Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Nguyên nhân và điều trị tật nghiến răng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (749.57 KB, 10 trang )

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU TRỊ TẬT NGHIẾN RĂNG.

Nghiến răng có hai kiểu chính : xảy ra trong khi ngủ ( bệnh nghiến răng khi ngủ )
và xảy ra trong sự tỉnh táo (bệnh nghiến răng khi tỉnh táo). Tổn thương răng có thể
là tương tự trong cả hai loại, nhưng các triệu chứng của bệnh nghiến răng khi ngủ
có xu hướng tồi tệ hơn do bệnh nhân trong trạng thái vô thức.
I. Nguyên nhân.
Phân loại yếu tố nguyên nhân của Nghiến răng theo 3 nhóm : (Lobbezoo et al.,
2010)
 Một nhóm thuộc các yếu tố ngoại vi (Peripheral hay Morphologic factors),
 Hai nhóm thuộc các yếu tố trung tâm(central factors) :
Các yếu tố tâm lý – xã hội Psychosocial Factors
Các yếu tố sinh bệnh lý (Pathophysiologic Factors)
1. Yếu tố tại răng.


Vướng cộm khớp cắn được cho là nguyên nhân của nghiến răng trong một
thời gian dài. Lý luận cho rằng sự vướng cộm đã kích thích các recepter ở
dây chằng nha chu làm khởi động quá trình nghiến răng lúc ngủ.
 Vướng cộm khớp cắn có thể gây ra bởi phục hồi sai kỹ thuật, răng khôn mọc
không thẳng, răng thừa…..
 Tuy nhiên những nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng những vướng cộm
khớp cắn không phải là nguyên nhân chính của nghiên răng.Ví dụ những
người mất răng toàn bộ cũng nghiến răng. Nghiên cứu so sánh những người
nghiến răng cho thấy không phải ai cũng có vướng cộm khớp cắn. Và ngược
lại, rất nhiều người có vướng cộm khớp cắn nhưng không hề có nghiến răng.
Đồng thời cũng không có nghiên cứu nào chứng minh được rắng vướng cộm
khớp cắn là nguyên nhân của nghiến răng.
 Như vậy, vai trò của nó (nếu có) chỉ là vai trò phụ, chứ không phải là vai trò
chính.


1

/>Biên soạn : Nguyễn Thị Huyền ,Nguyễn Hùng Phong


2. Yếu tố tâm lý xã hội.













Nhiều nghiên cứu đã báo cáo các yếu tố nguy cơ tâm lý xã hội có ý nghĩa đối với
bệnh nghiến răng, đặc biệt là một lối sống căng thẳng, giả thuyết này đang được
chứng minh, nhưng vẫn không có kết luận cuối.
Một số người coi căng thẳng cảm xúc là yếu tố kích hoạt chính. Nhiều báo cáo
cho rằng những người bị bệnh nghiến răng đáp ứng khác nhau đến trầm cảm,
thù địch và căng thẳng so với những người không có bệnh nghiến răng.
Stress có một mối quan hệ mạnh mẽ tới kiểu nghiến răng lúc tỉnh , còn vai trò
của stress trong kiểu nghiến răng lúc ngủ chưa rõ ràng, một số báo cáo nói rằng
không có bằng chứng về mối quan hệ với giấc ngủ nghiến răng. Tuy nhiên, trẻ
em có nghiến răng khi ngủ đã được chứng minh là có mức độ stress cao hơn so
với những đứa trẻ khác.

Những người tuổi 50 với bệnh nghiến răng thường có học thức cao, căng thẳng
công việc nhiều hoặc không thường xuyên thay đổi công việc.
Tính cách cũng thường được thảo luận trong các tài liệu liên quan đến nguyên
nhân của bệnh nghiến răng, ví dụ như loại cá tính mạnh mẽ, cạnh tranh hay
hiếu động.
Một số cho rằng sự tức giận bị kìm hãm hay thất vọng có thể góp phần vào
bệnh nghiến răng.T hời kỳ căng thẳng như thi cử, gia đình mất người thân, hôn
nhân hay di cư tới nơi mới đã được đề xuất liên quan nghiến răng.
Một số nghiên cứu cho rằng nghiến răng thường xảy ra trong giai đoạn tập trung
như trong khi làm việc trước máy tính, lái xe hay đọc sách.


Tuy nhiên những nghiên cứu chủ yếu thuộc loại nghiên cứu phỏng vấn.
Những nghiên cứu gần đây, sử dụng điện cơ đồ, điện não đồ, điện tâm đồ
phối hợp trong nghiên cứu giấc ngủ cho thấy rằng thực sự không có liên
quan giữa stress và nghiến răng. Chỉ có yếu tố lo lắng là có ý nghĩa thống
kê trong lien quan với nghiến răng.

3. Thuốc.


Một số loại thuốc, bao gồm cả các loại thuốc theo quy định và không theo quy
định được cho là nguyên nhân gây ra sự phát triển của bệnh nghiến răng. Tuy
nhiên số khác lại cho rằng không có đủ bằng chứng để rút ra một kết luận như
vậy.
 Ví dụ một số báo cáo cho răng thuốc vận mạch dopamin , chất đối kháng
dopamin , thuốc chống trầm cảm , thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có
chọn lọc , rượu, cocaine và chất kích thích (bao gồm cả những người thực
hiện vì lý do y tế). Trong khi đó, các nguồn tin khác nói rằng thuốc ức chế tái
2


/>Biên soạn : Nguyễn Thị Huyền ,Nguyễn Hùng Phong






hấp thu serotonin có chọn lọc gây bệnh nghiến răng là rất hiếm, và nó chỉ
xảy ra với việc sử dụng lâu dài.
 Một số thuốc cụ thể bao gồm : Levodopa (khi sử dụng trong thời gian dài,
như
trong Parkinson disease ), fluoxetine , metoclopramide , lithium , cocaine , ve
nlafaxine ,citalopram , fluvoxamine , methylenedioxyamphetamine (MDA), me
thylphenidate (sử dụng trong thâm hụt chú ý rối loạn hiếu
động ), và gamma-hydroxybutyric axit(GHB) và tương tự như acid gammaaminobutyric -inducing cái tương tự như phenibut .
Nghiến răng cũng có thể trầm trọng hơn do tiêu thụ quá nhiều caffeine , như
trong cà phê, trà hay sô cô la.
Nghiến răng cũng đã được báo cáo để xảy ra thường kèm theo với nghiện ma
túy .
Methylenedioxymethamphetamine (MDMA, ecstasy) đã được báo cáo có liên
quan với bệnh nghiến răng, xảy ra ngay lập tức sau khi dùng thuốc và vài ngày
sau đó.

4. Yếu tố di truyền.

 Nghiên cứu cho thấy 21-50% những người có kiểu nghiến răng khi ngủ có
một thành viên gia đình cũng mắc chứng nghiến răng khi ngủ trong thời thơ
ấu, cho thấy có những yếu tố di truyền liên quan. Con đẻ của những người
có giấc ngủ nghiến răng có nhiều khả năng cũng có bệnh nghiến răng khi

ngủ so với con của những người không có bệnh nghiến răng.
 Nhưng có nhiều nghiên cứu qua phỏng vẫn lại không thấy sự liên quan giữa
nghiến răng và di truyền, vậy vẫn chưa thể kết luận được là di truyền có liên
quan đến nghiến răng hay không.

5. Bệnh lý thần kinh.

 Yếu tố bệnh học thần kinh ngày càng được lưu ý nhiều hơn và được xem là
nguyên nhân chính của nghiến răng. Ví dụ như nghiến răng có liên quan đến
những rối loạn giấc ngủ, những thay đổi sinh hóa trong não, một số thuốc, sau
chấn thương sọ não, nghiện rượu, hút thuốc… và ngay cả yếu tố di truyền hiện
nay cũng xếp vào nhóm này.
 Nghĩa là không phải tất cả những người có stress, uống thuốc, có người
thân nghiến răng …..đều bị nghiến răng, mà nghiến răng xẩy ra khi tất cả

3

/>Biên soạn : Nguyễn Thị Huyền ,Nguyễn Hùng Phong


những nguyên nhân trên đây gây ra rối loạn trên hệ thông thần kinh.
 Nghiến răng chủ yếu xảy ra trong giấc ngủ, và có liên quan mật thiết đến đáp ứng
tỉnh thức (arouse response) của cơ thể. Những ghi nhận liên quan giữa nghiến răng
và đáp ứng tỉnh thức cho thấy 86% trường hợp nghiến răng xảy ra trong giai đoạn
này. Đáp ứng tỉnh thức đặc trưng bởi giấc ngủ kém sâu, nhịp tim tăng, nhịp thở
tăng và có những vận động như xoay người, co chân, co tay… trong khi ngủ.
 Mớ, mộng du… cũng là những hiện tượng xảy ra trong giai đoạn này. Những hiện
tượng này còn gọi là hiện tượng cận giấc ngủ (parasomnia) và nghiến răng cũng
được xem là một hiện tượng cận giấc ngủ.
 Đặc biệt những nghiên cứu gần đây xác nhận có sự liên quan giữa rối loạn hệ

thống dẫn truyền thần kinh trung ương với nghiến răng. Khả năng là có tình trạng
mất cân bằng giữa các đường dẫn truyền trực tiếp và gián tiếp trong hạch nền, nơi
tập trung những nhân dưới vỏ có nhiệm vụ phối hợp và điều hòa các động tác. Sự
mất thăng bằng là do rối loạn vận chuyển các dẫn xuất dopamine gây nên. Phát
hiện này giải thích cho rất nhiều trường hợp nghiến răng do sử dụng thuốc lắc
(ectasy), nghiện thuốc lá, hoặc một số thuốc điều trị bệnh tâm thần hay bệnh thần
kinh gây ra. Amphetamine (ectasy) có tác dụng làm gia tăng nồng độ dopamine
trong não, hoặc nicotine (trong thuốc lá) lại có tác dụng kích thích hệ
dopaminergic…đã giúp giải thích những ghi nhận liên quan giữa người hút thuốc
lá hay sử dụng amphetamine với nghiến răng.
 Tóm lại, khá nhiều tác giả gợi ý rằng Nguyên nhân của Nghiến răng là do trung
tâm (hệ thần kinh trung ương), không phải do ngoại vi. Và nếu có các yếu tố ngoại
vi (khớp cắn) tham gia thì cũng khá ít (Lobbezoo et al., 2010).Do đó, theo Orthlieb
và cs, 2011, hướng kiểm soát Nghiến răng chủ yếu là tác động lên Hệ thần kinh
Trung ương (Orthlieb và cs, 2011). Sẽ giải thích chi tiết hơn ở phần Cognitivebehavioral therapy (Nhận thức hành vi liệu pháp) đối với Nghiến răng.

4

/>Biên soạn : Nguyễn Thị Huyền ,Nguyễn Hùng Phong


II. Điều trị.

Điều trị bệnh nghiến răng bao gồm điều trị nguyên nhân và triệu chứng. Tuy nhiên
thực tế chỉ xoay quanh sửa chữa các thiệt hại cho răng đó đã xảy ra, , cố gắng để
ngăn chặn thiệt hại thêm, vì có rất ít bằng chứng về hiệu quả của điều trị. Khuyến
cáo là nếu không loại bỏ được nguyên nhân nghiến răng thì nên bảo tồn răng.
1. Khí cụ trong miệng.
a. Máng nhai


Máng nhai ( Occlusal splints ) thường chỉ định, chủ yếu là bởi các nha sĩ, như là
một điều trị cho bệnh nghiến răng với kỳ vòng đạt được nhiều hiệu quả từ khí cụ
này, nhưng nhiều báo cáo cho rằng không có đủ bằng chứng để chứng minh rằng
nẹp nhai có hiệu quả cho nghiến răng trong giấc ngủ. Hơn nữa, nẹp nhai có lẽ
không hiệu quả đối với bệnh nghiến răng khi tỉnh táo, vì bệnh nhân có xu hướng
chỉ đeo khi ngủ. Tuy nhiên, nẹp nhai có thể có một số lợi ích trong việc giảm sự
mài mòn răng mà có thể đi cùng với bệnh nghiến răng. Trong một số ít trường hợp,
nghiến răng lúc nghiến có thể tồi tệ hơn khi sử dụng máng nhai. Một số bệnh nhân
sẽ phải quay lại phòng khám định kỳ trở lại vì máng bị thủng, vì bệnh nghiến răng
là trầm trọng hơn, hoặc bị ảnh hưởng bởi sự vướng của máng nhai.
 Máng nhai được chia thành máng một phần hoặc toàn phần tùy xem chúng
phủ trên một số hoặc tất cả các răng. Máng thường được làm bằng nhựa (ví
dụ như acrylic ) và có thể là cứng hay mềm.


Một vấn đề khác với máng nhai là có thể kích thích dòng chảy nước bọt, và
vì lý do này nha sĩ phải tư vấn để bệnh nhân bắt đầu mang máng nhai
khoảng 30 phút trước khi đi ngủ vì vậy điều này không dẫn đến khó
ngủ. Như một biện pháp bổ sung cho răng quá nhạy cảm ở bệnh nghiến
răng, kem đánh răng desensitizing (ví dụ có chứa strontium clorua ) có thể
được áp dụng ban đầu bên trong máng để vật liệu tiếp xúc với răng cả
đêm. Điều này có thể được tiếp tục cho đến khi có mức độ nhạy cảm răng
trở nên bình thường, tuy nhiên cần lưu ý nhạy cảm với các kích thích nhiệt
cũng là một triệu chứng của -viêm tủy răng , và có thể chỉ ra sự hiện diện
của sâu răng .

 Máng nhai cũng có thể làm giảm căng thẳng cơ nhai bằng cách cho phép
hàm trên và dưới di chuyển một cách dễ dàng với nhau. Mục tiêu điều trị
của máng bao gồm: Tránh tổn thương khớp thái dương – hàm, ngăn ngừa
5


/>Biên soạn : Nguyễn Thị Huyền ,Nguyễn Hùng Phong


tổn thương răng và bộc lộ cho nha sĩ biết về mức độ bệnh nghiến răng thông
qua kiểm tra các dấu hiệu trên bề mặt của máng.
 .Tuy nhiên, một phân tích meta (meta-analysis ) của máng nhai kết luận
"Không có đủ bằng chứng để nói rằng máng là có hiệu quả trong điều trị
bệnh nghiến răng khi ngủ."

 Dẫn chứng khác về quan niệm của máng nhai
Trứớc đây, vào năm 1942, Mathews (Canal và cs, 1987) khuyến cáo sử dụng
các máng nhai bằng nhựa acrylic mềm hoặc cao su- những vật liệu được sử
dụng phổ biến ngày nay (Wright 1999). Pettengill (1998) đề xuất răng các
máng nhai cứng hay mềm đều có thể sử dụng để giảm các cơn đau cơ, một
cách ngắn hạn. Song các máng nhai mềm bị phá huỷ khá nhanh và có vẻ
chúng làm tăng chứng nghiến răng. Rozencweigh (1994) đã đề cập tới các
vết cắn và Ramfjord (Ramfjord và Ash, 1995) cho rằng nhựa dẻo có thể làm
nặng hơn tình trạng ở những bệnh nhân nghiến răng. Okesson 1998, người
cho rằng các máng nhai mềm chỉ là một khí cụ bảo vệ răng, đã chứng minh
vào năm 1987 rằng hoạt động điện cơ vào buổi đêm của cơ chế nhai tăng ở
5/10 bệnh nhân đeo máng mềm trong khi đó, với các máng nhai cứng, 8/10
bệnh nhân có sự giảm hoạt động nhai. Cuối cùng, có thể nói rằng việc cân
bằng đúng đắn các máng nhai mềm đề điều chỉnh tương quan hai hàm không
hợp lý là gần như không thể.
Ưu điểm duy nhất của loại máng nhai này là thực hiện đơn giản, điều này
không có ý nghĩa gì với các bác sĩ.Chỉ thực hiện các máng nhai mềm để bảo
vệ răng (ví dụ trong các điều trị sốc điện). Máng nhai cứng có hiệu quả hơn
trong việc chống lại sự nghiến răng so với các máng mềm (Littener và cs,
2004; Turp và cs, 2004)


6

/>Biên soạn : Nguyễn Thị Huyền ,Nguyễn Hùng Phong


b. Nẹp tái định vị răng .
Thanh nẹp tái định vị được thiết kế để thay đổi khớp cắn của bệnh nhân, hay hoạt
động cắn của bệnh nhân. Hiệu quả của thiết bị đang được được tranh luận, một số
tác giả cho rằng các biến chứng không thể phục hồi xẩy ra có thể là kết quả của
việc sử dụng lâu dài của máng nhai và nẹp tái định vị. Thử nghiệm đối chứng ngẫu
nhiên với các loại khí cụ trong miệng nói chung cho thấy không có lợi ích hơn các
phương pháp khác.

c. Nẹp NTI-TSS (nociceptive trigeminal

inhibition tension suppression system)

 .Nẹp này dính vào chỉ có răng cửa trên.
 Bằng cách giảm lực cắn sinh ra từ việc đóng hàm, các recepter sẽ cảm nhận
được điều này và gửi thông tin cho dây thần kinh đưa đến não, làm giảm
phản xạ nghiến.. Tuy nhiên việc tháo nẹp ra làm cho các răng hàm tiếp xúc
khi đóng hàm có thể dẫn tới việc nghiến răng trầm trọng hơn, nên cần đeo
liên tục.

7

/>Biên soạn : Nguyễn Thị Huyền ,Nguyễn Hùng Phong



d. Mandibular advancement splint.
Một thiết bị thường được sử dụng trong điều trị ngưng thở khi ngủ có thể làm
giảm bệnh nghiến răng khi ngủ, mặc dù việc sử dụng nó có thể gây cảm giác khó
chịu.

2. Can thiệp tâm lý xã hội .
 Với sự liên quan mật thiết giữa bệnh nghiến răng khi tỉnh táo và các yếu tố
tâm lý xã hội (mối quan hệ giữa bệnh nghiến răng khi ngủ và các yếu tố tâm
lý xã hội là không rõ ràng), vai trò của các biện pháp can thiệp tâm lý xã hội
có thể được lập luận là trung tâm của quản lý
 Đơn giản là khuyên bệnh nhân biết thăng bằng cuộc sống, hạn chế căng
thẳng.Can thiệp khác bao gồm các kỹ thuật thư giãn, quản lý stress, thay đổi
hành vi, thay đổi thói quen và thôi miên (tự thôi miên hay với một nhà thôi
miên.

8

/>Biên soạn : Nguyễn Thị Huyền ,Nguyễn Hùng Phong


3. Thuốc.
 Thuốc được sử dụng trong điều trị nghiến răng có thể là thuốc uống, thoa
thoa và thuốc chích.
 Thuốc uống là loại thuốc có tác dụng giảm lo âu như buspirone, thường sử
dụng trong trường hợp nghiến răng là tác dụng phụ của thuốc chống trầm
cảm. Những trường hợp nghiến răng khác không nên sử dụng thuốc này.
 Thuốc chích là một loại thuốc có tác dụng làm liệt cơ: Botox (thường sử
dụng trong thẩm mỹ để xóa nếp nhăn). Thuốc này sử dụng chích vào cơ cắn
có tác dụng trong vòng 4 – 6 tháng. Nhiều nghiên cứu cho thấy đây là một
giải pháp khá hiệu quả trong nhiều trường hợp, như sau chấn thương, lạm

dụng amphetamine (thuốc lắc)…
 Thuốc thoa là một hỗn hợp gồm các thuốc dãn cơ, kháng viêm, an thần với
thành phần chính gồm : cyclobezaprin, có tác dụng làm giảm co thắt cơ, kết
hợp với kháng viêm loại nonsteroid (keto-profen) cùng với an thần là
diazepam. Thuốc này được thử nghiệm có tác dụng tốt trong nhiều trường
hợp. Đây là một loại thuốc mới, đăng lý bản quyền vào tháng 10/2003.
4. Phản hồi sinh học (Biofeedback)
 Phản hồi sinh học dùng để chỉ một quá trình (hoặc các thiết bị cho phép một
quá trình như vậy), cho phép một cá nhân hình thành nhận thức, và làm thay
đổi các hoạt động sinh lý với mục tiêu nâng cao sức khỏe. Không có bằng
chứng cho việc sử dụng lâu dài và an toàn của Biofeedback trong kiểm soat
bệnh nghiến răng.
 Hệ thống điện đồ của các cơ bắp giúp giảm sát và cảnh báo tự động trong
thời kỳ răng bệnh nhân nghiến. Thiết bị chứa một viên nang sẽ bị phá vỡ và
giải phóng chất kích thích vị giác sẽ đánh thức giấc ngủ của bênh nhân để
ngăn chặn cơn bệnh nghiến răng. Thật không may điều này dẫn đến buồn
ngủ ban ngày quá mức.

9

/>Biên soạn : Nguyễn Thị Huyền ,Nguyễn Hùng Phong


5. Điều chỉnh bộ máy nhai / thiết lập lại.
 Gồm sửa chữa những tổn thương cho răng sao cho phù hợp với hệ thống
nhai hiện tại. Một số nha sĩ cố gắng thiết lập lại bộ máy nhai, họ tin điều này
có thể phân phối lại các lực và giảm sự tổn thương răng. Đôi khi được gọi là
phương pháp "phục hồi chức năng nhai" hay " cân bằng nhai ". Đây có thể
là một kyc thuật phức tạp, và còn nhiều tranh cãi. Nó có thể liên quan đến
việc chỉnh hình răng , nha khoa phục hồi hoặc thậm chí phẫu thuật.. Một số

người đã chỉ trích những sự tái thiết lập bộ máy nhai là không có cơ sở
chứng cứ, và không thể ngăn ngừa sự tổn hại đến răng.
6. Cân nhắc độ bền của phục hồi răng.
Bệnh nghiến răng có thể gây mòn răng trầm trọng nếu mức độ nghiến răng của
bệnh nhân thuộc loại nghiêm trọng, đôi khi nó là nguyên nhân làm phục hình răng
(mão răng, trám răng, vv) bị hư hỏng, phải làm lại nhiều lần. Do đó các nha sĩ nên
cân nhắc và quyết định thực hiện những phục hồi khi cần thiết, vì khả năng thất bại
trong dài hạn là rất lớn do không loại bỏ được thói quen nghiến răng. Ví dụ:
 Cấy ghép implant là chống chỉ định tương đối cho bệnh nhân nghiến răng.
 Trong trường hợp của thân răng, độ bền của phục hồi trở nên quan trọng hơn
thẩm mỹ. Sứ veneers trên răng cửa đặc biệt dễ bị bong, vỡ nếu cố tình phủ
hết mặt nhai.
Tham khảo từ :
-

Revue d'Odonto Stomatologie

-

Lobbezoo et al., 2010
/>Google
.........

-

10

/>Biên soạn : Nguyễn Thị Huyền ,Nguyễn Hùng Phong




×