Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Vợ nhặt (Kim Lân)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.74 KB, 18 trang )

vợ nhặt
Kim Lân
1 Về nhà văn Kim Lân
- Kim Lân thuộc lứa nhà văn hthực cuối cùng trớc CM, cùng với Ng Hồng, NC, TH ...
Những sáng tác của ông trớc CM cũng viết về nông thôn và nông dân nhng ông
không viết về những bi kịch thê thảm nh NC, nh NT Tố mà chỉ viết về những thú
chơi của ngời nhà quê nh nuôi gà chọi, luyện chó săn hay bầy núi non bộ. Những thú
chơi nh thế thờng đợc ngời ta gọi là phong lu đồng ruộng. Có lẽ vì vậy mà ông Vũ
Ngọc Phan trong cuốn Nhà văn hiện đại đã xếp Kim Lân vào loại các nhân vật
phong tục.
- Sau cách mạng, KL không viết về những thú chơi của ngời nhà quê nữa mà lại viết
về lòng yêu nớc của họ. Truyện ngắn Làng đã đánh dấu bớc chuyển biến này của
ông. Mãi sau khi hoà bình lập lại, KL mới tập hợp tất cả những sáng tác của mình thành
2 tạp truyện ngắn Nên vợ nên chồng và Con chó xấu xí.
- Ngoài viết văn KL còn có cái thú đợc đóng phim, ông đã từng đóng vai lão Hạc
trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy và vai Lý Cựu trong phim chị Dậu.
2 Về truyện ngắn Vợ Nhặt
- Theo nhà văn Kim Lân, truyện ngắn Vợ nhặt thực ra là một chơng đã đợc viết lại
của truyện dài Xóm ngụ c mà ông đang viết dở dang (1946). Đến hòa bình lập lại,
nhân kỉ niệm T8 thành công, nhà văn đã dựa vào những gì còn nhớ đợc ở Xóm ngụ
c viết lại thành một truyện ngắn có màu sắc cách mạng T8. Hiện thực mà ông viết
trong tác phẩm này là nạn đói khủng khiếp năm ất Dậu, 1 nạn đói đã cớp đi 2 triệu
sinh mạng ngời VN. Nh vậy là độ lùi về mặt thời gian là rất ít. Thế nhng độ lùi về
nhận thức thì rất lớn vì trớc khi viết Vợ Nhặt nhà văn KL đã tận mắt chứng kiến cuộc
CM long trời lở đất và chính điều này đã khién cho truyện của ông tuy viết về 1 hiện
thực rất đen tối nhng nó lại rất khác xa những TP hiện thực phê phán chỉ ra đời trớc
đó vài năm.
1
- Xóm ngụ c đã bị mất bản thảo, còn lại một kỉ niệm cho gia đình là cái tên ngời
con trai nhà văn. Khi nhà văn đang đặt bút viết chơng 7 thì nghe tin vợ sinh con trai,
ông liền đặt luôn tên con là Chơng (hiện là họa sĩ của báo Văn nghệ)


II - Truyện ngắn vợ nhặt
1. Đề tài: V ợ nhặt viết về mảng đời sống nông thôn trong thời kỳ nạn đói khủng
khiếp diễn ra năm 1945 làm cho 2 triệu đồng bào ta chết đói. Câu truyện diễn ra ở một xóm
dân ngụ c qua cảnh ngộ của một gia đình cụ thể mà cái nghèo khó vốn đeo bám họ suốt cả
một đời ngời.
2. Chủ đề: V ợ nhặt không tập trung đi sâu vào nỗi khổ vật chất mặc dù cũng có đủ
các biểu hiện của tình trạng thê thảm của sự nghèo đói mà nêu lên một khía cạnh hết sức
độc đáo: một tình huống gần nh có một không hai, gây bất ngờ sửng sốt đối với tất cả mọi
ngời là hiện tợng vợ nhặt nh tiêu đề thiên truyện ngắn. Câu truyện hôn nhân thành vợ
thành chồng trong lúc ngày mai không biết sống chết ra sao, giữa lúc thiên hạ chết đói đầy
đờng đầy chợ. Nói cách khác, sự sống ló ra trong cái chết, cái sống và cái chết và cái sống
đang tranh chấp với nhau.
Ngời ta vẫn lấy nhau trong bóng tối của tử thần quả là một ngịch lý, nghịch lý mà
có thật dù là h cấu song vẫn là thật nếu xét tới cội nguồn bản chất của con ngời.
3. T tởng. Khẳng định bản chất ham sống của con ngời. Sự sống mạnh hơn cái
chết. Xét cho cùng, đó chính là bản chất lạc quancủa con ngời trong quá trình tồn tại của
mình, thứ bản chất mà văn học dân gian đã từng thể hiện:
Đừng có chết mất thì thôi
Sống thời có lúc no xôi chán chè
Hay: chớ than phận khó ai ơi
Còn da: lông mọc, còn chồi nảy cây
Cái chồi của lòng ham sống vẫn không bị thui chột trong lòng ngời ngay trong thời
điểm gần nh tuyệt vọng.
2. Kết cấu.- Câu truyện đợc thuật theo một trật tự tự nhiên của thời gian, không có
sự sáo trộn nào đặc biệt. Song kết cấu triệt để sử dụng phơng pháp tơng phản:
2
Tràng ngày trớc là nguồn vui của lũ trẻ nhỏ mỗi khi anh đi làm về qua đem lại tiếng
cời cho cái xóm ngụ c vốn đã im lìm trong mệt mỏi và nghèo khổ thì nay, Tràng lầm lũi và
lũ trẻ nhỏ cũng ru rú ở xó nhà chứ không bám níu lấy anh nh hồi trớc. Một không khí chết
chóc đậm nét dần, chìm vào cái im lìm buồn thảm.

Sự tơng phản còn thể hiện ở chỗ việc Tràng có vợ nh là một nghịch lý gây nên sự
ngạc nhiên của hết thảy từ xóm giềng, bà mẹ và cả ngời trong cuộc là Tràng.
Sự tơng phản còn cả trong sự đan xen, đối trọi trong từng chi tiết: cùng với tiếng cời
khúc khích của đôi vợ chồng trẻ trong tối tân hôn là tiếng hờ khóc ngời thân vọng đến,
cùng đồng hiện.
* Về phơng pháp phân tích:
Về phơng diện loại hình mà nói, Vợ nhặt thuộc loại truyện mà giải pháp hợp lý nhất
là phải men theo diễn biến của câu chuyện mà PT. Đọc Vợ nhặt ta thấy câu chuyện ở đây
đợc chia làm 8 phần rất rõ rệt và đợc liên kết với nhau theo kiểu hiện tại qkhứ - hiện tại.
Phần 2 SGK không trích giảng do đó trong bài PT này chúng ta chỉ PT phần 1 và phần 3
của truyện mà thôi.
* Kiến thức cơ bản:
1. Phân tích đ ợc tính độc đáo, hấp dẫn của tình huống truyện trong Vợ nhặt
- Tràng là ngời có đủ điều kiện để ế vợ hơn là có vợ, vậy mà bỗng nhiên
có vợ một cách dễ dàng
- Tràng là ngời đến nuôi thân còn không nổi, lại giữa buổi đói kém, còn
đèo bòng chuyện vợ con
- Tình huống truyện lạ, dẫn đến tâm trạng ngạc nhiên của mọi ngời
(dân xóm ngụ c, bà cụ Tứ và chính Tràng)
2. Phân tích diễn biến tâm trạng và thân phận của các nhân vật
a) Nhân vật ngời vợ
- Nghèo đói, bị dồn đến bớc khó khăn trở nên táo bạo, liều lĩnh, nh mất
đi vẻ đẹp nữ tính
- Nghèo khổ đến mức không có nổi cái tên và tiều tụy cả hình hài
- Vì miếng ăn mà trở nên chua chát, chỏng lỏn
3
- Không còn e dè ý tứ (chỉ vài câu bông đùa, một bữa bánh đúc mà theo
ngời đàn ông xa lạ về làm vợ)
- Sau khi làm vợ Tràng rồi thì có sự thay đổi tâm lý, tính cách, tìm lại đ-
ợc vẻ đẹp của nữ tính. Không chua chát chỏng lỏn nữa, mà trở thành

ngời đàn bà hiền dịu đúng mực.
b) Nhân vật Tràng
- Ngay cái tên cũng gợi đến sự lam lũ, sự đẽo gọt, sơ sài của tạo hóa
một sự sơ sài cả nhân dạng và nhân tính
- Nghèo khổ bỗng nhiên có vợ nên sung sớng bàng hoàng, hạnh phúc
quá lớn nên quên cả âu lo (quên cả cái đói cái nghèo, không hiểu nổi
vì sao mình có vợ mẹ mình lại khóc).
- Có vợ Tràng thay đổi cả tâm trạng, cả tính cách (trớc đây ít chú ý đến
gia đình, sống vô tâm vô t, sau khi có vợ cảm thấy mình nên ngời, gắn
bó với gia đình, có bổn phận với vợ con.
c) Nhân vật bà cụ Tứ
- Xuất hiện muộn nhng đợc tác giả tập trung khắc họa để làm nổi bật
tính cách (ngời mẹ nông dân nghèo khổ, từng trải, hiểu biết, thơng con
hết mực
- Bà có diễn biến tâm trạng rất phong phú, phức tạp , nhng nhất quán
Diễn biến tâm trạng của bà cụ theo 3 nấc thang tâm lý:
- Khởi đầu là sự ngạc nhiên
- Tiếp đó là trạng thái tình cảm đan xen: Vui mừng buồn tủi lo
âu. mà cái gốc của những trạng thái đan xen này là tình cảm thơng
con của ngời mẹ
- Vợt lên trên tất cả là niềm vui, hi vọng, tin vào ngày mai (vui trong ý
nghĩ, trong hành động, trong cách nói)
* Hạnh phúc không thể cứu con ngời khỏi cái đói cái chết nhng nó giúp con ngời thoát
khỏi tình trạng mất nhân tính.
3. Phân tích đ ợc giá trị hiện thực và nhân đạo của TP
4
a) Giá trị hiện thực
- Phản ánh tình cảnh thê thảm của ngời dân LĐ trong nạn đói 1945, đẩy thân phận con
ngời tới chỗ rẻ mạt (thân phận ngời vợ nhặt rẻ rúng nh cọng rơm cái rác, có thể nhặt
đợc nơi đầu đờng góc chợ) nhà văn muốn nói tới một hiện thực là chuyện trăm năm

của đời ngời mà đơn giản đến xót xa tội nghiệp.
- Về hiện thực cái đói, cái nghèo, nhà văn KL thừa nhận: những truyện ông thích và
cũng là những truyện nhiều ngời thích nh Làng, Vợ nhặt.. đều là những truyện ông
viết về xóm mình, ngời thân mình. Làng ông có chợ, có sông nên ông hay viết về
chợ, về sông. Mẹ ông là dân ngụ c, nên hình ảnh xóm ngụ c cũng in đậm trong tâm
trí ông: tính tình số phận của nhân vật Tràng cũng là tính tính, số phận tôi... Tôi với
nhà tôi cũng từ nhà quê ra Hà Nội bán cám, cũng đẩy xe bò, cũng cầm đòn gánh
canh chừng những ngời ăn mày, những ngời đói cớp cám... cảnh ăn cháo cám, tôi với
nhà tôi cũng đã từng, cho nên tất cả những cái đó tự nhiên lúc viết tự dng cứ nhớ lại
mà ghi ra rồi thành truyện.
II. Thân bài:
1. Phân tích nhân vật
a) Anh Tràng và cô vợ nhặt hai kiếp ng ời nghèo khổ mà giàu khát vọng sống
khát vọng hạnh phúc
* Cảnh ngộ của 2 ng ời: đều đói khổ, sống vất vởng lu lạc nơi đất khách, vỉa hè giữa
thời kì tối tăm xanh xám, cả đất nớc vẩn lên mùi gây gây xác chết.
- Tràng: Ngay cái tên cũng gợi đến sự lam lũ, sự đẽo gọt, sơ sài của tạo hóa một
sự sơ sài cả nhân dạng và nhân tính.
+ Tràng đợc miêu tả rất kĩ: là một ngời lao động ngụ c, kiếm sống bằng nghề phu
phen, ngời thô kệch, vập vạp, có cái lng nh lng gấu, bản tính hiền khô đến lũ trẻ còn dám
bâu vào anh nh một thú vui mỗi buổi chiều về, song hình nh do sống cuộc đời bơn trải,
thăng trầm nơi đất khách mà trong đầu luôn nhấp nhính những ý nghĩ vừa ký thú vừa dữ
tợn khiến Tràng hay lẩm bẩm một mình. Con ngời đó có cái gì u ẩn ở trong lòng.
Nghèo thì đã đành rồi, cả xóm ngụ c cũng cùng một cảnh thế thôi xong Tràng vào
hạng đặc biệt hơn cả. Ngời ta nghèo, nhng còn có đôi có lứa, có con trẻ bi bô. Tràng suốt
5
một đời nghèo đén nỗi không thể lấy nổi vợ. Cái nghèo của gia đình anh nh một truyền
kiếp. Đùng một cái, nạn đói ập đến, ngời ta chết đầy đờng, nhờ xó sức Tràng còn kéo xe
chở thóc cho ngời, còn có một đồng, còn cha chết hẳn.Thế mà chỉ mội câu chuyện tầm
phào và đãi thịmột bữa quà bốn bát bánh đúc mà thịng ý theo về làm vợ sua khi cắm

đầu ăn ngấu nghiến. Một cuộc đời chua chát đến cực điểm. Ta không nghĩ nhiều đến tập
tục hôn nhân trang trọng và đẹp đẽ, mà có nghĩ đến thì cũng thêm thông cảm với những số
phận hẩm hiu, càng thơng hai con ngợi bất hạnh ấy. Ta hớng sự suy t về cái giá trị một con
ngời. Thực chất, thị không phải đến nỗi nào, thị cũng là ngời sắc sảo, ý tứ nh ai, mà so
với Tràng còn có vẻ nhỉnh hơn về sự hóm hỉnh, thế mà chỉ vì cái đói mà cái giá về nhà
chồng chỉ là bốn bát bánh đúc. Và bữa cơm đầu chỉ là món chè khoán đắng ngắt và bứ đến
nghẹn cổ. Đúng nh mẹ Tứ nghĩ, có đói kém thế này ngời ta mới lấy đến con mình!Số phận
con ngời thật đắng cay!
+ Cô vợ nhặt : nghèo khổ đến mức tiều tụy hình hài. Cũng là sự đẽo gọt thô
kệch của tạo hóa. Đặc biệt ngay cái tên còn không có nổi.
- Cô cũng đợc miêu tả kĩ: làm nghề nhặt thóc rơi, gạo vãi ở cửa kho, áo quần tả tơi nh
tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt xám xịt, chỉ còn hai con mắt.
- Chỉ riêng số phận của thịvới cái giá rẻ mạt nh vậy đã đủ là một lời cáo trạng đanh
thép đối với kẻ thù, là tiếng nói vừa chua chát vừa căm hờn ẩn chứa trong lời kể có vẻ
khách quan của Kim Lân. Một giọng điệu khách quan để ghi lại một tấn bi hài kịch của số
phận con ngời trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc ấy .
* Cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên nh duyên trời, số kiếp
- Tràng và cô ả chỉ thoang thoáng nhớ mặt chứ cha biết tên. Họ gặp nhau 2 lần trên hè
phố trong vòng khoảng dăm bảy ngày gì đó. Cả hai chỉ nói tầm phơ tầm phào vài lời rồi thế
nhau một bữa tiệc vỉa hè gồm 4 bát bánh đúc mà thành vợ thành chồng.
- Rất nhiều ngời đã cho đó là sự gặp gỡ và kết hợp kì lạ, ngẫu nhiên. Tuy nhiên nếu xét
kĩ, ta vẫn tìm thấy những nguyên cớ bên trong của cả hai ngời.
+ Sự kết hợp này cũng có quá trình của nó: Mở đầu cuộc tỏ tình Tràng cất tiếng
hò cơm trắng giò lụa... Sau đó gặp lại thấy cô gái liếc mắt cời tình tứ cái cời mà từ cha
sinh mẹ đẻ tới giờ mình cha nhận đợc,Tràng đã tiến lên thêm một bớc là mời ăn miếng
6
trầu cái đã. Và theo một yêu cầu thẳng thắn của cô gái, Tràng đã mời cô ăn bốn bát bánh
đúc -> Nh vậy, trớc sau Tràng luôn tỏ ra là một ngời chân thành, đứng đắn, nói sao làm
vậy
+ Còn cô gái: tuy nghèo đói, bị dồn đến bớc khó khăn trở nên táo bạo, liều lĩnh,

mất đi vẻ đẹp nữ tính, không còn e dè ý tứ (chỉ vài câu bông đùa, một bữa bánh đúc mà
theo ngời đàn ông xa lạ về làm vợ), nhng điều đó cũng chứng tỏ cô là ngời thật thà và nhạy
cảm.
-> Nh vậy về mặt nào đó họ có nhiều điểm giống nhau, tâm đầu ý hợp. Họ đến
với nhau tuy cha phải bằng tình yêu, nhng bằng tình thơng, sự cảm thông chia sẻ và ít
nhiều có cả sự liều lĩnh của tuổi trẻ. (so sánh với Chí Phèo Thị Nở)
* Sau khi gắn bó với nhau họ trở thành những ng ời khác hẳn
- Cảnh anh cu Tràng đ a vợ về nhà: KL đã miêu tả việc anh cu Tràng đa ngời vợ
về nhà ở trong một không khí khác hẳn mọi ngày:
+ Mọi ngày cũng vào giờ này anh Tr đi làm về, anh ta cởi trần, cái áo vắt trên vai,
tấm lng to bè nh mọt con gấu. Hai con mắt nhỏ tí gà gà đắm vào bóng chiều vừa nh hoàn
toàn trống rỗng lại vừa nh đang "nhấp nhí" 1 ý nghĩ nào đó vừa lí thú vừa dữ tợn. Hai quai
hàm bạnh ra lại càng làm cho gơng mặt của anh ta thêm phần thô kệch. Anh ta vừa đi thất
thể vừa lẩm bẩm nói một mình. Thấy anh về lũ trẻ con trong xóm ùa ra, đứa kéo áo, đứa
túm tay, đứa nhảy lên bá cổ, đòi bế, anh cu Tràng chỉ cời hềnh hệch. Thế là cả xóm lại vui
lên đợc một lúc.
+ Nh ng hôm nay thì lại khác bởi theo sau anh cu Tr lại có một ngời đàn bà lạ mà
trông thị thế nào ấy, bộ dạng cứ thèn thẹn hay đáo để. Mọi ngời đoán già đoán non không
hiểu đó là ai, sau mới đoán có thể là vợ anh cu Tr bởi dáng vẻ thèn thẹn của thị? Lũ trẻ vừa
mới lấp ló Tr đã lừ mắt ra hiệu cho chúng ý anh không thích đùa. Vài cái đầu nhô ra, mấy
lời chèo bẻo mời mọc. Nhng anh Tr chỉ cảm thấy khó chịu muốn đi thật nhanh để thoát
khỏi ánh mắt tò mò của mọi ngời : "gớm sao hôm nay họ nhìn khoẻ thế?".
- Tâm trạng:
- Anh Tràng:
+ Trên đờng đa vợ về nhà tủm tỉm cời nụ một mình và hai mắt thì sáng lấp lánh.
7
+ Mặc kệ những lời chòng ghẹo của hàng xóm, anh bớc đi hiên ngang, bất chấp tất cả
trong lòng chỉ còn tình nghĩa với ngời đàn bà đi bên.
+ Tình và nghĩa lớn dần thành hành động quyết tâm Tràng đi sát bên vợ đột ngột giơ
cái chai con đựng dầu nói một câu đầy kiêu hãnh: Vợ mới, vợ miếc cũng phải cho nó sáng

sủa lên một chút chứ... Chữ vợ vừa mang ý nghĩa thô mộc vừa mang ý nghĩa thiêng
liêng nhất cuối cùng cũng đợc Tràng nói ra bằng mấy từ vợ mới, vợ miếc nghe thật cảm
động. (Thờng thì ngời ta trịnh trọng tuyên bố tân nơng tới, hoặc cô dâu tới rồi...)
+ Quyết tâm ấy càng bộc lộ cao khi gặp và giới thiệu vợ mới với mẹ của mình: Nhà
tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... chẳng qua
nó cũng là cái số cả (không dám kể sự thật đổ cho duyên số).
+ Thấy mẹ cứ thở vắn than dài, anh hầm hầm bớc vào trong nhà đánh diêm đốt đèn.
(nhiều ngời giảng, ngọn đèn ở đây là tợng trng cho ngọn lửa sởi ấm cho ngời con gái , vừa
để soi sáng cái đầu óc chậm chạp già nua của bà cụ...cond với chính Tràng, ngọn lửa ấy
thắp sáng một quyết tâm)
+ Cho đến sáng hôm sau: trớc cảnh tợng một gia đình đổi khác - đúng nghĩa tổ ấm
hạnh phúc có mẹ già, vợ mới vun vén cửa nhà vờn tợc, tràng thực sự bừng tỉnh và trở thành
một con ngời hoàn toàn khác: Bây giờ hắn mới thấy hắn nên ngời, hắn thấy hắn có bổn
phậnphải lo lắng cho vợ con sau này. Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, cũng muốn làm một
việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà . Hành động và suy nghĩ ấy của Tràng vừa rất hiện
thực, bình dị, vừa mang một ý nghĩa lãng mạn thiêng liêng. Hạnh phúc gia đình đã làm cho
chàng trai khốn khổ kia thực sự trởng thành. Cùng với ngời vợ nhặt, anh đã lớn lên từng b-
ớc, đã ra một con ngời có ý thức, có trách nhiệm với cuộc sống. Một con ngời tràn trề niềm
vui và hạnh phúc
=> Có thể nói đối với Tràng, việc thị theo anh về qua câu nói tầm phào, gọi là đùa cho
vui, đến khi thành sự thật rồi anh vẫn cha tin là thật. Ngay khi dẫn thị về nhà rồi Nhìn thị
ngồi ngay giữa nhà, đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ không phải thế. Và sáng hôm sau
cái đêm tân hôn, việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng nh không phải.
Việc có cô vợ nhặt đối với Tràng quả là một quả phúc từ trên trời rơi xuống, cái quả phúc
đi tìm cả một đời ngời và chỉ thành hiện thực trong một hoàn cảnh trớ trêu thiên hạ chết đói
8

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×