Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Phân tích khổ thứ nhất bài thơ đất nước Nguyễn Khoa Điềm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.37 KB, 5 trang )

Phân tích khổ thứ nhất bài thơ "Đất nước"
ĐẤT NƯỚC
KHỔ 1
Đất nước (Đoạn 1)
Năm 1974, Nguyễn Khoa Điềm – một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ
nhà thơ trẻ trong những năm kháng chiến chống Mỹ, viết trường ca “ Mặt
đường khát vọng”. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ ở các thành
thị bị tạm chiếm ở Miền Nam, nhận rõ được bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ,
hướng về nhân dân, ý thức được sứ mệnhcủa thế hệ mình: đứng lên, xuống
đường hoà nhập với cuộc chiến đấu của dân tộc. Doạn trích “Đất Nước” trích
phần đầu chương V của trường ca là đoạn thơ hay nhất nhiều suy tư cảm xúc
dồn
nén
về

tưởng
“đất
nước
của
nhân
dân”
Quả thật cả đoạn thơ là những lời tâm tình ngọt ngào, lắng đọng mà sâu sắc
thấm thía; là nhưnghx khám phá về đất nước của nhân dân trên nhiều phương
diện. Bình giảng 9 câu đầu đoạn trích ta sẽ thấy được nhận thức của tác giả về
đất
nước
theo
bình
diện
văn
hoá.


Lúc này dường như tác giả tập trung trả lời câu hỏi: “ đất nước có từ khi nào?”.
Đúng vậy mọi đất nước đều có lịch sử, bề dày văn hoá riêng, mà nhà thơ lại
khám phá nó bằng những phương diện khác nhau. Nguyễn Trãi thì coi:

Như
nước
Đại
Việt
ta
từ
trước
Vốn
xưng
nền
văn
hiến
đã
lâu
Núi sông bờ cõi đã chia, phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ
Triệu,
Đinh,Lí,
Trần,
bao
đời
xây
nền
độc
lập...”
Còn với Nguyễn Khoa Điềm, ông không gắn lịch sử đất nước với một thời điểm

lịch sử cụ thể hay một thời gian trong quá khứ mà lại có một cách giải thích đầy
ngụ ý: “ Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”. Chẳng phải khi chúng ta sinh ra đất
nước đã tồn tại từ lâu, con người Việt Nam sinh ra trong lòng nước Việt. Vậy thì
đất nước ta hình thành từ bao giờ?. Đó là lúc cộng đồng dân cư người Việt có
bản sắc văn hoá, phong tục tập quán riêng. điều đó thể hiện bằng những câu
chuyện cổ tích, bắt đầu “ ngày xửa ngày xưa....”, hay bắt đầu từ những cái vô
cùng thân thuộc: “Đất nước có từ miếng trầu bà ăn....”
Ai trong mỗi chúng ta chẳng có một thời thơ ấu, nũng nịu đòi mẹ kể chuyện,
những câu chuyện cổ tích đã đi vào lòng mỗi con người Việt Nam từ tấm bé.
Những câu chuyện luôn bắt đầu từ câu : ngày xửa ngày xưa, xưa lắm
rồi....Những câu chuyện luôn là niềm mơ ước về một cuộc sống ấm no thanh
bình, là những phong tục tập quán, những tình cảm gia đình làng xóm thân
thương . Đất nước có trong những câu chuyện ấy. Ai trong chúng ta cũng chắc
chắn biết câu chuyện “ Trầu cau”, biết tình nghĩa đậm đà trong mỗi miếng trầu
bấy giờ bà ăn, là linh hồn là bản sắc độc đáo của đất Việt.


Đất
nước
bắt
đầu
từ
đó........
Nhưng đất nước đâu chỉ bắt đầu trong cảnh thanh bình no ấm mà nó lớn lên từ
trong vất vả, đau thương cùng những cuộc hành trình, trường chinh không nghỉ:
“Đất
nước
lớn
lên.....
.....xay,

giã,
dần,
sàng...”
Có lẽ hình ảnh biểu tượng cho dân tộc Việt Nam là hình ảnh cây tre, một loại
cây có sức sống mãnh liệt “ nòi tre đâu chịu mọc cong, chưa lên đã thẳng như
chông lạ thường” ( Tre Việt Nam, Nguyễn Duy). Nó ham ánh sáng và ngay
thẳng như tính cách con người Việt Nam. Lúc bình thường chở che làng xóm,
khi có quân thù thì thành vũ khí đuổi giặc. Hình ảnh Thánh Gióng gãy gậy sắt
nhổ tre mà đánh giặc đã chứng minh rằng cây tre là biểu tượng sức mạnh của
con người Việt Nam. Dân mình biết trồng tre mà đánh giặc, bởi vì thù này ắt
hẳn còn lâu. Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh đó, nó gợi ta liên tưởng đến đoạn
đường trường 4000 năm chìm trong máu lửa của một dân tộc bất khuất luôn
phải đương đầu với những kẻ thù tàn bạo nhất quyết bảo vệ đến cùng nòi giống
xứ sở mình.
Đất Nước là một chủ đề xuyên suốt bao trùm lên các tác phẩm trong giai đoạn
kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các nhà thơ nhà văn bằng tình cảm công dân
đã có nhiều phát hiện mới mẻ độc đáo về Tổ quốc, nhân dân. Tổ quốc thường
được soi chiếu từ bình diện lịch sử chống ngoại xâm, được khái quát bằng
những hình tượng kỳ vĩ, khai thác triệt để chất sử thi hoành tráng. Trong dòng
chủ lưu ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn lựa cách thể hiện riêng của mình, bằng
trải nghiệm tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vốn tri thức được đào
tạo bài bản từ mái trường xã hội chủ nghĩa, tạo nên chiều sâu của hình tượng
Đất Nước, hoà mạch thơ chính luận - trữ tình.
Trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước là gì? Đất Nước từ đâu ra?”, nhà thơ đã bắt đầu
bằng những kí ức tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của Đất Nước trong
nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất của con người. Những vẻ đẹp được khơi
lên từ mạch tâm tình, thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân
tộc. Cái hay của phần mở đầu chương Đất Nước chính là sự xuất hiện của hàng
loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:
Tóc mẹ thì búi sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Sức gợi từ những hình ảnh đã dựng lên cả một không gian văn hoá truyền
thống, mang theo hơi thở tâm tình của ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng
quên nhau” thấm thía tình nghĩa thủy chung. Mạch nguồn ấy tiếp tục với quá


trình trưởng thành của từng cá nhân, từ thuở cắp sách đến trường đến khoảnh
khắc rung động đầu đời
Mở đầu cho dòng suy tưởng, Nguyễn Khoa Điềm nhận thức về sự tồn tại lâu dài
của đất nước trong suốt "thời gian đằng đẵng" bốn ngàn năm văn hiến. Thi nhân
khẳng định:
Khi
ta
lớn
lên
đất
nước
đã

Đất nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa“... mẹ thường hay kể.

rồi..

Âm hưởng của lời thơ lắng đọng như giọng kể chuyện tâm tình thủ thỉ giữa
những kẻ thân thương, gợi ra ở người nghe dòng liên tưởng trôi về một thời quá
khứ xa xăm, trong ấy trầm tích bao huyền sử tự hào về cuộc sống chiến đấu của
cha ông. Nhà thơ đã sử dụng thi pháp tuyệt vời ở câu thơ bỏ ngỏ. Sau trạng ngữ

chỉ thời gian "Ngày xửa ngày xưa"..., lời kể của mẹ được chuyển sang cho
người đọc tự liên tưởng hình dung về bao hình tượng đẹp một thời làm xôn xao
tuổi mộng vàng như Thánh Gióng, Trần Quốc Toản, Mai An Tiêm... Cả một nền
văn hoá, văn học dân gian với bao thần thoại, truyền thuyết phong phú làm sao
có thể gói trọn trong mấy vần thơ. Thi nhân như trao cho người đọc chiếc chìa
khoá để tự mình khám phá cái kho tàng văn hoá phong phú tổ tiên trao lại. Lần
về mảnh vườn cổ tích ấy, những ai có lòng chắc chắn sẽ tự mình chắt chiu được
những giọt mật mà bồi dưỡng tâm hồn thiện chân, tìm đến một lẽ sống đẹp.Truy
tìm về cội nguồn Đất Nước, khó ai có thể xác định minh bạch cái ngày tháng
khởi thuỷ của nó, cho dù là nhà khảo cổ hay sử gia. Nguyễn Khoa Điềm lại xác
định cái buổi ban đầu ấy qua một nét sống giản dị nhưng đậm đà của những
người mẹ, người bà Việt Nam:
Đất
Nước
bắt
đầu
với
miếng
trầu
bây
Đất Nước lớn lên khi mình biết trồng tre mà đánh giặc

giờ



ăn

Không ai lấy tiêu chuẩn đo lường của nhà khoa học để bắt bẻ thi nhân. Nguyễn
Khoa Điềm khẳng định chân lí bằng một trực cảm thiên tài để lí giải một cách

cụ thể sinh động về sự khởi nguyên và phát triển của đất nước qua hình tượng
miếng trầu, cây tre. Những hình tượng bình thường quen thuộc trong đời sống
của nhân dân Việt Nam, nhưng mãi cho đến khi Nguyễn Khoa Điềm phát biểu,
cái chân lí ngỡ là hiển nhiên đấy, người đọc lắng lại một khoảnh khắc, sau đó
ngớ ra bao điều thú vị. Bởi lẽ, thẩm thấu vào các tế bào mỏng manh ấy, là
những mối quan hệ tình nghĩa truyền thống đẹp của con người Việt Nam.Trong
tục cúng lễ, miếng trầu quả cau là biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu
gửi đến hồn thiêng những bậc đã khuất, là nhịp cầu giao cảm với tiền nhân.
Miếng trầu gợi ra huyền sử tình yêu, nói lên mối quan hệ vợ chồng chung thuỷ,
nghĩa anh em Tân - Lang trọn vẹn. Và có lẽ từ đó, miếng trầu trở thành vật biểu
trưng cho tình yêu và hôn nhân. Miếng trầu giúp dẫn mối tìm nhau, để cho con
người phải lứa nên duyên, là nhân tố tạo nên bao đôi uyên ương chắp cánh
chung cành. Để rồi khi họ về già, thong thả nhai miếng trầu, nhớ buổi thanh


xuân tình nồng nghĩa đượm, mà đột nhiên nở nụ cười mãn nguyện chuyện tình
xưa.
Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước từ buổi "dân
mình biết trồng tre mà đánh giặc". Đất nước Việt có điều kiện thổ nhưỡng phù
hợp tạo điều kiện cho cây tre sinh sôi phát triển khắp mọi miền của Tổ Quốc,
đem lại một màu xanh bát ngát cho quê hương. Nguyễn Duy cũng từng trăn trở
về những phẩm chất kì lạ của cây tre Việt :
Tre
xanh
xanh
Chuyện
ngày
xưa
đã
Thân

gầy
guộc

sao
nên
luỹ

đâu
tre
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu?

tự


nên
cũng

bao
bờ
tre
mong
thành
tre
xanh

giờ?
xanh
manh
ơi?
tươi


Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất
đôi khi ngỡ là đối lập trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác,
đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình như cây tre mềm mại để hoá thành
những vật dụng xinh xắn trong cuộc sống con người: nhỏ nhắn như cây tăm, đôi
đũa; êm ái như chiếc nôi ru ta lớn lên vào đời; yên ổn vững chắc như "cái kèo
cái cột thành tên", làm nên ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau;
siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống như Nguyễn Duy so sánh:
Rễ
siêng
không
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù.

ngại

đất

nghèo

Đến khi cả dân tộc lên đường ra trận, quyết giành lại độc lập tự do, thì tre cũng
đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc Việt , thậm chí "một
cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ", bởi "nòi tre đâu chịu mọc cong, chưa lên
đã nhọn như chông lạ thường".
Từ những giá trị vật chất bình dị thân quen, Nguyễn Khoa Điềm gắn dòng suy
tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để
giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Đó không ai khác là những người mẹ, người
cha một đời kính trọng thuỷ chung, "thương nhau bằng gừng cay muối mặn".
Tình cảm chân thành ấy không phải là lớp son phấn với "sắc màu lộng lẫy, sáo
ngữ ồn ào", mà là những nét duyên như búi tóc mẹ bới sau đầu gọn gàng ý nhị,
đủ để làm cho con tim xao xuyến khi gần nhau, và khi xa thì không bao giờ

nguôi ngoai nhung nhớ, để rồi họ bật lên những câu ca dao nghe như muối xát
tâm can:
Thiếp
nhớ
chàng
tấm
phên
Chàng
nhớ
thiếp
khi
đắng
Ba
trăng

mấy
Mai nam vắng trước chiều nồm quạnh sau.


nuộc
lạt
nước
nghẹn
mươi

đứt
cơm
hôm



Nguyễn Khoa Điềm lại có một cách nhìn thấu triệt theo thời gian hao phí lao
động để kết tinh một hạt gạo trắng trong. Nó phải trải qua bao nắng sương vất
vả gieo cấy, xay giã, giần sàng.Thắm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị
mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Nhiều người chỉ biết hưởng thụ hững hờ
mà quên đi lời dạy "ăn quả nhớ kẻ trồng cây", nên Nguyễn Khoa Điềm đã khéo
léo nhắc nhở chúng ta nhai hạt cơm dẻo nên nhớ đến công lao của người làm ra
nó, để không làm họ buồn lòng phải cất lời nhắc nhở:
Ai
ơi
bưng
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

bát

cơm

đầy

Nguyễn Khoa Điềm thật tài tình, khi ông cụ thể hoá khái niệm đất nước trừu
tượng lớn lao cả về chiều "thời gian đằng đẵng", lẫn "không gian mênh mông"
vào trong những hình ảnh nhỏ bé như hạt gạo, nhưng lấp lánh bao tầng ý nghĩa
sâu sắc, có giá trị biểu trưng những nét bản chất và tinh hoa của dân tộc, của Đất
Nước Việt Nam. Đề cập đến hạt gạo là nói đến nền kinh tế nông nghiệp đặc
trưng, được quy định bởi điều kiện thổ nhưỡng thuận lợi của nước Việt. Nhân
dân lao động gắn mình trong môi trường đất đai từ đời này qua đời khác, sẽ
định hình nên những nét cốt cách của con người Việt . Họ yêu quý đất đến mức
xem "Tấc đất tấc vàng". Và vì vậy, họ sẵn sàng hiến thân vì non sông đất nước
như Chế Lan Viên từng cảm xúc:
Ôi
Tổ

Quốc
ta
yêu
Như
mẹ
cha
ta
như
Ôi
Tổ
Quốc
nếu
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông

như
vợ
cần

máu
như
ta

thịt
chồng
chết

( Sao chiến thắng )
Tính triết lý trong dòng suy tưởng của Nguyễn Khoa Điềm vừa sâu sắc vừa đầy
sức thuyết phục. Chỉ vài dòng thơ ngắn và tinh tế, thi nhân đã đi đến một kết
luận có tính khẳng định "Đất Nước có từ ngày đó ..." và do nhân dân lao động

tạo dựng nên, để cho chúng ta hôm nay được thụ hưởng hạnh phúc một cách cụ
thể thiết thực, chứ không hề là một tình cảm thuần tuý mơ hồ đã thuộc về quá
khứ.



×