị đại biểu Mặt trận Liên – Việt toàn quốc,
Người vạch rõ:
“ Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số
nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp
lao động khác… Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ
chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”. Người chỉ rõ: “Đoàn kết là một
chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị. Ta đoàn kết để
đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để
xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự tổ quốc và
phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”. Người còn nhấn mạnh: ”Đoàn
kết rộng rại, chặt chẽ, đồng thời phải củng cố. Nền có vững, nhà mới chắc
chắn, gốc có tốt thì cây mới tốt tươi. Trong chính sách đoàn kết phải chống
hai khuynh hướng sai lầm: cô độc, hẹp hòi và đoàn kết vô nguyên tắc”.
Cũng tại Đại hội đó, Người chỉ rõ:
“Tôi rất sung sướng được lãnh cái trách nhiệm kết thúc lễ khai mạc
của Đại hội thống nhất Việt Minh – Liên Việt. Lòng sung sướng ấy là của
chung toàn dân, của cả Đại hội, nhưng riêng cho tôi là một sự sung sướng
không thể tả, một người đã cùng các vị tranh đấu trong bấy nhiêu năm cho
khối đại đoàn kết toàn dân. Hôm nay, trông thấy rừng cây đại đoàn kết ấy
đã nở hoa kết quả và gốc rễ của nó đang ăn sâu lan rộng khắp toàn dân, và
nó có một cái tương lai “trường xuân bất lão”. Vì vậy cho nên lòng tôi
sung sướng vô cùng.”
Người đã nói lên không chỉ niềm vui vô hạn trước sự lớn mạnh của
Mặt trận dân tộc thống nhất, mà còn là sự cần thiết phải mở rộng và củng

cố Mặt trận cũng như niềm tin vào sự phát triển bền vững của khối đại
đoàn kết dân tộc lâu dài về sau. Điều này được thể hiện trong toàn bộ tiến
trình cách mạng Việt Nam.
III- NGUYÊN TẮC ĐẠI ĐOÀN KẾT CỦA HỒ CHÍ MINH


16
Dù cách mạng Việt Nam trải qua những thời kỳ lịch sử khác nhau,
song chiến lược đại đoàn kết dân tộc của Hồ Chí Minh luôn được xây
dựng, hoàn thiện và tuân theo những nguyên tắc nhất quán sau.
1- Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi
ích tối cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng
liêng của con người:
Trong mỗi quốc gia dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai
cấp khác nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng
tất cả các lợi ích khác nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc.
Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp có thực hiện được hay không còn phụ
thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có đoàn kết hay không và việc
nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế nào.
Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân
trọng và phát huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất
những yếu tố khác biệt, mâu thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những
yếu tố của đoàn kết dân tộc thay cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự quy
tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi ích.
Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền
và toàn vẹn lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là
ngọn cờ đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của
cách mạng Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ
Chí Minh để Người tìm ra những phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó
trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của mình.

2- Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân
Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha
ta được Người kế thừa và nâng lên một bước trên cơ sở quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là
người sáng tạo ra lịch sử.
Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin
tưởng vững chắc vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân,
phải đánh giá đúng vai trò của lực lượng nhân dân. Người viết: “Có lực
lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có
thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề
một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những
đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”.
3- Đại đoàn kết một cách tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo; đại
đoàn kết rộng rãi, lâu dài, bền vững

Theo Hồ Chí Minh, có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh của
cách mạng. Muốn đoàn kết thì trước hết phải có Đảng cách mạng để trong
thì vận động, tổ chức dân chúng, ngoài thì liên minh với các dân tộc bị áp
bức và giai cấp vô sản ở mọi nơi. Như vậy, để đoàn kết và lãnh đạo cách
mạng, điều kiện tiên quyết là phải có một Đảng cách mạng với tính cách là
Bộ tham mưu, là hạt nhân để tập hợp quần chúng trong nước và tổ chức,
giữ mối liên hệ với bè bạn ở ngoài nước. Đảng cách mạng muốn thống
nhất về chính trị và tư tưởng, đảm bảo được vai trò đó, thì phải giữ vững
bản chất của giai cấp công nhân, phải được vũ trang bằng chủ nghĩa chân
chính, khoa học và cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác – Lênin: ”Để làm
trọn trách nhiệm người lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải dựa vào giai cấp
công nhân, lấy liên minh công nông làm nền tảng vững chắc để đoàn kết
các tầng lớp khác trong nhân dân. Có như thế mới phát triển và củng cố
được lực lượng cách mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng”.
Đại đoàn kết một cách tự giác là một tập hợp bền vững của các lực

lượng xã hội có định hướng, tổ chức và có lãnh đạo. Đây là sự khác biệt
mang tính nguyên tắc của tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đại đoàn
kết dân tộc với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước
Việt Nam tiền bối và một số lãnh tụ cách mạng trong khu vực và trên thế
giới. Đi vào quần chúng, thức tỉnh quần chúng, đoàn kết quần chúng vào
cuộc đấu tranh tự giải phóng mình là mục tiêu nhất quán của Hồ Chí
Minh.
4- Đại đoàn kết chân thành, thân ái, thẳng thắn theo nguyên tắc
tự phê bình, phê bình vì sự thống nhất bền vững
Giữa các bộ phận của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những
điểm tương đồng còn có những điểm khác nhau cần phải giải quyết theo
con đường đối thoại, bàn bạc để đi đến sự nhất trí; bên cạnh những nhân tố
tích cực vẫn có những tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề
này, một mặt Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”;
mặt khác, Người nêu rõ: Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để
tăng cường đoàn kết và căn dặn mọi người phải ngăn ngừa tình trạng đoàn
kết xuôi chiều, nêu cao tinh thần phê bình và tự phê bình để biểu dương
mặt tốt, khắc phục những mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết: “Đoàn kết thật
sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn
kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học hỏi những cái tốt của
nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái,
vì nước, vì dân”.


17
Trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận
dân tộc thống nhất luôn đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hòi, một
chiều, chống coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ
được; đồng thời chống khuynh huớng đoàn kết mà không có đấu tranh
đúng mức trong khối đại đoàn kết dân tộc. “Chúng ta làm cách mạng

nhằm mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải
tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta”.
5- Đại đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế; chủ
nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân
Ngay khi thành người cộng sản, Hồ Chí Minh đã xác định cách
mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới và chỉ có thể giành
được thắng lợi hoàn toàn khi có sự đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách
mạng thế giới. Trong quá trình cách mạng, tư tưởng cuả Người về vấn đề
đoàn kết với cách mạng thế giới càng được làm sáng tỏ hơn và đầy đủ
hơn. Cách mạng Việt Nam phải gắn với phong trào giải phóng dân tộc trên
thế giới, với các nước xã hội chủ nghĩa, với tất cả các lực lượng tiến bộ
đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ và hoà bình thế giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã xây dựng thành công 3 tầng Mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc;
Mặt trận đoàn kết Việt-Miên-Lào và Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết
với Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược. Đây là sự phát triển rực rỡ và là thắng lợi to lớn của tư tưởng
Hồ Chí Minh về đại đoàn kết.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công.
Đoàn kết trong Đảng là cơ sở để đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn kết
toàn dân tộc là cơ sở để thực hiện đại đoàn kết quốc tế. Tư tưởng Đại
đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thực hiện thành công là một
nhân tố quyết định cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam đi đến thắng lợi
hoàn toàn và đưa cách mạng Việt Nam lên giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
IV. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT
DÂN TỘC TRONG VIỆC ĐẨY MẠNH CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY

1- Thực trạng

Hiện nay, sự nghiệp đổi mới ở nước ta đã thu được những thành tựu
cơ bản. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Việt Nam đang chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, mở cửa sẵn sàng là bạn là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình độc lập và phát triển.
Trong những năm đổi mới, nền kinh tế của đất nước tiếp tục phát
triển với nhịp độ cao so với các nước khác trong khu vực. Tình hình chính
trị của đất nước luôn luôn giữ được ổn định. Tình hình xã hội có tiến bộ.
Đời sống vật chất tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Vị
thế của đất nước không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế. Thế và
lực của đất nước ta mạnh lên rất nhiều so với những năm trước đổi mới
cho phép nước ta tiếp tục phát huy nội lực kết hợp với tranh thủ ngoại lực
để phát triển nhanh và bền vững. Phấn đấu đến năm 2020 về cơ bản làm
cho Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Mặt khác, nước ta đang đứng trước cơ hội lớn và thách thức lớn đan
xen nhau.
Sự nghiệp đổi mới trong những năm tới có nhiều cơ hội để phát
triển. Những cơ hội tạo cho đất nước ta có thể đi tắt, đón đầu, tiếp thu
nhanh những thành tựu của cách mạng khoa học và công nghệ trên thế
giới. Mặt khác, chúng ta rút ra được nhiều bài học từ cả những thành công
và yếu kém của gần hai chục năm tiến hành sự nghiệp đổi mới để đẩy
mạnh sự nghiệp cách mạng. Những thành tựu và thời cơ đã cho phép nước
ta tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp, tiếp tục ưu
tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất
phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy hơn nữa nội lực.
Tuy vậy, chúng ta cũng đang đứng trước những thách thức, nguy cơ

hay những khó khăn lớn trên con đường phát triển của đất nước. Ví như
nạn tham nhũng, tệ quan liêu cũng như sự suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã và
đang cản trở việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước, gây bất bình và làm giảm niềm tin trong nhân dân.
Các thế lực phản động không ngừng tìm mọi cách thực hiện âm mưu "diễn
biến hòa bình", chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá
hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, lợi dụng các vấn đề “nhân quyền”, “


18
dân tộc”, “tôn giáo” hòng li gián, chia rẽ nội bộ Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta.
Sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước vì mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" đang đòi hỏi toàn Đảng, toàn
quân và toàn dân thực hiện chiến lược đại đoàn kết toàn dân tộc ở chiều
sâu. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức được mở rộng hơn, là nhân
tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
2- Nhiệm vụ và yêu cầu
Hiện nay, hơn bao giờ hết phải quán triệt và vận dụng sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đại đoàn kết trong tình hình mới. Qua hơn một
phần tư thế kỷ thực hiện công cuộc đổi mới, với nhiều chủ trương lớn của
Đảng, chính sách của Nhà nước hợp lòng dân, khối đại đoàn kết dân tộc
trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội
ngũ trí thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát
triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị của đất nước. Các hình
thức tập hợp nhân dân đa dạng hơn và có bước phát triển mới, dân chủ xã
hội được phát huy; bước đầu đã hình thành không khí dân chủ, cởi mở

trong xã hội.
Có thể khẳng định chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng đã
thực sự là một bộ phận của đường lối đổi mới và góp phần to lớn vào
những thành quả của đất nước.
Tuy nhiên, khối đại đoàn kết toàn dân tộc, mối quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước và Nhân dân đang đứng trước những thách thức mới. Lòng tin
vào Đảng, Nhà nước và chế độ của một bộ phận nhân dân chưa vững chắc,
tâm trạng của nhân dân có những diễn biến phức tạp, lo lắng về sự phân
hoá giàu nghèo, về việc làm và đời sống. Nhân dân bất bình trước những
bất công xã hội, trước tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí, v.v…
Sở dĩ có những khuyết điểm, yếu kém trên là do Đảng ta chưa kịp
thời phân tích và dự báo đầy đủ những biến đổi trong cơ cấu giai cấp - xã
hội trong quá trình đổi mới đất nước và những mâu thuẫn nảy sinh trong
nội bộ nhân dân để kịp thời có chủ trương, chính sách phù hợp; có tổ chức
đảng, chính quyền còn coi thường dân, coi nhẹ công tác dân vận - mặt
trận; ở không ít nơi còn tư tưởng định kiến, hẹp hòi làm cản trở cho việc
thực hiện chủ trương đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng; một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, v.v… không thực hiện
được vai trò tiên phong gương mẫu.

Mặt khác, các thế lực thù địch ra sức phá hoại khối đại đoàn kết của
nhân dân ta, luôn kích động cái gọi là “dân chủ, nhân quyền”, kích động
vấn đề dân tộc, tôn giáo hòng li gián, chia rẽ nội bộ đảng, nhà nước và
nhân dân ta.
Yêu cầu đặt ra trong giai đoạn cách mạng hiện nay là: phải củng cố
và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn dân, tiến hành thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước vì mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Một là, Đảng ta phải luôn xác định cách mạng Việt Nam là một bộ
phận không thể tách rời của cách mạng thế giới, Việt Nam tiếp tục đoàn

kết và giúp đỡ, ủng hộ các phong trào cách mạng, các xu hướng trào lưu
tiến bộ của thời đại vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
Hai là, giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc, tự chủ tự cường, chủ
trương phát huy sức mạnh dân tộc… trên cơ sở đó tranh thủ sự đồng tình
ủng hộ từ lực lượng bên ngoài, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu mỗi
thời kỳ
3-Những chú ý khi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
Lý luận gắn liền với thực tiễn. Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của
quá trình kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và
thực tiễn cách mạng từng thời kỳ. Hồ Chí Minh vạch rõ lý luận không
được áp dụng vào thực tiễn là lý luận suông, đồng thời thực tiễn không có
lý luận soi sáng là thực tiến mù quáng.
Trong tình hình hiện nay, để vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào
việc xây dựng, củng cố, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cần chú ý
những vấn đề sau đây:
Một là, phải thấu suốt quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn
sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Hai là, lấy mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng làm điểm
tương đồng, xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ,
thành phần, giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng
hướng tới tương lai.
Ba là, bảo đảm công bằng và bình đẳng xã hội, chăm lo lợi ích thiết
thực, chính đáng, hợp pháp của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; kết
hợp hài hòa các lợi ích cá nhân- tập thể- toàn xã hội; thực hiện dân chủ
gắn với giữ gìn kỷ cương, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; không


19

ngừng bồi dưỡng, nâng cao tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc,
thống nhất tổ quốc, tinh thần tự lực tự cường xây dựng đất nước; xem đó
là những yếu tố quan trọng để củng cố và phát triển khối đại đoàn kết dân
tộc.
Bốn là, đại đoàn kết là sự nghiệp của cả dân tộc, của cả hệ thống
chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức đảng được thực hiện bằng
nhiều biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của đảng, chính sách
pháp luật của nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
4- Ý nghĩa tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh
Đại đoàn kết dân tộc là tư tưởng lớn, có giá trị lý luận và thực tiễn
sâu sắc với cách mạng nước ta. Tư tưởng này có nhiều giá trị, biểu hiện
tập trung ở những điểm chính sau:
- Đoàn kết là bài học hàng đầu và có tính chiến lược, quyết định mọi
thành công. Biết đoàn kết thì vượt qua khó khăn, thử thách, không đoàn
kết, chia rẽ là thất bại.
- Đoàn kết phải có nguyên tắc, vì mục tiêu và lợi ích chung. Không
đoàn kết một chiều, đoàn kết hình thức, nhất thời.
- Đoàn kết trong tổ chức, thông qua tổ chức để tạo nên sức mạnh.
Đoàn kết cá nhân và đoàn kết tổchứckhông tách rời nhau.
- Đoàn kết phải có nội dung thích hợp với từng địa phương, từng tổ
chức, từng thời kỳ. Đoàn kết trong chính sách tập hợp các tầng lớp nhân
dân.
- Đoàn kết đi liền với bao dung, thực hiện tính nhân đạo cao cả,
hướng tới tương lai.
- Lãnh đạo xây dựng khối đại đoàn kết là nhiệm vụ của Đảng, là
biện pháp phát huy sức mạnh của đảng, của toàn dân tộc.
- Muốn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải thực sự đoàn kết
trong
Đảng.
- Thực hiện đồng bộ đoàn kết trong Đảng - Đoàn kết toàn dân - Đoàn

kết quốc tế.
- Đoàn kết trong mọi chủ trương, chính sách của đảng và nhà nước
trên cơ sở bảo vệ và tôn trọng lợi ích của mọi thành viên cộng đồng quốc
gia, dân tộc, quốc tế.
5- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới
hiện nay
1- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc

Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, Đảng, Nhà nước phải xây dựng và phát huy cao độ sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh
thời đại.
Trong thời gian qua, nhìn chung, khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên
nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức được mở rộng hơn, là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh
tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong
khi sự nghiệp đổi mới đang có yêu cầu cao về tập hợp sức mạnh của nhân
dân thì việc tập hợp nhân dân vào Mặt trận và các Đoàn thể, các tổ chức
xã hội còn nhiều hạn chế, nhất là ở khu vực kinh tế tư nhân, khu vực
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, ở một số vùng có đông đồng bào
theo đạo, đồng bào dân tộc thiểu số,v,v.
Trong công cuộc đổi mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với tính chất
là một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện rộng lớn nhất của
nhân dân ta, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của mọi tầng lớp nhân dân,
nơi hiệp thương và thống nhất hành động của các thành viên, đã phối hợp
với chính quyền giải quyết ngày càng có hiệu quả những vấn đề bức xúc
của nhân dân, thực hiện dân chủ, đổi mới xã hội, chăm lo lợi ích chính
đáng của các tầng lớp nhân dân; tham gia ngày càng thiết thực vào việc
xây dựng, giám sát, bảo vệ đảng và chính quyền.
Với tư cách là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam đã phối hợp ngày càng nhiều hơn với chính quyền các cấp
từ trung ương đến địa phương trong việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại nhằm cùng nhau nỗ lực xây dựng
và bảo vệ tổ quốc.
Trước yêu cầu của nhiệm vụ mới, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phải
chủ động góp phần cùng Đảng và Nhà nước xây dựng và hoàn thiện một
số chính sách chung để sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trở thành động
lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thắng lợi bền
vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam chủ trương “đoàn kết rộng rãi, đoàn kết chân thành mọi thành viên
trong xã hội có thể đoàn kết được, không phân biệt quá khứ, thành phần
giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ở trong nước hay ở nước ngoài trên cơ sở mục
tiêu chung là giữ vững độc lập thống nhất chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,


20
văn minh”; đoàn kết giữa nhân dân với nhân dân các nước trên thế giới;
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để trở thành động lực chủ
yếu để xây dựng và bảo vệ vững chắc tổ quốc”.
Trong những năm trước mắt, mặt trận tập trung đẩy mạnh hơn nữa
các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, nhất là cuộc vận
động “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân cư” và
cuộc vận động “ngày vì người nghèo”, phấn đấu xoá xong nhà dột nát cho
người nghèo, góp phần cùng đảng và nhà nước thực hiện mục tiêu đến
năm 2010 đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng nước kém phát triển.
2- Khơi dậy và phát huy tinh thần đại đoàn kết dân tộc
Trong thực tiễn, việc chuyển sức mạnh đoàn kết dân tộc trong thời
kỳ giữ nước sang thời kỳ dựng nước không phải là việc dễ dàng. Lịch sử
đang đòi hỏi những nỗ lực lớn của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực

này. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xu thế hiện nay là hội nhập
kinh tế quốc tế, một loạt vấn đề đặt ra mà chúng ta phải chú ý:
- Khơi dậy và phát huy cao độ sức manh nội lực, phải xuất phát từ
lợi ích dân tộc, từ phát huy nội lực dân tộc mà mở rộng quan hệ hợp tác
quốc tế, tranh thủ mọi khả năng có thể tranh thủ được để xây dựng, phát
triển đất nước.
- Trong điều kiện xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội
chủ nghĩa, để khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao ý chí tự cường
dân tộc, trong chính sách đại đoàn kết, phải chú ý phát huy tính năng động
của mỗi người, mỗi bộ phận để mọi việc từ lãnh đạo, quản lý, đến sản xuất
kinh doanh, học tập và lao động đều có năng suất, chất lượng, hiệu quả
ngày càng cao. Đồng thời, phải khắc phục được những tiêu cực của kinh tế
thị trường, đặc biệt tâm lý chạy theo đồng tiền, cạnh tranh không lành
mạnh làm phai nhạt truyền thống đoàn kết, tình nghĩa tương thân tương ái
của dân tộc, giải quyết đói nghèo, thu hẹp khoảng cách, ranh giới giữa
kinh và thượng, giữa nông thôn và thành thị, cũng cố khối đại đoàn kết 54
dân tộc anh em, chăm lo đời sống đồng bào dân tộc ít người, đặc biệt là
vùng sâu, vùng xa, tôn trọng tín ngưỡng tôn giáo, các tập quán tốt đẹp của
dân tộc, kiên quyết loại bỏ những âm mưu lợi dụng tôn giáo, tà giáo để
gây rối.
- Phải xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Phải
chống các tệ nạn xã hội, nhất là tệ nạn tham nhũng, quan liêu, vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân, phải biết lắng nghe những ý nguyện chính
đáng của nhân dân, phải kịp thời giải quyết những oan ức của nhân dân,

làm cho lòng dân được yên. Phải tiếp tục đổi mới chính sách giai cấp,
chính sách xã hội, đặc biệt coi trọng việc xây dựng mặt trận, đổi mới, hoàn
thiện chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo, chính sách đối với công
nhân, với nông dân, với trí thức, chính sách đối với cộng đồng người việt
nam ở nước ngoài, chính sách đối với các thành phần kinh tế, tập hợp đến

mức rộng rãi nhất mọi nhân tài, vật lực vào sự nghiệp đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
- Trong điều kiện thực hiện chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế, đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại trong xu thế khu vực hóa, toàn
cầu hóa kinh tế ngày càng phát triển, đòi hỏi phải củng cố sự đoàn kết với
phong trào cách mạng các nước, đồng thời phải nắm vững phương châm
ngoại giao mềm dẻo, có nguyên tắc nhằm thực hiện thắng lợi chính sách
đối ngoại hiện nay của Đảng và Nhà nước ta là: Việt Nam muốn là bạn và
đối tác tin cậy với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hòa bình,
hợp tác và phát triển.
Trong tình hình thế giới hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải có những
chủ trương đúng đắn, sáng tạo trong việc nắm bắt cơ hội, vượt qua thử
thách, đẩy lùi nguy cơ, để vừa nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, vừa giữ
vững bản sắc dân tộc, giữ vững đinh hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, Đảng và Nhà nước ta phải chủ trương phát huy mạnh mẽ
sức mạnh dân tộc - sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, sức mạnh của người
làm chủ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trên cơ sở sức mạnh bên trong
mà tranh thủ và vận dụng sự đồng tình, ủng hộ rộng rãi của lực lượng bên
ngoài.
3- Những bước làm cụ thể hơn
a- Xác đinh hướng đi
Đại đoàn kết dân tộc - Cội nguồn sức mạnh của đất nước là yếu tố
quyết định cho phát triển. Một trong những kẻ thù của chúng ta hiện nay là
sự nghèo nàn, lạc hậu. Lạc hậu thì sẽ tụt hậu. Tụt hậu thì khó thoát khỏi
vòng lệ thuộc. Tất cả những ai có thể góp một phần vào việc chống kẻ thù
đó đều nên và có thể có mặt trong hàng ngũ của chúng ta.
Từ ngày Đảng ta có chủ trương đổi mới, tư tưởng hòa hợp dân tộc
lại được phục hưng và ứng nghiệm với nhiều kết quả khả quan. Quan điểm
kinh tế nhiều thành phần, quan điểm kinh tế mở, tư tưởng Việt Nam làm
bạn với tất cả các nước trên thế giới, khép lại quá khứ, hướng về tương

lai,v,v., đã giúp cho nước ta khai thác được cả nội lực và ngoại lực để vượt
khỏi khủng hoảng, liên tiếp thu được những thành quả về mọi mặt.


21
Bây giờ, chúng ta đã có một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và
đang trên đường tiến tới thực hiện lý tưởng dân giàu, nước mạnh, xã hội
dân chủ, công bằng, văn minh. Chúng ta đã từng bước nâng cao uy tín
quốc tế. Do đó, chúng ta càng có sức cảm hóa, thuyết phục nhiều hơn.
Những kinh nghiệm quốc tế vừa qua càng chỉ rõ thêm rằng nếu chỉ dùng
đối đầu và bạo lực để giải quyết những thù hận thì chỉ đẻ ra thù hận. Nếu
dùng cách đối thoại, thuyết phục, cảm hóa để giải quyết thù hận thì có thể
triệt tiêu được thù hận và tạo ra sức mạnh càng ngày càng dồi dào hơn.
Nhìn ra thế giới, càng nghiệm thấy rằng tài nguyên lớn nhất cho mọi quốc
gia chính là tài nguyên con người. Nếu quy tụ được sức người, thì nhiều
nguồn lực khác cũng có thể được quy tụ. Con người mà không quy tụ thì
mọi nguồn lực khác cũng rơi rụng.
b- Xây dựng, kiện toàn hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh:
- Xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam vững mạnh
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân,
vì dân trong sạch, vững mạnh, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân.
- Luôn luôn chăm lo xây dựng Mặt trận và các Đoàn thể nhân dân
Hệ thống chính trị ở Việt Nam hoạt động theo cơ chế Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Đây là một cơ chế có sự thống
nhất, không có đối lập và không tách rời nhau.Vấn đề làm chủ của nhân
dân được thể hiện rõ qua quyền giám sát của dân thông qua việc các đại
biểu Quốc hội chất vấn các thành viên chính phủ tại mỗi kỳ họp Quốc hội;
người dân có quyền tham gia vào các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể.
Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở cho phép người dân được tham gia
trực tiếp vào việc lập kế hoạch, quản lý và thực thi các chính sách phát

triển tại địa phương. Người dân cũng được tạo điều kiện phát triển kinh tế
trong khuôn khổ pháp luật.
b - Dựa vào sức mạnh của toàn dân,lấy dân làm gốc
Sự nghiệp đổi mới là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân, cho nên mọi
chủ trương chính sách của Đảng ta đều xuất phát từ dân, dựa vào dân mà
thực hiện. Do đó, cần phải phát triển nguồn nhân lực con người, đào tạo
đội ngũ cán bộ tốt, đủ năng lực, phẩm chất đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, khơi dậy, phát huy sức mạnh đoàn kết dân tộc,
coi dân chủ là mục tiêu, là động lực để xây dựng đất nước, chú trọng nâng
cao ý thức làm chủ cho nhân dân.
"Dễ trăm lần không dân cũng chịu,
Khó vạn lần dân liệu cũng xong ".

Dân là gốc của nước. Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh,
chúng ta coi đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với
nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo là động lực chủ yếu để phát triển
đất nước. Vì vậy, chúng ta cần phải:
c- Thường xuyên chăm lo xây dựng và phát triển nguồn lực con
người. Cần xây dựng và phát triển nguồn nhân lực
- Bồi dưỡng tư tưởng yêu nước kết hợp với tinh thần quốc tế chân
chính
- Có đạo đức, lối sống cách mạng trong sáng, cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư, không tham nhũng và mắc các tiêu cực khác.
- Đội ngũ nhân lực có trình độ cao
* Tiếp tục xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đoàn
kết tạo thành sức mạnh vô biên. Lịch sử nước nhà và lịch sử thế giới cho
thấy rằng, thời kỳ nào dân tộc không đoàn kết thì thời kỳ đó dân tộc không
phát triển lên được, thậm chí sẽ bị mất nước, bởi các thế lực ngoại bang
xâm chiếm.
d - Tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Xã hội càng phát triển

thì trình độ dân chủ của một xã hội càng cao. Dân phải được tôn trọng,
phải phát huy được tính tích cực của mình trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Kinh tế thị trường đã và đang tạo ra những mặt tích cực đáng kể
cho sự phát triển kinh tế- xã hội nhưng đồng thời cũng có những mặt trái,
làm trầm trọng thêm một số tiêu cực đã có trước đây và nảy sinh một số
tiêu cực mới. Mọi âm mưu và hành động, dù là nhỏ, làm tổn hại đến khối
đại đoàn kết toàn dân tộc đều là có tội đối với đất nước, cần được lên án.
Tạo điều kiện cho nhân dân làm tròn nghĩa vụ công dân.
e - Phát triển nguồn lực con người
Trong thế giới ngày nay, nguồn lực hàng đầu là trí thức. Nói như thế
không có nghĩa là đề cao những con người trí thức cụ thể, mà nói đến một
điều kiện không thể thiếu cho sự phát triển: trong cuộc đua tranh để phát
triển, không thể chỉ dựa vào nhiệt tình và ý chí, mà phải dựa vào kiến thức,
học vấn, sự nhận thức các quy luật của thiên nhiên và của xã hội.
Theo kinh nghiệm lịch sử của thế giới và bản thân nước ta, nhất là
qua những kinh nghiệm của Hồ Chí Minh, thấy rằng trí thức tận tụy hay
không là tùy thuộc vào chúng ta có tin dùng trí thức hay không, có giao
cho họ đảm nhiệm những trọng trách mà họ xứng đáng được đảm nhiệm
hay không.


22
Điều đó không tùy thuộc vào bản thân trí thức, mà vào lãnh đạo: có
đủ khả năng thu phục nhân tâm và nhân tài hay không. Thu hút được nhân
tài cũng là một tài năng.
Hiện nay, nước ta đã có một giai cấp công nhân ngày càng đông đảo,
hoạt động trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau, trong các thành phần
kinh tế khác nhau. Yêu cầu về trình độ nghề nghiệp ngày càng cao, nhất là
trong điều kiện công nghệ ngày càng hiện đại, tin học hoá và tự động hoá
ngày càng nhiều. Nếu có chính sách phù hợp thì người công nhân sẽ có

những sáng kiến, sáng tạo lớn. Có thể nói sản xuất hiện đại vẫn đòi hỏi và
rèn luyện người công nhân những phẩm chất ưu việt của riêng người công
nhân. Đó là tính kỷ luật, chính xác, tính tập thể, là ý thức chính trị tốt. Đó
cũng là những phẩm chất mà người cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản
lý cần có. Vì vậy hiện nay, chú ý phát triển đội ngũ cán bộ xuất thân từ
giai cấp công nhân vẫn là một hướng đi đúng cần quan tâm.
Đất nước ta cũng có một đội ngũ trí thức khá lớn. Họ có mặt trong
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực từ sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, nghiên
cứu khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học công nghệ, văn hoá
nghệ thuật,v,v,. Họ xuất thân từ các giai cấp và tầng lớp khác nhau kể cả
nông dân, công nhân. Họ có mối liên hệ khá gần gũi với các giai cấp và
tầng lớp khác, với quần chúng lao động. Họ có thể hiểu rõ tâm tư nguyện
vọng, những giá trị của quần chúng lao động. Rất nhiều người trong số đó
có khả năng lãnh đạo, quản lý.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp hiện nay, kể cả cán bộ lãnh đạo,
quản lý cấp cao, chúng ta phải khắc phục những định kiến vẫn còn rơi rớt.
Đó là tâm lý coi thường những người xuất thân từ các giai cấp lao động,
đặc biệt từ giai cấp công nhân, nghĩ rằng họ quen lao động chân tay, ít chữ
nghĩa, ít hiểu biết, hạn chế tầm nhìn đối với những vấn đề đại sự quốc gia.
Do đó chỉ chú ý vào những người "có học", đã qua trường lớp chính quy,
bài bản.
Ngược lại, có tâm lý coi thường hoặc kỳ thị những người trí thức,
coi họ chỉ sách vở, quan liêu, không thực tế, thiếu hiểu biết cuộc đời.
Thậm chí coi họ là điển hình của thói tiểu tư sản, cá nhân chủ nghĩa, yếu
đuối. Do đó chỉ chú ý đối với những người đã từng kinh qua "thực tiễn".
Tuy nhiên, nhìn một cách thực tế, hậu quả của cả hai khuynh hướng
đều không tốt. Chúng ta phải đề phòng một khuynh hướng nửa vời trong
đội ngũ cán bộ, một mặt chạy theo vỏ trí thức, với những văn bằng, học vị
nọ kia chứ không thực sự là trí thức, mặt khác cũng không có lập trường


quan điểm, tác phong công nhân thực sự. Đây là một tình trạng chứa đựng
nguy cơ của chủ nghĩa cơ hội trong đội ngũ cán bộ của chúng ta.
f- Để ngọn lửa yêu nước và đại đoàn kết dân tộc sáng mãi
Chúng ta cần ôn lại mấy bài học lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
Đất nước Việt Nam, giang sơn Việt Nam cùng mọi thành quả của
nền văn hóa Việt Nam không phải là của riêng ai, của một giai cấp hay
đảng phái nào, mà là tài sản chung của mọi người Việt nam, của cả dân tộc
Việt Nam.
Mọi người Việt Nam đều có trách nhiệm và có quyền được đóng góp
vào việc tô điểm cho giang sơn đó, làm giàu thêm và đẹp thêm cho nền
văn hóa đó.
Phải làm sao để cho mọi người Việt Nam đều được sống với giang
sơn gấm vóc này, được hưởng mọi giá trị vật chất và tinh thần của nền văn
hóa này.
V. KẾT LUẬN
Trong tất cả mọi người Việt Nam sống ở trong nước hay ở nước
ngoài đều luôn luôn tiềm ẩn tinh thần, ý thức dân tộc trong tâm thức của
họ. Vì vậy, khơi nguồn và phát triển đến đỉnh cao sức mạnh dân tộc và trí
tuệ của con người Việt Nam, thực thi chiến lược đại đoàn kết dân tộc của
Hồ Chí Minh một cách sáng tạo, quy tụ lực lượng dân tộc bằng nội dung
và hình thức tổ chức thích hợp với mọi đối tượng tập thể và cá nhân trên
cơ sở lấy liên minh công nông và trí thức làm nòng cốt do Đảng cộng sản
lãnh đạo, phấn đấu vì độc lập của tổ quốc, tự do, hạnh phúc của của toàn
dân là một bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị bền vững lâu dài, đặc biệt
có ý nghĩa chính trị quan trọng trong sự nghiệp thực thi đường lối đổi mới,
thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội hiện nay.
Cách mạng nước ta đã bước sang giai đoạn mới có sự khác biệt về
chất so với thời kỳ đấu tranh bảo vệ tổ quốc và giải phóng đất nước, thậm
chí cũng đã khác rất nhiều so với thời kỳ trước đổi mới. Đại hội XI của

Đảng ta xác định: Hơn bao giờ hết cần phát huy sức mạnh đại đoàn kết
toàn dân tộc. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân về
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong bối cảnh mới. Lấy mục
tiêu xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm
tương đồng; xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp,
chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc;


23
đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung... để tập
hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã
hội. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan
hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội. Đoàn kết trong Đảng là hạt
nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Các
cấp uỷ đảng và chính quyền phải thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học
hỏi, tiếp thu ý kiến, giải quyết các khó khăn, vướng mắc của nhân dân; tin
dân, tôn trọng những người có ý kiến khác; làm tốt công tác dân vận, có cơ
chế, pháp luật để nhân dân bày tỏ chính kiến, nguyện vọng và thực hiện
quyền làm chủ của mình./.


24
ĐĐKDT là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công
của cách mạng
Theo HCM, ĐĐK của ta không những rộng rãi mà còn ĐK lâu dài,
ĐĐK là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị nhất
thời, mang tính sách lược, mà nó được thấm sâu trong mọi đường lối, chủ
trương chính sách của Đảng, có ý nghĩa sống còn, quyết định thành bại
của cách mạng.

ĐĐKDT không phải là ý muốn chủ quan, mà được nẩy sinh từ nhu
cầu khách quan của sự nghiệp CM của ND, do ND tiến hành và vì những
quyền lợi của ND. Chính vì vậy, Người luôn luôn khẳng định, ĐĐKDT
phải là một chủ trương nhất quán của Đảng, vấn đề chiến lược của
CMVN, trong CMDTDCND cũng như trong CMXHCN, nhằm ĐK mọi
lực lượng có thể ĐK, tập hợp mọi lực lượng có thể tập hợp, tạo nên sức
mạnh tổng hợp to lớn của toàn DT trong cuộc đấu tranh chống mọi kẻ thù
của DT, GC.
HCM luôn coi ĐĐKDT là nguồn gốc của thành công, là nguyên
nhân của thắng lợi, là “điểm mẹ” “đẻ ra con cháu đều tốt”. Bởi theo
Người, chúng ta do ĐK mới có lực lượng, nhưng lực lượng có thực sự ĐK
mới có sức mạnh, mà có sức mạnh mới làm cho cách mạng từ “việc rất
khó”, trở thành việc không khó; dù “việc to lớn mấy”, cũng giải quyết
thành công. Người đi đến khẳng định:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công”
HCM, TT, tập 10, Nxb CTQG, H, 2002, tr.350.
HCM đã chỉ rõ, trong thực tiễn đấu tranh CM phải căn cứ vào đặc
điểm, điều kiện, tình hình cụ thể từng nơi, từng lúc để điều chỉnh chính
sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với các đối tượng
khác nhau, nhưng ĐĐKDT phải luôn luôn được nhận thức là vấn đề sống
còn của CM.
2.1.2. Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu
của cách mạng
Trong TTHCM, ĐĐKDT không chỉ là vấn đề chiến lược nói
chung, mà còn được thể hiện một cách thiết thực, cụ thể trong mọi giai
đoạn, thời kỳ cách mạng trở thành một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng.
Để ĐĐKDT thực sự là một mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của CM,
theo HCM, trước hết ĐĐK phải là tư tưởng nhất quán, xuyên suốt trong


mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và mọi cán bộ, ĐV đều
nhận rõ được sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết toàn dân nhằm phát
huy sức mạnh to lớn của các tầng lớp ND trong sự nghiệp CM vẻ vang của
DT.
Trong bài phát biểu kết thúc buổi ra mắt của Đảng lao động Việt
Nam (tại Đại hội lần thứ II của Đảng), HCM đã thay mặt Đảng tuyên bố
trước toàn thể dân tộc: “Mục đích của ĐLĐVN có thể gồm trong 8 chữ là:
đoàn kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc” tập 6, tr.183.
Nhận thức và đánh giá đúng đắn vai trò, khả năng to lớn của
QCND, HCM cho rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là mục tiêu, mục
đích, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng, mà còn là mục tiêu, mục đích, nhiệm
vụ hàng đầu của cả dân tộc. Đảng phải tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh
và những yêu cầu cụ thể của từng giai đoạn cách mạng để xác định nội
dung, hình thức tuyên truyền vận động quần chúng cho phù hợp và đưa ra
khẩu hiệu phản ánh đúng đắn đòi hỏi cấp bách của lịch sử, đáp ứng
nguyện vọng bức thiết của các tầng lớp nhân dân.
2.1.3. Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
Nói đến ĐĐKDT trong TTHCM là nói đến ĐĐK toàn dân. “Dân”
trong tTTHCM có nội hàm rất rộng, Người thường dùng các khái niệm:
dân ta, nhân dân, quần chúng nhân dân, đồng bào... để chỉ về dân, (không
phân biệt đảng phái, giai cấp, già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, dân tộc, tôn
giáo...). Đã là người VN đều có một nguồn gốc chung “con dân nước
Việt”, “con Lạc, cháu Hồng”, “con Rồng, cháu Tiên”, “người chung một
bọc”. Khái niệm về “dân” trong TTHCM vừa dùng để chỉ về quần chúng
nhân dân nói chung, vừa được hiểu là mỗi con người VN cụ thể, nhưng
đều là chủ thể, lực lượng chủ yếu của khối ĐĐKDT. Như vậy, “dân” trong
TTHCM thể hiện sự bao dung, độ lượng, nhân ái và nhân đạo, là một
trong cơ sở quan trọng được HCM chủ động khơi dậy và phát huy nhằm
xây dựng khối ĐĐKDT.

Mặt khác, ĐĐKDT trong TTHCM không phải là một liên minh,
tập hợp quần chúng đơn thuần vô nguyên tắc, mà có mục đích, có tổ chức
rất rõ ràng. Về mục đích của ĐĐK được Người chỉ rõ: “Ta ĐK để đấu
tranh cho thống nhất và ĐL của TQ; ta còn phải ĐK để XD nước nhà. Ai
có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự TQ và phục vụ ND thì ta đoàn kết
với họ” tập 7, tr. 438.
HCM rất coi trọng và đề cao sức mạnh của QCND. Tuy nhiên, sức
mạnh của quần chúng nhân dân lại phụ thuộc vào khả năng lãnh đạo, giáo


25
dục, giác ngộ và việc tổ chức, sắp xếp lực lượng của Đảng cách mạng.
Cho nên, Đảng phải biết tổ chức, sắp xếp các lực lượng một cách đúng đắn
và khoa học; xác định rõ trong khối đại đoàn kết ấy, đâu là lực lượng lãnh
đạo? đâu là lực lượng nền tảng? đâu là bầu bạn?... phải thể hiện lập trường
giai cấp rõ ràng. Người chỉ rõ, đại đoàn kết phải trên cơ sở lấy liên minh
công - nông làm nền tảng, do giai cấp công nhân lãnh đạo, đồng thời phải
mở rộng khối đoàn kết, thực hiện đoàn kết với các tầng lớp nhân dân khác.
Có như vậy thì đại đoàn kết dân tộc mới thực sự là đại đoàn kết toàn dân.
Người nêu rõ: “ Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân
dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân
dân lao động khác. Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền
của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết
các tầng lớp nhân dân khác” tập 7, tr. 438.
Để thực hiện ĐK toàn dân, HCM luôn chủ động khơi dậy và phát
huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, kêu gọi các tầng lớp
ND luôn hướng về cội nguồn dân tộc, ĐK thương yêu nhau như anh em
ruột thịt. Đặc biệt, người rất coi trọng đến việc cảm hoá con người, phê
phán thói định kiến, mặc cảm, phân biệt đối xử, kể cả đối với những người
bị lầm đường, lạc lối. Người kêu gọi đồng bào: “Ta phải nhận rằng đã là

con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những
đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ. Có
như thế mới thành ĐĐK, có ĐĐK thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang” tập
4, tr. 246, 247.
Mặt khác, trong từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng cụ thể, Đảng
phải kịp thời chỉ rõ cho nhân dân thấy kẻ thù chính của dân tộc, giai cấp,
chủ động đề ra các chủ trương, chính sách đúng đắn, đáp ứng nhu cầu,
nguyện vọng bức thiết của các tầng lớp nhân dân để động viên, kêu gọi
mọi người kiên quyết đứng lên đấu tranh cho tự do độc lập.
ĐĐKDT là ĐĐK toàn dân trong TTHCM, không những thể hiện
tính CM và KH, mà còn phản ánh những giá trị truyền thống tốt đẹp của
DT. Tư tưởng đó của Người đã được thấm sâu vào thực tiễn CMVN, liên
kết hàng triệu triệu con người vào cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, vì
CNXH, tạo nên khối ĐK dân tộc bền vững.
2.1.4. ĐĐKDT phải biến thành sức mạnh vật chất, thông qua tổ
chức là MTDTTN
Theo HCM, ĐĐKDT là quá trình liên minh, tập hợp các cá nhân và
tổ chức trong toàn DT tạo thành một khối ĐK thống nhất, nhằm thực hiện

thắng lợi mục tiêu chung của CM: ĐLDT và CNXH. Vì vậy, ĐĐKDT
không chỉ dừng lại ở quan niệm, tư tưởng hay lời kêu gọi, mà phải trở
thành một chiến lược CM, thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn
dân. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, lực lượng vật chất có tổ chức.
Và tổ chức thể hiện sức mạnh đó chính là MTDTTN.
HCM cho rằng, sức mạnh của toàn dân chỉ trở thành vô địch, thành
sức mạnh vật chất khi mà QCND đông đảo được giác ngộ cao về mục tiêu
chung của CM và được tổ chức một cách chặt chẽ, trên cơ sở một đường
lối chính trị đúng đắn, nghĩa là khi những điều ấy đã thực sự được thấm
sâu, trở thành động lực mạnh mẽ bên trong, thành ý chí, quyết tâm của
đông đảo quần chúng và họ sẵn sàng hành động một cách kiên quyết.

Nhận thức đúng điều đó, cho nên ngay khi tìm thấy con đường cứu
nước đúng đắn cho DT, HCM đã rất chú trọng đến việc tuyên truyền vận
động giác ngộ cho QCND và chủ trương thành lập các “Hội cứu quốc”
phù hợp với đặc điểm, điều kiện và khả năng, trình độ của các đối tượng,
để ai cũng tham gia được và tham gia một cách nhiệt tình, hăng hái. Các
hội: ái hữu hay Tương trợ, Công hội hay Nông hội, Thanh niên hay Phụ
nữ, Nhi đồng hay Phụ lão, Phật giáo cứu quốc hay Công giáo yêu nước...
Bao trùm nhất là Mặt trận dân tộc thống nhất, thực sự là nơi qui tụ mọi lực
lượng, tổ chức và cá nhân yêu nước, không bỏ sót một ai.
Tuỳ thuộc vào từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng cụ thể, MTDTTN
có thể thay đổi các tên gọi khác nhau cho phù hợp với tình hình. Nhưng
MTDTTN lúc nào cũng là một tổ chức chính trị rộng rãi, nơi tập hợp đông
đảo các tầng lớp nhân dân, người Việt Nam yêu nước, dù đang sinh sống ở
trong nước hay ở nước ngoài hướng về TQ, cùng phấn đấu vì một mục
tiêu chung là ĐL cho DT, tự do, hạnh phúc cho ND. Để thu hút và tập hợp
được đông đảo các tầng lớp ND trong toàn dân tộc, theo HCM, trước hết
MT phải có điều lệ đúng đắn, cương lĩnh chắc chắn, thiết thực, thực sự là
một tổ chức chính trị vững mạnh, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng và sức
mạnh của QCND, đồng thời MT phải được xây dựng theo những nguyên
tắc sau:
- MTDTTN phải được xây dựng trên nền tảng liên minh công nông
(về sau Người nêu thêm là liên minh công - nông - lao động trí óc), dưới
sự lãnh đạo của ĐCS.
- MT hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, lấy việc
thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích của các tầng lớp NDLĐ làm
cơ sở để không ngừng củng cố, mở rộng.


×