Tải bản đầy đủ (.pdf) (144 trang)

Cấu trúc tiểu thuyết hiện thực phê phán qua Tắt đèn của Ngô Tuất Tố và Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 144 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

ĐỖ THỊ HƯƠNG

CẤU TRÚC TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC
PHÊ PHÁN QUA "TẮT ĐÈN" CỦA
NGÔ TẤT TỐ VÀ "BƯỚC ĐƯỜNG CÙNG"
CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

HÀ NỘI, 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2

ĐỖ THỊ HƯƠNG

CẤU TRÚC TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC
PHÊ PHÁN QUA "TẮT ĐÈN" CỦA
NGÔ TẤT TỐ VÀ "BƯỚC ĐƯỜNG CÙNG"
CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN
Chuyên ngành: LÍ LUẬN VĂN HỌC
Mã số: 60 22 01 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. LA KHẮC HÒA



HÀ NỘI, 2016


LỜI CẢM ƠN!
Lời đầu tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô giáo đã tận tình
truyền đạt những tri thức quí báu, dìu dắt, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo: PGS.TS La Khắc
Hoài đã hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quí báu cho tôi hoàn thành luận văn
này.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Khoa sau đại học trường Đại học sư
phạm Hà Nội 2, cùng bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, người thân đã động viên, giúp
đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2016
Tác giả luận văn

Đỗ Thị Hương


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình luận văn này là sự nỗ lực hết mình của tôi trong
quá trình nghiên cứu. Những số liệu thống kê hoàn toàn do tôi tự nghiên cứu. Tôi
xin chịu trách nhiệm về luận văn của mình.

Tác giả luận văn

Đỗ Thị Hương



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 2
3. Mục đích nghiên cứu ................................................................................... 11
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................. 11
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 11
6. Phương pháp nghiên cứu............................................................................. 11
7. Những đóng góp của luận văn .................................................................... 12
8. Cấu trúc của luận văn……………………………………………………..13
NỘI DUNG ..................................................................................................... 14
CHƯƠNG I:KHÁI QUÁT VỀ TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC PHÊ PHÁN VÀ
TIỂU THUYẾT “TẮT ĐÈN” CỦA NGÔ TẤT TỐ, “BƯỚC ĐƯỜNG
CÙNG” CỦA NGUYỄN CÔNG HOAN........................................................ 14
1.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của thể loại tiểu thuyết ........................... 14
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết ............................................................................ 14
1.1.2. Đặc trưng tiểu thuyết ............................................................................. 17
1.2. Tiểu thuyết hiện thực phê phán và đặc trưng của nó ............................... 20
1.2.1. Tiểu thuyết hiện thực phê phán ............................................................. 21
1.2.2. Đặc trưng tiểu thuyết hiện thực phê phán ............................................. 25
1.3. Cấu trúc tiểu thuyết hiện thực phê phán ................................................. 39
1.3.1. Cấu trúc đóng ........................................................................................ 39
1.3.2. Cấu trúc mở…………………………………………………………...40
1.4. Khái quát tiểu thuyết " Tắt đèn" của Ngô Tất Tố và " Bước đường cùng"
của Nguyễn Công Hoan……………………………………………………..40
1.4.1. Tiểu thuyết " Tắt đèn" của Ngô Tất Tố……………………………….40
1.4.2. Tiểu thuyết " Bước đường cùng" của Nguyễn Công Hoan…………..47


CHƯƠNG II .................................................................................................... 55

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CẤU TRÚC THEO NHÂN VẬT .................. 55
1.1. Nhân vật và bức tranh đời sống hiện thực ............................................... 55
1.2. Xây dựng kết cấu nhân vật đối lập nhau về tính cách, bản chất .............. 57
1.2.1. Nhân vật phản diện................................................................................ 57
1.2.2. Nhân vật chính diện .............................................................................. 65
1.3. Xây dựng kết cấu nhân vật đối lập về số phận......................................... 68
1.3.1. Nhân vật số phận, bi kịch. ..................................................................... 68
1.3.2. Nhân vật tích cực................................................................................... 70
1.4. Xây dựng nhân vật theo tình huống ......................................................... 72
1.4.1. Xây dựng các chi tiết, nhân vật tương phản, đan xen…………………78
1.5. Xây dựng kết cấu tâm lí nhân vật……………………………………….82
1.6. Ngôn ngữ nhân vật……………………………………………………...83
CHƯƠNG III ................................................................................................... 88
XÂY DỰNG KẾT CẤU THEO ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT ..................... 88
1.1. Không gian, thời gian…………………………………………………...89
1.1.1 Thời gian ................................................................................................ 89
1.1.2. Không gian ............................................................................................ 92
1.2. Điểm nhìn văn bản ................................................................................... 97
1.3. Điểm nhìn nghệ thuật ............................................................................. 104
1.4. Điểm nhìn nhân vật ................................................................................ 108
1.5. Ngôn ngữ trần thuật khách quan ............................................................ 116
1.6. Ngôn ngữ trần thuật chủ quan ................................................................ 123
1.7. Giọng điệu trần thuật.............................................................................. 124
KẾT LUẬN ................................................................................................... 128
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 130


1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Mỗi tác phẩm văn chương là một hệ thống phức tạp bao gồm hàng loạt các yếu
tố thuộc những bình diện khác nhau như đề tài, chủ đề, tư tưởng, kết cấu, ngôn ngữ,
nhân vật, hình tường, cốt truyện. Sự kết hợp và tác động lẫn nhau giữa các yếu tố đó
khiến tác phẩm trở thành một chỉnh thể nghệ thuật, mang tính thống nhất hữu cơ
giữa nội dung thẩm mỹ và hình thức nghệ thuật, tạo nên một cấu trúc đặc biệt cho
tác phẩm.
Cấu trúc có vai trò quan trọng trong tác phẩm, một tác phẩm có ý nghĩa, giá trị
về nội dung, nghệ thuật và tính thẩm mỹ như thế nào tùy thuộc vào mức độ xây
dựng cấu trúc của tác phẩm.
Văn học hiện thực phê phán là dòng văn học tiêu biểu của nước ta giai đoạn
1930 - 1945. Trong trào lưu văn học này đã hội tụ rất nhiều những cây bút đầy tài
năng như: Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất
Tố… Tuy vậy, do vốn hiểu biết về nông thôn, thái độ đối với nông dân, khuynh
hướng tư tưởng và nghệ thuật của mỗi nhà văn này có khác nhau, nên giá trị hiện
thực của mỗi tác phẩm cũng khác nhau.
Với Ngô Tất Tố, ông được xem là một trong những cây bút xuất sắc của
dòng văn học hiện thực trước cách mạng tháng Tám - 1945 và là một trong những
tác giả lớn có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Chỉ với ba
thập kỷ cầm bút, ông đã để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ, độc đáo, bao gồm
nhiều thể loại: tiểu thuyết, phóng sự, truyện ký lịch sử, khảo cứu, dịch thuật, tiểu
phẩm báo chí…Ở thể loại nào cũng để lại dấu ấn đặc sắc riêng. Và tiểu thuyết “Tắt
đèn” là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông viết về nông thôn Việt Nam
trước cách mạng tháng Tám, viết về khía cạnh nóng bỏng của người nông dân Việt
Nam sống dưới chế độ sưu cao thuế nặng, họ bị áp bức, bóc lột đến cùng cực. “Tắt
đèn là một bản tố khổ chân thật, sâu sắc, chan hòa nước mắt và lòng căm phẫn của
hàng triệu nông dân nghèo bị bóc lột. Tắt đèn là một tác phẩm có giá trị hiện thực tố
cáo và giá trị nhân đạo chủ nghĩa.” [11; tr.308]. “Tắt đèn” cũng là một trong những



2
tác phẩm mang tính thời sự sâu sắc, tái hiện chân thực đời sống của nhân dân Việt
Nam dưới chế độ sưu cao thuế nặng. Từ đó, lên án bênh vực, tố cáo, vạch trần bản
chất xấu xa, đê tiện và tàn ác của bọn quan lại dưới chế độ thuộc địa nửa phong
kiến. Qua đó, “Tắt đèn” đồng cảm, cảm thông với số phận của người nông dân là
nạn nhân của chế độ sưu thuế dã man.
Trong các nhà văn tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Công
Hoan là một cây bút có sức sáng tạo dồi dào, một tài năng xuất sắc về truyện ngắn
và một cây bút lực lưỡng về tiểu thuyết. Ông là một hiện tượng trong văn học
đương thời.. Ông là một trong những người đã đặt những viên gạch đầu tiên xây
đắp nền móng cho dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam đầu thế kỷ XX. Mặc
dù Nguyễn Công Hoan được đánh giá là nhà văn viết truyện ngắn bậc thầy, song
đối với thể loại tiểu thuyết, ông cũng có những đóng góp không nhỏ vào tiến trình
hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Lâu nay, người ta mặc nhiên
mặc định Nguyễn Công Hoan là cây bút truyện ngắn xuất sắc mà quên rằng ông còn
là một nhà tiểu thuyết lớn không thua kém các cây bút tiểu thuyết cùng thời, nhất là
tiểu thuyết Bước đường cùng. Do vậy, trong lịch sử phê bình hiện đại, các sáng tác
thuộc thể loại tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan vẫn chưa được đánh giá đầy đủ.
Với tầm quan trọng của cấu trúc trong tác phẩm văn chương và vị trí, vai trò,
giá trị to lớn của tác phẩm Bước đường cùng và Tắt đèn trong dòng văn học hiện
thực phê phán thuộc thể loại tiểu thuyết . Đồng thời, qua lịch sử nghiên cứu cho
thấy, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể về cấu trúc hai tác phẩm
này. Do đó, người viết chọn đề tài “Cấu trúc tiểu thuyết hiện thực phê phán qua Tắt
đèn của Ngô Tất Tố và Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan để nghiên cứu”
nhằm có một cái nhìn tổng thể, đa chiều về hai tác phẩm.
2. Lịch sử nghiên cứu
Cho đến thời điểm hiện tại, số lượng các bài viết, các công trình nghiên cứu,
phê bình, giới thiệu về con người và sự nghiệp các tác phẩm của Nguyễn Công
Hoan và Ngô Tất Tố rất phong phú, trong đó có tác phẩm Tắt Đèn và Bước đường
cùng.



3
2.1. Những bài viết có tính chất nghiên cứu tổng hợp về tác giả, tác phẩm
Trong Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975 (tập 2), Phan Cự Đệ viết: “Tiểu thuyết
Nguyễn Công Hoan cứ như là một bức tranh liên hoàn của những truyện ngắn nối
liền nhau. Nhân vật, tuy có chân dung, lý lịch, có vận mệnh riêng, nhưng đôi khi
vẫn bị coi như một công cụ mà tác giả dẫn dắt qua nhiều hoàn cảnh, môi trường của
xã hội cũ, từ ñó có dịp tố cáo những kiểu người khác nhau của ñẳng cấp thượng lưu
(Đống rác cũ), những cảnh khổ ñiển hình của nông dân và dân nghèo thành thị
(Bước đường cùng)” [12, tr. 24]. Và ở trong sách Văn học Việt Nam 1930 - 1945
(tập 2), ông cũng viết: “Trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, ta thấy ông băn
khoăn nhất về những sự đụng chạm giữa cái giàu và cái nghèo trong xã hội. Sự
xung đột giữa kẻ giàu, người nghèo là cái cốt của hầu hết các truyện ngắn, truyện
dài của Nguyễn Công Hoan” [11, tr. 8]. Viết về Nguyễn Công Hoan, Trúc Hà với
bài Một ngòi bút mới: ông Nguyễn Công Hoan (Nam Phong số 18 1932) đã tỏ ra
khá tinh tế khi nhận ra giọng văn mới mẻ pha chất hài hước của Nguyễn Công
Hoan: “…văn ông Hoan có cái hay, rõ ràng, sáng sủa, thiết thực, hơi văn nhanh và
gọn, lời văn hàm một giọng trào phúng, lại thường hay đệm vào một vài câu hoặc
một vài chữ có ý khôi hài bông lơn thú vị” [40, tr. 9]. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn
hiện đại, quyển tư (tập 3) nhận xét: “Tất cả tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan, dù
là truyện ngắn hay truyện dài, đều là tiểu thuyết tả thực, tiểu thuyết tả về phong tục
Việt Nam, về hạng trung lưu và hạng nghèo” [51, tr. 49]. Nguyễn Hoành Khung khi
nghiên cứu về truyện dài Nguyễn Công Hoan cũng có nhận xét: “Là người khơi
nguồn cho dòng văn học “tả chân” “vị nhân sinh” tiến bộ chảy xiết và cắm ngọn cờ
chiến thắng vẻ vang cho nó trong đời sống văn học khu vực hợp pháp, Nguyễn
Công Hoan còn là một trong những người đặt nền móng cho nền văn xuôi Việt Nam
hiện đại” [26, tr. 242]. Năm 1963, nhìn lại bước đường đi và sự nghiệp lớn của một
bậc đàn anh đáng kính, nhà văn Tô Hoài viết: “Nếu ta nhẩm từ cái hồi mà lời văn
bổng trầm khóc đứng khóc ngồi đến thời kỳ văn chương sạch sẽ kiểu “Tự lực”, thì

lực lưỡng như một tay đô vật không có địch thủ từ Kiếp hồng nhan tới nay, truyện
ngắn, truyện dài Nguyễn Công Hoan sừng sững tạo thành một thế Tam Đảo, Ba Vì


4
hùng vĩ, vượt qua cả hai thời kỳ, tiến vào Cách mạng tháng Tám” (Người bạn học
ấy) [40, tr. 198]
Trong giai đoạn hiện nay, các công trình nghiên cứu của các Giáo sư Nguyễn
Đăng Mạnh, Nguyễn Hoành Khung đã để tâm nhiều đến tiểu thuyết của Nguyễn
Công Hoan. Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Hầu hết truyện ngắn và truyện dài của
Nguyễn Công Hoan đều xoay quanh sự đối chọi giữa kẻ giàu và người nghèo. Một
đằng chẳng làm gì cả mà ăn ngập mày, ngập mặt không hết tiền, hết của. Một đằng
thì vất vả đủ đường mà suốt đời đói rách” [26, tr. 164]. Tác giả Lê Thị Đức Hạnh là
người dành nhiều công sức nhất trong việc nghiên cứu Nguyễn Công Hoan khẳng
định: “Hơn nửa thế kỷ cầm bút, Nguyễn Công Hoan để lại cho đời hàng vạn trang
sách đầy tâm huyết, đã để lại những dấu ấn không bao giờ phai mờ trong tâm trí
mọi người. Và cốt cách, tấm lòng, sự nghiệp sáng tác của ông vẫn sáng mãi trên
những trang văn học sử Việt Nam” [26, tr. 537]. Bên cạnh những công trình, bài
viết đánh giá khách quan về tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan thì vẫn có những nhận
định khắt khe, chưa đúng, như ý kiến của Ba Ky về Lá ngọc cành vàng, Trương
Chính về Cô giáo Minh. Vũ Ngọc Phan đã có nhận xét khá bao quát về cây bút
Nguyễn Công Hoan ở hai thể loại: “Người ta nhận thấy Nguyễn Công Hoan sở
trường về truyện ngắn hơn truyện dài. Trong các truyện dài nhiều chỗ lúng túng rồi
ông kết thúc giản dị quá, không xứng với một truyện to tát ông dựng” [26, tr. 63].
Hay như nhận xét của Nguyễn Trác trong sách Lịch sử văn học Việt Nam 1930 1945 (phần I, tập V) thì: “So với những nhà văn cùng thời, Nguyễn Công Hoan là
một trong những người viết nhiều truyện dài hơn cả, nhưng ít thành công. Trừ Bước
đường cùng, ở những truyện dài khác, ông thường chỉ thành công ở từng chương,
từng đoạn, có giá trị một truyện ngắn độc lập” [26, tr. 145-146]. Mượn lời của một
độc giả, Hải Triều nhận định “tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan gần với người hơn
tiểu thuyết Khái Hưng”, và mượn lời một nhà phê bình văn học, Hải Triều đã kết

luận: “Với Khái Hưng là cái thế giới đang tàn, mà với Nguyễn Công Hoan thì là cái
thế giới đang nhóm lên vậy” [40, tr. 272].


5
Những bài viết đánh giá từng truyện dài cụ thể Thế Phong, trong bài Điển hình
tả chân phong kiến có viết: “Tổng thể mà nói, Tấm lòng vàng là cuốn truyện giáo
dục rất giá trị cho lớp người mai hậu, cũng như phản ánh chất liệu thời niên thiếu
của tác giả sống. Những tâm tưởng khắc khoải, tự lập, tình tiết phấn đấu trong Tấm
lòng vàng chứng minh giá trị ấy, mà ít nhà văn tiền chiến làm” [26, tr. 147-148].
Đánh giá về Lá ngọc cành vàng và Ông chủ, Nguyễn Hoành Khung viết: “Về nhiều
mặt, hai truyện dài này có ý nghĩa đánh dấu sự chuyển biến của ngòi bút Nguyễn
Công Hoan nói riêng, trào lưu hiện thực phê phán nói chung, từ giai đoạn hình
thành ban đầu sang giai đoạn phát triển rực rỡ thời kỳ Mặt trận Dân chủ” [26, tr.
229]. Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại cho rằng: “Lá ngọc cành vàng là một
trong những truyện hay nhất của nhà văn Nguyễn Công Hoan” [26, tr. 61]. Nguyễn
Thị Nam trong bài viết Đọc lại Thanh đạm đã có nhận xét: “Khi xây dựng hình
tượng quan huyện nhà nho chân chính giữa một gia đình và môi trường làm việc rất
lý tưởng, tác phẩm Thanh đạm của Nguyễn Công Hoan gần gũi với chủ nghĩa lãng
mạn. Nhưng trong cái lãng mạn bao trùm ấy lại là chất hiện thực” [40, tr. 102]. Và
bà cũng có khái quát: “Tấm lòng vàng cũng như một số truyện ngắn của Nguyễn
Công Hoan mang tính lãng mạn. Nhưng chất lãng mạn ở đây gần với hiện thực hay
nói cho đúng ra là gần với sự mong muốn của con người, hoàn toàn không giống
với nhiều tác giả Tự lực văn đoàn. Nguyễn Công Hoan hướng tình cảm, hướng ngòi
bút của mình tới những người ở tầng lớp nghèo khổ, chứ không ngân nga tỉa tót về
tầng lớp trung lưu hoặc chính giai tầng của mình” [40, tr. 331]. Về tiểu thuyết Cái
thủ lợn của Nguyễn Công Hoan, Phạm Tường Hạnh nhận xét: “Cái thủ lợn vẫn viết
theo bút pháp hiện thực có pha một chút hài cố hữu của Nguyễn Công Hoan càng
làm cho sự phê phán những thói hư tật xấu của cái xã hội đương thời đang thối rữa
mà những người có ý chí, nghị lực càng phải thay đổi nó đi, đưa đất nước, dân tộc

bước sang trang sử mới…” [40, tr. 294]. Nhìn chung đến nay đã có một số công
trình nghiên cứu, đánh giá tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng
tháng Tám. Các tác giả đề cập đến nhiều khía cạnh của tiểu thuyết của Nguyễn
Công Hoan, có cả khẳng định lẫn phủ định; trong đó có những bài trực tiếp hoặc


6
gián tiếp đề cập đến đặc trưng thể loại tiểu thuyết nhưng chưa có công trình nào đi
sâu tìm hiểu.
Nghiên cứu về nhà văn Ngô Tất Tố, trong hồi ký Bốn mươi năm nói láo, nhà
văn Vũ Bằng (1913-1984), có thời gian cùng làm việc với Ngô Tất Tố, từng kể lại
là ở ông có chất thầy đồ cổ lỗ đến như thế nào. Tuy nhiên, nhà văn Vũ Bằng khẳng
định Ngô Tất Tố không hoàn toàn là một người lạc hậu, nhất là trong những tác
phẩm của ông. Nhà phê bình Vương Trí Nhàn nhận xét: “Trong khi về mặt tính
cách, người ta thấy Ngô Tất Tố gắn liền với lớp người trưởng thành từ đầu thế kỷ
(thế kỷ 20) (những Phan Kế Bính, Nguyễn Trọng Thuật, Phạm Duy Tốn…) thì tác
phẩm của ông lại thường được xếp cạnh tác phẩm Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam,
Vũ Trọng Phụng nghĩa là thuộc về một giai đoạn chín đẹp của thế kỷ này, những
năm 30 huy hoàng”.
Tính chất giao thời trong ngòi bút của Ngô Tất Tố thể hiện rõ nét trong tác
phẩm Lều chõng. Tiểu thuyết này được đăng tải dần trên báo Thời vụ từ năm 1939
và sau đó được xuất bản thành sách năm 1941. Lều chõng ra đời trong bối cảnh
đang dấy lên phong trào phục cổ, kêu gọi trở lại với nền văn hóa giáo dục cũ, những
giá trị tinh thần và tôn ti trật tự của giáo lý Khổng Mạnh, những tập tục cũ ở nông
thôn, trên quan trường và ở các gia đình phong kiến.
Lều chõng ghi lại một thiên phóng sự tiểu thuyết về chế độ giáo dục và khoa
cử phong kiến trong những ngày cuối cùng, dưới triều Nguyễn, miêu tả tấn bi kịch
của những nhà nho có tài trong xã hội phong kiến và được coi là lời chỉ trích sâu sắc
những tồn tại của nền văn hóa cũ. Trong lời giới thiệu Lều chõng(nhà xuất bản Văn
học, 2002), có đoạn: “Tác phẩm của Ngô tất Tố như một lời cải chính, hơn thế, một

bản tố cáo chế độ khoa cử lỗi thời và thấp thoáng sau mỗi chương, mỗi hàng chữ là
một nụ cười chế giễu, có khi là tiếng cười ra nước mắt”. Tuy nhiên, Lều
chõng không chỉ mang ý nghĩa phê phán. Vương Trí Nhàn trong Ngô Tất Tố và một
cách thích ứng trước thời cuộc nhận xét: “Mặc dù sự khuôn phép trong thi cử được
miêu tả trong Lều chõng như một cái gì cực kỳ vô lý, song trong cái khung tưởng
rất chật hẹp đó, nhân vật Đào Vân Hạc… vẫn thanh thoát tự do trong cách sống”,


7
cho thấy “cái nhìn lưu luyến với quá khứ” của chính Ngô Tất Tố. Hơn thế, đó
không phải chì là sự tiếc thương xoàng xĩnh, nó cho thấy “sự cắt đứt của Ngô Tất
Tố, mà cũng là của nhiều người đương thời, với quá khứ, sự thích ứng với hoàn
cảnh mới, nền văn hoá mới, là quyết liệt, song cũng là có tình có lý đến như thế
nào”.
Sự thích ứng của Ngô Tất Tố đã mang đến những kết quả rõ rệt trên con
đường văn nghiệp của ông. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan nhận xét về sự thay đổi ở
Ngô Tất Tố: “ông vào số những nhà Hán học đã chịu ảnh hưởng văn học Âu Tây và
được người ta kể vào hạng nhà nho có óc phê bình, có trí xét đoán có tư tưởng mới”
(Nhà văn hiện đại). Tóm lại, qua những trang viết của mình, Ngô Tất Tố cho thấy
ông là đại diện tiêu biểu cho những thay đổi của một lớp người trí thức trong giai
đoạn giao thời, sự dung hòa tương thích giữa nền văn hóa mới và cũ.
2.2. Những bài viết nghiên cứu về tác phẩm “Tắt đèn” và “Bước đường
cùng”
Nguyễn Hoành Khung trong Văn học Việt Nam 1930 - 1945 (tập 1) đã đi từ
quá trình sáng tác tiểu thuyết trước cách mạng đến sau cách mạng của Nguyễn
Công Hoan và dừng lại lâu hơn ở Bước đường cùng. Nguyễn Hoành Khung đã phát
hiện phân tích và lý giải rất nhiều những vấn đề thuộc về nội dung cũng như nghệ
thuật đầy sức thuyết phục. Đặc biệt ở phương diện nghệ thuật tác giả đã có những ý
kiến sắc sảo, chỉ ra những ưu nhược điểm về nhân vật Bước đường cùng: “…đã xây
dựng thành công hai nhân vật chính Nghị Lại và Pha. Do cái nhìn xã hội tiến bộ gần

với quan điểm giai cấp, nhà văn đã thể hiện khá sâu sắc bản chất giai cấp bọn địa
chủ và số phận người nông dân lao động” [26, tr. 235].
Trong Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật, Hồng Chương nhận
định: “Với Bước đường cùng lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam có một
tác phẩm nói đến đời sống nông thôn Việt Nam một cách sâu sắc, vạch trần được
một trong hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội nước ta dưới thời thuộc Pháp là mâu
thuẫn giữa nông dân và địa chủ phong kiến” [26, tr. 83].


8
Nói đến tác phẩm xuất sắc nhất của Ngô Tất Tố và cũng là tác phẩm xuất sắc
viết về nông thôn Việt Nam trước cách mạng tháng Tám. Với vai trò và vị trí xứng
đáng trong nền văn học phê phán giai đoạn 1930-1945, các tác phẩm của ông, trong
đó có “Tắt đèn” được đông đảo các nhà nghiên cứu, phê bình, độc giả chú ý. Các
công trình nghiên cứu đề cập giá trị nội dung của tiểu thuyết “Tắt đèn”: Trong sách
Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật, Nxb Sự thật 1956, Hồng Chương
có bài viết Tắt đèn – cuốn tiểu thuyết hiện thực xuất sắc – Trong bài viết này, Hồng
Chương nhận định “Cũng như nhiều tác phẩm hiện thực chủ nghĩa khác hồi bấy giờ,
Tắt đèn chỉ mới bóc trần chế độ xã hội đương thời, nó chưa thể vạch ra được con
đường đi đến tương lai tốt đẹp. Nhưng không vì thế mà ta đánh giá thấp tác phẩm
nghệ thuật ưu tú đó. Với Tắt đèn một cuốn tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa duy nhất
đó của ông, Ngô Tất Tố cũng xứng đáng được liệt vào hàng các đại biểu xuất sắc
nhất của chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam” [12; tr.222]. Trích sách Tắt đèn,
Nxb Văn hóa – Viện Văn học 1962, Nguyễn Tuân có bài viết Lời giới thiệu truyện
Tắt đèn. Qua bài viết, Nguyễn Tuân khẳng định giá trị nội dung của “Tắt đèn”: “Tắt
đèn xoáy sâu vào cái thuế đinh bất nhân đánh vào đầu người hàng năm. Tắt đèn là
câu chuyện khốn khổ của người làm ruộng nghèo phải bán con, lìa nhà, đi ở vú để
chạy cho xong một cái thẻ sưu. Cái thẻ sưu người thì vĩnh viễn ra tro rồi, nhưng Tắt
đèn vẫn còn truyền lại những cảm xúc phát ra từ những con người sống ở một thời
đại đánh thuế vào mạng người, đánh thuế vào hồn người sống và cả vào xác người

chết” [12; tr.207] Trên tạp chí Văn học, số 3- 1963, Phong Lê có bài viết Những
đóng góp của Ngô Tất Tố trong Tắt đèn. Trong bài viết này, Phong Lê khẳng định
giá trị nội dung của “Tắt đèn”: “Tắt đèn có giá trị tố cáo sâu sắc hơn và đạt tới đỉnh
cao trong trào lưu hiện thực phê phán chính vì cuộc sống được miêu tả trong truyện
đã khách quan dẫn ta đi đến một nhận xét đúng đắn về nguyên nhân tình trạng
nghèo khổ trong xã hội. Người nông dân ở đây không hiện lên với những thói tục
lạc hậu ràng buộc quanh mình. Sự dốt nát không phải là cái cớ chủ yếu làm cho họ
khốn khổ. Trái lại, đây là tất cả sức đè nén, bóc lột vô cùng tàn nhẫn của cả một trật
tự xã hội. Mối quan hệ tước đoạt giày xéo lên nhau. Cuộc sống người nông dân là


9
một cuộc sống bần cùng, đầy rẫy những cảnh tan cửa nát nhà, bán con, đi ở vú, làm
thuê…Yêu cầu khách quan đặt ra vô cùng cấp thiết là một cuộc cách mạng, không
phải chỉ để giải phóng cho phụ nữ, mà là giải phóng cho cả mọi lớp người lao động
nghèo khổ”. Trong sách Bình luận văn học, Nxb Văn học năm 1977, Như Phong có
bài viết: “Tắt đèn của Ngô Tất Tố, một tác phẩm sâu sắc nhất về nông dân nước ta
trước cách mạng”. Trong bài viết này, Như Phong khẳng định giá tri nội dung của
tác phẩm “Tắt đèn”: “Trong Tắt đèn, Ngô Tất Tố đã vạch rõ bản chất nguyên nhân
khổ cực của dân quê, hơn thế nữa còn chỉ đích danh được thủ phạm: Đế quốc Pháp
và địa chủ phong kiến, với cả chế độ bóc lột áp bức của chúng. Trong một thời kỳ
mà bọn thống trị cố che phủ bộ mặt thật của chúng, mà một số người còn có nhận
thức mơ hồ, lẫn lộn về sự thật của nông thôn, nhà văn hiện thực của chúng ta đã
phơi trần nguyên hình kẻ thù của nông dân ra ánh sáng”. Ngoài ra ông còn nhấn
mạnh những đóng góp của Ngô Tất Tố: “Ngô Tất Tố đã góp được tiếng nói mạnh
mẽ, rung động nhất trong các tiếng nói tố cáo chế độ thực dân phong kiến và tội ác
của chúng đối với nông dân. Cuốn Tắt đèn không có kết luận, nhưng sự thật đọc
xong, người ta không thể không thấy một câu kết luận tự nhiên nảy ra tự chính lòng
mình: “Trên đời này không thể để những cái bất công, vô lý ấy tồn tại mãi mãi
được!”. Đó là tác dụng của văn học hiện thực phê phán trước đây mà bây giờ chúng

ta có đủ lý do để nhận định rằng Tắt đèn là một tác phẩm tiêu biểu sâu sắc nhất”
[12; tr.229]. “Tắt đèn” là một tác phẩm giàu giá trị nội dung. Nó đã tố cáo và lên án
chế độ sưu thuế dã man của thực dân Pháp, đã bần cùng hóa nhân dân ta. Sưu thuế
đánh cả vào người chết, có biết bao nhiêu người phải bán vợ đợ con để trang trải
cho xong “món nợ nhà nước”. Vụ sưu thuế đến, xóm thôn rùng rợn trong tiếng
trống thúc thuế suốt đêm ngày. Bọn cường hào bắt trói đánh đập tàn nhẫn những kẻ
thiếu sưu. Có thể nói “Tắt đèn” là một bức tranh xã hội chân thực, một bản án đanh
thép kết tội chế độ thực dân nửa phong kiến đã áp bức bóc lột, đã bần cùng hóa
nhân dân ta. Tình vợ chồng, tình mẹ con, tình nghĩa xóm làng giữa những con
người cùng khổ được nói lên qua tác phẩm một cách chân thực. Số phận người phụ


10
nữ, những em bé, những người cùng đinh được tác giả nêu lên với bao nhiêu xót
thương và đau lòng
Trên báo Mới, số 4, ngày 15-6-1939, Trần Minh Tước có bài viết: “Một nhà
văn quê - Ngô Tất Tố trong Tắt đèn”. Trong bài viết này, Trần Minh Tước nhận
định: “Trong văn phẩm ấy, Ngô Tất Tố đã dùng được đắc sách cái phương pháp
khách quan để tả cho chúng ta biết rõ ràng những cảnh tượng nơi hương ẩm, là một
chỗ mà người ta nhờ ông, nhận thấy rất nhiều mâu thuẫn và hủ nát ” [12; tr.166].
Báo Đông Phương số 10, ngày 1-9-1939, Phú Hương có bài viết: “Tắt đèn – tiểu
thuyết của Ngô Tất Tố”. Với bài viết này, Phú Hương cũng khẳng định giá trị nghệ
thuật của Tắt đèn: “Cốt truyện của Tắt đèn rất gần với sự thật. Những cảnh tượng
như thế hoặc gần như thế, luôn luôn xảy ra ở thôn quê xứ ta. Đọc ông Ngô Tất Tố,
người ta phải khâm phục sự quan sát tường tận, kỹ càng của ông. Mỗi lúc ông tả
nhân vật sau lũy tre xanh, y như ta thấy ngay được trước mắt” [12; tr.176]. Tạp chí
Văn nghệ số 6; 6 – 1960, Nguyễn Tuân có bài viết: “Trước đèn, đọc đoản thiên Ngô
Tất Tố”. Trong bài viết này, Nguyễn Tuân có nhận định về giá trị nghệ thuật của
“Tắt đèn”: “Trong thời cũ, văn học và văn chương chỉ diễn tả những tâm trạng phụ
nữ thị dân hoặc có chấm phá đến phụ nữ làng thì chỉ đưa ra những nét thôn nữ dìu

dịu. Ngô Tất Tố đã đưa ra một nhân vật đàn bà nông thôn khỏe khoắn lành mạnh
như chị Dậu, tôi cho đó là một bằng chứng có giá trị mà Ngô Tất Tố đã góp được
vào viện bảo tàng con người Việt Nam tiến lên, tiến lên dưới lá cờ Đảng”. Trên Tạp
chí Văn học, Số 3, 1990, Đỗ Kim Hồi có bài viết: “Tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất
Tố”. Đỗ Kim Hồi nhận định giá trị nghệ thuật của “Tắt đèn”: “Ngòi bút “tả chân”
của tác giả Tắt đèn đã cày xới vào mảnh đất hội tụ đầy đủ nhất những mâu thuẫn cơ
bản trong một xã hội thực dân - phong kiến: mảnh đất nông thôn. Và tác giả đã chọn
miêu tả nông thôn xưa đúng vào ngày sưu thuế - cái thời điểm căng thẳng, dữ dội,
mà dưới làng sáng chớp của nó, bản chất của cuộc sống và của các loại người có
khả năng bộc lộ đến tận cùng” [12; tr.296].


11
2.3. Nghiên cứu về cấu trúc tiểu thuyết hiện thực phê phán qua hai tác
phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố và “Bước đường cùng” của Nguyễn Công
Hoan.
Cho đến nay, đây là đề tài mới, chưa có một công trình nào nghiên cứu. Lược
khảo lịch sử nghiên cứu cho thấy, chỉ có một vài nhận định chung chung như: tác
phẩm có kết cấu chặt chẽ, logic, là bậc thầy mẫu mực về kết cấu…
3. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ đặc trưng cấu trúc tiểu thuyết hiện thực phê phán thông qua tiểu
thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố và Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, để
thấy được tài năng của nhà văn về thể loại tiểu thuyết hiện thực phê phán. Đồng thời
thấy được vị trí, giá trị quan trọng to lớn của tiểu thuyết Tắt đèn và Bước đường
cùng trong thể loại đó.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng hợp các nghiên cứu về “Tắt đèn” và “Bước đường cùng” làm cơ sở
nghiên cứu, tránh trùng lặp những vấn đề các nhà nghiên cứu đã thực hiên.
Tổng hợp, nghiên cứu làm sáng tỏ vấn đề lý luận về tiểu thuyết, tiểu thuyết
hiện thực phê phán, cấu trúc tiểu thuyết hiện thực phê phán

Nghiên cứu cấu trúc tiểu thuyết hiện thực phê phán qua hai tiểu thuyết tiêu
biểu là “Tắt đèn” và “Bước đường cùng”với những đặc trưng của nó.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Cấu trúc tiểu thuyết hiện thực phê phán ở nhiều phương
diện: Khái niệm, đặc trưng, các yếu tố cấu thành…
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu cấu trúc tiểu thuyết hiện thực phê phán
qua hai tác phẩm tiêu biểu : Tắt đèn của Ngô Tất Tố và Bước đường cùng của
Nguyễn Công Hoan
6. Phương pháp nghiên cứu
Để tiến hành nghiên cứu, căn cứ vào nội dung, yêu cầu của đề tài luận văn đã
sử dụng các phương pháp nghiên cứu:


12
6.1. Phương pháp thống kê, miêu tả: thống kê các tác phẩm của Nguyễn Công
Hoan và Ngô Tất Tố để thấy được sự khác biệt trong cấu trúc của những tác phẩm
mà hai nhà văn đã sang tác so với hai tác phẩm mà người nghiên cứu lựa chọn.
Đồng thời thống kê những công trình nghiên cứu để thấy được những nhận xét,
đánh giá của những người nghiên cứu đi trước. Trên cơ sở đó để ta có một cái nhìn
khách quan, tổng thể hơn về vấn đề.
6.2. Phương pháp phân tích tổng hợp: cùng với việc thống kê cần phải phân
tích, tổng hợp một cách logic, hợp lý. Vừa tổng hợp vừa đưa ra những dẫn chứng để
phân tích, mổ xẻ vấn đề.Vận dụng phương pháp này, chúng tôi sẽ đưa ra ñược
những cứ liệu chính xác, cụ thể làm tăng sức thuyết phục cho các luận điểm nêu ra
trong đề tài.
6.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu: Nhằm phân biệt sự giống và khác nhau
trong cấu trúc tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố và Bước đường cùng của Nguyễn
Công Hoan.
6.4. Vận dụng lý thuyết thi pháp học: vận dụng các khái niệm, các phương
pháp và các tri thức trong thi pháp học để làm rõ hơn quan niệm nghệ thuật về nhân

vật,ngôn ngữ... trong các tác phẩm văn học. Những yếu tố tạo nên cấu trúc tác
phẩm.
6.5. Phương pháp lịch sử: Cấu trúc tiểu thuyết cũng chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố, trong đó có bối cảnh lịch sử. Tiểu thuyết Bước Đường Cùng của Nguyễn
Công Hoan và Tắt đèn của Ngô Tất Tố ra đời trong một hoàn cảnh xã hội và văn
học cụ thể. Do vậy, sử dụng phuong pháp này nhằm hiểu rõ hơn những yếu tố trong
cấu trúc tác phẩm.
7. Những đóng góp của luận văn
Trên cơ sở kế thừa và phát huy những nghiên cứu của những người đi trước.
Luận văn làm sáng tỏ hơn những vấn đề liên quan tới cấu trúc tác phẩm.
Đặc biệt, đây là đề tài mới, luận văn đã mổ xẻ, đi sâu vào những yếu tố cấu
thành nên cấu trúc tác phẩm văn học và đi sâu nghiên cứu vấn đề này vào hai tác


13
phẩm Tắt đèn và Bước Đường Cùng - khía cạnh mà những tác giả trước đây ít đề
cập đến hoặc chưa đi sâu nghiên cứu.
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần cung cấp những thông tin khoa
học khách quan về nhà văn, bổ sung nguồn tài liệu tham khảo cho sinh viên ngành
Ngữ văn và những người quan tâm tới tác phẩm.
8. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn chia làm ba chương:
Chương I: Khái quát về tiểu thuyết hiện thực phê phán và tiểu thuyết Tắt đèn
của Ngô Tất Tố, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan.
Chương II: Nghệ thuật xây dựng cấu trúc nhân vật.
Chương III. Xây dựng cấu trúc theo điểm nhìn trần thuật.


14


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC PHÊ PHÁN
VÀ TIỂU THUYẾT “TẮT ĐÈN” CÙA NGÔ TẤT TỐ,
“BƯỚC ĐƯỜNG CÙNG’’CỦA NGUYỂN CÔNG HOAN
1.1. Khái niệm và đặc trưng cơ bản của thể loại tiểu thuyết
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết
Trong văn học phương Đông, danh từ tiểu thuyết xuất hiện khá sớm nhằm
phân biệt với hai thể loại cơ bản khác là đại thuyết và trung thuyết. Đại thuyết là
kinh sách của các thánh nhân viết như Kinh Thư, Kinh Thi của Khổng Tử, đó là loại
sách mang nặng tính triết học, gần như chân lý, kiểu khuôn vàng thước ngọc và rất
khó đọc. Trung thuyết do các hiền sư, sử gia thực hiện như Sử ký của Tư Mã Thiên.
Còn tiểu thuyết, vốn chỉ những chuyện vụn vặt, đời thường. Những chuyện ấy cùng
với cổ tích, ngụ ngôn là những mầm mống của tiểu thuyết phương Đông. Thuỷ
Hử và Hồng Lâu Mộng là một trong những số đó.
Theo quan niệm trước đây, đặc biệt là quan niệm của Trung Quốc và Nhật
Bản, tiểu thuyết bao gồm có hai loại chính là tiểu thuyết đoản thiên hay truyện
ngắn, thậm chí là "vi hình tiểu thuyết" (truyện cực ngắn, truyện siêu ngắn) hay
"truyện trong lòng bàn tay" và tiểu thuyết trường thiên (truyện dài). Tuy nhiên hiện
nay, ở Việt Nam, khi nói đến tiểu thuyết, độc giả thường hiểu đó là tác phẩm truyện
dài.
Ở một số ngôn ngữ phương Tây, từ tiểu thuyết có nguồn gốc từ tiếng Latinh,
mang nghĩa chuyện mới (novel).
Song song với tiến trình này, văn học hiện đại thế giới cũng cho thấy những
nguyên lý của tiểu thuyết chi phối hầu hết các tác phẩm tự sự khác nên sự phân biệt
bản chất thể loại ở các truyện cụ thể trở nên ngày càng khó khăn.
Ở Việt Nam tiểu thuyết xuất hiện khá muộn phải đến những năm 30 của thế
kỷ 20 văn học Việt Nam mới xuất hiện tiểu thuyết với đầy đủ tính chất của thể loại
hiện đại. Cùng phong trào Thơ Mới, tiểu thuyết hiện đại Việt Nam 1930-1945 có



15
những bước tiến vượt bậc và thành tựu lớn với hai khuynh hướng sáng tác: những
cây bút nổi tiếng của Tự Lực văn đoàn, những người đã thúc đẩy sự hình thành thể
loại như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam; và những nhà văn hiện thực phê
phán như Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan, Nguyên
Hồng.
Trong 2 cuộc chiến tranh vệ quốc (chống Pháp và chống Mỹ), đội ngũ các
nhà tiểu thuyết Việt Nam đã ngày càng đông đảo (Nguyễn Huy Tưởng, Tô
Hoài, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc). Ít nhiều
tiểu thuyết Việt Nam có thành tựu tiệm cận với thể loại tiểu thuyết - sử thi vốn
mang đề tài hoành tráng và dung lượng đồ sộ, mà một trong số đó là Vỡ bờ của
Nguyễn Đình Thi. Sau 1986, lịch sử tiểu thuyết Việt Nam sang trang mới với những
sáng tác của Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Bảo Ninh, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái,
Nguyễn Bình Phương có nội dung sâu sắc hơn về thân phận con người và hình thức
có dấu hiệu hình văn chương hậu hiện đại.
Thế nào được gọi là tiểu thuyết? Định nghĩa tiểu thuyết là một việc rất khó.
Ở phương Tây, có người đã từng định nghĩa tiểu thuyết là “tác phẩm hư cấu có độ
dài nhất định, dùng hình thức văn xuôi để viết thành”. Banzac gọi tiểu thuyết là “lời
nói hư cấu trang nghiêm”. Warren, Wellek nói: “Văn học mang tính tưởng tượng thì
gọi là tiểu thuyết (fiction), là hư cấu”, “toàn bộ hiện thực mà tiểu thuyết thể hiện gọi
là ảo giác của hiện thực” “các nhà tiểu thuyết vĩ đại đều có một thế giới riêng của
mình, mọi người có thể từ đó mà thấy được toàn thế giới, thấy được sự trùng hợp
với kinh nghiệm của mình”[72.Tr.237-238]. Lapikefu, nhà văn Nga lưu vong, trên
cơ sở nhấn mạnh “không có một tác phẩm nghệ thuật nào không phải là một sáng
tác mới do trời đất độc lập sáng tạo ra” đã nói: “Trên thực tế, mọi tiểu thuyết hay
đều là một thần thoại tuyệt vời”[70.Tr.10]. Nói cho cùng, tiểu thuyết là một loại tác
phẩm tự sự hư cấu. Nó là sáng tạo nghệ thuật của nhà tiểu thuyết. Đây là một loại
sáng tạo nghệ thuật, một mặt muốn trình bày một số tư liệu đời sống trong lịch sử,
trong hiện thực và thừa số nào đó của tài liệu ấy, mặt khác lại muốn khi sắp xếp lí

tưởng xã hội, lí tưởng thẩm mĩ của bản thân, tiến hành giải thích, gia công, tổ hợp,


16
bổ khuyết, giả định, giả thiết, kéo dài, phát triển những tài liệu và thừa số đó, vận
dụng sức tưởng tượng nghệ thuật, năng lực kết cấu, dựa trên logic cuộc sống, logic
nghệ thuật để sáng tạo ra một loại cuộc sống mới, một thế giới mới. Thế giới này
vượt lên trên thế giới lịch sử và hiện thực, vừa có quan hệ với lịch sử và hiện thực,
vừa không giống thế giới của lịch sử và hiện thực[71.Tr.1-2].
Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự điển hình nhất. Tiểu thuyết truyền thống lấy nhân
vật, tình tiết, hoàn cảnh làm ba nhân tố không thể thiếu, đặc điểm của nó liên quan
mật thiết với ba yếu tố đó.
Như vậy: Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua nhân vật,
hoàn cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những vấn đề của cuộc
sống con người, biểu hiện tính chất tường thuật, tính chất kể chuyện bằng ngôn
ngữ văn xuôi theo những chủ đề xác định.
Trong một cách hiểu khác, nhận định của Belinski: "tiểu thuyết là sử thi của
đời tư" chỉ ra khái quát nhất về một dạng thức tự sự, trong đó sự trần thuật tập trung
vào số phận của một cá nhân trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Sự trần
thuật ở đây được khai triển trong không gian và thời gian nghệ thuật đến mức đủ để
truyền đạt cơ cấu của nhân cách(Mục từ Tiểu thuyết trong cuốn 150 thuật ngữ văn
học, Lại Nguyên Ân biên soạn, trang 326). Susanne K.Langer nói: “Tiểu thuyết là
loại hình văn học phong phú nhất, đặc điểm phồn tạp nhất, lưu hành rộng rãi nhất,
nhưng nó lại là hiện tượng xuất hiện tương đối muộn, hình thức nghệ thuật vẫn
đang phát triển, kết cấu hoàn toàn mới và thủ pháp nghệ thuật của nó khiến các
nhà phê bình cảm thấy kinh ngạc”[59.Tr.334]
Tiểu thuyết là thể loại năng động và nhanh nhạy bậc nhất, có khả năng thu
phát mọi tín hiệu của đời sống, của cái hiện tại chưa hoàn thành. Trong các tiểu
thuyết đáng chú ý của năm qua, những vấn đề của xã hội được đề cập đến từ các
góc nhìn đa chiều. Những sự kiện chính trị xã hội quốc tế và trong nước làm khơi

dậy ý thức trách nhiệm với xã hội, đất nước, và tiểu thuyết, với tư cách là một thể
loại văn chương, có khả năng xuyên qua sự kiện bề mặt để đi sâu vào thế giới tinh
thần của mỗi cá nhân, soi chiếu hiện tại và quá khứ, lịch sử và số phận con người.


17
Tiểu thuyết không chỉ là kể lại một câu chuyện mà thông qua câu chuyện và cách kể
chuyện, mang lại cho người đọc cảm nhận về cuộc sống.
1.1.2. Đặc trưng tiểu thuyết
Cũng như các thể loại khác, tiểu thuyết cũng có những đặc trưng riêng của
mình.Nói đến tiểu thuyết chúng ta thường biết nó mang tính chất văn xuôi như là
một đặc trưng tiêu biểu nhất. Ngoài ra tiểu thuyết còn mang những đặc trưng khác
như khả năng phản ánh toàn vẹn hiện thực, nghệ thuật kể chuyện, Tính đa dạng về
màu sắc thẩm mỹ, nghệ thuật hư cấu và bản chất tổng hợp.
Tính chất văn xuôi: Là một thể loại cao cấp nhất thuộc phương thức tự sự, tính
chất văn xuôi, vì vậy, trở thành đặc trưng tiêu biểu cho nội dung của thể loại. Tính
chất đó đã tạo nên trường lực mạnh mẽ để thể loại dung chứa toàn vẹn hiện thực,
đồng hóa và tái hiện chúng trong một thể thống nhất với những sắc màu thẩm mỹ
mới vượt lên trên hiện thực, cho phép tác phẩm phơi bày đến tận cùng sự phức tạp
muôn màu của hiện thực đời sống.
Nghệ thuật kể truyện: Giống như các hình thái tự sự khác như truyện
ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết lấy nghệ thuật kể chuyện làm giọng điệu chính của tác
phẩm. Thông thường ở tác phẩm xuất hiện người kể chuyện như một nhân vật trung
gian có nhiệm vụ miêu tả và kể lại đầu đuôi diễn biến của chuyện. Tuy sự tồn tại
của yếu tố này là ước lệ nghệ thuật của nhiều thể loại thuộc tự sự, nghệ thuật kể
chuyện của tiểu thuyết vẫn cho thấy sự đa dạng đặc biệt về phong cách: có thể
thông qua nhân vật trung gian, có thể là nhân vật xưng "tôi", cũng có thể là một
nhân vật khác trong tác phẩm, tạo nên các tác phẩm có một điểm nhìn trần thuật.
Hiện nay, một trong những xu hướng tìm tòi đổi mới tiểu thuyết là việc tăng thêm
các điểm nhìn ở tác phẩm, khi vai trò của nhân vật trung gian hoặc nhân vật xưng

"tôi" được "san sẻ" cho nhiều nhân vật trong cùng một tác phẩm.
Khả năng phản ánh toàn vẹn hiện thực: Đặc trưng lớn nhất của tiểu thuyết
chính là khả năng phản ánh toàn vẹn và sinh động đời sống theo hướng tiếp xúc gần
gũi nhất với hiện thực. Là một thể loại lớn tiêu biểu cho phương thức tự sự, tiểu
thuyết có khả năng bao quát lớn về chiều rộng của không gian cũng như chiều dài


18
của thời gian, cho phép nhà văn mở rộng tối đa tầm vóc của hiện thực trong tác
phẩm của mình.
Ở phương diện khác, tiểu thuyết là thể loại có cấu trúc linh hoạt, không chỉ
cho phép mở rộng về thời gian, không gian, nhân vật, sự kiện mà còn ở khả năng
dồn nhân vật và sự kiện vào một khoảng không gian và thời gian hẹp, đi sâu khai
thác cảnh ngộ riêng và khám phá chiều sâu số phận cá nhân nhân vật.
Hư cấu nghệ thuật: Hư cấu nghệ thuật cũng được coi là một đặc trưng của
thể loại, là một thao tác nghệ thuật không thể thiếu trong tư duy sáng tạo của tiểu
thuyết. Hư cấu cho phép tác phẩm tái hiện những thời đại lịch sử phát triển trong
câu chuyện hư cấu, không hiện thực như sử học, và những nhân vật hoàn toàn
không bị lệ thuộc bởi nguyên mẫu ngoài đời như những tác phẩm thuộc thể ký.
Trong vô vàn những gương mặt đời thường và giữa muôn ngàn biến cố của lịch sử,
nhà văn khi trước tác một tác phẩm tiểu thuyết đã thực hiện những biện pháp nghệ
thuật đồng hóa và tái hiện bức tranh đời sống bằng phương thức chọn lọc, tổng hợp
và sáng tạo. Khi đó, hư cấu nghệ thuật, đối với tiểu thuyết đã trở thành yếu tố bộc lộ
rõ rệt phẩm chất sáng tạo dồi dào của nhà văn.
Tính đa dạng về màu sắc thẩm mỹ cũng là một đặc trưng tiêu biểu của thể
loại. Các thể loại văn học khác thường chỉ tiếp nhận một sắc thái thẩm mỹ nào đó
để tạo nên âm hưởng của toàn bộ tác phẩm, như bi kịch là cái cao cả, hài kịch là cái
thấp hèn, thơ là cái đẹp và cái lý tưởng. Ở tiểu thuyết không diễn ra quá trình chọn
lựa màu sắc thẩm mỹ khi tiếp nhận hiện thực mà nội dung của nó thể hiện sự pha
trộn, chuyển hóa lẫn nhau của các sắc độ thẩm mỹ khác nhau: cái cao cả bên cái

thấp hèn, cái đẹp bên cái xấu, cái thiện lẫn cái ác, cái bi bên cạnh cái hài v.v.
Ở phương diện cuối cùng, tiểu thuyết là một thể loại mang bản chất tổng
hợp. Nó có thể dung nạp thông qua ngôn từ nghệ thuật những phong cách nghệ
thuật của các thể loại văn học khác như thơ (những rung động tinh tế), kịch (xung
đột xã hội), ký (hiện thực đời sống); các thủ pháp nghệ thuật của những loại hình
ngoại biên như hội họa (màu sắc), âm nhạc (thanh âm), điêu khắc (sự cân xứng, chi
tiết), điện ảnh (khả năng liên kết các bức màn hiện thực); và thậm chí cả các bộ môn


19
khoa học khác như tâm lý học, phân tâm học,đạo đức học và các bộ môn khoa học
tự nhiên, khoa học viễn tưởng khác. v.v. Nhiều thiên tài nghệ thuật đã định hình
phong cách từ khả năng tổng hợp này của thể loại, như Tolstoi với tiểu thuyết-sử
thi, Dostoevski với thể loại tiểu thuyết-kịch, Solokhov với tiểu thuyết anh hùng catrữ tình, Roman Roland với tiểu thuyết-giao hưởng v.v.
Quan niệm chung về “hình thức thể loại truyền thống” của tiểu thuyết Việt
Nam hiện đại: Thông qua tiến trình phát triển với những khuynh hướng, những
thành tựu đã được khẳng định - định hình và đã có thể gọi là “giá trị cổ điển” của
tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX (đặc biệt với các đỉnh cao: tiểu thuyết hiện thực và
lãng mạn 1930 - 1945, tiểu thuyết cách mạng 1945 - 1985), chúng ta có thể đưa ra
một số nhận định về quan niệm chung đối với “hình thức thể loại truyền thống” của
tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Thứ nhất, về bản chất loại hình: tiểu thuyết là những tác phẩm được biết
bằng văn xuôi và mang “tính văn xuôi” rõ nét trong cả hình thức ngôn ngữ và nội
dung biểu hiện, phản ánh một cách đầy đủ và trung thực những trải nghiệm trong
đời sống con người. Thứ hai, về phương thức tự sự (cấp độ ngôn ngữ): cấu trúc tự
sự của tiểu thuyết phải dựa trên sự hợp lý, logic, liền mạch và hấp dẫn trong cốt
truyện, kết cấu,…, cụ thể hơn là giữa các phân đoạn, các bộ phận, các tình tiết trong
đó. Nhìn chung, đó là “đòi hỏi” về một tổng thể nhất quán và hoàn thiện trên
phương diện hình thức tự sự nhằm tái hiện rõ nét nhất nội dung hiện thực của tác
phẩm. Thứ ba, về hình tượng nhân vật và không - thời gian (cấp độ hình tượng): sự

tồn tại của nhân vật và tính cách nhân vật, sự tồn tại của không - thời gian và tính
chất không - thời gian đều đòi hỏi phải có sự nhất quán, hợp lý và gắn liền với cốt
truyện, với diễn trình của tác phẩm. Những gì vượt ra ngoài khuôn hình và khả năng
“có thể lý giải”, “có thể dung nạp” của cốt truyện, của diễn trình tự sự đều có thể
coi là lạc lõng, dư thừa. Nói một cách cụ thể hơn, “nhân vật” hay “không - thời
gian” bao giờ cũng chịu sự chi phối trọn vẹn, mạnh mẽ bởi những dự liệu và ý
tưởng của tác giả, của “đáng tối cao” đã được cụ thể hóa, mô hình hóa trong cốt
truyện, trong bố cục tác phẩm. Thứ tư, về vấn đề dung lượng và quy mô tác phẩm:


×