Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Đê cương ôn thi tuyển giáo viên mầm non

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.3 KB, 33 trang )

PHẦN I : PP LQ VỚI TOÁN VÀ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI
1/ Môn Phương pháp cho trẻ mầm non làm quen với toán
I.1.

Phương pháp trực quan
 Ý nghĩa:
- Giúp trẻ nhận biết các thuộc tính.
- Nhận biết đặc điểm bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
 Các phương pháp dạy học trực quan
Gồm: trình bày vật mẫu, tranh ảnh, biểu bảng, mô hình, sử dụng hành động

mẫu.
• Trình bày các vật mẫu
- Để hình thành biểu tượng toán học ban đầu cho trẻ, GV thường trưng bày
trực quan các vật.
- Các vật mẫu lựa chọn để trưng bày phải đẹp, đúng, phù hợp với mục đích,
yêu cầu nội dung hoạt động.
- Trưng bày các vật trực quan đúng lúc và đặt nơi hợp lý để tất cả trẻ đều
nhìn thấy và cần sử dụng trực quan theo hệ thống.
- Không sử dụng các vật quá lâu sẽ kìm hàm sự phát triển trí tuệ của trẻ.
• Sử dụng hành động mẫu
- Đây là một phương pháp dạy học có tính trực quan - thực hành, bởi trong
đó kết hợp giữa lời nói và hành động với việc sử dụng các đồ dùng học tập nhằm
tạo điều kiện để trẻ lĩnh hội kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo.
- Trong quá trình tổ chức các hoạt động GV thường làm mẫu phương thức
hành động kết hợp với lời hướng dẫn, sử dụng phương pháp này để dạy trẻ các
biện pháp: đếm, so sánh, đo lường.
- Khi sử dụng hành động mẫu GV cần dự kiến trình tự các thao tác, tình tự
phải đúng, thao tác phải rõ ràng, chuẩn bị lời giảng giải ngắn gọn.
- Trong quá trình dạy trẻ GV sử dụng hành động mẫu kèm theo lời minh hoạ
ở lần đầu dạy trẻ kiến thức mới, hoạt động tiếp theo không cần lời giải thích.




1.2. Phương pháp dạy học dùng lời nói
 Ý nghĩa
- Bổ sung, minh hoạ (cho PP trực quan).
- Nhận biết đặc điểm bên trong của đối tượng.
- Phát triển tư duy lôgic, phát triển ngôn ngữ.
 Các loại biện pháp
• Lời diễn giải, hướng dẫn, giảng giải
- Trẻ MGB:
+ Ngắn gọn thường được diễn ra với quá trình trẻ thực hiện các thao tác.
+ Bằng giảng giải GV chính xác lại những điều trẻ nhận biết trong quá trình
tri giác.
- Trẻ MGL:
+ Lời hướng dẫn của GV có tính tổng thể.
+ Phản ánh toàn bộ quá trình thực hiện nhiệm vụ.
• Câu hỏi
Đóng vai trò quan trọng, cách phân loại câu hỏi theo trình tự nhận thức của
trẻ:
- Các câu hỏi dựa trên sự tri giác và trí nhớ tái tạo của trẻ:
- Các câu hỏi sáng tạo nhận thức: giúp trẻ sử dụng kiến thức đã nắm để giải
quyết các tình huống hay các nhiệm vụ khác nhau.
* Điểm lưu ý khi đặt câu hỏi:
+ Ngắn gọn, cụ thể, đủ ý.
+ Nội dung câu hỏi phải vừa sức hiểu biết của trẻ.
+ Các khái niệm trong câu hỏi phải quen thuộc.


+ Có tính hệ thống, kích thích trẻ suy nghĩ, không nên sử dụng những câu hỏi
gợi ý, câu hỏi chỉ trả lời “có” “không”.

• Đàm thoại
Là phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi của GV và câu trả lời của trẻ.
Trong qua trình đàm thoại GV cần lưu ý:
- Sử dụng đúng thuật ngữ toán học.
- Nói đúng, mạnh lạc.
- Kết hợp giảng giải.
• Sử dụng yếu tố văn học
Truyện, thơ, đồng dao, bài hát...
- Chú ý các yếu tố toán học (Như: trong câu chuyện có mấy con vật? Có
mấy quả? Hoặc trong bài hát “Tập đếm” thì 1 với 1 là mấy?, 2 với 2 là mấy?...)
- Củng cố kiến thức cho trẻ.
1.3. Phương pháp dạy học thực hành
 Ý nghĩa
- Phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và mức độ phát triển trí tuệ của trẻ MN.
- Đảm bảo cho sự hình thành ở trẻ những biểu tượng toán học sơ đẳng, kĩ
năng, kĩ xảo.
- Tạo điều kiện sử dụng kiến thức, kĩ năng đã học vào các dạng hoạt động
khác nhau.
 Các phương pháp thực hành
• Luyện tập là vận dụng kiến thức vào các hành động:
- Củng cố các kiến thức, làm cho kiến thức trở nên vững chắc và có ý thức.
- Hình thành ở trẻ kĩ năng trí tuệ, thực hành nhờ đó trở thành kĩ xảo.
- Kết quả của việc luyện tập được thể hiện qua lời nói, hành động và sản
phẩm của trẻ, GV có thể kiểm tra, đánh giá mức độ nắm kiến thức, kĩ năng của
từng trẻ.


- Tổ chức cho tất cả trẻ tham gia luyện tập bằng việc thực hiện các bài tập
khác nhau.
- Sử dụng các bài tập đòi hỏi ở trẻ tích cực, độc lập với các mức độ khác

nhau như:
+ Bài tập tái tạo
+ Bài tập sáng tạo
• Trò chơi
- TC được sử dụng với chức năng là phương pháp dạy học, khi toàn bộ tiết
học được lồng vào một TC mà trẻ là người tham gia chính.
- TC được sử dụng như một biện pháp dạy học, khi một hoạt động học cụ thể
được lồng vào trong nội dung TC.
 Đổi mới PP cho trẻ làm quen với toán ở mầm non
• Vai trò của giáo viên
- Tổ chức môi trường học tập tạo cơ hội, tình huống, thách thức mới, hướng
dẫn trẻ vận dụng vốn hiểu biết và kinh nghiệm của bản thân để tìm tòi, khám phá
tham gia vào các hoạt động.
- Linh hoạt tổ chức các hình thức dạy học trong nhóm trẻ, linh hoạt giải
quyết các tình huống mới nảy sinh trong nhóm trẻ, điều này đòi hỏi GV phải nắm
rõ về đặc điểm về trẻ, nắm vững kiến thức, có khả năng đánh giá và khả năng lập
kế hoạch GD phù hợp.
• Vai trò của trẻ
- Tích cực tham gia vào các hoạt động, trải nghiệm các tình huống, làm
phong phú vốn hiểu biết.
- Thực hiện một cách chủ động dưới sự hướng dẫn, tổ chức của GV.
+ Trẻ trở thành trung tâm của quá trình nhận biết.
+ Không bị áp đặt, mà được lựa chọn tham gia vào hoạt động theo hứng thú,
nhu cầu.
+ Được bộc lộ khả năng cá nhân.
+ Được trao đổi, nhận xét, lựa chọn giải pháp trong quá trình hoạt động.


 Cách học mới tạo cho trẻ thói quen hoạt động tự giác, chủ động, không rập
khuôn. Tạo cho trẻ niềm vui khi hoạt động.

- Về kỹ năng:
Các hình thức dạy trẻ làm quen với toán
Dạy trong giờ

Học trong HĐ học
toán có chủ đích

học
Dạy ngoài giờ
học

CT cải cách

Học ngoài HĐ học
toán có chủ đích

CT hiện hành

1.4. Cho trẻ làm quen với toán trong HĐ học toán có chủ đích
 Ý nghĩa
- Đây là hình thức có vai trò quan trọng trong việc cung cấp hệ thống kiến
thức, kĩ năng chính xác đảm bảo tính khoa học.
- Thực hiện có hệ thống nội dung chương trình được quy định trong chương
trình GDMN.
- Góp phần phát triển năng lực cảm giác, hình thành các thao tác tư duy, phát
triển ngôn ngữ, hứng thú.
- Hình thành kỹ năng hoạt động học tập như: chú ý lắng nghe, tích cực ghi
nhớ, thực hiện nhiệm vụ được giao.
 Đặc điểm
- Trẻ giữ vai trò chủ thể của hoạt động.

- Giáo viên là người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn
 Cấu trúc
Bao gồm một chuỗi hoạt động, trong đó chuỗi HĐ trước là cơ sở để tiến
hành chuỗi HĐ sau.
• Ôn luyện kiến thức và kỹ năng đã học


- Kiến thức liên quan trực tiếp đến nội dung học tiếp theo hoặc những nội
dung lồng ghép khác.
- Hướng tới nhiệm vụ mới cần giải quyết.
• Học kiến thức, kĩ năng mới
- Trong thời gian tiến hành hoạt động này trẻ cần tích cực hoạt động với đối
tượng theo trình tự nhất định dưới sự hướng dẫn của cô.
VD: Biểu tượng về số lượng được hình thành trong quá trình:
. Tích cực thao tác với các nhóm đối tượng.
. Dưới sự hướng dẫn của cô.
- Trong quá trình trẻ HĐ với đối tượng, GV cần sử dụng những câu hởi gợi
mở để hướng trẻ chú ý dấu hiệu toán học và dạy trẻ phản ánh bằng lời nói.
• Luyện tập, ôn luyện
- Trong HĐ này trẻ được thực hành luyện tập những kiến thức, kĩ năng vừa
học. Tuy nhiên luyện tập một cách tổng hợp về kiến thức, kĩ năng toán học.
- Trẻ luyện tập bằng các bài tập đa dạng và phức tạp dần, GV tạo cơ hội để
trẻ lĩnh hội, độc lập thực hiện các nhiệm vụ được giao.
- Tổ chức luyện tập cả lớp, theo nhóm:
• Cấu trúc giáo án hoạt động học toán
CHỦ ĐIỂM GIÁO DỤC
TÊN ĐỀ TÀI (bài học)
Đối tượng dạy (lứa tuổi, số lượng)
Thời gian dạy (theo lứa tuổi)
Mục đích, yêu cầu bài dạy:

+ Kiến thức (những kiến thức dạy mới, kiến thức cần củng cố, ứng dụng)
+ Kỹ năng (những kỹ năng mới cần hình thành và những kỹ năng cũ cần
luyện tập)
+ Thái độ


Chuẩn bị:
+ Địa điểm tổ chức, đội hình
+ Ghi cụ thể tên, số lượng, kích thước, hình dạng…các loại
. Đồ dùng cho GV
. Đồ dùng cho trẻ
Cách hướng dẫn trẻ hoạt động (tiến trình hoạt động)
Hoạt động của giáo viên

Hoạt động của trẻ

- Trình bày trình tự các hoạt động sẽ
- Trình bày các HĐ mà trẻ cần
tiến hành với trẻ.
tham gia.
- Cách thức GV hướng dẫn trẻ thực
- Trình tự các hành động, thao tác
hiện từng HĐ, từng nhiệm vụ học tập.
mà trẻ thực hiện dưới sự hướng dẫn của
cô.
- Ghi rõ hệ thống câu hỏi, lời hướng
dẫn, giảng giải của GV.
- Dự kiến các câu trả lời cần đạt ở
trẻ.
- Cách thức của GV thực hiện hành

động mẫu, trình bày vật mẫu.
- Dự kiến kết quả hành động cần
đạt ở trẻ.
- Ghi rõ hệ thống các bài tập hay các
TC và cách sử dụng khi dạy trẻ.
- Cần dự tính các tình huống có thể
- Dự kiến các tình huống có thể
xảy ra và cách xử lí.
xảy ra với trẻ.
2/ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI
2.1. Ý nghĩa của hoạt động vui chơi đối với trẻ mẫu giáo.
 Chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo
- Chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo: quyết định sự phát triển của
trẻ MG, chi phối các hoạt động khác khiến cho các hoạt động khác mang màu sắc
của hoạt động chủ đạo.
Ví dụ: trẻ đóng vai: bác sĩ, y tá, bệnh nhân, cô giáo, mẹ, chú công nhân,…Lúc
đóng vai trẻ tích cực hoạt động như đi lại, trao đổi, nói năng, giãi bày tình cảm,…
Hoạt động vui chơi trở thành hoạt động chủ đạo của trẻ và chi phối tất cả các hoạt


động khác của trẻ, có ảnh hưởng lớn đến các mặt phát triển của trẻ, góp phần quan
trọng vào việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ mẫu giáo, chuẩn bị cơ sở tâm
lý cần thiết cho hoạt động học tập ở trường tiểu học.)
 Chơi là phương tiện giáo dục và phát triển toàn diện cho trẻ mẫu giáo
- Hoạt động vui chơi là phương tiện giáo dục và phát triển trí tuệ cho trẻ mẫu
giáo nội dung trò chơi phản ánh thế giới xung quanh -> hiểu sâu sắc hơn thế giới
xung quanh.
Vốn hiểu biết được mở rộng: sử dụng đồ chơi.
Hiểu được ý nghĩa hoạt động của con người: làm việc vì mọi người.
Củng cố, chính xác hóa những biểu tượng, khái niệm thu được trong các hoạt

động khác.
Phát triển nhu cầu nhận thức, trí tò mò, ham hiểu biết.
Phát triển các quá trình tâm lý, nhận thức: cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư duy,
tưởng tượng, ngôn ngữ.
Ví dụ: Qua trò chơi “Xây dựng trường mẫu giáo”, biểu tượng trường mẫu
giáo của bé sẽ được cụ thể, phong phú và sâu sắc hơn .Để thỏa mãn nhu cầu chơi,
trẻ không những vận dụng những hiểu biết đã có mà trong quá trình chơi hấp dẫn,
sự hứng thú và tính chủ thể hoạt động thúc đẩy trẻ tới chiếm lĩnh tri thức mới. Điều
này ảnh hưởng tích cực đến nhu cầu nhận thức của trẻ. Hoạt động vui chơi là mảnh
đất tốt để phát triển hoạt động nhận thức của trẻ như cảm giác, tri giác, trí nhớ, tư
duy, đặc biệt là trí tưởng tượng và ngôn ngữ)
- Hoạt động vui chơi là phương tiện giáo dục và phát triển đạo đức cho trẻ
mẫu giáo
Nhiều phẩm chất đạo đức được hình thành và phát triển.
Những nét tính cách được bộc lộ: nắm những mạch mạnh, mặt yếu của trẻ để
kịp thời uốn nắn, giáo dục hay phát huy những nét tính cách tốt.
Là phương tiện để giáo dục thể chất:
Khi chơi trẻ vui vẻ, phấn khởi -> tinh thần sảng khoái -> thể lực tốt hơn.
Các giác quan tinh nhạy hơn, hệ thần kinh, cơ bắp dẻo dai, linh hoạt hơn, cơ
thể phát triển cân đối, hài hòa. Trẻ vận động tích cực: sự trao đổi chất, tuần hoàn,
hô hấp được tăng cường.


(Chơi mang lại niềm vui cho trẻ giúp phát triển thể lực và tinh thần khỏe
mạnh, sảng khoái.Các trò chơi vận động phù hợp giúp đẩy mạnh trao đổi chất, tăng
cường hô hấp và tuần hoàn máu, giúp trẻ phát triển thể chất và hoàn thiện các vận
động cở bản nhưng cần có sự hướng dẫn của giáo viên)
- Là phương tiện để giáo dục lao động:
Hình thành một số kỹ năng lao động chuẩn bị cho hoạt động lao động sau này.
Hình thành ở trẻ lòng yêu thích lao động, yêu quý và kính trọng người lao

động -> yêu thích các nghề nghiệp trong xã hội, nảy sinh ước mơ làm một nghề
nào đó.
Rèn thói quen lao động tự phục vụ
(Trong quá trình chơi, dưới sự hướng dẫn của cô, trẻ sẽ hình thành được một
số kỹ năng sử dụng đồ dùng, đồ chơi và hình thành các phẩm chất đạo đức của
người lao động trong tương lai như tính mục đích, sánh tạo, kiên trì, yêu lao động.)
Là phương tiện để giáo dục thẩm mỹ:
Tiếp xúc với đồ chơi, con người, hiện tượng xã hội: tình cảm thẩm mỹ, thị
hiếu thẩm mỹ nảy sinh và phát triển.
Nhận ra những hành vi ứng xử, cách nói năng, cử chỉ đẹp của bạn, rung động
trước cái đẹp, yêu thích cái đẹp và có nhu cầu tạo ra cái đẹp.
(Thông qua các trò chơi, trẻ cảm nhận được cái đẹp ở màu sắc, hình dạng,
kích thước của đồ chơi, cảm nhận được cái đẹp trong hành vi, cách ứng xử, lời nói
khi tre thực hiện vai chơi. Ngoài ra, trẻ còn có cơ hội, điều kiện để tạo ta cái đẹp
thông qua trò chơi đóng vai theo chủ đề, xây dựng lắp ghép.)
 Chơi là hình thức tổ chức cuộc sống của trẻ mẫu giáo ở trường mầm
non
- Chơi có mặt trong tất cả các hoạt động khác như học tập, lao động, giao tiếp
và trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ mẫu giáo.
- Thông qua chơi và đặc biệt thông qua “xã hội trẻ em”, giáo viên thực hiện
nhiệm vụ giáo dục chung cho trẻ.
- Trong xã hội trẻ em trẻ:
+ Phải phục tùng và thực hiện các nguyên tắc, yêu cầu và nề nếp nhất định
của nhóm.


+ T thit lp cỏc mi quan h v biu hin tỡnh cm thõn ỏi, thụng cm ln
nhau.
+ Xut hin d lun chung: ỏnh giỏ, nhn xột v nhau.
+ Tr c t th sc mỡnh, luụn l mt ch th tớch cc v nng ng.

+ Tr khng nh v trớ ca mỡnh trong nhúm bn bố.
+ Tr cm thy thoỏi mỏi, t do v t tin vo bn thõn mỡnh hn.
Xó hi tr em l hỡnh thc u tiờn giỳp tr c sng v lm vic cựng
nhau
2.1.Cỏc loi trũ chi mu giỏo v cỏch hng dn tr chi.
+ Trò chơi xây dựng lắp ghép: Phản ánh ấn tợng, biểu tợng
và hiểu biết của trẻ về thế giới vật chất thông qua hình khối.
+ Trò chơi học tập
. Rèn luyện và phát triển các giác quan, năng lực trí tuệ của
trẻ
. Hứng thú của trẻ hớng vào đồ chơi . Trẻ thu nhận ấn tợng
bằng cách cảm thụ trực tiếp củ
+ Trò chơi vận động
. Là trò chơi sử dụng cơ bắp và toàn bộ cơ thể
. Trò chơi giúp trẻ hiểu biết về không gian và hình thành
tính tự tin
+ Trò chơi đóng vai: Là loại trò chơi Sáng tạo tiêu biểu nhất,
trẻ đóng vai ngời khác qua đó bắt chớc hành động, lời nói, phản
ánh ấn tợng, biểu tợng và hiểu biết của trẻ về các hoạt động và
các mối quan hệ xã hội
+ Trò chơi đóng kịch: Là dạng trò chơi phân vai theo tác
phẩm văn học. Kịch bản phỏng theo câu truyện và các vai là các
nhân vật trong truyện. Khi đóng kịch trẻ phản ánh tính cách và
thể hiện thái độ đối với nhân vật thông qua điệu bộ, giọng nói
và hành động Trũ chi úng vai theo ch
2.3. Phng phỏp hng dn cỏc Trũ chi


 Phương pháp hướng dẫn Đóng vai có chủ đề.
Bước 1: Thỏa thuận trước khi chơi.

Cô tổ chức cho trẻ bàn bạc, thảo luận dưới hình thức cả lớp. (Nội dung bàn
bạc gồm: chủ đề chơi, phân vai, cách thức tổ chức chơi,… bằng cách
+ Đưa ra câu hỏi thăm dò ý đồ của trẻ.
+ Cô gợi ý thiết lập mối quan hệ giữa các vai chơi, các tập thể chơi nhỏ để
phục vụ cho chủ đề chơi chung.
Cô tổ chức để trẻ tự tìm bạn chơi và tìm một góc chơi thích hợp.
Bước 2: Hướng dẫn chơi.
Nhiệm vụ của cô giáo là quan sát các trẻ (thực hiện trò chơi, giúp đỡ trẻ khi
cần thiết. Cô giáo không nên áp đặt khi can thiệp mà phải tôn trọng nhiều nhất với
ý kiến của trẻ.)
Cô chỉ bước vào hướng dẫn trẻ (ở những trò chơi mới lạ, khi trẻ chơi quen cô
rút lui để trẻ tự tổ chức, điều khiển trò chơi)
Cô giáo chuân bị đồ chơi (càng phong phú càng tốt để đáp ứng nhu cầu của
trẻ)
Cô theo dõi quá trình chơi (của trẻ để phát huy vai trò giáo dục của trò chơi,
cô nên luôn đổi vai chơi cho trẻ.).
Bước 3: Nhận xét sau khi chơi.
Cô gợi ý cho trẻ nhận xét lẫn nhau (dưới hình thức tập thể, hướng trẻ vào việc
sử dụng những tiêu chuẩn đạo đức của vai chơi để nhận xét)
Cô hướng dẫn trẻ nhận xét buổi chơi (tránh để trẻ chỉ trích nhau, làm mất
hứng thú chơi của trẻ, khuyến khích nhận xét những mặt tích cực)
Cô hướng dẫn trẻ cất đồ chơi đúng nơi
 Phương pháp hướng dẫn TC đóng kịch
• Mẫu giáo bé
- Chọn kịch bản ngắn gọn, dễ hiểu, rõ ràng.


- Chọn lời thoại có vần, có điệu, được nhắc đi, nhắc lại nhiều lần -> hào
hứng, mau thuộc.
- Hành động kịch phải đơn giản để trẻ dễ bắt chước.

Ví dụ: Nhổ củ cải.
• Mẫu giáo nhỡ
- Kịch bản rõ ràng, dễ hiểu, có thể dài hơn.
- Hành động kịch có thể phức tạp hơn, xuất hiện kịch tính để trẻ diễn theo
tính cách nhân vật.
Ví dụ: “Dê con nhanh trí”.
• Mẫu giáo lớn
- Kịch bản dài hơn, phức tạp hơn, kịch tính hơn.
- Nhân vật nhiều hơn, có thể chia thành hai tuyến, mỗi tuyến phải có nhân
vật chủ chốt đổi trẻ phối hợp hành động kịch với nhau mà không bỏ chủ đề của tác
phẩm văn học.
- Phát huy tính tự lực, tự chủ và sáng kiến của trẻ trong các khâu chuẩn bị, tổ
chức buổi diễn.
* Phương pháp hướng dẫn TC Xây dựng lắp ghép
- Bước 1: Thoả thuận trước khi chơi
+ Thoả thuận, bàn bạc với nhau về chủ đề chơi.
+ Đối với mẫu giáo bé việc thỏa thuận diễn ra với sự gợi ý, dẫn dắt của cô
một cách trực tiếp, cụ thể: cô cùng thỏa thuận, bàn bạc với trẻ.
+ Đối với mẫu giáo nhỡ và lớn cô tạo điều kiện cho trẻ tự lập, chủ động
trong việc thỏa thuận với nhau về chủ đề chơi.
- Bước 2: Quá trình chơi
Cô giữ vai trò điều khiển nhưng phụ thuộc vào độ tuổi và lần chơi.
+ Đối với mẫu giáo bé và nhất là những lần chơi đầu tiên: cô cần phải nêu rõ
chủ đề xây dựng, nội dung xây dựng, bố cục ra sao, dùng vật liệu nào và cho trẻ
làm quen với vật liệu xây dựng (vì lứa tuổi này trẻ còn bị trò chơi hấp dẫn).


.Sau khi trẻ làm quen với vật liệu, cô cùng chơi với trẻ như một người bạn
để hướng dẫn và giúp trẻ biết cách làm.
. Giai đoạn đầu chỉ hướng dẫn những chủ đề nhỏ, đơn giản, sau đó dần dần

mở rộng nội dung chơi cho trẻ.
. Trong quá trình hướng dẫn cô phải quan tâm đến kỹ năng, thao tác xây
dựng-lắp ghép của trẻ, đồng thời cô khuyến khích trẻ làm ra sản phẩm đẹp và giữ
gìn sản phẩm của mình. Tạo ra sự phối hợp giữa các trẻ để xây dựng những công
trình phức tạp hơn.
+ Đối với mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo lớn: cô cùng chơi với trẻ để củng cố
các kỹ năng chơi, trong khi chơi cùng trẻ cô không cần phải làm mẫu trừ những
chủ đề chơi mới và phức tạp.
. Gợi ý cho trẻ suy nghĩ về nơi chơi, lựa chọn nguyên liệu chơi, hình dung
bố cục công trình.
. Trong quá trình chơi cô gợi ý cho trẻ biết sắp xếp các nội dung xây dựng
theo một bố cục hợp lý về màu sắc, về không gian. Ngoài ra cần cung cấp những
kỹ năng mới.
. Cho trẻ chơi với sản phẩm vừa làm được -> duy trì hứng thú cho trẻ.
- Bước 3: Kết thúc chơi
Bước đầu cô động viên trẻ tạo ra sản phẩm đẹp về bố cục, về kỹ năng, về sự
phong phú của nội dung sản phẩm. Ngoài ra cô cần rèn cho trẻ thói quen thu dọn
đồ chơi cất vào nơi quy định.
 Phương pháp hướng dẫn TC học tập
- Bước 1: Hướng dẫn
+ Nêu tên trò chơi cho trẻ biết.
+ Phổ biến nội dung chơi, cách chơi, luật chơi.
+ Làm mẫu hành động chơi.
+ Cho một số trẻ chơi thử.
+ Cho cả lớp chơi.
- Bước 2: Theo dõi quá trình chơi


+ Theo dõi việc thực hiện hành động chơi và luật chơi, nếu sai cô sửa và cần
thiết thì làm mẫu lại.

+ Theo dõi khả năng tư duy ngôn ngữ của trẻ, có nên khuyến khích những
trẻ có sáng kiến, những trẻ chơi tốt và động viên những trẻ chơi chưa tốt.
+ Theo dõi mối quan hệ của trẻ trong khi chơi để giúp trẻ biết chơi cùng,
biết nhường nhịn, biết tuân thủ những quy định chung.
- Bước 3: Nhận xét, đánh giá sau khi chơi
Cô phải nhận xét quan hệ của trẻ trong nhóm chơi, lần sau cô gợi ý cho trẻ
tự nhận xét, đánh giá. Nhận xét luật chơi, nội dung chơi.
Đối với trò chơi cũ: cô chỉ nêu tên trò chơi sau đó nhắc lại luật chơi. Nên tổ
chức thi đua nếu trò chơi ở dạng thi đua.
 Phương pháp hướng dẫn TC vận động
- Bước 1: Hướng dẫn chơi
+ Cô tạo điều kiện cho trẻ chơi với đồ vật, đồ chơi sẽ sử dụng trong trò chơi
vận động.
+ Giới thiệu tên trò chơi, nội dung chơi, cách chơi và giải thích luật chơi.
+ Cô chơi mẫu và mời nhiều trẻ cùng làm (2 lần) đồng thời kết hợp giải
thích rõ ràng, ngắn gọn, chậm rãi.
+ Đối với trò chơi có vai cô phải phân vai, đối với mẫu giáo bé cô phải đóng
một vai chính.
+ Cho trẻ chơi thử.
+ Cho trẻ chơi thật.
- Bước 2: Theo dõi quá trình chơi
+ Cô điều khiển, theo dõi trẻ chơi để trẻ thực hiện hành động chơi đúng luật.
Cô phải có sự cổ vũ trong khi trẻ chơi.
+ Cô quan sát trẻ xem mối quan hệ của trẻ trong khi chơi như thế nào để có
những sự giải quyết hợp lý.
- Bước 3: Nhận xét sau khi chơi


+ Những trẻ chơi đúng luật, tích cực cô khen ngợi; những trẻ chơi không
đúng luật, nhút nhát cô phải động viên, nhắc nhở.

+ Đối với trò chơi cũ cô cũng làm theo 3 bước nhưng ở bước 1 cô chỉ cần
nói tên trò chơi, nhắc lại luật chơi và cho trẻ thực hiện, cô để trẻ tự phân vai. Nên
tổ chức cho trẻ thi đua với nhau (làm như vậy trẻ có nhiều thời gian để chơi hơn).
2.5. Tiến trình tổ chức hướng dẫn chơi
 Chuẩn bị cho trẻ chơi

LOẠI KẾ HOẠCH
CHỦ ĐỀ
(ĐỀ TÀI)
LỨA TUỔI

I. Mục đích, yêu cầu (mục tiêu/yêu cầu)
- Kiến thức
- Kỹ năng
- Thái độ
II. Nội dung chơi và hình thức chơi
Các trò chơi và các góc chơi dự kiến theo chủ đề.
III. Chuẩn bị (môi trường chơi phù hợp với chủ đề)
+ Không gian chơi: góc chơi/ khu vực chơi.
+ Sắp xếp đồ dùng, đồ chơi, vật liệu ở các góc chơi... để tạo cơ hội cho trẻ
chơi, trải nghiệm trong nhiều loại trò chơi.
+ Các phương tiện kỹ thuật nếu có.
+ Dự kiến thời gian đủ cho trẻ chơi.
IV. Dự kiến phương pháp, biện pháp sử dụng hướng dẫn chơi


Trực tiếp/gián tiếp.
V. Tiến hành hoạt động chơi
Hoạt động 1: Ổn định, giới thiệu
Dùng biện pháp gây hứng thú, ổn định, tổ chức buổi chơi.

Hoạt động 2: Đàm thoại về chủ đề chơi, nội dung chơi và phân công vai chơi,
chia nhóm chơi.
Trẻ mẫu giáo bé cô giúp trẻ phân vai, chia nhóm chơi và cô tham gia vào một
nhóm chơi nào đó (với tư cách là một vai chính).
Trong một buổi chơi, giáo viên phải xác định được trò chơi nào là chủ đề
chính của trò chơi, các trò chơi khác sẽ tiến hành định hướng vào chủ đề chính, và
khi giáo viên tham gia vào nhóm chơi có chủ đề chính.
Hoạt động 3: Quá trình chơi
Giáo viên hướng dẫn trẻ thực hiện hành động theo vai, tạo tình huống chơi để
trẻ chơi tích cực, có sự liên kết giữa các nhóm chơi (theo chủ đề).
Hoạt động 4: Nhận xét, tuyên dương
Kết thúc chơi, giáo viên tổ chức nhận xét buổi chơi. Hướng dẫn trẻ tự thu dọn
đồ chơi, chỗ chơi, chuyển sang hoạt động khác.
PHẦN 2: PP GIÁO DỤC ÂM NHẠC VÀ PP KPKH VỀ MTXQ
1/ Phương pháp Giáo dục âm nhạc:
Âm nhạc có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống con người, đặc biệt là
trẻ em. Các nghiên cứu khoa học cho thấy, âm nhạc có tác dụng giúp trẻ em thông
minh hơn. Đây là kết luận rút ra từ cuộc nghiên cứu do bộ giáo dục Mỹ thực hiện
trong 10 năm với khoảng 25000 trẻ em. Các môn nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc
đã giúp các em tiến bộ rõ rệt trong các môn toán, lịch sử, địa lý... Tạo điều kiện để
cho bé tiếp xúc với âm nhạc, học chơi đàn nghĩa là bạn đã cho con cơ hội để có
một nền học vấn toàn diện không chỉ về khoa học mà còn về nghệ thuật, về cái
đẹp. Tâm hồn trẻ thơ vì thế sẽ thêm phong phú, đằm thắm và sâu sắc.
1.1. Giáo dục âm nhạc - đó không phải chỉ là đào tạo nhạc công mà là
đào tạo con người.
Những hoạt động âm nhạc giúp trẻ vừa rèn luyện những kỹ năng ngôn ngữ,
vừa được học cách tương tác tích cực với những người khác trong xã hội.


“Âm nhạc giúp trung tâm xử lí ngôn ngữ của não phát triển tốt hơn. Những

trẻ được phát huy khả năng âm nhạc ở độ tuổi sớm nhất sẽ giúp cho việc học tốt
hơn những đứa trẻ sinh ra trong những gia đình không có cơ hội tiếp cận với
âm nhạc”_Giáo sư Michael Schulte- Markwort, thuộc Viện Tâm lý trẻ em ở bệnh
viện của đại học Hamburg, Đức.
1.2. Âm nhạc giúp trẻ phát triển nhân cách toàn diện
Thứ nhất là về nhận thức: Các nghiên cứu về thần kinh cho thấy, sự tiếp
xúc với âm nhạc có thể thiết lập được phản xạ có điều kiện ở trẻ, đồng thời thúc
đẩy trí thức của bán cầu trái, phát triển khả năng nhận thức và các kỹ năng lập luận
phức tạp.
Thứ hai là về trí tuệ: Kinh nghiệm tiếp cận với âm nhạc giúp trẻ sử dụng
ngôn ngữ để miêu tả, cách phát âm thông qua việc lắng nghe và hát. Hoạt động
nhịp điệu âm nhạc là phương tiện đặc biệt đẩy mạnh kết hợp khả năng cảm thụ âm
nhạc ở trẻ. Vì vậy nó cũng gắn thật chặt chẽ với sự phát triển trí tuệ ở trẻ, đòi hỏi
trẻ phải chú ý quan sát, nhạy bén. Khi tập trung nghe nhạc trẻ sẽ so sánh các âm
thanh, ghi nhớ đặc điểm, tính chất âm hình, tiết tấu âm nhạc. Những trải nghiệm
ban đầu thử đánh giá cái đẹp trong âm nhạc, trong các động tác hình thể, tư thế
khiến cho trí tuệ của trẻ hoạt động tích cực về tư duy, trí tưởng tượng và sự sáng
tạo.Hình thái phong phú ở các tiết học âm nhạc cũng như các hoạt động, sinh hoạt
trong đời sống hàng ngày của trẻ tạo điều kiện cho trẻ phát triển về ngôn ngữ.
Thứ ba là về thể chất: Việc vận động theo nhạc giúp trẻ phát triển cơ bắp và
các tố chất như độ bền, độ linh hoạt, dẻo dai, tính chính xác, sự nhanh nhạy, sự cân
bằng, sự khéo léo…. Theo các nhà tâm lý học, vấn đề mấu chốt của việc vận động
theo nhạc nằm ở mối tương quan giữa hoạt động thể chất và hoạt động trí não. Các
nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự luân phiên giữa vận động thể lực và vân động trí não
có tác động tích cực đến sức khỏe của con người, nhờ đó cường độ và chất lượng
của hoạt động trí não được nâng cao.
Thứ tư là về thẩm mỹ: Âm nhạc giúp hình thành ở trẻ em khái niệm về cái
đẹp, về không gian….
Thứ năm là về tình cảm - xã hội: Âm nhạc tạo cở hội cho trẻ được thể hiện
cảm xúc của mình và kích thích sự hiểu biết văn hóa của các vùng miền trên thế

giới.
1.3. Mục đích của giáo dục âm nhạc: là giáo dục tình cảm đạo đức, thẩm
mỹ cho trẻ. Giáo dục âm nhạc hình thành cho trẻ lòng yêu thiên nhiên, Tổ quốc,
tình yêu thương con người. Không chỉ vậy, giáo dục âm nhạc còn là phương tiện
nâng cao khả năng trí tuệ, phát triển thể chất, giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng,
củng cố kiến thức trẻ qua học tập, vui chơi. Quá trình trẻ tiếp xúc và hoạt động âm


nhạc như học hát, nghe hát, vận động theo nhạc, chơi trò chơi âm nhạc... sẽ hình
thành ở trẻ những yếu tố của một nhân cách phát triển toàn diện, hài hoà, là sự phát
triển về thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ và thể lực. Chính vì vậy, giáo dục âm nhạc cho
trẻ mầm non là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Bồi dưỡng nhạc cảm, khả năng
thưởng thức âm nhạc và thái độ sáng tạo thẩm mĩ trong khi cảm thụ âm nhạc. Nghe
âm nhạc trở thành nhu cầu cao cấp tác động mãnh liệt đến tâm hồn, tư tưởng, xúc
cảm của con người. Âm nhạc là tài sản vô giá của mọi thời đại, của từng dân tộc
trên thế giới, luôn luôn sáng tạo và phát triển mà mọi người chúng ta có quyền
hưởng thụ.
Chúng ta đã biết, ở mọi thời đại, giáo dục chiếm một vị trí rất quan trọng.
Cùng với một số ngành khác, giáo dục góp phần nâng cao nhận thức và đời sống
xã hội của con người. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn, giáo dục lại được tổ chức theo
những cách thức khác nhau. Do đặc điểm lứa tuổi, việc giáo dục cho trẻ mầm non
được triển khai theo phương châm “Chơi mà học”. Và giáo dục âm nhạc cho lứa
tuổi này góp phần không nhỏ vào việc giáo dục toàn diện cho trẻ.
Thực tế cho thấy, trẻ em ở tuổi mầm non rất nhạy cảm với âm nhạc. Trẻ thích
nghe nhạc và hứng thú tham gia vào các hoạt động âm nhạc. Mục đích của giáo
dục âm nhạc là giáo dục tình cảm đạo đức, thẩm mỹ cho trẻ. Giáo dục âm nhạc
hình thành cho trẻ lòng yêu thiên nhiên, Tổ quốc, tình yêu thương con người; hình
thành và phát triển ở trẻ những thói quen tốt trong sinh hoạt tập thể như: Tính tổ
chức kỷ luật, tự chủ, mạnh dạn trước mọi người. Giáo dục âm nhạc còn là phương
tiện nâng cao khả năng trí tuệ, phát triển thể chất, giúp trẻ phát triển trí tưởng

tượng, củng cố kiến thức trẻ qua học tập, vui chơi. Quá trình trẻ tiếp xúc và hoạt
động âm nhạc như học hát, nghe hát, vận động theo nhạc, chơi trò chơi âm nhạc...
sẽ hình thành ở trẻ những yếu tố của một nhân cách phát triển toàn diện, hài hoà, là
sự phát triển về thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ và thể lực. Chính vì vậy, giáo dục âm
nhạc cho trẻ mầm non là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng.
Âm nhạc ảnh hưởng đến quá trình hoàn thiện cơ thể trẻ. Trước hết, âm nhạc
được coi là phương tiện hữu hiệu để phát triển tai nghe cho trẻ. Tính chất đa dạng
của âm nhạc gợi ra những phản ứng gắn với sự thay đổi nhịp tim mạch, sự trao đổi
máu. Vì vậy, giáo dục âm nhạc đối với trẻ mầm non là vô cùng cần thiết, đòi hỏi
người giáo viên phải có trình độ chuyên môn, yêu nghề. Trong quá trình dạy và
học cần cho trẻ làm quen với âm nhạc trong tất cả các hoạt động.
1.4. Đặc điểm cảm thụ âm nhạc, múa của trẻ MN: Trẻ thơ rất nhạy cảm với
âm nhạc. Đối với trẻ, âm nhạc là một thế giới kì diệu đầy cảm xúc vui sướng.
Thông qua các hoạt động âm nhạc, trẻ phát triển nhạc cảm, mở rộng nhận thức thế


giới xung quanh, phát triển các kĩ năng hoạt động. Trẻ ở lứa tuổi mẫu giáo biết cảm
thụ và thích thú với những hoạt động mang tính nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc.
Sự phản ứng với âm thanh được thể hiện rõ nhất là khi trẻ ra đời được 7 - 8
tuần tuổi. Khi trẻ được 2 tháng tuổi, trẻ đã biết lắng nghe âm thanh. Đến tháng thứ
5, trẻ có thể phân biệt và xác định được hướng phát ra âm thanh. Như vậy ta thấy
rằng, sự nhạy cảm về âm thanh của trẻ phát triển khá nhanh, khả năng tiếp thu âm
nhạc của trẻ mẫu giáo diễn ra phổ biến như sau:
Trẻ 3 tuổi thích nghe hát, sự hứng thú đó được thể hiện rõ qua nét mặt như
vui sướng, chăm chú lắng nghe. Những cảm xúc này diễn ra khá mạnh mẽ nhưng
cũng chóng qua đi, ít để lại ấn tượng. Trẻ mẫu giáo bé rất thích nghe những bài hát
dân ca, có giai điệu trữ tình êm ái hoặc những làn điệu hát ru. Vì vậy, trẻ ở độ tuổi
này có biểu hiện nhớ và nhận biết bài hát mà mình yêu thích.
Trẻ mẫu giáo lớn nếu được nghe có quá trình với các nội dung phù hợp có
thể hình thành thói quen tập trung lắng nghe, theo dõi sự phát triển của âm nhạc,

hiểu được tính chất chung và một số đặc điểm của bài hát được nghe, so sánh một
số đặc điểm của bài được nghe với các hiện tượng gần gũi trong cuộc sống. Đa số
các trẻ mẫu giáo lớn thích nghe những tác phẩm có giai điệu súc tích dễ nhớ, tiết
tấu nhịp nhàng, nhịp độ linh hoạt.
Trẻ mẫu giáo lớn đã hình thành thói quen nghe nhạc và đã biết lựa chọn bài
hát mà mình yêu thích. Nếu như ở mẫu giáo bé, sự tập trung chú ý chỉ là tạm thời
không chủ định thì đến mẫu giáo lớn, khả năng chú ý của trẻ đã lâu hơn, trẻ cảm
nhận trạng thái chung của âm nhạc, phân biệt được âm thanh cao - thấp, giai điệu
đi lên - đi xuống, độ to - nhỏ của âm nhạc, thậm chí cả sự thay đổi cường độ âm
nhạc mạnh dần hay nhẹ dần, phân biệt âm sắc của một số nhạc cụ (tiếng kèn, tiếng
trống, tiếng sáo…), và âm sắc giọng hát. Trẻ hiểu được nội dung của tác phẩm âm
nhạc thông qua lời ca, nhận xét được giọng hát đúng, giọng hát sai của bạn mình.
Trẻ cảm thụ âm nhạc có định hướng hơn, hứng thú tham gia các hoạt động âm nhạc
và biết sáng tạo.
Âm thanh trẻ phát ra yếu do các dây thanh đới còn mảnh và ngắn, hơi thở
ngắn, nông. Giọng trẻ cao và yếu hơn người lớn, đồng thời sự phối hợp giữa tai
nghe và giọng hát chưa thật chủ động (đôi khi còn hát sai, hát ngọng), khoang ngực
chứa hơi chưa phát triển do đó không hát được những câu hát dài. Trong quá trình
học hát sẽ tạo sự phối hợp giữa tai nghe và giọng: Tai nghe âm thanh – giọng bắt
chước. Bắt chước có chuẩn xác hay không là do tai nghe kiểm tra. Sự phối hợp của
người lớn giúp trẻ tái hiện chính xác những gì nghe được trong phạm vi khả năng
của các cháu. Tuổi mẫu giáo lớn học hát theo lối “truyền khẩu” (nghe rồi bắt
chước) vì các cháu chưa biết chữ. Thông qua các bài hát mà trẻ hiểu về ý nghĩa của
lời ca, ngôn từ. Tuy nhiên, trẻ hát một cách tình cảm mà không phải gắng sức, biết
điều chỉnh tốc độ từ vừa phải – hơi nhanh hoặc từ vừa phải – chậm lại. Âm thanh
mềm mại, nhẹ nhàng, biết lấy hơi giữa các câu nhạc, hát rõ lời, mạch lạc. Trẻ biết


bắt đầu và kết thúc cùng nhau khi hát tập thể, hát có nhạc đệm hoặc không có nhạc
đệm, hát đơn ca, nhóm… Tầm cữ giọng ổn định hơn, thường hát trong khoảng từ

nốt Đô của quãng tám thứ nhất đến nốt Đô của quãng tám thứ 2 cùng với sự phối
hợp giữa nghe và hát của trẻ cũng tốt hơn.
Hiếu động là nét đặc trưng của trẻ, hầu như không lúc nào trẻ ngồi yên. Các
cháu thích chạy nhảy, nô đùa, hoặc tìm tòi khám phá mọi thứ xung quanh. Giữa âm
nhạc và vận động có mối liên hệ trực tiếp xuất phát từ cơ sở sinh lý, đó là cơ quan
thính giác và cơ quan cảm giác về chuyển động và thăng bằng. Trẻ mẫu giáo lớn có
thể vận động mạnh mẽ – êm dịu ; nhanh – chậm theo tính chất âm nhạc
Nghiên cứu sinh lý trẻ cho thấy, ở độ tuổi mẫu giáo lớn các cơ lớn như cơ
đùi, cơ vai, cơ cánh tay phát triển trước, còn các cơ lòng bàn tay, bàn chân phát
triển chậm hơn. Bước đầu, các vận động bằng tay thuận hơn chân và sự khéo léo
trong các động tác vận động âm nhạc của trẻ mẫu giáo được tăng dần theo độ tuổi
cụ thể là: Đa số trẻ mẫu giáo bé chưa gõ được các dạng tiết tấu có nhịp độ hơi
nhanh, còn trẻ mẫu giáo lớn có khả năng vừa hát vừa gõ theo nhịp, phách, gõ âm
hình tiết tấu kết hợp nốt đen, lặng đen với móc đơn. Ngoài khả năng gõ đệm, trẻ
mẫu giáo lớn còn thực hiện được những động tác minh họa theo lời ca hoặc múa.
Khi nhảy múa, trẻ đã thể hiện được sự mềm dẻo, nhanh nhẹn, biết di chuyển trong
đội hình hàng ngang, hàng dọc, vòng tròn và định hướng trong không gian. Trẻ
biểu diễn múa hát không chỉ đúng giai điệu, nhịp điệu mà còn thể hiện diễn cảm và
đã có yếu tố sáng tạo. Nhịp 2/4 khá thuận với lứa tuổi này. Trong quá trình dạy trẻ
học đàn, đây là những đặc điểm để chúng tôi xây dựng các bài vận động giúp trẻ
phát triển cảm giác nhịp điệu (gõ, vỗ tay theo nhịp, phách).
Một đặc trưng không thể thiếu trong quá trình học tập của tuổi mẫu giáo là
học thông qua chơi (học mà chơi – chơi mà học). Từ xa xưa, mỗi dân tộc đều đã
nghĩ ra những trò chơi học tập để dạy dỗ con trẻ, giúp các cháu tiếp thu nền văn hóa
dân tộc và những kiến thức của nhân loại. Trẻ con cùng nhau hát đồng dao, vừa hát
vừa chơi như: Trò Ú tim, Nu na nu nống, Kéo cưa lừa xẻ, Trồng nụ trồng hoa,
Dung dăng dung dẻ… rất vui vẻ. Có thể thấy, ham chơi là một đặc tính rất phổ biến
của trẻ, bởi vì vui chơi luôn tạo cho trẻ một không khí vui hòa nhập, không gò bó.
Các trò chơi đều được quy định bằng luật chơi và kết quả cuối cùng được phân
định bởi đúng - sai hoặc thắng - thua. Khi tham gia trò chơi ai cũng muốn cố gắng

hết sức mình để giành kết quả. Do tính chất sôi động đó nên từ xưa đến nay, các trò
chơi luôn là đối tượng thu hút sự tham gia đông đảo của mọi người, đặc biệt trẻ
em.
1.5.Hình thức tổ chức hoạt động âm nhạc trong trường MN.
 Hình thức tổ chức các hoạt động âm nhạc cho trẻ 24 – 36 tháng:
* Hoạt động âm nhạc trong giờ chơi tập có chủ định:
- Nội dung trọng tâm: Dạy hát
Nội dung kết hợp: Trò chơi âm nhạc hoặc vận động theo nhạc.


- Nội dung trọng tâm: Nghe nhạc, nghe hát.
Nội dung kết hợp: Vận dộng theo nhạc hoặc trò chơi âm nhạc.
- Nội dung trọng tâm: Dạy vận động theo nhạc.
Nội dung kết hợp: Nghe nhạc, nghe hát.
* Biểu diễn văn nghệ: Sau mỗi chủ đề cô có thể tổ chức cho trẻ dưới dạng biểu
diễn văn nghệ. Đó là những bài hát, trò chơi, vận động theo nhạc, bài thơ, câu đố
có lien quan đến chủ đề. Cô cùng tham gia biểu diễn với trẻ.
 Hình thức tổ chức các hoạt động âm nhạc cho trẻ mẫu giáo:
* Hoạt động âm nhạc tiến hành trên hoạt động học:
- Đối với trẻ 3 – 4 tuổi; 4 – 5 tuổi: Có các hoạt động sau
+ Hoạt động: Hát
Nội dung kết hợp: Vận động theo nhạc hoặc trò chơi âm nhạc.
+ Hoạt động: Vận động theo nhạc.
Nội dung kết hợp: Nghe nhạc, nghe hát.
+ Hoạt động: Nghe nhạc, nghe hát.
Nội dung kết hợp: Vận động theo nhạc hoặc trò chơi âm nhạc.
* Biểu diễn văn nghệ: Bao gồm các bài hát, điệu múa, trò chơi, bài thơ, câu
đố, câu chuyện có trong chủ đề. Được thể hiện dưới hình thức biểu diễn văn nghệ,
khuyến khích trẻ thực hiện lại những bài hát, điệu múa có sự tham gia của cô. Cô
cần căn cứ vào khả năng của trẻ để tổ chức 1 cách tự nhiên, vui vẻ, phát huy tính

tích cực, sáng tạo của trẻ. Nội dung tích hợp nhẹ nhàng, không áp đặt nhằm giúp
trẻ có ấn tượng sâu sắc hơn về tác phẩm âm nhạc được học.
- Đối với trẻ 5 – 6 tuổi:
+ Hoạt động: Hát
Nội dung kết hợp: Vận động theo nhạc hoặc trò chơi âm nhạc; Nghe nhạc,
nghe hát
+ Hoạt động: Vận động theo nhạc.
Nội dung kết hợp: Nghe nhạc, nghe hát; Trò chơi âm nhạc.
+ Hoạt động: Nghe nhạc, nghe hát.
Nội dung kết hợp: Vận động theo nhạc; Trò chơi âm nhạc.
+ Biểu diễn văn nghệ: Bao gồm các bài hát, điệu múa, trò chơi, bài thơ, câu đố,
câu chuyện có trong chủ đề. Được thể hiện dưới hình thức biểu diễn văn nghệ,
khuyến khích trẻ thực hiện lại những bài hát, điệu múa có sự tham gia của cô. Cô
cần căn cứ vào khả năng của trẻ để tổ chức 1 cách tự nhiên, vui vẻ, phát huy tính
tích cực, sáng tạo của trẻ. Nội dung tích hợp nhẹ nhàng, không áp đặt nhằm giúp
trẻ có ấn tượng sâu sắc hơn về tác phẩm âm nhạc được học.
2/ PP KPKH về MTXQ:
I.2. Ý nghĩa của việc cho trẻ KPKH về MTXQ.
1. Góp phần phát triển trí tuệ cho trẻ: Cho trẻ KPKH và MTXQ góp phần hình
thành ở trẻ những biểu tượng đúng đắn về các sv ht; cung cấp cho trẻ những tri


thức đơn giản có hệ thống về thế giới xung quanh giúp trẻ hiểu biết sơ đẳng về đặc
điểm, tính chất, mối liên hệ, sự phát triển của sv ht xung quanh. Góp phần phát
triển và hoàn thiện các quá trình tâm lý mà đặc biệt là cảm giác, tri giác, trí nhớ,
chú ý, tư duy, ngôn ngữ …
2. Phát triển tình cảm đạo đức thể lực và lao động ở trẻ: Khơi gợi ở trẻ tình
cảm nhân ái, mong muốn quan tâm đến những đối tượng cần giúp đỡ, yếu ớt hơn
mình, bảo vệ và tạo điều kiện cho việc hình thành tính tự tin vào bản thân. Giúp trẻ
có tâm hồn trong sáng, hồn nhiên, cởi mở; biết kính trọng, thương yêu những

người thân, người lao động, với lãnh tụ, người có công với đất nước; kính yêu tự
hào, tự tôn về quê hương đất nước, yêu lao động, trân trọng và giữ gìn sản phẩm
lao động yêu quí bảo vệ thiên nhiên, những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân
tộc. Bước đầu dạy trẻ có lối sống văn minh trong giao tiếp và trong sinh hoạt. Các
hoạt động đi dạo, tham quan và tiếp xúc với môi trường xung quanh còn góp phần
rèn luyện sức khỏe, tạo sức đề kháng cho cơ thể trước những thay đổi của thiên
nhiên và cuộc sống.
3. Giáo dục cho trẻ tính thẩm mỹ: Khi cho trẻ KPKH và MTXQ người lớn
hướng cho trẻ biết chú ý đến cái đẹp và trong quá trình đó trẻ cảm nhận được cái
đẹp, có tình yêu đối với cái đẹp. Từ đó trẻ biết tôn trọng, giữ gìn bảo vệ cái đẹp, có
mong muốn góp phần tạo ra cái đẹp và đưa chúng vào cuộc sống. Giúp trẻ phát
hiện sự cân đối, hài hòa cơ sở của cái đẹp. Cảm nhận được màu sắc, hình dạng,
mùi vị, âm thanh, …của cỏ cây hoa lá, của các sản phẩm mà con người làm ra, biết
rung động trước cái đẹp, trước sự phong phú của thiên nhiên và cuộc sống.
I.3. Mục đích, nhiệm vụ cho trẻ KPKH về MTXQ.
 Mục đích: Phát triển các năng lực trí tuệ để trẻ có thể phát hiện vấn đề, tích
lũy vốn hiểu biết và giải quyết các tình huống đơn giản xảy ra trong cuộc sống.
Cung cấp và củng cố hệ thống kiến thức đơn giản, chính xác, cần thiết về các sự
vật, hiện tượng xung quanh. Những dấu hiệu đặc trưng đòi hỏi mức độ chính xác
hơn, sâu sắc hơn và quan trọng nhất là mở rộng tính đa dạng, phong phú của thiên
nhiên xung quanh. Giáo dục trẻ có ý thức, thái độ tích cực, đúng đắn đối với
MTXQ theo tinh thần của lòng nhân ái, tình yêu đối với cái đẹp và biết sáng tạo ra
cái đẹp.
 Nhiệm vụ:
- Phát triển và rèn luyện khả năng nhận thức, năng lực khám phá khoa học về
MTXQ cho trẻ mầm non.Củng cố những biểu tượng cũ, hình thành những biểu


tượng mới đồng thời chia sẻ thông tin với mọi người bằng ngôn ngữ hoặc dùng
hình ảnh, sơ đồ, kí hiệu để người khác hiểu ý của mình. Hợp tác, thỏa thuận và

hoạt động nhóm. Kích thích, phát triển ở trẻ tính tìm tòi, lòng ham hiểu biết, rèn
luyện các thao tác tư duy và các phẩm chất trí tuệ (tự tin, lạc quan, …). Hoàn thiện
các quá trình tâm lí nhận thức và phát triển khả năng chú ý, ghi nhớ có chủ định.
- Mở rộng, nâng cao kiến thức của trẻ về thế giới xung quanh. Cho trẻ làm
quen với 1 số thuật ngữ liên quan đến khái niệm khoa học đơn giản. Hình thành sự
hiểu biết về đặc điểm, thuộc tính của các sự vật, hiện tượng xung quanh; mối liện
hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau; sự thay đổi và phát triển của các sự vật, hiện tượng.
Mở rộng, nâng cao hiểu biết của trẻ về cách thức khám phá khoa học đơn giản.
- Giáo dục thái độ ứng xử đúng đắn: Khơi gợi hứng thú, sẵn sàng khám phá
các sự vật, hiện tượng quen thuộc và không quen thuộc. Giáo dục thái độ ứng xử
đúng đắn đối với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Ý thức tự giác giữ gìn,
bảo vệ thiên nhiên và thế giới đồ vật. Rèn luyện thói quen vệ sinh, nếp sống văn
hóa, hành vi văn minh.
I.4. Các phương pháp cho trẻ KPKH về MTXQ.
 Nhóm phương pháp thực hành, trải nghiệm:
- Phương pháp thực hành thao tác với đồ vật, đồ chơi: Trẻ sử dụng và phối
hợp các giác quan, làm theo sự chỉ dẫn của giáo viên, hành động đối với các
đồ vật, đồ chơi (cầm, nắm, sờ, đóng mở, xếp chồng, xếp cạnh nhau, xâu vào nhau,
…) để phát triển giác quan và rèn luyện thao tác tư duy.
- Phương pháp dùng trò chơi: sử dụng các loại trò chơi với các yếu tố chơi
phù hợp để kích thích trẻ tự nguyện, hứng thú hoạt động tích cực giải quyết nhiệm
vụ nhận thức, nhiệm vụ giáo dục đặt ra.
- Phương pháp nêu tình huống có vấn đề: Đưa ra các tình huống cụ thể nhằm
kích thích trẻ tìm tòi, suy nghĩ dựa trên vốn kinh nghiệm để giải quyết vấn đề đặt
ra.
- Phương pháp luyện tập: Trẻ thực hành lặp đi lặp lại các động tác, lời nói, cử
chỉ, điệu bộ theo yêu cầu của giáo viên nhằm củng cố kiến thức và kỹ năng đã
được thu nhận.
 Nhóm phương pháp trực quan – minh họa (quan sát, làm mẫu, minh hoạ)
Phương pháp này cho trẻ quan sát, tiếp xúc, giao tiếp với các đối tượng,

phương tiện (vật thật, đồ chơi, tranh ảnh); hành động mẫu; hình ảnh tự nhiên, mô
hình, sơ đồ và phương tiện nghe nhìn (phim vô tuyến, đài, máy ghi âm, điện thoại,
vi tính) thông qua sử dụng các giác quan kết hợp với lời nói nhằm tăng cường vốn
hiểu biết, phát triển tư duy và ngôn ngữ của trẻ.
 Nhóm phương pháp dùng lời nói:
- Sử dụng các phương tiện ngôn ngữ (đàm thoại, trò chuyện, kể chuyện,
giải thích) nhằm truyền đạt và giúp trẻ thu nhận thông tin, kích thích trẻ suy nghĩ,


chia sẻ ý tưởng, bộc lộ những cảm xúc, gợi nhớ những hình ảnh và sự kiện bằng
lời nói. Lời nói, câu hỏi của giáo viên cần ngắn gọn, cụthể, gần với kinh nghiệm
sống của trẻ.
- Nhóm phương pháp giáo dục bằng tình cảm và khích lệ
- Phương pháp dùng cử chỉ điệu bộ kết hợp với lời nói thích hợp để khuyến
khích và ủng hộ trẻ hoạt động nhằm khơi gợi niềm vui, tạo niềm tin, cổ vũ sự cố
gắng của trẻ trong quá trình hoạt động.
 Nhóm phương pháp nêu gương – đánh giá:
- Nêu gương: Sử dụng các hình thức khen, chê phù hợp, đúng lúc, đúng chỗ.
- Biểu dương trẻ là chính, nhưng không lạm dụng.
- Đánh giá: Thể hiện thái độ đồng tình hoặc chưa đồng tình của người lớn, của
bạn bè trước việc làm, hành vi, cử chỉ của trẻ. Từ đó đưa ra nhận xét, tự nhận xét
trong từng tình huống hoặc hoàn cảnh cụ thể. Không sử dụng các hình phạt làm
ảnh hưởng đến sự phát triển tâm – sinh lý của trẻ.
I.5. Các nguyên tắc hướng dẫn trẻ KPKH về MTXQ.
 Đảm bảo mục đích giáo dục và giáo dưỡng: Tổ chức cho trẻ KPKH về
MTXQ thông qua hình thức, nội dung, phương pháp là phải xác định rõ việc giải
quyết mục tiêu chung và được vận dụng trong thực tế GDMN. Nội dung cho trẻ
KPKH về MTXQ phải có tác dụng giáo dục tức là phải đảm bảo yêu cầu thực hiện
mục tiêu giáo dục mầm non “là hình thành những cơ sở đầu tiên của nhân cách con
người mới, xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Kiến thức lựa chọn để dạy trẻ phải theo

một trình tự từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, từ gần đến xa, từ tổng thể đến
chi tiết …Cần chú ý phát triển ở trẻ kỹ năng nhận thức, kỹ năng xã hội, đồng thời
giáo dục thái độ ứng xử và thái độ khoa học.
 Đảm bảo tính thực tiễn: Thực tiễn là thước đo của chân lý cho nên mỗi
người chúng ta đều rất cần tính thực tiễn này nhưng nếu thực tế quá thì cũng không
tốt  dẫn đến hẹp hòi, chỉ nhìn thấy cá nhân mình. Nếu không thực tiễn thì chúng
ta lại ảo tưởng. Quá trình cho trẻ KPKH về MTXQ phải tôn trọng thực tiễn đó là
hoàn cảnh của địa phương của nhà trường, lớp học. Cần phải lựa chọn đối tượng,
nội dung, phương pháp và phương tiện sao cho phù hợp với thực tiễn của mình và
đều quan trọng là phù hợp, phải vừa sức với trẻ. Nội dung khám phá nên có từ
phía giáo viên và cả những vấn đề mà trẻ quan tâm, đề xuất.
- Đảm bảo tính tích cực chủ động sáng tạo: Phải có sự tham gia tích cực, chủ
động của trẻ, trẻ mới tích lũy được kinh nghiệm. Hình thành và phát triển được
năng lực nhận thức, năng lực khám phá. Trẻ phải là người thực hiện các hành động
khám phá, trải nghiệm: sờ, nắn, ngửi, nếm, nghe. Trẻ cũng phải biết phối hợp hoạt
động trong nhóm bạn bè và làm việc độc lập.
 Đảm bảo an toàn cho trẻ: Một mặt chúng ta cần phát huy tối đa tính tích cực
hoạt động của trẻ, mặt khác lại cần phải đảm bảo được sự an toàn cho trẻ 


TGXQ rất đa dạng cả về hình thức, nội dung, trẻ tiếp xúc rất nhiều đối tượng khác
nhau. Cần chú ý mức độ, thể trạng, thời gian của từng trẻ để tổ chức cho phù hợp.
Các phương tiện, nguyên vật liệu cần phải đảm bảo vệ sinh, an toàn, chu đáo.
Không chỉ an toàn về mặt thể xác mà cả an toàn về mặt tinh thần. Tránh để trẻ bị
xúc động mạnh.
 Đảm bảo tính khoa học và tính phát triển: Đây là nguyên tắc rất quan trọng.
- Tính khoa học: thể hiện ở sự lựa chọn các đối tượng để dạy trẻ mặc dù tri
thức mà trẻ lĩnh hội đơn giản, đòi hỏi phải chính xác và phù hợp với nhận thức của
trẻ. Khi vận dụng phải linh hoạt, mềm dẽo. Phản ánh được qui luật khách quan ở
bên ngoài, cung cấp kiến thức về tự nhiên – xã hội…

- Tính phát triển: Các svht ở xung quanh ta luôn biến đổi. Phát triển nhanh về
số lượng, đối tượng làm quen cũng như về nội dung nhận thức.
 Đảm bảo tính trực quan: Dạy trẻ phải có tính trực quan vì đó là đặc điểm
nhận thức của trẻ. Cần phải lựa chọn và sử dụng nhiều hình thức trực quan khác
nhau (xem tranh, mô hình, phim ảnh …) Phải phát huy hết tác dụng của các loại
giáo cụ trực quan. Đảm bảo yêu cầu thích hợp đối với từng lứa tuổi và phát huy
tính tích cực của trẻ. Trẻ càng nhỏ cô càng phải nói nhiều, trẻ càng lớn cô càng hạn
chế nói.
I.6. Hình thức cho trẻ KPKH về MTXQ
Khám phá môi trường xung quanh (MTXQ) là một nội dung mới trong
chương trình giáo dục mầm non (ban hành tháng 7/2009) thay cho nội dung “Làm
quen với Môi trường xung quanh” trong chương trình trước đó.
Khám phá MTXQ là một quá trình tiếp xúc, tìm tòi tích cực từ phía trẻ nhằm
phát hiện những cái mới, những cái ẩn dấu trong các sự vật, hiện tượng xung
quanh. So với “Làm quen” thì “Khám phá” bao gồm các hoạt động đa dạng, tích
cực hơn; nội dung khám phá cũng phong phú sâu sắc hơn.
Mục tiêu của khám phá MTXQ là: Giúp trẻ có những hiểu biết đơn giản,
chính xác, cần thiết về các sự vật, hiện tượng xung quanh; phát triển các kỹ năng
nhận thức, kỹ năng xã hội và hình thành cho trẻ thái độ sống tích cực trong môi
trường, trong đó mục tiêu phát triển kỹ năng là mục tiêu cơ bản. Để đạt được các
mục tiêu nêu trên rất cần sự hướng dẫn, giúp đỡ phù hợp từ phía giáo viên.
Quy trình khám phá mỗi nội dung thường chỉ bắt đầu bằng câu hỏi của cô
và câu trả lời của trẻ, hoặc chính cô lại là người nói, trẻ chỉ nghe một cách thụ
động. Để khắc phục những hạn chế nêu trên, mỗi nội dung của MTXQ được tiến
hành khám phá như thế nào?
Bước 1: Giáo viên đặt câu hỏi về nội dung mà trẻ cần khám phá
Đây là cách giáo viên giao nhiệm vụ, định hướng khám phá giúp trẻ hiểu được cái
gì trẻ cần khám phá, cần phải biết. Ví dụ: Quả dứa có những gì? (hỏi về cấu tạo);



×