1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nhiệm vụ quan trọng của giáo dục và đào tạo là đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thế giới đặc
biệt thế giới đang bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Trong đó phải
nói đến là chất lượng lao động phải được đào tạo đạt trình độ chuẩn trong
nước, khu vực và trên thế giới.
1.2. Nhiệm vụ của các nhà trường phổ thông được nêu trong Điều lệ
trường phổ thông như: “Các trường có nhiệm vụ trang bị cho học sinh có trình
độ tri thức phổ thông cơ bản phù hợp với thực tiễn trên cơ sở đó hình thành và
phát triển nhân cách toàn diện cho học sinh”. Trong quá trình đào tạo học
sinh, kiểm tra, đánh giá là nhân tố quan trọng không thể thiếu trong quá trình
đào tạo và khẳng định chất lượng đào tạo. Ta biết rằng trong sản xuất kiểm
tra, đánh giá chất lượng sản phẩm là khâu quan trọng quyết định trong quy
trình sản xuất hàng hóa, trong dạy học việc kiểm tra, đánh giá là khâu không
thể thiếu được trong quá trình dạy học, nó vừa là động lực vừa là nhân tố
nâng cao chất lượng dạy học trong các nhà trường.
1.3. Vai trò của kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh nhằm đánh giá trình độ
nhận thức của học sinh hiện tại so với mục tiêu đào tạo. Từ đó đánh giá trình
độ nhận thức chung của học sinh và khả năng giảng dạy của người thầy. Kiểm
tra, đánh giá nhằm để phát hiện kịp thời những lệch lạc, trì trệ và các nguyên
nhân của nó để từ đó đề ra các quyết định khắc phục, nhằm điều chỉnh quá
trình điều hành, cải tiến các biện pháp chỉ đạo để đạt kết quả cao nhất của quá
trình dạy học. Kiểm tra, đánh giá còn phát hiện mối quan hệ ngược để nắm
được các hiệu quả của các quyết định, các kế hoạch và khả năng thực thi
chúng. Kiểm tra, đánh giá khách quan đúng mức sẽ là động lực thúc đẩy quá
2
trình dạy và học của thầy và trò. Kết quả kiểm tra, đánh giá để kịp thời khen
thưởng, động viên, khích lệ thầy và trò. Điều chỉnh hoạt động dạy học của
thầy cho phù hợp với từng đối tượng người học. Kiểm tra, đánh giá còn nhằm
phân loại từng đối trượng học sinh để có kế hoạch bồi dưỡng cho phù hợp, sát
với các đối tượng.
1.4. Trong công tác giáo dục hiện nay, quản lý hoạt động kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh theo định hướng phát triển năng lực,
đặc biệt công tác thi cử còn nhiều bất cập (hình thức thi THPT quốc gia
thường xuyên thay đổi) hoặc có làm nhưng mới chỉ ở góc độ hình thức chưa
đi sâu, đi sát, chặt chẽ. Trong đó việc quản lý của Hiệu trưởng trường THPT
Búng Lao chưa chú trọng nhiều công tác này, do vậy cần có một biện pháp
quản lý chặt chẽ theo một quy trình phù hợp đảm bảo tính trung thực, khách
quan sẽ nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập của học sinh, thích ứng được yêu cầu thay đổi hình thức thi THPT quốc
gia của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Vì vậy, để góp phần khắc phục những hạn chế trong khâu quản lý công
tác này, từng bước hoàn thiện hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập
của học sinh cho phù hợp với điều kiện của nhà trường. Tác giả chọn đề tài
nghiên cứu: “Quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh ở trường THPT Búng Lao, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên theo
định hướng phát triển năng lực”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực trạng công tác quản lý hoạt động kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh trường THPT Búng Lao, huyện Mường
Ảng, tỉnh Điện Biên theo định hướng phát triển năng lực, đề xuất các biện
pháp cải tiến quản lý của Hiệu trưởng trường THPT về hoạt động kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập của học sinh theo yêu cầu đổi mới góp phần nâng
cao chất lượng dạy học và giáo dục toàn diện của nhà trường.
3
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu lý luận về quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh THPT theo định hướng phát triển năng lực.
3.2. Khảo sát và đánh giá thực trạng quản lý hoạt động kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập của học sinh ở trường THPT Búng Lao, huyện Mường
Ảng, tỉnh Điện Biên theo định hướng phát triển năng lực, tìm ra nguyên nhân
của thực trạng ấy.
3.3. Đề xuất các biện pháp quản lý nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh ở trường THPT Búng Lao, huyện
Mường Ảng, tỉnh Điện Biên theo định hướng phát triển năng lực.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh ở trường THPT Búng Lao, Mường Ảng, Điện Biên theo định hướng phát
triển năng lực.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Biện pháp quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học
sinh định kỳ theo quy định của Sở GD&ĐT, không đi sâu vào biện pháp đánh
giá quá trình học tập của học sinh.
Chủ thể sử dụng biện pháp đề xuất trong luận văn này là Hiệu trưởng
trường THPT Búng Lao, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Đọc và phân tích các tài liệu, thông tin có liên quan đến kiểm tra, đánh
giá kết quả học tập của học sinh theo định hướng phát triển năng lực. Xây
dựng cơ sở lý luận của đề tài.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
4
5.2.1. Điều tra bằng bảng hỏi đối với giáo viên nhằm phát hiện thực
trạng quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh của
Hiệu trưởng nhà trường.
5.2.2. Nhóm phỏng vấn: Phỏng vấn cá nhân đối với cán bộ quản lý như
Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng và Tổ trưởng chuyên môn.
5.2.3. Nghiên cứu sản phẩm là để kiểm tra, để phân tích thực trạng
đánh giá học sinh theo định hướng phát triển năng lực như thế nào?
5.2.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm của Hiệu trưởng có biện pháp
quản lý hoạt động kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo định
hướng phát triển năng lực để tham khảo khi đề xuất biện pháp quản lý.
5.3. Nhóm phương pháp bổ trợ
5.3.1. Phương pháp chuyên gia
Trưng cầu ý kiến các chuyên gia về các nội dung như: Đánh giá thực
trạng nghiên cứu; đánh giá về tính khả thi và ý nghĩa của các giải pháp được
đề xuất.
5.3.2. Phương pháp toán thống kê
Sử dụng toán thống kê để xử lí các số liệu do các phương pháp khác
đem lại và đánh giá độ tin cậy của biện pháp.
5
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
TRONG NHÀ TRƯỜNG THPT
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Mọi hoạt động giáo dục đều bắt đầu từ việc xác định mục tiêu và kết
thúc bằng đánh giá. Đánh giá có quan hệ chặt chẽ với kiểm tra, dựa vào kết
quả của kiểm tra và là kết quả của kiểm tra. Do đó để thực hiện tốt vai trò của
KT,ĐG nói chung và KT,ĐG kết quả học tập của học sinh nói riêng, chúng ta
cần có các biện pháp quản lý phù hợp để làm tăng hiệu quả và chất lượng của
KT,ĐG kết quả học tập của học sinh; KT,ĐG đúng năng lực của học sinh và
phù hợp với từng đối tượng học sinh. Trong mỗi giai đoạn phát triển của giáo
dục vấn đề thiết yếu là nội dung chương trình sách giáo khoa và cùng với nó
là các phương pháp, kỹ thuật, hình thức KT,ĐG kết quả học tập của học sinh.
Vấn đề này được nhiều tác giả nghiên cứu ở nhiều góc độ, môi trường khác
nhau nhưng tất cả các tác giả đều nhấn mạnh ý nghĩa và tầm quan trọng của
KT,ĐG kết quả học tập của học sinh.
1.1.1. Trên thế giới
Đánh giá giáo dục trên thế giới là một môn khoa học được nghiên cứu
và giảng dạy tại các trường Đại học.
Ralph Tyler được coi là một trong những người đầu tiên đưa ra khái
niệm “đánh giá giáo dục”, Ông sử dụng thuật ngữ đánh giá để biểu thị quy
trình đánh giá sự tiến bộ của người học theo các mục tiêu người học đạt được.
Ông cho rằng quy trình này rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin để
đạt được các mục tiêu và độ chính xác, hiệu quả trong quá trình học tập.
Ralph Tyler đã đưa ra sơ đồ thể hiện 3 yếu tố chính trong quá trình giáo dục
là: Mục tiêu; trải nghiệm hoạt động học tập và đánh giá người học.
6
Các mục tiêu
Trải nghiệm hoạt động học tập
Đánh giá người học
Ralph Tyler cho rằng, đánh giá người học trong quá trình giáo dục là
cần thiết vì nó liên quan đến việc kiểm tra mức độ tối đa có thể đạt được các
mục tiêu của chương trình. Trong đánh giá, thực thi mô thức của Tyler yêu
cầu trình bày rõ ràng mục tiêu, kỹ thuật trình bày mục tiêu. Vì vậy đã ra đời
phân loại mục tiêu giáo dục.
Năm 1956, Benjamin S.Bloom và các cộng sự của mình đã tiến hành
phân loại mục tiêu giáo dục trong lĩnh vực nhận thức, nó có tác dụng quan
trọng trong lý luận đánh giá giáo dục và hoàn thiện việc học tập. Cuốn sách:
“Nguyên tắc phân loại mục tiêu giáo dục: lĩnh vực nhận thức” của Bloom
và các cộng sự viết gồm 2 phần. Phần 1 cuốn sách phân tích sâu sắc nguyên
tắc xây dựng mục tiêu giáo dục, phân tích các đặc tính và ý nghĩa của lĩnh
vực tri thức và đưa ra một số cách thức phân loại mục tiêu giáo dục. Phần 2
viết về nguyên tắc phân loại và những tài liệu minh họa, phần này Bloom
đã trình bày chi tiết về 6 cấp độ nhận thức: nhận biết, thông hiểu, áp dụng,
phân tích, tổng hợp và đánh giá. Cuốn sách này là kim chỉ nam trong việc
phân loại mục tiêu giáo dục để xây dựng quy trình kiểm tra, đánh giá giáo
dục hiện nay. Năm 1971, B.S Bloom cùng với George F.Madaus và
J.Thomas Hastings cho ra đời cuốn sách “Evaluation to improve learning”
(đánh giá để thúc đẩy học tập). Cuốn sách dành cho giáo viên, viết về kỹ thuật
đánh giá kết quả học tập của học sinh. Nếu được áp dụng đúng cách, việc
đánh giá học sinh giúp giáo viên hỗ trợ học sinh cải thiện khả năng học tập.
Bên cạnh đó, một chương trình đánh giá quốc tế đang được nhiều nước
triển khai, áp dụng đó là: Bài toán nổi tiếng về đánh giá năng lực học tập của
học sinh ở lứa tuổi 15 là bài toán Pissa. Bài toán Pissa yêu cầu học sinh hiện
7
nay phải biết vận dụng các kiến thức, kỹ năng vào trong cuộc sống sao cho có
phương án lựa chọn tốt nhất.
1.1.2. Những nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam từ sau cách mạng tháng 8/1945 đến nay, KT,ĐG đã có nhiều
thay đổi căn bản. Nền giáo dục đã trải qua 3 lần cải cách, với mỗi lần cải cách
mục tiêu GD&ĐT có nhiều điều chỉnh cho phù hợp với tình hình đất nước. Đặc
biệt là những năm gần đây cùng với sự phát triển của GD&ĐT hoạt động nghiên
cứu KT,ĐG; nghiên cứu công tác quản lý hoạt động KT,ĐG có những phát triển
mới của nhiều tác giả như: Nguyễn Đức Chính, Đặng Vũ Hoạt, … xoay quanh
thực trạng và giải pháp trong KT,ĐG trong giáo dục. Trong đó tác giả Đặng Vũ
Hoạt [9] với bài viết của mình đã trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về
KT,ĐG tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh. Với tư cách là nhà nghiên cứu sâu
về lý luận dạy học, tác giả đã trình bày những vấn đề về vị trí, chức năng và các
quan điểm KT,ĐG tri thức của học sinh dưới góc độ lý luận dạy học hiện đại.
Các tác giả: Nguyễn Đức Chính – Đo lường đánh giá trong giáo dục;
Trần Thị Tuyết Oanh – Đo lường và đánh giá kết quả học tập; Dương Thiệu
Tống – Trắc nghiệm và đo lường thành quả học tập;…
Bên cạnh những nhà nghiên cứu sâu về KT,ĐG kết quả học tập của học
sinh còn có những hội nghị, hội thảo, các bài viết nhấn mạnh về KT,ĐG quả
học tập của học sinh như: Kỷ yếu hội thảo khoa học về KT,ĐG để phát huy
tính tích cực của học sinh bậc trung học của trường Đại học sư phạm T.P Hồ
Chí Minh/viện nghiên cứu giáo dục tháng 6/2006; Hội thảo cơ cấu hệ thống
giáo dục phổ thông tháng 4/2012; Mục tiêu và chuẩn giáo dục phổ thông tháng
4/2012; Bài viết xu hướng đánh giá dựa trên năng lực học sinh trên tạp trí giáo
dục và thời đại online; Các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu về
vấn đề này ở các địa bàn khác nhau.
Trong khi đó ở huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên tác giả chưa thấy
đề tài nào nghiên cứu về vấn đề quản lý hoạt động KT,ĐG kết quả học tập
8
của học sinh theo định hướng phát triển năng lực. Vì vậy, đề tài tác giả lựa
chọn nghiên cứu vừa cần thiết, vừa có tính mới trên địa bàn nhằm tìm ra các
biện pháp quản lý hoạt động KT,ĐG kết quả học tập của học sinh để góp
phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục tại trường THPT Búng Lao nói
riêng và của tỉnh Điện Biên nói chung.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Quản lý và chức năng quản lý
Quản lý giáo dục cũng giống như quản lý xã hội là hoạt động có ý thức
của con người nhằm theo đuổi những mục đích, mục tiêu của mình và có
nhiều định nghĩa.
Theo tác giả Trần Kiểm: “Quản lý giáo dục là hoạt động tự giác của
chủ thể quản lý nhằm huy động, tổ chức, điều phối, điều chỉnh, giám sát…
một cách có hiệu quả các nguồn lực giáo dục (nhân lực, vật lực, tài lực) phục
vụ cho mục tiêu giáo dục, đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế xã hội” [20].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý giáo dục là hệ thống
những tác động có chủ đích, có kế hoạch, hợp quy luật của các chủ thể quản
lý làm cho hệ vận hành theo đường lối, nguyên lý của Đảng, thực hiện các
tính chất của nhà trường XHCN Việt Nam mà tiêu điểm hội tụ là quá trình
dạy học, giáo dục thế hệ trẻ, đưa hệ giáo dục đến mục tiêu dự kiến lên trạng
thái mới về chất”[27].
Như vậy, từ khái niệm trên ta có thể hiểu quản lý giáo dục chính là quá
trình tác động tự giác, có ý thức, có mục đích, có hệ thống, có định hướng của
ngành giáo dục, nhà quản lý giáo dục trong việc vận hành nguyên lý, phương
pháp chung nhất của khoa học nhằm đạt những mục tiêu đề ra. Những tác
động đó thực chất là những tác động khoa học đến nhà trường, làm cho nhà
trường tổ chức một cách khoa học có kế hoạch đảm bảo quá trình giáo dục đạt
được mục tiêu giáo dục và được thể hiện qua 4 chức năng quản lý:
a) Lập kế hoạch (kế hoạch hóa).
9
Từ trạng thái xuất phát của hệ (trường học), căn cứ vào mọi tiềm năng
đã có và sẽ có, dự báo trạng thái kết thúc của hệ (và những trạng thái trung
gian), vạch rõ hệ thống mục tiêu, nội dung hoạt động và hệ thống các biện
pháp nhằm đưa hệ đến trạng thái mong muốn vào thời gian nhất định.
b) Tổ chức thực hiện.
Tổ chức là phối hợp các tác động bộ phận lại với nhau làm cho chúng
tạo nên một tác động thích hợp, mà hiệu quả của tác động tích hợp lớn hơn
tổng các hiệu quả của các tác động bộ phận.
c) Chỉ đạo thực hiện.
Chỉ đạo là huy động lực lượng vào việc thực hiện kế hoạch, là điều
hành mọi việc nhằm đảm bảo cho hệ quản lý vận hành thuận lợi. Chỉ đạo là
biến mục tiêu dự kiến thành kết quả, biến kế hoạch thành hiện thực.
Chỉ đạo là tổ chức một cách khoa học lao động của cả tập thể người
cũng như từng người.
d) Kiểm tra.
Kiểm tra là để đánh giá thực trạng kết thúc của hệ, xác định xem mục
tiêu dự kiến ban đầu và toàn bộ kế hoạch đề ra đã đạt được ở mức độ nào,
đồng thời phát hiện những sai sót, lệch lạc trong kế hoạch, những gì còn trong
kế hoạch chưa đạt được, những khó khăn, yếu kém, trở ngại, thậm trí những
thất bại, những vấn để nảy sinh mà chủ thể quản lý cần lưu ý giải quyết trong
kế hoạch mới. Tìm hiểu những nguyên nhân của sai sót, lệch lạc hay những
thất bại đã phát hiện và điều chỉnh kế hoạch, tìm biện pháp uốn nắn lệch lạc
và loại trừ chúng nếu có thể. Kiểm tra còn giúp cho việc thu nhận mối liên hệ
ngược trong quá trình quản lý, giúp chủ thể quản lý điều khiển một cách tối
ưu hệ quản lý. Có thể nói “không có kiểm tra thì không có quản lý”.
Tất cả những chức năng quản lý ở trên đều có mối quan hệ qua lại và
quy định lẫn nhau. Những chức năng quản lý có thể diễn ra ở nhiều giai đoạn
của quá trình quản lý nói chung và quản lý nhà trường nói riêng.
10
1.2.2. Quản lý nhà trường của Hiệu trưởng
Hiệu trưởng là người đại diện chức trách nhà nước về quản lý giáo dục
ở trong trường học. Do đó họ phải quán triệt tất cả các chỉ thị, nghị quyết, các
văn bản, quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà
nước, của Bộ GD&ĐT, của Sở GD&ĐT để thực hiện mục đích, mục tiêu của
nền giáo dục XHCN đối với thế hệ trẻ, làm phát triển toàn bộ năng lực của
mỗi cá nhân thực hiện. Nền giáo dục có nội dung: “Dân tộc, khoa học, đại
chúng” và “của dân, do dân, vì dân”.
1.2.3. Quản lý quá trình dạy học của Hiệu trưởng
PGS.TS Phan Hồng Vinh cho rằng: “Quản lý các hoạt động dạy học và
giáo dục là những tác động có mục đích, có kế hoạch của Hiệu trưởng đến tập
thể giáo viên và học sinh và những lực lượng trong và ngoài nhà trường nhằm
huy động họ tham gia, cộng tác, phối hợp trong các hoạt động của nhà trường
giúp quá trình dạy học và giáo dục vận động tối ưu tới các mục tiêu dự kiến”.
Quá trình dạy học bao gồm 2 hoạt động thống nhất biện chứng: Hoạt
động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh; Trong đó với sự hướng
dẫn, tổ chức, điều khiển của giáo viên, người học tự giác, tích cực, tự tổ chức,
tự điều khiển hoạt động học tập của mình nhằm thực hiện những nhiệm vụ dạy
học. Trong hoạt động dạy học, hoạt động dạy của giáo viên giữ vai trò chủ đạo,
hoạt động học của học sinh có vai trò tự giác, chủ động, tích cực. Hoạt động
dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh có mối liên hệ tác động qua lại
lẫn nhau. Nếu thiếu một trong hai hoạt động đó việc dạy học không diễn ra.
Nội dung quản lý quá trình dạy học của Hiệu trưởng:
- Lập kế hoạch: Xây dựng kế hoạch năm học, các kế hoạch hoạt động
của các tổ, nhóm chuyên môn, tổ Hành chính - Văn phòng, các tổ chức đoàn
thể trong trường.
- Tổ chức: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, huy động các nguồn lực như vật
lực, tài lực bên trong và bên ngoài nhà trường để thực hiện kế hoạch.
11
- Chỉ đạo: Việc thực hiện mục tiêu chương trình dạy học, hoạt động bồi
dưỡng chuyên môn, năng lực sư phạm cho giáo viên, xây dựng nền nếp dạy
học và đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng đổi mới KT,ĐG hay
theo phương án thi mới của cấp trên.
- Kiểm tra, đánh giá kết quả dạy học và thực hiện mục tiêu, kế hoạch
dạy học.
1.2.4. Quản lý hoạt động KT,ĐG kết quả học tập của học sinh
1.2.4.1. Khái niệm kiểm tra
Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học: “Kiểm tra là quá trình
sử dụng các công cụ để xem xét sự phù hợp giữa sản phẩm và các tiêu chí đã
đề ra về chất lượng hoặc số lượng của sản phẩm mà không quan tâm đến
quyết định đề ra tiếp theo”.
Kết quả của kiểm tra không cho ta giá trị về mặt giải pháp nhưng lại có
ý nghĩa về đánh giá bởi vì kết quả kiểm tra là cơ sở để đánh giá. Quá trình
đánh giá hàm chứa trong đó cả quy trình kiểm tra.
Kiểm tra kết quả học tập của học sinh là quá trình giáo viên thu thập
thông tin về kết quả học tập của học sinh. Các thông tin này giúp cho giáo
viên kiểm soát được quá trình dạy học, phân loại đối tượng và giúp đỡ học
sinh. Những thông tin thu thập được so sánh với những tiêu chuẩn nhất định
để làm công tác đánh giá [24].
1.2.4.2. Khái niệm đánh giá
Vấn đề đánh giá có nhiều tài liệu nghiên cứu và đưa ra nhiều định nghĩa:
Ralph Tyler, nhà giáo dục và tâm lý học người Mỹ cho rằng: “Quá trình
đánh giá là quá trình xác định mức độ thực hiện các mục tiêu trong quá trình
dạy học”.
Theo tác giả Nguyễn Bá Kim: “Đánh giá là quá trình hình thành những
nhận định, phán đoán về kết quả công việc, dựa vào sự phân tích những thông
tin thu được, đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra nhằm đề xuất
12
những quyết định thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh nâng cao chất
lượng và hiệu quả công việc”.
Khái niệm về đánh giá được nhiều tác giả trình bày dưới nhiều góc độ
khác nhau, tuy nhiên nội dung cốt lõi các khái niệm đều thống nhất rằng:
Đánh giá là một quá trình để tiến hành có hệ thống, để xác định mức độ đạt
được của học sinh về mục tiêu đào tạo. Nó có thể bao gồm mô tả, liệt kê về
mặt định tính hay định lượng những hành vi (kiến thức, kỹ năng, thái độ) của
người học ở thời điểm hiện tại đang xem xét, đối chiếu với những tiêu chí của
mục đích dự kiến mong muốn, nhằm có quyết định thích hợp để nâng cao
chất lượng và hiệu quả của việc dạy và học.
Kiểm tra và đánh giá là hai quá trình có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Kiểm tra là cơ sở để đánh giá, đánh giá phải dựa trên kết quả của kiểm tra.
Tóm lại, kiểm tra và đánh giá là hai công việc có thứ tự và đan xen
nhằm miêu tả và tập hợp những minh chứng về kết quả của quá trình giáo dục
đối chiếu với mục tiêu cần đạt được. Trong thực tế có thể tiến hành thu thập
những thông tin nhưng không đánh giá. Nhưng để đánh giá được phải tiến
hành kiểm tra, thông qua kiểm tra mới có thể đánh giá và đánh giá chính là
kết quả của kiểm tra.
1.2.4.3. Quản lý hoạt động KT,ĐG kết quả học tập của học sinh là một
khâu trong quá trình dạy học. Vì vậy, quản lý hoạt động này là quản lý cả một
quá trình liên tục bao gồm nhiều công việc như: Xây dựng ma trận đề kiểm
tra; Ra đề kiểm tra; Nội dung đề kiểm tra và hình thức kiểm tra; Xây dựng
đáp án, biểu điểm; Tổ chức KT,ĐG kết quả học tập của học sinh.
1.2.5. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo định
hướng phát triển năng lực
1.2.5.1. Khái niệm năng lực
- Có rất nhiều khái niệm về năng lực:
13
PGS.TS Phạm Hồng Quang cho rằng: “Năng lực là khả năng thực hiện
thành công một hoạt động nào đó hay năng lực thực hiện. Năng lực mang tính
cá nhân hóa, năng lực có thể được hình thành và phát triển thông qua giáo dục
và đào tạo, bồi dưỡng và tự trải nghiệm qua thực tiễn”.
PGS.TS Nguyễn Minh Đức cho rằng: “Năng lực được hiểu là khả năng
giải quyết một công việc nào đó không phải chỉ trong sách vở mà phải trong
đời sống thực tiễn và không chỉ quan tâm đến mức độ đạt được cao hay thấp
mà cả về chất lượng nữa”.
Khái niệm năng lực được nhiều tác giả trình bày dưới nhiều góc độ
khác nhau nhưng chúng ta có thể hiểu khái niệm năng lực như sau:
- Năng lực được thể hiện như một hệ thống khả năng, sự thành thạo
hoặc những kỹ năng thiết yếu có thể giúp con người đủ điều kiện để vươn tới
một mục đích cụ thể.
- Năng lực là những khả năng cơ bản dựa trên cơ sở tri thức, kinh
nghiệm, các giá trị và thiên hướng của một con người được phát triển thông
qua thực hành giáo dục.
1.2.5.2. Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh theo định
hướng phát triển năng lực
Giáo sư Nguyễn Đức Chính cho rằng: “Kết quả học tập của học sinh là
mức độ kiến thức, kỹ năng hay nhận thức của người học trong một lĩnh vực
(môn học) nào đó”. Kết quả học tập được hiểu theo hai nghĩa: Mức độ người
học đạt được so với các mục tiêu đã xác định (theo tiêu chí) hoặc là mức độ
người học đạt được so với các người cùng học khác (theo tiêu chuẩn).
Các nguyên tắc của kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh [22]:
- Đảm bảo theo đúng mục đích KT,ĐG kết quả học tập của học sinh.
- Đảm bảo theo đúng mục tiêu môn học.
- Đảm bảo các công cụ và phương pháp kiểm tra đánh giá sử dụng có
độ giá trị, độ tin cậy và độ phân biệt cao.
14
- Tác động tích cực đến người học và người dạy.
- Đảm bảo tính khả thi và hiệu quả.
Tính mục đích của kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh [19]:
a) Tính giá trị: Đánh giá phải đúng mục tiêu và nội dung, tính giá trị về
nội dung là ưu tiên hàng đầu của mọi cách đánh giá, tức là sự đo lường một
mẫu chọn đại diện bao quát được trong phạm vi rộng các kiến thức cần đo
theo mục tiêu học tập (về kiến thức, kĩ năng, thái độ).
b) Tính tin cậy: Mọi cách đánh giá học tập là sự đo lường tính hằng
định và chính xác của kết quả kiểm tra, đánh giá, kỹ thuật soạn thảo và chất
lượng sử dụng các cách KT,ĐG ảnh hưởng tới độ tin cậy.
c) Tính khả thi: Chọn được hình thức kiểm tra và phương pháp kiểm
tra, đánh giá phù hợp với nội dung học tập cần kiểm tra không làm hao phí
thời gian, sức lực và tiền của trong quá trình tiến hành KT,ĐG nhưng vẫn
đảm bảo các yêu cầu của mục đích đánh giá là đạt được tính khả thi, cũng
chính là đạt được tính hiệu quả trong giáo dục.
Các yêu cầu khi kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh [20]:
Kiểm tra, đánh giá phải đảm bảo tính khách quan:
Đánh giá khách quan, chính xác là yêu cầu đòi hỏi của xã hội đối với chất
lượng của giáo dục, đánh giá khách quan, chính xác tạo ra yếu tố tâm lí tích cực
cho người được đánh giá, động viên người được đánh giá vươn lên. Tính khách
quan của KT,ĐG kết quả học tập là sự phản ánh trung thực kết quả đạt được về
trình độ nhận thức của học sinh so với yêu cầu của chương trình học. Tính
khách quan của KT,ĐG đòi hỏi việc xây dựng thang đánh giá phải cụ thể, rõ
ràng, đảm bảo phản ánh được chính xác kết quả học tập của học sinh. Kết quả
đánh giá đó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của người đánh giá.
Để đảm bảo tính khách quan, cần giáo dục cho học sinh ý thức đúng
đắn đối với việc kiểm tra, hình thành cho học sinh kĩ năng tự kiểm tra, tự
đánh giá một cách đúng đắn để học sinh có thể điều chỉnh cách học của mình,
15
ngăn ngừa thái độ đối phó với việc kiểm tra. Mặt khác KT,ĐG đảm bảo khách
quan đòi hỏi từ khâu lựa chọn phương pháp, hình thức KT,ĐG, xây dựng câu
hỏi, quá trình tổ chức KT,ĐG đến việc chấm bài... phải đáp ứng được yêu cầu
của lí luận dạy học.
Kiểm tra - đánh giá đảm bảo tính toàn diện:
Đòi hỏi phải đánh giá đầy đủ các mặt, các khía cạnh cần đánh giá theo
yêu cầu, mục đích đặt ra, đánh giá toàn diện cho phép xem xét đối tượng được
đánh giá một cách đầy đủ, khách quan, chính xác, tránh sự đánh giá phiến
diện. Kiểm tra, đánh giá toàn diện kết quả học tập cần được xem xét đầy đủ
về số lượng và chất lượng. Cần tính đến các mặt như: khối lượng tri thức, kĩ
năng, kĩ xảo mà người học nắm vững; năng lực vận dụng và khả năng sáng
tạo; tinh thần thái độ, sự nỗ lực của học sinh. Để KT,ĐG giá đảm bảo tính
toàn diện cần phải căn cứ vào mục tiêu dạy học, trên cơ sở đó xác định các
nội dung đánh giá sao cho có thể đánh giá đầy đủ các mục tiêu.
Kiểm tra - đánh giá đảm bảo tính thường xuyên, có hệ thống:
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh cần phải được tiến
hành thường xuyên, có hệ thống, có kế hoạch, đánh giá trước, trong và sau khi
học một phần của chương trình, số lần kiểm tra phải đảm bảo đủ để có thể
đánh giá chính xác. Đánh giá thường xuyên, hệ thống sẽ cung cấp kịp thời
những thông tin ngược cho giáo viên và học sinh, giúp cho giáo viên điều
chỉnh liên tục hoạt động dạy, học sinh điều chỉnh hoạt động học nhằm duy trì
tính tích cực, chủ động trong học tập.
Để đảm bảo tính toàn diện của kiểm tra, đánh giá kết quả học tập đòi
hỏi phải tiến hành kiểm tra, đánh giá ở từng chi tiết học, từng chương, từng
học kì, năm học, tạo cho học sinh có ý thức trách nhiệm trong học tập.
Kiểm tra, đánh giá thường xuyên, có hệ thống sẽ định kì cung cấp cho
cán bộ quản lí giáo dục, cho giáo viên đầy đủ những thông tin để điều chỉnh
kịp thời các hoạt động giáo dục, là cơ sở để đánh giá một cách toàn diện.
16
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập phải đảm bảo tính phát triển:
Kiểm tra, đánh giá phải tạo ra được động lực để thúc đẩy đối tượng
được đánh giá vươn lên, có tác dụng thúc đẩy những mặt tốt, hạn chế những
mặt tiêu cực.
Các yêu cầu trên có mối liên hệ với nhau, chúng cần phải được thực
hiện đồng thời trong quá trình kiểm tra, đánh giá.
Khi đảm bảo 4 yêu cầu KT,ĐG kết quả học tập của học sinh sẽ xuất
hiện các xu hướng KT,ĐG kết quả học tập của học sinh:
Đánh giá thay thế: Đó là những đánh giá trong khi giảng dạy, giúp cho
giáo viên có những bước quyết định trong mọi thời điểm, đánh giá thay thế
bao gồm quan sát, thao tác, trình bày miệng, thử nghiệm, đánh giá dựa trên cơ
sở thành tích học tập, hồ sơ học tập, phỏng vấn và đề án. Một đánh giá thay
thế là một phương pháp khác với các bài kiểm tra giấy - bút truyền thống, đặc
biệt là hầu hết với các bài kiểm tra trắc nghiệm. Đánh giá này lôi cuốn học
sinh vào học tập và đòi hỏi phải có những kỹ năng tư duy, nhằm chuẩn bị cho
học sinh có thể đảm nhận được những công việc ngày càng phức tạp.
Đánh giá kết hợp với giảng dạy: Đổi mới đánh giá học sinh là đánh giá
trong toàn quá trình học tập, tức là đánh giá được cả trước, trong và sau khi
học trên lớp. Trong giờ học giáo viên không nên chỉ kiểm tra lấy điểm vào sổ
vào thời điểm đầu giờ học mà cần kiểm tra trong cả quá trình học tập của học
sinh, qua đó có được thông tin phản hồi, giúp giáo viên điều chỉnh quá trình
dạy, đồng thời giúp học sinh điều chỉnh quá trình học. Nếu thực hiện đều như
vậy học sinh sẽ hiểu và vươn tới tự đánh giá, tự ý thức bản thân.
Học sinh tự đánh giá: Đòi hỏi học sinh tự đánh giá, không phụ thuộc
vào những người khác để có thông tin phản hồi.
Các tiêu chuẩn và tiêu chí công khai: Những xu hướng mới đây ngày
càng công khai hóa các tiêu chuẩn và tiêu chí là những phương thức tiện dụng
17
bất kể đánh giá như thế nào và chúng sẽ giúp chúng ta cải tiến những thể loại
để xác định thông tin truyền thống hay cách tân.
Dựa trên các yêu cầu sư phạm trong quá trình KT,ĐG kết quả học
tập của học sinh THPT theo định hướng phát triển năng lực. Các tiêu chí đó
như sau:
Một là: Việc KT,ĐG phải làm cho học sinh bộc lộ trung thực, chính
xác kết quả học tập đồng thời phải đảm bảo tính khách quan, công bằng.
Kết quả học tập của học sinh không chỉ được phản ánh ở khối lượng,
chất lượng tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mà học sinh đã nắm đựơc còn ở sự tiến bộ
về thái độ tích cực của học sinh trong quá trình học tập. Kết quả đó tiềm ẩn
trong học sinh và chỉ bộc lộ ra trong những điều kiện nhất định, thông qua bài
làm của học sinh. Giáo viên tổ chức và tiến hành kiểm tra làm cho học sinh dễ
dàng bộc lộ chính xác, khách quan. Những kết quả tiềm ẩn đó sẽ cung cấp
thông tin đầy đủ, chính xác cho việc đánh giá cũng như điều khiển, điều chỉnh
quá trình dạy học. Bên cạnh đó việc đánh giá khách quan, công bằng của giáo
viên đối với kết quả học tập của học sinh sẽ góp phần kích thích hoạt động
học tập của học sinh cũng như sự tin tưởng của học sinh đối với thầy cô giáo.
Hai là: Kiểm tra, đánh giá nhằm khảo sát đầy đủ, toàn diện các mặt,
các khía cạnh khác nhau của kết quả dạy và học phù hợp với mục tiêu kiểm
tra, đánh giá theo tinh thần đổi mới.
Kết quả dạy học bao gồm cả kết quả hoạt động dạy và kết quả của hoạt
động học. Mỗi loại kết quả đó lại là tập hợp của nhiều kết quả cụ thể ở nhiều
mức độ và trình độ, ở nhiều mặt và khía cạnh khác nhau trong bài kiểm tra,
học sinh có điều kiện bộc lộ được những kết quả nhất định nhưng không thể
hiện được tất cả các kết quả của họ. Cần phải căn cứ vào mục tiêu kiểm tra,
đánh giá ở thời điểm cụ thể nào đó của quá trình dạy học để tiến hành kiểm
tra. Sao cho thông qua bài làm của mình, học sinh thể hiện đúng, đủ toàn diện
những mặt, khía cạnh đáp ứng mục đích của kì kiểm tra đó.
18
Ba là: Kiểm tra, đánh giá giúp cho việc phát hiện chính xác, kịp thời và
điều chỉnh sai lệch trong sự phát triển của học sinh so với mục tiêu dạy học.
Phát hiện đúng, kịp thời những sai lệch là điều kiện để điều khiển, điều
chỉnh quá trình dạy học một cách hiệu quả. Sự sai lệch được phản ánh ở sự
không phù hợp giữa kết quả thực hành mà học sinh đạt được trong quá trình
học tập với mục tiêu và yêu cầu đặt ra trong quá trình đó, tổ chức tiến hành
kiểm tra sao cho thông qua các bài kiểm tra giáo viên và học sinh dễ dàng so
sánh được kết quả thực sự đạt được so với yêu cầu. Mọi kết quả chung, không
chỉ rõ những ưu, nhược điểm, không chỉ rõ những mặt còn thiếu sót là không
thực hiện được chức năng của kiểm tra, đánh giá.
Bốn là: Kiểm tra, đánh giá tạo điều kiện đổi mới phương pháp dạy và học.
Đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh được xác định
là một trong những khâu then chốt, quyết định trong quá trình đổi mới giáo
dục phổ thông.
Đổi mới kiểm tra, đánh giá là động lực của đổi mới phương pháp dạy
học nhằm nâng cao chất lượng học tập, đảm bảo các mục tiêu giáo dục.
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh trong quá trình dạy học
cho biết kết quả của hoạt động dạy học và cũng chính là một phương pháp
dạy học.
Thông qua nội dung, phương pháp, phương tiện tổ chức thực hiện
KT,ĐG kết quả học tập sẽ tác động tới cách học của học sinh và giáo viên
cũng có những điều chỉnh về phương pháp dạy sao cho phù hợp với mục đích,
nội dung dạy học và từng đối tượng học sinh.
1.3. Chỉ đạo đổi mới KT,ĐG kết quả học tập của học sinh.
1.3.1. Ý nghĩa của KT,ĐG và quản lý kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập của học sinh
Kiểm tra, đánh giá có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với học sinh, giáo
viên và đặc biệt là đối với cán bộ quản lý:
19
a) Đối với học sinh: Đánh giá có hệ thống và thường xuyên cung cấp
kịp thời những thông tin liên hệ ngược giúp học sinh điều chỉnh hoạt động
học của bản thân.
Về giáo dưỡng: Chỉ cho học sinh thấy mình đã tiếp thu điều vừa học ở
mức độ nào, còn thiếu sót nào cần bổ sung.
Về mặt phát triển năng lực nhận thức: Giúp học sinh có điều kiện tiến
hành các hoạt động trí tuệ như ghi nhớ, tái hiện, chính xác hóa, khái quát hóa,
hệ thống hóa kiến thức tạo điều kiện cho học sinh phát triển năng lực, tư duy
sáng tạo, vận dụng linh hoạt kiến thức để giải quyết các tình huống thực tế
trong cuộc sống.
Về mặt giáo dục: Học sinh có tinh thần trách nhiệm cao trong học tập,
có ý chí vươn lên đạt những kết quả cao hơn, củng cố lòng tin vào khả năng
của mình, nâng cao ý thức tự giác, khắc phục tính chủ quan tự mãn.
Kiểm tra, đánh giá kết quả học tập đòi hỏi học sinh phải nâng cao tinh
thần trách nhiệm trong học tập, phải tích cực, chủ động trong hoạt động học
của mình, phải rèn luyện, bồi dưỡng ý chí và thói quen lao động, học tập
nghiêm túc, có nền nếp và hệ thống. Đồng thời góp phần hình thành, phát
triển ở học sinh ý thức và năng lực tự đánh giá. Đó là nhân tố quan trọng cho
sự hình thành phẩm chất nhân cách của con người mới [14].
b) Đối với giáo viên: Cung cấp cho giáo viên những thông tin “liên hệ
ngược ngoài” giúp người dạy điều chỉnh hoạt động dạy, tìm tòi phương pháp,
kỹ thuật dạy học mới đáp ứng yêu cầu của đổi mới kiểm tra, đánh giá.
c) Đối với cán bộ quản lý giáo dục: Cung cấp cho cán bộ quản lý giáo
dục những thông tin về thực trạng dạy và học trong một đơn vị giáo dục để có
những chỉ đạo kịp thời, uốn nắn những lệch lạc, khuyến khích hỗ trợ những
sáng kiến hay, biện pháp tốt đảm bảo thực hiện tốt mục tiêu giáo dục.
1.3.2. Yêu cầu đổi mới KT,ĐG kết quả học tập của học sinh trong
các văn bản chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT
20
Việc đổi mới chương trình giáo dục hiện nay là một tất yếu khách quan
và được thể hiện qua chương trình sách giáo khoa, đi cùng với đổi mới
chương trình sách giáo khoa là đổi mới hình thức KT,ĐG kết quả học tập của
học sinh cho phù hợp xu thế hiện nay trên thế giới.
a) Một số quyết định của Bộ GD&ĐT về đánh giá xếp loại học sinh
THPT:
Quyết định số 40/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/10/2006 của Bộ GD&ĐT
ban hành quy chế đánh giá xếp loại học sinh THCS và học sinh THPT.
Thông tư 51/2008/TT-BGDĐT ngày 15/9/2008 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT ban hành quy chế đánh giá, xếp loại học sinh THCS và học sinh THPT.
Thông tư 58/2011/TT-BGDĐT ngày 12/12/2011 của Bộ GD&ĐT ban
hành quy chế đánh giá, xếp loại học sinh THCS và học sinh THPT.
Trong quá trình thực hiện đánh giá kết quả học tập của học sinh theo
thông tư 58/2011/TT-BGDĐT nảy sinh một số trường hợp gặp khó khăn gây
thiệt thòi cho một số học sinh đối với môn đánh giá bằng nhận xét khi xếp
loại học lực. Từ yêu cầu thực tế và kiến nghị của các cấp quản lý giáo dục, Bộ
GD&ĐT có công văn số 2642/BGDĐT-GDTrH ngày 04/5/2013 trả lời một số
câu hỏi khi thực hiện thông tư 58/2011/TT-BGDĐT.
b) Về phía Sở GD&ĐT Điện Biên:
- Phòng KTQLCLGD Sở GD&ĐT Điện Biên liên tục mở các lớp chuyên
đề: “Bồi dưỡng ma trận kiểm tra, kỹ thuật biên soạn câu hỏi kiểm tra, đánh giá
theo chuẩn kiến thức, kỹ năng” đối với tất cả các bộ môn cho các trường THPT.
Mỗi bộ môn một giáo viên.
- Quyết định số 2102/QĐ-SGD&ĐT ngày 07/01/2014 của Sở GD&ĐT
Điện Biên về việc giao chỉ tiêu, kế hoạch và dự toán kinh phí đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ngành GD&ĐT Điện Biên năm 2014.
- Phòng KTQLCLGD Sở GD&ĐT Điện Biên mở lớp chuyên đề: “Bồi
dưỡng Hiệu trưởng trường THPT về công tác kiểm tra, đánh giá kết quả học
21
tập của học sinh trong bối cảnh tiếp cận năng lực”. Mỗi trường Hiệu trưởng
(hoặc 1 Phó hiệu trưởng) và 1 Tổ trưởng chuyên môn tham dự chuyên đề.
1.4. Trách nhiệm của Hiệu trưởng trường THPT trong thực hiện
đổi mới quản lý KT,ĐG chất lượng học sinh
Giáo viên là người trực tiếp truyền tải những tri thức theo chương trình
giáo dục, hướng dẫn, tổ chức, giúp đỡ học sinh tự học, tự tìm hiểu và chiếm
lĩnh tri thức đồng thời cũng là người trực tiếp KT,ĐG kết quả học tập của học
sinh. Chính vì vậy, người Hiệu trưởng cần có trách nhiệm quan tâm tới giáo
viên và giúp họ không những có nhận thức và các cách thức về đổi mới phương
pháp giảng dạy mà cần cả đổi mới KT,ĐG kết quả học tập của học sinh theo
định hướng năng lực. Để làm được điều này người Hiệu trưởng có nhiệm vụ:
- Quản lý, hướng dẫn giáo viên, học sinh thực hiện và phổ biến đến gia
đình học sinh các quy định trong quy chế KT,ĐG theo tinh thần đổi mới.
- Kiểm tra việc thực hiện quy định về kiểm tra, cho điểm và đánh giá
nhận xét của giáo viên (môn Giáo dục công dân, Thể dục). Nhận xét và ký
xác nhận vào sổ gọi tên và ghi điểm của các lớp.
- Kiểm tra việc đánh giá, xếp loại, ghi kết quả vào sổ gọi tên và ghi
điểm, ghi điểm vào học bạ của giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm; Phê
duyệt việc sửa chữa điểm, sửa chữa mức độ nhận xét của giáo viên bộ môn
khi đã có xác nhận của giáo viên chủ nhiệm.
- Tổ chức kiểm tra lại các môn học theo quy định; phê duyệt và công bố
danh sách học sinh lên lớp sau khi có kết quả kiểm tra lại các môn học.
- Kiểm tra, yêu cầu người có trách nhiệm thực hiện quy chế KT,ĐG
khắc phục ngay những sai sót trong các việc như: Thực hiện chế độ kiểm tra
cho điểm và mức nhận xét; Ghi điểm và mức nhận xét vào sổ gọi tên và ghi
điểm, vào học bạ; Xếp loại hạnh kiểm và học lực của học sinh.
Hiệu trưởng có trách nhiệm triển khai các quyết định, thông tư, công
văn của Bộ GD&ĐT, của Sở GD&ĐT về việc thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu
22
giáo dục, nhiệm vụ năm học và đặc biệt là vấn đề KT,ĐG kết quả học tập của
học sinh tới các tổ chuyên môn.
Hiệu trưởng chỉ đạo, giám sát việc triển khai các quyết định, thông tư,
công văn của các tổ trưởng, đồng thời trực tiếp hoặc ủy quyền cho Phó hiệu
trưởng kiểm tra giám sát việc thực hiện của giáo viên và học sinh trong công
tác KT,ĐG kết quả học tập của học sinh (Phó hiệu trưởng được ủy quyền có
trách nhiệm báo cáo trực tiếp hoặc bằng văn bản tới Hiệu trưởng về việc đổi
mới KT,ĐG kết quả học tập của học sinh).
Quản lý hoạt động KT,ĐG kết quả học tập của học sinh trung thực,
khách quan, công bằng chẳng những cho biết giá trị đích thực về kiến thức, kĩ
năng, thái độ, năng lực của học sinh mà còn giúp nhà trường và từng giáo
viên điều chỉnh nội dung, phương pháp giảng dạy. Kết quả của KT,ĐG kiến
thức học tập của học sinh là thu được những thông tin ngược vô cùng quý báu
có tác dụng điều chỉnh hoạt động dạy và học để có thể đáp ứng được những
yêu cầu của thực tiễn dạy và học ở nhà trường THPT.
Quản lý công tác KT,ĐG kết quả học tập của học sinh còn mang ý nghĩa
giáo dục sâu sắc. Thông qua KT,ĐG kết quả học tập giáo viên có thể giáo dục
cho học sinh động cơ, thái độ và quan điểm đúng đắn đối với học tập. Học
sinh THPT lứa tuổi trưởng thành cần xác định được nghĩa vụ và ý thức trách
nhiệm của mình trước bản thân, gia đình, tập thể, nhà trường và xã hội.
1.5. Nội dung chỉ đạo hoạt động KT,ĐG kết quả học tập của học
sinh theo định hướng phát triển năng lực
1.5.1. Chỉ đạo, tổ chức ra đề kiểm tra theo ma trận đề.
a) Mục đích ra đề kiểm tra: là kiểm tra mức độ đạt được của học sinh
trong quá trình học và được thể hiện qua trình bày của bài kiểm tra, để từ đó
giáo viên điều chỉnh cách dạy sao cho phù hợp với đối tượng học sinh trên cơ
sở thực hiện theo chuẩn kiến thức, kỹ năng do Bộ GD&ĐT ban hành.
b) Yêu cầu khi ra đề kiểm tra: Khi ra đề kiểm tra phải đảm bảo các tiêu chí.
23
- Phản ánh được mục tiêu giáo dục.
- Phạm vi kiến thức, kĩ năng: nằm trong chương trình giáo dục phổ
thông. Không sử dụng kiến thức, kĩ năng không có trong chuẩn hoặc trong
phần giảm tải để ra đề kiểm tra.
- Tính chính xác, khoa học: Không có sai sót, diễn đạt rõ ràng, chặt chẽ,
truyền tải hết yêu cầu tới HS, các câu hỏi đảm bảo đơn nghĩa.
- Có tác dụng phân hóa: Có các câu hỏi ở các mức độ nhận thức khác
nhau (50% mức độ thông hiểu và vận dụng).
- Có giá trị phản hồi: Có tình huống để HS bộc lộ điểm mạnh, điểm yếu
về nhận thức và năng lực.
- Độ tin cậy: Hạn chế tính chủ quan của người ra đề và người chấm bài
kiểm tra. Đáp án biểu điểm chính xác để mọi GV và HS vận dụng cho kết quả
giống nhau.
- Tính khả thi: Câu hỏi phù hợp với trình độ, thời gian làm bài của HS,
có tính đến thực tiễn của địa phương.
c) Người ra đề kiểm tra là giáo viên giảng dạy bộ môn trên lớp. Họ là
đối tượng quản lý của Hiệu trưởng. Đề kiểm tra trong trường THPT gồm
kiểm tra miệng và kiểm tra viết. Kiểm tra viết gồm có trắc nghiệm tự luận và
trắc nghiệm khách quan.
- Kiểm tra miệng: Giáo viên đặt câu hỏi, học sinh suy nghĩ và trả lời.
Giáo viên nhận xét hoặc gọi học sinh khác nhận xét và cho điểm đánh giá.
- Kiểm tra viết: Giáo viên ra đề kiểm tra, học sinh làm bài theo thời
gian quy định (dưới 45 phút hoặc từ 45 phút trở lên). Giáo viên chấm bài cho
điểm và nhận xét.
Tổ chức thực hiện ra đề theo ma trận đề được tập huấn theo các mức độ:
* Nhận biết: Là nhớ lại các dữ liệu, thông tin đã có trước đây, có nghĩa
là có thể nhận biết thông tin, tái hiện, ghi nhớ lại...
- Đây là mức độ, yêu cầu thấp nhất của trình độ nhận thức.
24
- Có thể cụ thể hoá các yêu cầu như sau:
+ Nhận ra, nhớ lại các khái niệm, biểu tượng, sự vật, hiện tượng hay
một thuật ngữ địa lí nào đó,..
+ Nhận dạng: hình thể, địa hình, vị trí,...
+ Liệt kê và xác định các vị trí tương đối, các mối quan hệ đã biết giữa
các yếu tố, các hiện tượng.
- Các động từ tương ứng với cấp độ biết có thể được xác định là: trình
bày, nêu, liệt kê, xác định....
* Thông hiểu: Là khả năng hiểu được, giải thích và chứng minh được
các sự vật và hiện tượng. Học sinh có khả năng diễn đạt được kiến thức đã
học theo ý hiểu của mình, sử dụng được kiến thức và kĩ năng trong tình huống
quen thuộc.
- Có thể cụ thể hoá mức độ thông hiểu bằng các yêu cầu:
+ Diễn tả bằng ngôn ngữ cá nhân về khái niệm, tính chất của sự vật
hiện tượng.
+ Biểu thị, minh hoạ, giải thích được ý nghĩa của các khái niệm, hiện
tượng.
+ Lựa chọn, sắp xếp lại những thông tin cần thiết để giải quyết một vấn
đề nào đó.
+ Sắp xếp lại các ý trả lời theo cấu trúc lôgic.
- Các động từ tương ứng với cấp độ thông hiểu có thể được xác định là:
phân tích, giải thích, chứng minh, mô tả, phân biệt, so sánh ...
* Vận dụng (vận dụng cấp độ thấp): Là khả năng sử dụng các kiến thức
đã học vào một hoàn cảnh cụ thể mới: vận dụng nhận biết, hiểu biết thông tin,
biết sử dụng phương pháp, nguyên lý hay ý tưởng để giải quyết một vấn đề
nào đó.
- Có thể cụ thể bằng các yêu cầu sau đây:
+ So sánh các phương án giải quyết vấn đề;
25
+ Phát hiện lời giải có mâu thuẫn, sai lầm và chỉnh sửa được;
+ Giải quyết được những tình huống mới bằng việc vận dụng các khái
niệm, biểu tượng, đặc điểm đã biết...
+ Khái quát hoá, trừu tượng hoá từ tình huống quen thuộc, tình huống
đơn lẻ sang tình huống mới, tình huống phức tạp hơn.
- Các động từ tương ứng với cấp độ thông hiểu có thể được xác định là:
minh họa, sử dụng, áp dụng, chứng minh, so sánh...
* Vận dụng sáng tạo (vận dụng cấp độ cao): Là khả năng sử dụng các
khái niệm cơ bản, các kiến thức, kĩ năng để giải quyết một vấn đề mới chưa
được học hay chưa trải nghiệm trước đây (sáng tạo). Vận dụng vấn đề đã học
để giải quyết các vấn đề thực tiễn cuộc sống.
- Ở cấp độ này bao gồm 3 mức độ: phân tích, tổng hợp, đánh giá (theo
bảng phân loại các mức độ nhận thức của Bloom).
+ Phân tích: khả năng nhận biết chi tiết, phát hiện và phân biệt các bộ
phận cấu thành của thông tin hay tình huống.
+ Tổng hợp: khả năng hợp nhất các thành phần để tạo thành một tổng
thể, sự vật lớn.
+ Đánh giá: khả năng phán xét giá trị sử dụng thông tin theo tiêu chí
thích hợp.
- Các hoạt động tương ứng ở vận dụng sáng tạo là: phân biệt, so sánh,
chia nhỏ các thành phần, thiết kế, rút ra kết luận, tạo ra sản phẩm mới.
- Các động từ tương ứng với cấp độ thông hiểu có thể được xác định là:
giải thích, trình bày mối quan hệ, so sánh ...
* Các tiêu chí biên soạn đề kiểm tra
- Phản ánh được mục tiêu giáo dục.
- Phạm vi kiến thức, kĩ năng: nằm trong chương trình giáo dục phổ
thông. Không sử dụng kiến thức, kĩ năng xa lạ để ra đề kiểm tra.
- Hình thức kiểm tra: