Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận cao học môn kinh tế quốc tế lý luận và thực tiễn khi việt nam hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.81 KB, 27 trang )

Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

LỜI NÓI ĐẦU

Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội
của lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế
thị trường cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập
diễn ra dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo
tiến trình từ thấp đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới
hiện đại, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc
gia. Ngày nay, hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc
gia để phát triển.
Những năm gần đây, hội nhập quốc tế đã trở thành ngôn từ khá thân
quen với hầu hết người Việt Nam. Trong công sở, nhà trường, ở bất cứ nơi
đâu từ thành thị đến nông thôn, người ta đều sử dụng nó một cách rất thông
dụng. Tuy vậy, nhưng không phải ai cũng thực sự hiểu khái niệm này; đặc
biệt, hiểu nó một cách đầy đủ và ngọn nghành thì chẳng có mấy người. Giới
học thuật và những nhà hoạch định chính sách cũng còn hiểu rất khác nhau
và vẫn tiếp tục tranh luận về nhiều khía cạnh của hội nhập quốc tế. Trong bối
cảnh nước ta đang “tích cực, chủ động hội nhập quốc tế” theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ XI (năm 2011) vừa qua, việc xác định đúng ý
nghĩa, bản chất, nội hàm, xu hướng vận động cũng như hệ lụy của hội nhập
quốc tế là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chiến
lược, chính sách và các biện pháp cụ thể của nước ta trong quá trình hội
nhập.
Qua tìm hiểu với kiến thức còn hạn chế bản thân chọn chuyên đề tiểu
luận: “Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế” nhằm
phân tích về lý luận và thực tiễn của khái niệm hội nhập quốc tế, tập trung
vào vấn đề định nghĩa và xác định bản chất, nội hàm, các hình thức và tính
1



Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

chất của hội nhập quốc tế; phân tích tính tất yếu và hệ lụy của hội nhập quốc
tế như là một xu thế lớn của thế giới hiện đại. Trong quá trình thực hiện
chuyên đề không thể tránh khỏi thiếu sót kính mong các thầy giáo, cô giáo
và các học viên trong lớp đóng góp ý kiến để các bài tiểu luận sau ngày càng
hoàn thiện hơn./.

2


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ

1. Khái niệm hội nhập quốc tế
Trên thực tế hiện nay, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về
khái niệm “hội nhập quốc tế”. Theo đúc kết các nhà nghiên cứu thì có ba
cách tiếp cận chủ yếu sau:
Một là, thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang, cho rằng hội
nhập (integration) là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá trình. Sản
phẩm đó là sự hình thành một Nhà nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ hay
Thụy Sỹ. Để đánh giá sự liên kết, những người theo trường phái này quan
tâm chủ yếu tới các khía cạnh luật định và thể chế.
Hai là, với Karl W. Deutsch là trụ cột, xem hội nhập trước hết là sự
liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương
mại, đầu tư, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó hình thành dần
các cộng đồng an ninh. Có hai loại cộng đồng an ninh: loại cộng đồng an

ninh hợp nhất như kiểu Hoa Kỳ, và loại cộng đồng an ninh đa nguyên như
kiểu Tây Âu. Như vậy, cách tiếp cận thứ hai này xem xét hội nhập vừa là
một quá trình vừa là một sản phẩm cuối cùng.
Ba là, xem xét hội nhập dưới góc độ là hiện tượng/hành vi các nước
mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ sở phân công
lao động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục tiêu theo
đuổi.
Cách tiếp cận thứ nhất có nhiều hạn chế vì nó không đặt hiện tượng
hội nhập trong quá trình phát triển mà chỉ nhìn nhận hiện tượng này (chủ yếu
về khía cạnh luật định và thể chế) trong trạng thái tĩnh cuối cùng gắn với mô
hình Nhà nước liên bang. Cách tiếp cận này khó áp dụng để phân tích và giải
3


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

thích thực tiễn của quá trình hội nhập diễn ra với nhiều hình thức và mức độ
khác nhau như hiện nay trên thế giới. Không phải bất cứ sự hội nhập nào
cũng dẫn đến một Nhà nước liên bang. Cách tiếp cận thứ hai có điểm mạnh
là nhìn nhận hiện tượng hội nhập vừa trong quá trình tiến triển vừa trong
trạng thái tĩnh cuối cùng, đồng thời đưa ra được những nội dung khá cụ thể
và sát thực tiễn của quá trình hội nhập, góp phần phân tích và giải thích
nhiều vấn đề của hiện tượng này. Cách tiếp cận thứ ba tập trung vào hành vi
của hiện tượng, không quan tâm xem xét góc độ thể chế cũng như kết quả
cuối cùng của hội nhập, do vậy, thiếu tính toàn diện và hạn chế trong khả
năng giải thích bản chất của quá trình hội nhập.
Ở Việt Nam, thuật ngữ ‘hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử
dụng từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập
ASEAN, tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế
kinh tế quốc tế khác. Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm

chí nói ngắn gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với
hàm nghĩa rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế. Có một thực tiễn đáng lưu ý là
trước khi thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” được đưa vào sử dụng, trong
tiếng Việt đã xuất hiện các cụm từ “liên kết kinh tế quốc tế” và “nhất thể hóa
kinh tế quốc tế”. Sự khác biệt giữa chúng chủ yếu là cách dùng với hàm ý
chính trị và lịch sử khác nhau. Thuật ngữ “nhất thể hóa kinh tế quốc tế” được
sử dụng chủ yếu trong bối cảnh hợp tác giữa các nước xã hội chủ nghĩa trong
khuôn khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV) những năm 1970-1980.
Thuật ngữ “liên kết kinh tế quốc tế” được sử dụng khá nhiều khi nói
về hiện tượng phát triển các quan hệ kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu dịch
giữa các nước không phải là xã hội chủ nghĩa trong những thập niên sau
Chiến tranh thế giới II, đặc biệt là trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế khu
vực như Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EC), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp
hội Mậu dịch tự do châu Âu (EFTA), Thị trường chung Trung Mỹ (CACM),

4


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

Cộng đồng Caribê và Thị trường chung, Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ
(NAFTA), v.v... Trong thực tiễn sử dụng ở Việt Nam hiện nay, các thuật ngữ
“liên kết quốc tế” và “hội nhập quốc tế” có thể thay thế nhau và hầu như
không có sự khác biệt về ý nghĩa.
Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn không có một định nghĩa nào về khái
niệm “hội nhập quốc tế” giành được sự nhất trí hoàn toàn trong giới học
thuật và cả giới làm chính sách ở Việt Nam. Từ các định nghĩa khác nhau nổi
lên hai cách hiểu chính. Thứ nhất, cách hiểu hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự
tham gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Thứ hai, cách hiểu rộng, coi
“hội nhập quốc tế” là sự mở cửa và tham gia vào mọi mặt của đời sống quốc

tế, đối lập với tình trạng đóng cửa, cô lập hoặc ít giao lưu quốc tế. Với tư
duy theo cách này, không ít người thậm chí đã đánh đồng hội nhập với hợp
tác quốc tế. Cả hai cách hiểu trên về khái niệm “hội nhập quốc tế” đều không
đầy đủ và thiếu chính xác.
Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta cần xác định một cách tiếp
cận phù hợp đối với khái niệm “hội nhập quốc tế” để làm nền tảng xây dựng
chiến lược hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Chúng tôi
cho rằng cách tiếp cận phù hợp nhất là xem xét hội nhập như là một quá
trình xã hội có nội hàm toàn diện và thường xuyên vận động hướng tới mục
tiêu nhất định. Theo đó, hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các
nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên
sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền
định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các
định chế hoặc tổ chức quốc tế. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi
các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi ích hay nguyện vọng của nhau, không chống
đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên trên sự hợp tác quốc tế thông thường:
nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của các chủ thể tham gia. Nhìn ở
góc độ thể chế, quá trình hội nhập hình thành nên và củng cố các định chế/tổ

5


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

chức quốc tế, thậm chí là các chủ thế mới của quan hệ quốc tế. Những chủ
thể quốc tế mới này có thể dưới dạng: hoặc là một tổ chức liên chính phủ
(các thành viên vẫn giữ chủ quyền quốc gia trong việc định đoạt chính sách,
chẳng hạn như tổ chức Liên hiệp quốc, ASEAN…), hoặc là một tổ chức siêu
quốc gia (các thành viên trao toàn bộ chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu
siêu quốc gia, hình thái này có thể giống như mô hình nhà nước liên bang,

chẳng hạn như Hoa Kỳ, Canada…), hoặc là một tổ chức lai ghép giữa hai
hình thái trên (các thành viên trao một phần chủ quyền quốc gia cho một cơ
cấu siêu quốc gia và vẫn giữ một phần chủ quyền cho riêng mình, chẳng hạn
như trường hợp EU hiện nay).
Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính
của quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực
hiện các cam kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng
hợp thành lực lượng tổng hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
2. Nội hàm của hội nhập quốc tế
Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội
(kinh tế, chính trị, an ninh-quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v.),
nhưng cũng có thể đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất, phạm
vi và hình thức rất khác nhau.
2.1.Hội nhập kinh tế quốc tế
Đây là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu
vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo
những hình thức khác nhau, từ đơn phương đến song phương, tiểu khu
vực/vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Hội nhập kinh tế có thể diễn ra
theo nhiều mức độ. Theo một số nhà kinh tế, tiến trình hội nhập kinh tế được
chia thành năm mô hình cơ bản từ thấp đến cao như sau:
2.1.1 Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA): Các nước thành viên dành
cho nhau các ưu đãi thương mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan, nhưng còn
6


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

hạn chế về phạm vi và mức độ cắt giảm. Hiệp định PTA của ASEAN (1977),
Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ (2001), Hiệp định GATT (1947 và 1994) là
các ví dụ cụ thể của mô hình liên kết kinh tế ở giai đoạn thấp nhất.

2.1.2.Khu vực mậu dịch tự do (FTA): Các thành viên phải thực hiện
việc cắt giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan và các hạn chế về định lượng
(có thể bao gồm cả việc giảm và bỏ một số hàng rào phi thuế quan) trong
thương mại hàng hóa nội khối, nhưng vẫn duy trì chính sách thuế quan độc
lập đối với các nước ngoài khối. Ví dụ: Khu vực mậu dịch tự do Bắc Âu
(EFTA), Khu vực mậu dịch tự do bắc Mỹ (NAFTA), Khu vực Mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA). Những năm gần đây, phần lớn các hiệp định FTA mới
có phạm vi lĩnh vực điều tiết rộng hơn nhiều. Ngoài lĩnh vực hàng hóa, các
hiệp định này còn có những quy định tự do hóa đối với nhiều lĩnh vực khác
như dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ…Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình dương (TPP- đang đàm phán).
2.1.3.Liên minh thuế quan (CU): Các thành viên ngoài việc cắt giảm
và loại bỏ thuế quan trong thương mại nội khối còn thống nhất thực hiện
chính sách thuế quan chung đối với các nước bên ngoài khối.
2.1.4.Thị trường chung (hay thị trường duy nhất): Ngoài việc loại bỏ
thuế quan và hàng rào phi quan thuế trong thương mại nội khối và có chính
sách thuế quan chung đối với ngoài khối, các thành viên còn phải xóa bỏ các
hạn chế đối với việc lưu chuyển của các yếu tố sản xuất khác (vốn, lao
động…) để tạo thành một nền sản xuất chung của cả khối. Ví dụ: Liên minh
châu Âu đã trải qua giai đoạn xây dựng thị trường duy nhất (Thị trường
chung châu Âu) trước khi trở thành một liên minh kinh tế.
2.1.5.Liên minh kinh tế-tiền tệ: Là mô hình hội nhập kinh tế ở giai
đoạn cao nhất dựa trên cơ sở một thị trường chung/duy nhất cộng thêm với
việc thực hiện chính sách kinh tế và tiền tệ chung (một đồng tiền chung,
ngân hàng trung ương thống nhất của khối). Ví dụ: EU hiện nay.

7


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế


Một nước có thể đồng thời tham gia vào nhiều tiến trình hội nhập với
tính chất, phạm vi và hình thức khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản phải trải qua
các bước hội nhập từ thấp đến cao, việc đốt cháy giai đoạn chỉ có thể diễn ra
trong những điều kiện đặc thù nhất định mà thôi (chẳng hạn Cộng đồng Kinh
tế châu Âu đã đồng thời thực hiện xây dựng khu vực mậu dịch tự do và liên
minh thuế quan trong những thập niên 60-70). Hội nhập kinh tế là nền tảng
hết sức quan trọng cho sự tồn tại bền vững của hội nhập trong các lĩnh vực
khác, đặc biệt là hội nhập về chính trị và nhìn chung, được các nước ưu tiên
thúc đẩy giống như một đòn bẩy cho hợp tác và phát triển trong bối cảnh
toàn cầu hóa.
2.2.Hội nhập chính trị
Hội nhập về chính trị là quá trình các nước tham gia vào các cơ chế
quyền lực tập thể (giữa hai hay nhiều nước) nhằm theo đuổi những mục tiêu
nhất định và hành xử phù hợp với các luật chơi chung. Hội nhập chính trị thể
hiện mức độ liên kết đặc biệt giữa các nước, trong đó họ chia sẻ với nhau về
các giá trị cơ bản (tư tưởng chính trị, ý thức hệ), mục tiêu, lợi ích, nguồn lực
và đặc biệt là quyền lực. Một quốc gia có thể tiến hành hội nhập chính trị
quốc tế thông qua ký hiệp ước với một hay một số quốc gia khác trên cơ sở
thiết lập các mối liên kết quyền lực giữa họ (hiệp ước liên minh hay đồng
minh) hoặc tham gia vào các tổ chức chính trị khu vực (chẳng hạn như
ASEAN, EU) hay một tổ chức có quy mô toàn cầu (chẳng hạn như Liên
Hiệp quốc).
Ở giai đoạn thấp của hội nhập chính trị, liên kết giữa các thành viên
còn hạn chế và các thành viên vẫn cơ bản giữ thẩm quyền định đoạt chính
sách riêng. ASEAN hiện nay vẫn đang trong giai đoạn đầu quá trình hội
nhập chính trị, nên vẫn còn tồn tại nhiều sự khác biệt và độ tin cậy giữa các
thành viên còn hạn chế. Về mặt tổ chức quyền lực, ASEAN là một khuôn
khổ liên chính phủ. Hoàn tất xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột


8


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

(Cộng đồng Chính trị-An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóaXã hội) sẽ giúp tăng cường quá trình hội nhập chính trị trong ASEAN, tạo
điều kiện để ASEAN bước tới một giai đoạn hội nhập cao hơn nữa.
Giai đoạn hội nhập chính trị cao đòi hỏi sự tương đồng về thể chế
chính trị và độ tin cậy hoàn toàn của các thành viên. Về mặt tổ chức quyền
lực, các thành viên chỉ giữ lại một số thẩm quyền nhất định ở cấp quốc gia
và trao các quyền lực còn lại cho một cơ cấu siêu quốc gia. EU hiện nay là
một mô hình hội nhập chính trị cao.
Thông thường hội nhập chính trị là bước đi sau cùng trên cơ sở các
nước liên quan đã đạt đến trình độ hội nhập kinh tế và văn hóa-xã hội rất
cao. Sự hình thành Liên bang Hoa Kỳ, Liên bang Canađa trước đây và EU
hiện nay cơ bản theo phương thức này. Tuy nhiên, trong những bối cảnh nhất
định, hội nhập trong lĩnh vực chính trị có thể đi trước một bước để mở
đường thúc đẩy hội nhập trong các lĩnh vực khác. Trường hợp ASEAN thể
hiện khá đặc biệt sự kết hợp nhiều tiến trình hội nhập. Trong suốt hơn 2 thập
kỷ đầu tồn tại, ASEAN chủ yếu là một cơ chế hợp tác khu vực về chính trịngoại giao nhằm đối phó với những thách thức đối với an ninh quốc gia của
các thành viên. Một số học giả nhìn nhận ASEAN như là một định chế/chế
độ quốc tế về chính trị-an ninh ở khu vực Đông Nam Á. Nói một cách khác,
đây là dạng thức ban đầu của hội nhập chính trị-an ninh. Sau giai đoạn khởi
đầu chủ yếu bằng hội nhập sơ khai về chính trị-an ninh, từ cuối thập niên
1970 trở đi, ASEAN mới bắt đầu triển khai hợp tác về kinh tế và chỉ từ gần
giữa thập niên 1990, ASEAN mới thực sự bắt đầu tiến trình hội nhập kinh tế.
Hội nhập văn hóa-xã hội phải đợi đến khi ASEAN thông qua Hiến chương
năm 2008 mới được triển khai.
2.3.Hội nhập an ninh-quốc phòng
Hội nhập về an ninh-quốc phòng là sự tham gia của quốc gia vào quá

trình gắn kết họ với các nước khác trong mục tiêu duy trì hòa bình và an

9


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

ninh. Điều này đòi hỏi các nước hội nhập phải tham gia vào các thỏa thuận
song phương hay đa phương về an ninh-quốc phòng trên cơ sở các nguyên
tắc chia sẻ và liên kết: mục tiêu chung, đối tượng/kẻ thù chung, tiến hành các
hoạt động chung về đảm bảo an ninh-quốc phòng...
Có nhiều kiểu liên kết an ninh-quốc phòng khác nhau, trong đó nổi lên
những hình thức chủ yếu được nhiều nước sử dụng như sau:
- Hiệp ước phòng thủ chung: Đây là hình thức khá phổ biến trong thời
kỳ Chiến tranh lạnh khi mà thế giới được cơ bản chia thành hai hệ thống (gọi
là hệ thống hai cực) giữa một bên là các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô
lãnh đạo và bên kia là các nước tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu. Hàng loạt
tổ chức phòng thủ chung đã được hai phe lập ra để thực hiện các mục tiêu
chính trị và an ninh-quốc phòng, chẳng hạn như Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại
Tây Dương (NATO)…. Nguyên tắc của các tổ chức phòng thủ chung là: các
nước tham gia phải có chung kẻ thù bên ngoài, khi một nước nào đó tấn công
một thành viên của khối thì nước đó được coi là kẻ thù của cả khối và tất cả
các thành viên cùng hành động chống lại kẻ thù đó; các thành viên có chính
sách phòng thủ chung; các thành viên cùng đóng góp lực lượng vũ trang
tham gia vào lực lượng chung của khối đặt dưới một bộ chỉ huy chung.
Đây là phương thức liên kết quân sự rất cao, đòi hỏi các thành viên
phải đồng về ý thức hệ và cùng chia sẻ cao về quan điểm, chính sách an
ninh-quốc phòng, chiến lược quân sự và có trình độ phát triển kỹ thuật quân
sự cũng như năng lực tác chiến không quá chênh lệch. Phương thức liên kết
này cũng đòi hỏi các thành viên phải chấp nhận chịu sự hạn chế về chủ

quyền quốc gia và trao một phần thẩm quyền quốc gia cho một cơ chế chung
siêu quốc gia.
- Hiệp ước liên minh quân sự song phương: Đây là hình thức cổ điển
rất phổ biến trong lịch sử quan hệ quốc tế xưa và nay. Phần lớn, nếu như
không nói là hầu hết, các nước đều có hiệp ước liên minh với một hoặc một

10


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

số nước khác, trong đó có quy định về trợ giúp quân sự trong những tình
huống cần thiết. Mỹ có hiệp ước liên minh quân sự song phương với Nhật,
Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan và Philipin. Việt Nam cũng đã có Hiệp ước
liên minh với Liên Xô cũ, Lào và Cămpuchia.
- Các dàn xếp an ninh tập thể: Đây là hình thức liên kết an ninh dựa
trên nguyên tắc các thành viên cam kết không tấn công nhau, nếu có một
thành viên vi phạm, sẽ dùng sức mạnh hợp tác của cả khối để ngăn chặn và
giúp giải quyết xung đột. Hội quốc liên và sau này là Liên Hiệp quốc, Cộng
đồng chính trị-an ninh mà ASEAN đang xây dựng là những mô hình cụ thể
của phương thức liên kết an ninh tập thể.
- Các dàn xếp về an ninh hợp tác là phương thức liên kết an ninhquốc phòng lỏng lẻo hơn cả, dựa trên nguyên tắc lấy hợp tác trên các lĩnh
vực, từ dễ đến khó, với các hình thức đa dạng như đối thoại, xây dựng lòng
tin, ngoại giao phòng ngừa… để xây dựng thói quen hợp tác và sự phụ thuộc,
ràng buộc lẫn nhau, từ đó có thể hạn chế khả năng xảy ra xung đột giữa các
thành viên. ASEAN và một loạt cơ chế khu vực liên quan như Hội nghị sau
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao, Diễn đàn Khu vực ASEAN, Hội nghị Bộ
trưởng quốc phòng ASEAN… là những mô hình cụ thể về dạng thức liên kết
này.
Nhìn chung, hội nhập trong lĩnh vực an ninh-quốc phòng là tiến

trình khó khăn hơn cả, vì nó liên quan trực tiếp tới những vấn đề nhạy cảm
nhất- cốt lõi tồn tại của quốc gia, đó là hòa bình, độc lập và chủ quyền.
2.4.Hội nhập về văn hóa-xã hội
Hội nhập về văn hóa-xã hội là quá trình mở cửa, trao đổi văn hóa với
các nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các
giá trị văn hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân
tộc; tham gia vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa-giáo dục và xã
hội khu vực và hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên hướng tới xây dựng

11


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

một cộng đồng văn hóa-xã hội rộng lớn hơn trên phạm vi khu vực và toàn
cầu (ví dụ, tham gia Cộng đồng văn hóa-xã hội ASEAN, UNESCO…); ký
kết và thực hiện các hiệp định song phương về hợp tác-phát triển văn hóagiáo dục-xã hội với các nước.
Hội nhập văn hóa-xã hội có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm sâu
sắc quá trình hội nhập, thực sự gắn kết các nước với nhau bằng chất keo bền
vững hơn cả. Quá trình này giúp các dân tộc ở các quốc gia khác nhau ngày
càng gần gũi và chia sẻ với nhau nhiều hơn về các giá trị, phương thức tư
duy và hành động; tạo ra sự hài hòa và thống nhất ngày càng cao hơn giữa
các chính sách xã hội của các nước thành viên; đồng thời tạo điều kiện để
người dân mỗi nước được thụ hưởng tốt hơn các giá trị văn hóa của nhân
loại, các phúc lợi xã hội đa dạng; đặc biệt, hình thành và củng cố tình cảm
gắn bó thuộc về một cộng đồng chung rộng lớn hơn quốc gia của riêng mình
(ý thức công dân khu vực/toàn cầu).
3. Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thời đại ngày nay
Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu, do bản chất xã hội của lao
động và quan hệ giữa con người. Các cá nhân muốn tồn tại và phát triển phải

có quan hệ và liên kết với nhau tạo thành cộng đồng. Nhiều cộng đồng liên
kết với nhau tạo thành xã hội và các quốc gia-dân tộc. Các quốc gia lại liên
kết với nhau tạo thành những thực thể quốc tế lớn hơn và hình thành hệ
thống thế giới.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải mở rộng các
thị trường quốc gia, hình thành thị trường khu vực và quốc tế thống nhất.
Đây là động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói
riêng và hội nhập quốc tế nói chung.
Từ sau Chiến tranh thế giới II, đặc biệt là từ khi chấm dứt Chiến tranh
lạnh, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất thế giới nhờ
hàng loạt tiến bộ nhanh chóng về khoa học-công nghệ, xu thế hòa bình-hợp

12


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

tác, nỗ lực tự do hóa-mở cửa của các nước đã thúc đẩy quá trình hội nhập
quốc tế trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là trong kinh tế, phát triển rất nhanh và
trở thành một xu thế lớn của quan hệ quốc tế hiện đại. Quá trình này diễn ra
trên nhiều cấp độ: song phương, đa phương, tiểu vùng, khu vực, liên khu vực
và toàn cầu. Mức độ hội nhập cũng ngày một sâu sắc hơn, bao quát toàn diện
hơn. Hầu hết mọi nước trên thế giới đã và đang tích cực tham gia vào quá
trình này.
Trên cấp độ toàn cầu, ngay sau Chiến tranh thế giới II, Liên hiệp quốc
và hàng loạt các tổ chức chuyên môn của Liên hiệp quốc, trong đó là Quỹ
Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới, ra đời với số lượng thành viên gia
nhập ngày một nhiều hơn, bao quát hầu hết các nước trên thế giới. Đây là
một tổ chức hợp tác toàn diện, bao quát hầu hết mọi lĩnh vực và có quy mô
toàn cầu. Trong một số lĩnh vực, Liên hiệp quốc đã có sự phát triển vượt lên

trên sự hợp tác thông thường và có thể nói đã đạt đến trình độ ban đầu của
hội nhập (lĩnh vực chính trị-an ninh, lĩnh vực nhân quyền, lĩnh vực tài
chính). Trong lĩnh vực thương mại, tiến trình hội nhập toàn cầu được thúc
đẩy với việc ra đời của một định chế đa phương đặc biệt quan trọng, đó Hiệp
định chung về Thương mại và Thuế quan, sau đó được nối tiếp bằng Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO) kể từ năm 1995. Hiện nay, 153 quốc gia và
vùng lãnh thổ đã tham gia với tư cách thành viên chính thức của Tổ chức
này, khoảng 30 quốc gia khác đang trong quá trình đàm phán gia nhập.
Trong hơn một thập kỷ qua, WTO đã phát triển mạnh mẽ hệ thống “luật
chơi” về thương mại quốc tế, bao quát hầu hết các lĩnh vực của quan hệ kinh
tế giữa các thành viên như hàng hóa, dich vụ, nông nghiệp, kiểm dịch động
thực vật, dệt may, hàng rào kỹ thuật, đầu tư, sở hữu trí tuệ, chống bán phá
giá, trợ cấp và các biện pháp đối kháng, các biện pháp tự vệ, xác định giá trị
tính thuế hải quan, giám định hàng hóa, quy tắc xuất xứ, quy tắc và thủ tục
giải quyết tranh chấp… Các quy định cơ bản của WTO trở thành nền tảng
của tất cả các thỏa thuận kinh tế khu vực hay song phương trên thế giới hiện
13


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

nay. Vòng đàm phán Đô-ha, bắt đầu từ hơn mười năm trước, đang tiếp tục
mở rộng và củng cố các quy định của WTO theo hướng tự do hóa hơn nữa.
Ở cấp độ khu vực, quá trình hội nhập phát triển rất nhanh trong những
thập niên 1960 và 1970, đặc biệt “nở rộ” từ thập niên 1990 trở lại đây. Hàng
loạt tổ chức/thể chế khu vực đã ra đời ở khắp các châu lục. Hầu như không
một khu vực nào trên thế giới hiện nay không có các tổ chức/thể chế khu vực
của riêng mình. Các tổ chức/thể chế khu vực về chính trị-an ninh và đặc biệt
là kinh tế, chiếm nhiều nhất. Chỉ riêng trong lĩnh vực kinh tế, tính đến giữa
tháng 5/2011 có 489 hiệp định về mậu dịch khu vực giữa các thành viên của

WTO đã được thông báo cho Ban Thư ký WTO, trong đó 90% là các thỏa
thuận mậu dịch tự do và 10% là các liên minh thuế quan.
Bên cạnh các cấp độ toàn cầu và khu vực, quá trình hội nhập giữa các
nước còn được điều tiết bởi các hiệp định liên kết song phương, dưới dạng
hiệp ước liên minh (chính trị, an ninh, quốc phòng), hiệp định đối tác toàn
diện, hiệp định đối tác chiến lược, hiệp định kinh tế-thương mại…. Từ cuối
thập niên 1990 trở lại đây, xu hướng ký kết các hiệp định đối tác chiến lược
và hiệp định mậu dịch tự do phát triển đặc biệt mạnh mẽ.
Về phạm vi lĩnh vực và mức độ hội nhập, xem xét các thỏa thuận liên
kết khu vực và song phương trong thời gian gần đây, có thể thấy rất rõ rằng
các lĩnh vực hội nhập ngày càng được mở rộng hơn. Bên cạnh xu hướng đẩy
mạnh hội nhập kinh tế, các nước cũng quan tâm thúc đẩy hội nhập trong các
lĩnh vực khác, đặc biệt là chính trị-an ninh và văn hóa-xã hội. Tiến trình hội
nhập toàn diện trong EU đã đạt đến mức cao, biến tổ chức này trở thành một
thực thể gần giống như một nhà nước liên bang. ASEAN cũng đang tiến
hành mở rộng và làm sâu sắc tiến trình hội nhập khu vực một cách toàn diện
hơn thông qua xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột Cộng đồng
Chính trị-An ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội. Hàng
loạt các hiệp định đối tác toàn diện hay đối tác chiến lược song phương được

14


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

ký kết gần đây bao quát khá toàn diện các lĩnh vực hợp tác và liên kết giữa
các bên. Nếu chỉ xét riêng về mặt kinh tế, thì các thỏa thuận gần đây, chẳng
hạn như Hiệp định Mậu dịch tự do ASEAN-Úc-Niudilân, Hiệp định Mậu
dịch tự do Mỹ-Singapore…. chứa đựng hầu hết các lĩnh vực và do vậy vượt
xa so với các hiệp định FTA truyền thống. Nhìn chung, các hiệp định FTA

mới toàn diện hơn và bao hàm cả những lĩnh vực “nhạy cảm” (ví dụ như
mua sắm chính phủ, cạnh tranh, lao động, môi trường, hàng rào kỹ thuật)
thường không được đề cập trong hầu hết các hiệp định FTA ký trước đây.
Bên cạnh đó, các hiệp định FTA mới đưa ra các quy định về tự do hóa triệt
để hơn, thể hiện mức độ hội nhập cao hơn. Ví dụ, trong lĩnh vực hàng hóa,
cắt giảm thuế quan mạnh hơn và sớm đưa về 0%, hạn chế tối đa số lượng các
sản phẩm loại trừ.
Rõ ràng, hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế lớn và một đặc
trưng quan trọng của thế giới hiện nay. Không ít người khẳng định rằng
chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu hóa. Nói một cách khác, thời đại
hội nhập toàn cầu. Xu thế này chi phối toàn bộ quan hệ quốc tế và làm thay
đổi to lớn cấu trúc của hệ thống thế giới cũng như bản thân các chủ thể và
mối quan hệ giữa chúng.
4. Lợi và bất lợi của hội nhập quốc tế
Khẳng định hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế
giới cũng đồng thời chỉ ra con đường phát triển không thể nào khác đối với
các nước trong thời đại toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế. Sự lựa
chọn tất yếu này còn được quyết định bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập quốc
tế tạo ra cho các nước. Dưới đây, xin nêu những lợi ích chủ yếu của hội
nhập quốc tế mà các nước có thể tận dụng được:
Thứ nhất, quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy
thương mại và các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế-xã hội.

15


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

Thứ hai, hội nhập cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh

tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng
lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp; đồng
thời, làm tăng khả năng thu hút đầu tư vào nền kinh tế.
Thứ ba, hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền
khoa học công nghệ quốc gia, nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu
khoa học với các nước và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp
nước ngoài và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến.
Thứ tư, hội nhập làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước
tiếp cận thị trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.
Thứ năm, hội nhập tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với
giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ
đó có cơ hội phát triển và tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
Thứ sáu, hội nhập tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm
bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra
chính sách phát triển phù hợp cho đất nước và không bị lề hóa.
Thứ bảy, hội nhập giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa,
văn minh của thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Thứ tám, hội nhập tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện
hướng tới xây dựng một xã hội mở, dân chủ hơn, và một nhà nước pháp
quyền.
Thứ chín, hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí
thích hợp trong trật tự quốc tế, giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng
như khả năng duy trì an ninh, hòa bình và ổn định để phát triển.
Thứ mười, hội nhập giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc
tế để các nước tập trung cho phát triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp

16



Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

các nỗ lực và nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm
chung của khu vực và thế giới .
Tuy nhiên, hội nhập không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng
đặt các nước trước nhiều bất lợi và thách thức, trong đó đặc biệt là:
Một, hội nhập làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh
nghiệp và ngành kinh tế gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây nhiều
hậu quả về mặt kinh tế-xã hội.
Hai, hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị
trường bên ngoài và, do vậy, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những
biến động của thị trường quốc tế.
Ba, hội nhập không phân phối công bằng lơi ích và rủi ro cho các
nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng
khoảng cách giàu-nghèo.
Bốn, trong quá trình hội nhập, các nước đang phát triển phải đối mặt
với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập
trung vào các ngàng sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có
giá trị gia tăng thấp. Do vậy, họ dễ có thể trở thành bãi rác thải công nghiệp
và công nghệ thấp, bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi
trường.
Năm, hội nhập có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà
nước (theo quan niện truyền thống về độc lập, chủ quyền) và phức tạp đối
với việc duy trì an ninh và ổn định ở các nước đang phát triển.
Sáu, hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa
truyền thống bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Bảy, hội nhập có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng của tình
trạng khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập
cư bất hợp pháp…


17


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

CHƯƠNG II
TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

1. Yêu cầu hội nhập quốc tế.
Việt Nam chúng ta thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
trùng với thời điểm trên thế giới đang diễn ra những thay đổi to lớn về chính
trị và kinh tế. Hoà bình, hợp tác, phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức
xúc của các dân tộc và quốc gia trên thế giới. Các nước đều ưu tiên phát triển
kinh tế, cần có môi trường hoà bình, ổn định và thực hiện chính sách mở
cửa. Không một quốc gia nào có thể phát triển trong một thế giới ngày càng
được toàn cầu hoá mà không lỗ lực hội nhập vào xu thế chung, điều chỉnh
chính sách, giảm dần hàng rào thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan,
làm cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động, công nghệ và kỹ
thuật trên phạm vi thế giới ngày càng thông thoáng hơn. Việt Nam cũng
không phải là ngoại lệ. Vấn đề là phải hội nhập như thế nào và tiến trình hội
nhập ra sao cho phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện phát triển của mình.
Ngay từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đã khởi
xướng công cuộc đổi mới mà quan trọng là mở rộng quan hệ và hợp tác quốc
tế. Đại hội VII (1992), đại hội (1990) tiếp tục đường lối đa dạng hoá, đa
phương hoá các mối quan hệ Đại hội IX (2000) Đảng và Nhà nước càng
nhấn mạnh tinh thần: “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”.
Chủ trương này đã tạo điều kiện thúc đẩy tiến trình hội nhập quốc tế
của nước ta, đẩy mạnh quan hệ đối ngoại, phá thế bị bao vây cấm vận, tham
gia tích cực vào đời sống của cộng đồng quốc tế. Chúng ta cũng nhận thức rõ

hội nhập kinh tế quốc tế là việc một quốc gia thực hiện chính sách kinh tế
mở, tham gia vào các định chế tài chính, kinh tế, thương mại quốc tế, mở

18


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

rộng hợp tác kinh tế với bên ngoài, thực hiện tự do hoá và thuận lợi hoá
thương mại, đầu tư. Tham gia hội nhập quốc tế thực chất là tham gia cuộc
đấu tranh phức tạp để góp phần phát triển kinh tế và củng cố an ninh, chính
trị, độc lập kinh tế và bản sắc dân tộc của mỗi nước thông qua việc thiết lập
các mối quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau, đan xen, nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc
với các quốc gia khác. Chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát
triển đất nước, phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh.
2.Một số vấn đề liên quan đến Việt Nam
Phát triển đất nước theo đường lối đổi mới, Chính phủ Việt Nam ngày
càng nhận thấy rõ hơn sự cần thiết phải tham gia vào quá trình toàn cầu hóa
kinh tế và cạnh tranh quốc tế. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 2010 nêu rõ, phải "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ
để phát triển... Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng
phát huy lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực
cạnh tranh và giảm dần hàng rào bảo hộ".
Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 4 (tháng 10-2003) Quốc hội
khóa XI, cũng thẳng thắn thừa nhận: Tăng trưởng kinh tế trong ba năm vừa
qua (2001 - 2003) chủ yếu vẫn theo chiều rộng, tăng về số lượng, nhưng
chậm chuyển biến về chất lượng... Nhìn chung, sức cạnh tranh và hiệu quả
của doanh nghiệp và nền kinh tế đều thấp. Từ đó nhấn mạnh một trong các
giải pháp lớn là "phải tạo bước phát triển mới về kinh tế đối ngoại... Năm
2004 phải có bước đi mạnh mẽ hơn, với quyết tâm cao về chủ động hội nhập

kinh tế quốc tế. Đi đôi với việc thực hiện cam kết về lộ trình tham gia Khu
vực Mậu dịch tự do Đông Nam Á (AFTA) và phát triển các quan hệ kinh tế
song phương, cần đẩy mạnh đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) với phương án thích hợp để sớm trở thành thành viên của tổ
chức này".
19


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

Như vậy, quyết tâm về mặt chính trị đối với vấn đề tham gia quá trình
toàn cầu hóa kinh tế của Việt Nam đã rõ. Nhưng phân tích về thực chất cho
thấy Việt Nam vẫn còn nhiều vướng mắc liên quan đến việc tham gia vào
quá trình toàn cầu hóa kinh tế.
Một là, những vướng mắc về nhận thức. Hiện thời, ngay trong giới
nghiên cứu và hoạch định chính sách ở cấp chiến lược, vẫn còn nhiều bàn cãi
về vấn đề nên hội nhập như thế nào. Gắn liền với câu hỏi lớn này là hàng
loạt vấn đề cụ thể vẫn chưa có đáp án mạch lạc: Tốc độ tự do hóa nên như
thế nào? Phải chăng cần trì hoãn quá trình tự do hóa để các doanh nghiệp
hiện tại có thời gian thực hiện cơ cấu lại và chuẩn bị sẵn sàng cho cạnh tranh
quốc tế? Nên hay không nên phân kỳ tự do hóa trên cơ sở căn cứ vào quá
trình phát triển các thể chế cần có cho một nền kinh tế thị trường hiện đại?
Phương thức hội nhập nên như thế nào: thông qua việc tham gia vào các hiệp
định đa phương, khu vực và song phương, thông qua việc đơn phương tự do
hóa, hay thông qua việc kết hợp các yếu tố này? Để bổ trợ cho tự do hóa
thương mại và đầu tư nhằm tối đa hóa các lợi ích và giảm thiểu các rủi ro thì
cần có những biện pháp nào? Hai là, những vướng mắc trên thực tế thể hiện
ở một loạt chỉ tiêu so sánh khả năng cạnh tranh. Về khả năng cạnh tranh
trong xuất khẩu và du lịch. Về khả năng cạnh tranh đầu tư: Tổng đầu tư nội
địa của Việt Nam đạt tỷ lệ 25% GDP, tuy có cao hơn mức trung bình của khu

vực ASEAN (23 - 24%), nhưng đầu tư nước ngoài (FDI) còn thấp hơn rất
nhiều so với nhiều nước trong khu vực, như Trung Quốc, Thái Lan,
Malaysia, Singapore. Suất đầu tư cho tăng trưởng (hệ số ICOR) của Việt
Nam tăng nhanh và ở mức cao.
Về khu vực tài chính: khu vực tài chính trong nước hiện nay vẫn ở
tình trạng kém phát triển, chưa có khả năng cung cấp tín dụng để hỗ trợ cho
sự phát triển của khu vực tư nhân. Tín dụng trong nước được khu vực ngân

20


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

hàng cung cấp còn ở mức thấp; mức độ rủi ro trong tín dụng quốc tế xếp ở
mức 79/127 nước.
Về môi trường vĩ mô: phần lớn các chỉ số về chính sách vĩ mô của
Việt Nam được đánh giá ở mức trung bình, riêng thuế nhập khẩu vẫn ở mức
26% - mức quá cao so với yêu cầu của WTO (từ 13 đến 15%).
Về quy chế môi trường kinh doanh. Theo phân loại của Diễn đàn Kinh
tế thế giới, Việt Nam được xếp ở nhóm thấp về thành tích trong quy chế
hành chính, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, về sự quan liêu hành chính và mức
độ mở cửa của nền kinh tế. Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Doanh
nghiệp nhà nước (sửa đổi), nhưng dư luận xã hội cho rằng luật này chưa đáp
ứng được các đòi hỏi bức xúc của thực tiễn hiện nay: chưa tăng quyền tự
chủ, tự hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, chưa xóa bỏ
cơ chế bộ chủ quản, cơ chế bao cấp, "xin cho" và các đặc quyền đặc lợi khác
(khoanh nợ, dãn nợ, xóa nợ, bù lãi suất tiền vay...). Đây chính là những kẽ
hở, là nguyên nhân chính dẫn đến tâm lý phổ biến của các doanh nghiệp nhà
nước là trông chờ, ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước, không muốn vươn lên
bằng cạnh tranh lành mạnh.

Về khả năng cạnh tranh trong khoa học và công nghệ: Theo đánh giá
của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam có điểm rất thấp về sự tiến bộ công
nghệ. Hoạt động nghiên cứu khoa học - công nghệ vẫn dựa chủ yếu vào ngân
sách nhà nước. Chưa phân biệt rõ hoạt động nghiên cứu cơ bản cần được
Nhà nước tài trợ với hoạt động nghiên cứu ứng dụng mà sản phẩm nghiên
cứu phải trở thành hàng hóa, được tạo nguồn kinh phí từ người sử dụng các
sản phẩm đó. Môi trường kinh doanh và sự phát triển ít coi trọng chất lượng
và còn mang nhiều yếu tố bao cấp nên chưa tạo được động lực và sức ép
buộc mọi doanh nghiệp chăm lo đổi mới công nghệ, tìm đến các cơ sở khoa
học, công nghệ.

21


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

Về công nghệ thông tin và truyền thông: Nếu so với trước đây, tốc độ
tăng trưởng công nghệ thông tin của Việt Nam những năm qua là khá nhanh;
nhưng so với các nước khu vực ASEAN và nhất là các nước phát triển, Việt
Nam vẫn được Diễn đàn Kinh tế thế giới xếp ở mức thấp về công nghệ thông
tin và truyền thông, do chưa sẵn sàng để kinh doanh điện tử, ít sử dụng thư
điện tử và chi phí bình quân của các cuộc gọi trong nước và quốc tế còn
cao... Về kết cấu hạ tầng: Trong những năm gần đây, Việt Nam đã có những
nỗ lực lớn để phát triển kết cấu hạ tầng, nhưng vẫn chỉ được xếp ở mức
76/100 nước, chỉ số về tiêu dùng điện bình quân đầu người/năm mới đạt 391
kWh (trong khi Canada là 17.000 kWh/năm, Mỹ là 14.000 kWh/năm, Trung
Quốc là 926 kWh/năm, Hồng Công là 5.700 kWh/năm, Nhật Bản là 8.200
kWh/năm, Malaysia là 2.800 kWh, Thái Lan là 1.600 kWh, Singapore 8.100
kWh, Campuchia 20 kWh).
Về nhân lực: Trong năm 2003, Việt Nam mới chỉ đạt trình độ trung

bình yếu về nhân lực, xếp thứ 3,79/10 - đứng cuối cùng trong 13 nước ở khu
vực; đáng lo ngại hơn là trình độ tiếng Anh và trình độ tiếp cận công nghệ
cao đều còn ở mức cuối bảng. định hướng xã hội chủ nghĩa.
3.Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam
Theo chúng tôi, nguyên nhân khách quan mang tính bao trùm của tình
hình là do Việt Nam hiện nay vẫn chưa ra khỏi giai đoạn khởi động của quá
trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị
trường. Nhưng chủ yếu vẫn là do nguyên nhân chủ quan bắt nguồn trực tiếp
từ những khiếm khuyết trong hoạt động quản lý nhà nước: Môi trường đầu
tư còn nhiều hạn chế chưa đủ sức hấp dẫn, do chưa đủ quyết tâm chuyển
mạnh và đồng bộ sang thể chế kinh tế thị trường. Khung pháp lý hiện có
chưa đáp ứng kịp nhu cầu hình thành và phát triển của các thị trường thiết
yếu, bộ máy quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương chưa đủ sức
kiểm soát và ngăn chặn được các "thị trường ngầm" gây nhiều tiêu cực.
22


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

Trong việc thiết kế và áp dụng các công cụ điều tiết vĩ mô, nhiều cơ quan
nhà nước vẫn thiên về lợi ích cục bộ của chính mình, chưa thực sự coi trọng
lợi ích và nhu cầu chính đáng của doanh nghiệp và nhân dân. Tình trạng
phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế vẫn còn khá phổ biến. Những
hình thái biến tướng của bao cấp, bảo hộ và độc quyền kinh doanh đang kìm
hãm khả năng phát triển của đất nước, nhưng chưa có biện pháp đủ mạnh để
khắc phục. Trong một số lĩnh vực, sự độc quyền của Nhà nước bị các tổng
công ty lợi dụng để biến thành đặc quyền riêng, biểu hiện ở giá cả của hầu
hết sản phẩm hàng hóa và dịch vụ mang tính độc quyền đều cao hơn giá
quốc tế, dẫn đến làm tăng chi phí "đầu vào" của các doanh nghiệp. Trong khi
đó, chúng ta chưa xây dựng được khuôn khổ pháp lý bảo đảm cho sự cạnh

tranh lành mạnh và bình đẳng. Áp lực của hội nhập kinh tế và cạnh tranh
quốc tế ngày càng mạnh, nhưng nhiều địa phương và doanh nghiệp vẫn
"đủng đỉnh" để trông đợi vào sự đầu tư và bảo hộ của Nhà nước. Nguồn vốn
ngân sách đang khan hiếm và tín dụng ưu đãi bị sử dụng dàn trải, thậm chí
vẫn bao cấp tràn lan kéo dài cho nhiều doanh nghiệp nhà nước đang làm ăn
không có hiệu quả. Cơ quan quản lý nhà nước các cấp nhìn chung vẫn can
thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, trong khi lại bỏ qua
hoặc thực hiện không tốt những chức năng đích thực của mình. Biểu hiện cụ
thể là: quy hoạch vừa kém chất lượng vừa thiếu hiệu lực, chưa xây dựng
được hệ thống thể chế mang tính đồng bộ và thống nhất phù hợp với yêu cầu
khách quan của cơ chế cạnh tranh thị trường trong điều kiện toàn cầu hóa,
quản lý và sử dụng tài chính cũng như tài sản công còn rất lãng phí - nhất là
đối với đất đai, đầu tư công cộng và mua sắm bằng tiền ngân sách...Những
thiếu sót nêu trên cùng với sự yếu kém về kết cấu hạ tầng kỹ thuật có ảnh
hưởng rất tiêu cực đến khả năng tham dự toàn cầu hóa kinh tế và cạnh tranh
quốc tế của Việt Nam.

23


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

Để tăng cường khả năng cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế Việt Nam
trong bối cảnh toàn cầu hóa đang ngày càng tác động mạnh mẽ cần phối hợp
trí tuệ của nhiều nhà khoa học và quản lý ở nhiều cấp, nhiều ngành. Ở đây,
chúng tôi chỉ xin nêu một số vấn đề chủ yếu.
Trước hết, cần thống nhất nhận thức ưu thế lớn nhất của nền kinh tế
thị trường chính là ở tính cạnh tranh. Nói cách khác, cạnh tranh là linh hồn
của nền kinh tế thị trường. Vì thế, thủ tiêu hay hạn chế cạnh tranh tức là triệt
phá sức sống của nó.

Một là, Muốn có kinh tế thị trường theo nghĩa đích thực phải bảo vệ
và duy trì cạnh tranh bằng các thể chế cần thiết, đặc biệt là bằng các quy
định pháp luật minh bạch, dễ hiểu, dễ làm.
Hai là, nhanh chóng xác lập những điều kiện tiền đề cho chính sách
cạnh tranh. Theo đó cần xác định rõ chủ thể thị trường, vạch rõ ranh giới
giữa thị trường và Nhà nước; đồng thời, hình thành được hệ thống thị trường
đồng bộ và hoàn thiện.
Ba là, có "công nghệ" xây dựng chính sách cạnh tranh theo chuẩn mực
hiện đại, phù hợp với đòi hỏi khách quan của nền kinh tế thị trường và thông
lệ quốc tế.
Theo đó, kết hợp hợp lý và có hiệu quả các biện pháp pháp chế, với
kinh tế và biện pháp hành chính cần thiết. Về các biện pháp pháp chế, xác
định rõ chủ thể thị trường và đưa ra những quy định thật khách quan và chặt
chẽ để bảo đảm các chủ thể đó luôn được đối xử bình đẳng - đó là điều kiện
quan trọng hàng đầu để duy trì cạnh tranh một cách công bằng; đồng thời
phải chú trọng tăng cường hiệu lực của pháp luật đối với trật tự thị trường,
thúc đẩy việc thực hiện Luật Phá sản, sớm xây dựng và ban hành Luật Cạnh
tranh và chống độc quyền - làm cho luật này của Việt Nam ăn khớp với các
quy tắc thống nhất của khu vực và thế giới. Về các biện pháp kinh tế, cần

24


Tiểu luận: Lý luận và thực tiễn khi Việt Nam hội nhập Kinh tế Quốc tế

bảo đảm nguyên tắc không mâu thuẫn với các biện pháp pháp chế, trên cơ sở
đó xây dựng những nguyên tắc khách quan trong việc sử dụng các đòn bẩy
kinh tế như thuế, giá cả, tín dụng... để thúc đẩy cạnh tranh, đồng thời, tất cả
các chính sách khác có liên quan đều phải có tác dụng bảo vệ và khuyến
khích cạnh tranh, như chính sách phát triển các ngành, chính sách tài chính,

chính sách đầu tư, chính sách thương mại, chính sách việc làm và tiền
lương... Về các biện pháp hành chính, cần chú ý đến mối quan hệ giữa nó với
các biện pháp pháp chế và các biện pháp kinh tế; trên cơ sở đó, xác định rõ
chức năng và quyền hạn của các cơ quan chuyên trách và các chủ thể khác
khi họ trực tiếp dùng quyền lực hành chính để can thiệp, giám sát và quản lý
các hành vi thị trường của các doanh nghiệp. Các chức năng và quyền hạn đó
đều phải được quy định rõ ràng trong luật hành chính và có những điều
khoản tương ứng trong Luật Cạnh tranh.
Bốn là, đẩy mạnh nghiên cứu và thực hiện việc quốc tế hóa chính sách
cạnh tranh. Việt Nam sớm có các tổ chức chuyên trách xây dựng luật và
chính sách cạnh tranh. Trong quá trình này, cần chú trọng tính quốc tế hóa
của luật và chính sách cạnh tranh của Việt Nam (chú trọng các đối tác quan
trọng như ASEAN, Mỹ, Nhật Bản, EU, Trung Quốc, Hàn Quốc... và các tổ
chức quốc tế lớn như WTO, OECD, UNDP, UNCTAD...), đồng thời, đặc biệt
lưu ý đến mối quan hệ giữa chính sách và Luật Cạnh tranh của Việt Nam với
cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO...

25


×