Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

NIÊN LUẬN TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH MƯA BÌNH QUÂN LƯU VỰC SÔNG SREPOK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.32 KB, 31 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN
*************

NIÊN LUẬN
TỔNG QUAN VÀ PHƯƠNG PHÁP TÍNH MƯA
BÌNH QUÂN LƯU VỰC SÔNG SREPOK

Giảng viên hướng dẫn : ThS. Lê Thu Trang
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Thị Trang

Chuyên ngành

: Thủy Văn

Mã sinh viên

: DH00300078

Niên khóa

: 2013-2017

Hà Nội, Tháng 1/2017
MỤC LỤC

1



2


DANH MỤC HÌNH

3


LỜI CÁM ƠN
Em xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong Khoa Khí tượng Thủy
văn – Trường đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã dạy bảo, truyền thụ
kiến thức cho em trong suốt quá trình học tập vừa qua. Đặc biệt em xin cảm ơn
đến cô Ths Lê Thu Trang đã hướng dẫn chỉ dạy rất tận tình và tạo điều kiện cho
em hoàn thành đề tài này.
Trong khuôn khổ của đề tài: “Tổng quan và tính mưa bình quân lưu vực
sông SREPOK”, với sự giúp đỡ và hướng dẫn của thầy cô nhưng do hạn chế về
thời gian và khả năng của bản thân, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng niên luận
không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vây, em mong nhận được sự
góp ý, chỉ bảo quý báu của thầy cô !.
Em xin chân thành cám ơn.
Sinh viên thực hiện

NGUYỄN THỊ TRANG

4


MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Nước là một nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá không thể thiếu đối

với cuộc sống và các hoạt động kinh tế của con người. Nước được sử dụng nhiều trong
sinh hoạt hàng ngày, trong các nhà máy, xí nghiệp, trong nông nghiệp, nuôi trồng thủy
sản và các hoạt động vui chơi giải trí khác của con người…
Do nhiều nguyên nhân khác nhau như tình trạng ô nhiễm nước, tình trạng sủ
dụng nước lãng phí không có quy hoạch mà nguồn nước đang có nguy cơ bị suy kiệt
nghiêm trọng trong khi nhu cầu sử dụng nước ngày một tăng cao. Để giải quyết vấn đề
này cần phải tìm hiểu, xem xét và đánh giá được tổng quan về nguồn nước và hiện
trạng sử dụng nước ở các vùng để từ đó đưa ra những phương án quy hoạch tài nguyên
nước hiệu quả vả khả thi.
Srêpok là một lưu vực sông nằm trong địa phận các tỉnh có phần lớn diện tich đất
trồng lúa và cây công nghiệp lâu năm như cà phê, cao su, điều…vì vậy nhu cầu nước
sử dụng cho nông nghiệp ở các tỉnh trong lưu vực là rất lớn. Hiện nay một số vùng
trong lưu vực đang phải đối mặt với tình trạng thiếu nước tưới cho cây trồng về mùa
kiệt. Vì vậy yêu cầu phải tim hiểu về nguồn nước và hiện trạng sử dụng nước trên lưu
vực để từ đó tìm ra nguyên nhân gây thiếu nước và đưa ra những biện pháp khắc phục
kịp thời mang lại hiệu quả lâu dài.
Đồ án “Tính toán cân bằng nước lưu vực Srêpok” được nghiên cứu nhằm mục
tiêu để đáp ứng nhu cầu thực tiến đó.
2. Các phương pháp tiếp cận
Để đạt được mục tiêu, trong đồ án đã sử dụng các phương pháp tiếp cận sau:
1.Phương pháp thống kê: Thu thập và xử lý các tài liệu cần thiết có liên quan đến
lưu vực nghiên cứu cũng như các nội dung tính toán đề cập trong đồ án. Tham khảo
các tài liệu , các đề tài có liên quan tới nội dung đồ án.
2.Phương pháp tổng hợp địa lý : Phân tích đánh giá tài nguyên nước và sự biến
đổi của nó trong không gian thông qua việc phân chia thành các tiểu vùng sử dụng
nước trên lưu vực nghiên cứu.

5



3.Phương pháp mô hình toán : Phân tích và lựa chọn mô hình toán thủy văn để
tính toán tài nguyên nước, nhu cầu nước và cân bằng nước cho lưu vực.
3. Nội dung chính của đồ án
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của đồ án được thể hiên trong 4
chương như sau:
Chương I: Giới thiệu lưu vực Srêpok
Nội dung của chương này là giới thiệu tổng quan về điều kiện tự nhiên, tình
hình dân sinh – kinh tế - xã hội, mạng lưới sông suối, đặc điểm khí tượng thủy văn của
lưu vực Srêpok. Từ đó đưa ra được phạm vi nghiên cứu của đồ án.
Chương II: Tính mưa bình quân lưu vực Srêpok
Nội dung của chương này là phân chia tiểu lưu vực, tính toán nhu cầu nước, tính
toán dòng chảy đến và tính toán cân bằng nước lưu vực Srêpok theo hiện trạng.

6


Chương 1 : TỔNG QUAN LƯU VỰC SÔNG SREPOK
1.1.Khái quát lưu vực Srepok
1.1.1.Điều kiện tự nhiên
1.1.1.1.Vị trí địa lý

Vị trí địa lý tự nhiên của lưu vực Srêpok nằm trong phạm vi 107°30' đến 108°45'
kinh độ Đông và 11°53' đến 13°55' vĩ độ Bắc. Với tổng diện tích tự nhiên là
30100km², thuộc lãnh thổ Việt Nam là hơn 18200 km² được chia ra làm hai lưu vực
độc lập nhau là lưu vực thượng Srêpok có diện tích là 12527km² với 11200km² thuộc
tỉnh Đăk Lăk và lưu vực suối Ia Đrăng - Ea Lôp - Ea H’Leo có diện tích là 5737km².
Lưu vực sông Srêpok phía Bắc giáp với lưu vực sông Sêsan, phía Nam giáp lưu
vực sông Đồng Nai, phía Tây là đường phân lưu của sông Mê Kông, phía Đông giáp
lưu vực sông Ba.


7


Sông Srêpok là nhánh sông cấp I của sông quốc tế Mê Kông. Dòng chính của
sông Srêpok bắt nguồn từ vùng núi Chu Yang của dãy Trường Sơn có độ cao khoảng
1400m, có vị trí địa lý là 108°18'38'' kinh độ Đông, 13°06'00'' vĩ độ Bắc thuộc địa
phận Việt Nam. Sông Srêpok chảy qua 4 tỉnh Đăk Lăk, Đăk Nông, Gia Lai và Lâm
Đồng của Việt Nam rồi chảy sang Campuchia nhập lưu với sông Mê Kông ở Stung
Treng co vị trí địa lý là 107°20'12'' kinh độ Đông và 13°01'00'' vĩ độ Bắc.
1.1.1.2.Đặc điểm địa hình
Địa hình lưu vực có hướng thấp dần từ Đông Nam sang Tây Bắc và tương đối đa
dạng, đồi núi xen kẽ bình nguyên va thung lũng, khái quát có thể chia thành các dạng
địa hình chính sau:
+ Địa hình vùng núi cao: Nằm ở phía Đông và Nam của lưu vực, có độ cao trung
bình 1500 - 2000m, độ dốc sườn khá lớn (20°-30°) với các đỉnh núi cao như Chư
Đăng Sin (2405m) và Chư Pan Phan (2175m). Dải Trường Sơn chạy qua vùng thuộc
địa phận huyện Krông Bông, huyện Lăk. Trong khu vực địa hình này diện tích rừng
còn nhiều, độ dốc lớn và địa hình chia cắt mạnh.
+ Địa hình vùng cao nguyên: Vùng cao nguyên với những đồng bằng lượn sóng
và độ dốc thoải. Dạng địa hình này nằm ở hai vùng: Vùng cao nguyên Buôn Ma Thuật
và phụ cận (các huyện Krông Buk, Krông Pach, Cư Mgar…) với độ cao trung bình từ
400-500m. Vùng thứ hai là cao nguyên Đăk Nông nằm ở phía Tây Nam của lưu vực,
có độ cao từ 700-800m.Vùng cao nguyên Buôn Ma Thuật địa hình bằng phẳng hơn
vùng Đăk Nông. Các cao nguyên này được tạo thành từ phun trào bazan thuộc thời kỳ
đệ tứ.Đá bazan phong hóa tạo thành lớp đất màu mỡ rất phù hợp cho phát triển các cây
công nghiệp dài ngày.
+ Địa hình vùng đất thấp: Bao gồm các dải đất phù sa bằng phẳng dọc các sông.
Loại địa hình này tập trung ở các huyện Lăk, qua Buôn Triết, Buôn Trấp tới hạ lưu, có
độ cao trung bình từ 410 -450m. Vùng bình nguyên Ea Sup chạy doc hai ven suối Ea
Sup và Ea H’Leo có độ cao trung bình 200-300m, dạng địa hình này thích hợp cho

trồng lúa, hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày. Vị trí địa lý và đặc điểm địa hình
ảnh hưởng trực tiếp tới thời tiết khí hậu trong vùng, nó không ngững mang tính chất
nhiệt đới nóng ẩm mà còn có tính chất của vùng cao nguyên mát dịu.Với đặc điểm này

8


cho phép bố trí các loại cây trồng, vật nuôi phong phú cũng như tạo điều kiện thuận lợi
cho việc phát triển kinh tế một cách đa dạng.
1.1.1.3.Đặc điềm địa chất thổ nhưỡng
Lưu vực Srêpok có nhiều tiềm năng rất lớn về đất, đặc biệt là đất đỏ bazan
(50%). Theo kết quả đánh giá về thổ nhưỡng của Viện quy hoạch và Thiết kế nông
nghiệp đã được chuyển đổi sang hệ thống phân loại FAO-UNESCO thì toàn lưu vực co
8 loại đất sau: nhóm đất phù sa, nhóm đất Glay, nhóm đất than bùn, nhóm đất đen,
nhóm đất xám, nhóm đất đỏ, nhóm đất mùn Alit trên núi cao, nhóm đát trơ sỏi đá.
Trong đó 2 nhóm đất đen xám và đất đỏ chiếm diện tích lớn nhất.
Nhóm đất đỏ: phân bố tập trung tại các khối bazan Buôn Ma Thuật, Đăk Nông,
Đăk Mil. So với đất xám đen thì nhóm đất đỏ bazan ít dốc và tầng đất dày rõ rệt hơn.
Nhóm đất xám phân bố ở các vùng Ea Sup, Cu Jut, Krông Bông. Đa số đất này
có tầng mỏng, độ dốc lớn, có lẫn đá hoặc đá lộ đầu, thàm phủ thực vật tự nhiên là rừng
lá thứ sinh, rừng gỗ lá rụng và rừng nứa lá rụng.
Nhóm đất bazan đen phân bố chủ yếu ở phía Tây sông Srêpok, đại bộ phận là
tầng đất mỏng, nhiều đá lộ.
Nhóm đất phù sa được hình thành do sự bồi đắp của các sông suối lớn, diện tích
bằng phẳng hay lượn sóng. Khoảng một nửa diện tích này bị ngập nược trong mùa
mưa như cánh đồng Lạc Thiện - Đức Xuyên.
1.1.1.4.Thảm phủ thực vật
Thảm phủ thực vật trên lưu vực khá phong phú, mức độ che phủ của rừng
khoảng 70% trong đó bao gồm nhiều loại như: rừng lá rộng, rừng lá kim, rừng hỗn
giao, rừng tre nứa, rừng trồng… ngoài ra còn một số lượng đáng kể cây cà phê, chè…

Thảm phủ trên lưu vực Srêpok phân bố có sự khác biệt theo các vùng địa hình.
Vùng núi cao nằm ở phía Đông và Đông Nam (thượng nguốn các sông) được thảm
rừng xanh bao phủ quanh năm bao gồm rừng lá rộng thường xanh, rừng lá kim, rừng
hỗn giao. Đi dần về phía hạ lưu là vùng đồi núi thoải dần và nhấp nhô thì rừng già
được thay thế dần bằng các rừng tái sinh, rừng cà phê, cao su, bông… thung lũng các
sông với địa hình bằng phẳng có nhiều hồ tự nhiên, đầm lầy thì xuất hiện các ruộng
bậc thang, vườn cây ăn trái,chè.

9


Hiện nay rừng ở đây có xu hướng giảm đi đáng kể, đặc biệt là rừng giàu và rừng
trung bình giảm với tốc độ nhanh, diện tích rừng nghèo và bụi cây càng tăng. Do quá
trình rừng bị khai thác quá mức, hậu quả do lối sống du canh du cư của đồng bào dân
tộc vả chặt phá rừng để trồng các loại cây có giá trị kinh tế nên nhiều khu vực đất bị
thoái hóa, làm tăng khả năng xói mòn rửa trôi đất. Ngoài ra giảm diện tích rừng còn có
ảnh hưởng không nhỏ đén nguồn nước ngầm. Tuy nhiên do tích cực thực hiện “
Chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng” của Chính phủ bằng vốn ngân sách, đấy mạnh
phong trào các chủ doanh nghiệp tư nhân đầu tư vào trồng rừng với nhận thức “Rừng
là kinh tế và môi trường” cùng với nó là việc cải tiến tổ chức giao rừng, giao đất cho
dân, nghể rừng phát triển từng bước trả lại màu xanh cho Đăk Lăk.
1.1.1.5.Đặc điểm địa lý thủy văn
Sông ngòi là sản phẩm của thiên nhiên, trải qua các thời kỳ kiến tạo nâng lên, hạ
xuống xâm thực bào mòn mạnh mẽ hình thành mạng lưới sông suối. Lưu vực sông
Srêpok là vùng thượng nguồn của lưu vực sông Mê Kông. Trong thời kì tàn kiến tạo
tại đây là một vùng nâng lên nên quá trình xâm thực mạnh mẽ, núi và cao nguyên bị
chia cắt bởi các đứt gãy lớn và rất sâu, tạo thành mạng lưới sông dày, lòng hồ sâu, độ
dốc lớn, sông uốn khúc và nhiều thác ghềnh. Sông Srêpok có 41 nhánh cấp I, hầu hết
bắt nguồn từ các vùng núi phía Đông Bắc, Đông và đông nam của tỉnh Đăk Lăk, tức là
từ các vùng núi bên sườn Đông của dãy Trường Sơn, có độ cao từ 800-2000m. Sông

suối trong lưu vực phân bố theo hình nan quạt, mở rộng ở thượng và trung lưu, thu hẹp
ở hạ lưu.
Sông Srêpok Thượng có 2 nhánh sông lớn chính là Krông Knô và Krông Ana:
● Sông Krông Knô bắt nguồn từ những dãy núi cao trên 2000m chạy dọc theo
biên giới phía Nam tỉnh. Sau đó chuyền hướng chảy lên phía Bắc nhập vào sông
Krông Ana tại Buôn Đrây cùng đổ vào sông Srêpok tại đây. Tổng diện tích toàn lưu
vực Krông Knô là 4620km² và dòng chính sông dài 56km. Độ dốc bình quân lưu vực
là 17,6‰, độ cao bình quân lưu vực là 917m và mật độ lưới sông là 0,86km/km². Sông
Krông Knô có nhánh sông lớn đáng kể là sông Đăk Mang .Sông Đăk Mang bắt nguồn
từ cao nguyên Sanaro có đỉnh cao 1500m. Sông chảy theo hướng Tây Bắc - Đông
Nam độ dốc lòng sông không lớn, đây là vùng chịu ảnh hưởng mạnh của khí hậu Tây
Trường Sơn có lượng mưa bình quân 2000mm, diện tích lưu vực là 1490km, dòng

10


chính sông dài 69km, độ dốc bình quân lưu vực là 15,1‰, độ cao bình quân lưu vực là
767m và mật độ lưới sông la 1,1km/km².
● Sông Krông Ana là hợp lưu chủ yếu của 3 nhánh sông lớn là Krông Buk,
Krông Pach và Krông Bông. Tổng diện tích lưu vực sông là 3200km², chiều dài dòng
chính là 215km. Dòng chính chảy theo hướng Đông - Tây, dọc theo sông về phía
trung, hạ lưu là những bãi lầy đất chua do bị ngập lâu ngày. Độ dốc của những sông
nhánh lớn thượng nguốn từ 4-5‰, đoạn sông phía hạ lưu trong vùng Lăk có độ dốc
nhỏ vào khoảng 0,25‰.
▪ Sông Krông Buk: Bắt nguồn từ dãy núi cao phía Bắc lưu vực, với độ cao nguồn
sông từ 800 -100m. Khoảng 70km đoạn sông thượng nguồn chảy theo hướng Bắc Nam sau đó đổ vào sông Krông Ana. Lưu vực chịu tác động của khí hậu tây Trường
Sơn và khí hâu Đông Trường Sơn. Lượng mưa trong vùng chỉ đạt 14001500mm/năm.Địa hình lưu vực ít bị chia cắt, độ dốc lòng sông nhỏ khoảng 5,5‰.
▪ Sông Krông Pach: Bắt nguồn từ dã núi phía Tây Khánh Hòa, ở độ cao 1500m,
dòng chảy theo hướng Đông - Tây rồi đổ vào Krông Ana. Lưu vực này chịu ảnh hưởng
chủ yếu của khí hậu Đông Trường Sơn với lượng mưa trung bình 1600-1700mm. Phần

thượng nguồn sông dài 30km, lòng sông dốc, độ dốc đạt tới 3‰. Vượt qua đoạn này
sông chảy trên vùng cao nguyên có địa hình bằng phẳng, lòng sông uốn khúc quanh
co, chỗ mở rộng, chỗ thu hẹp đột ngột, làm cho điều kiện tiêu thoát lũ khó khăn mỗi
khi có lũ lớn, gây ngập lụt dài ngày.
▪ Sông Krông Bông: Có diện tích lưu vực 809km², bắt nguồn từ dãy núi phía
Đông Trường Sơn, có đỉnh Chư Giang Sin cao 2405m. Sông chảy theo hướng Đông Tây và nhập vào sông Krông Ana. Lưu vực sông chịu ảnh hưởng của khí hậu Đông và
Tây Trường Sơn với mùa mưa kéo dài từ tháng V đến tháng XI.Vùng thượng nguồn có
lượng mưa năm tương đối lớn khoảng 2000mm/năm.Vùng hạ lưu sông có lượng mưa
nhỏ hơn, lượng mưa năm khoảng 1600-1700mm/năm.
Từ hợp lưu của sông Krông Ana và Krông Knô - thác Buôn Đrây - đến biên giới
Việt Nam - Campuchia, sông Srêpok chảy theo hướng Đông Nam - Tây Bắc trong
vùng đồi núi có lũng sông hẹp và dốc, lòng sông cắt sâu, chiều dài của đoạn sông này
khoảng 110km, với độ hạ thấp 200m, chênh cao khoảng 60m. Trên đoạn sông này có

11


nhiều thác nước tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển thủy điện như thác Đrây H’Linh,
thác Trinh Nữ…
Hệ thống sông Ea Đrăng - Ea H’Leo:
● Sông Ea Đrăng: Bắt nguồn từ những dãy núi Chư Pung phía Đông Bắc của lưu
vực. Sông có diện tích lưu vực 977km², cao độ nguồn sông 800m, cao độ bình quân
lưu vực 319m, sông gần như chảy theo hướng Đông - Tây nhập vào sông Srêpok ở
Campuchia. Độ dốc lưu vực sông 5,9‰, sông có độ dài 78km, mật độ lưới sông
0,44km/km².
● Sông Ea H’Leo: Bắt nguồn từ những dãy núi Chư Pung phía Đông Bắc của lưu
vực. Sông có diện tích lưu vực 4760km², cao độ nguồn sông 800m, cao độ bình quân
lưu vực 336m. Sông gần như chảy theo hướng Đông - Tây nhập lưu vào sông Srêpok ở
Campuchia. Độ dốc lưu vực sông 6,1‰, sông có độ dài 128km, mật độ lưới sông
0,35km/km². Lưu vực sông chịu ảnh hưởng của khí hậu Tây Trường Sơn, lượng mưa

trên lưu vực không được dồi dào, lượng mưa bình quân lưu vực từ 1600-1700mm/năm
cho nên về mùa cạn nhiều nhánh suối lớn hầu như không có nước.
1.1.2.Tình hình dân sinh - kinh tế - xã hội
Dân số toàn tỉnh Đăk Lăk năm 2001 là 1.978.012 người, với mật độ khoảng 100
người/km².Đây là mật độ thấp so với bình quân cả nước - 209 người/km².Cư dân khá
trẻ, tỉ lệ nam giới chiếm 50,6%, nữ giới chiếm 49,4% dân số.
Mức tăng thời kỳ 1991-2001 la 5,8% và hiện tượng di dân tự do vẫn là một vấn
đề cho địa phương quy hoạch và quản lý xã hội. Theo điều tra xã hội học thì toàn tỉnh
Đăk Lăk có 41 dân tộc đang sinh sống với dân tộc Kinh chiếm đa số 70,65%, dân tộc
Ê-đê chiếm 13,69%, dân tộc M’Nông chiếm 3,51%, dân tộc Tày chiếm 3,03%, dân tộc
Thái chiếm 1.04%...
Vể hoạt động kinh tế xã hội trên lưu vực thì nông nghiệp vẫn là ngành chủ chốt
chiếm 57,4% tống sản phẩm toàn tỉnh, sau đến công nghiệp chiếm 9,7% phục vụ chủ
yếu cho sản xuất của địa phương. Hoạt động kinh tế hiện nay đang trong tình trang
mất cân đối. Cơ cấu của các ngành kinh tế của tỉnh được phản ánh trong bảng dưới
đây:

12


Thứ
tự
1
2
3
4
5
6
7
Tổng


Ngành kinh tế

Tổng sản phẩm theo giá

Tỷ lệ (%)

trị hiện hành (triệu VNĐ)
Công nghiệp
463.216
9,7
Xây dựng
228.991
4,8
Nông-Lâm nghiệp
2.742.012
57,4
Thủy sản
49.550
1,0
Vận tải, thông tin liên lạc
150.550
3,1
Buôn bán và dịch vụ
352.159
7.4
Các ngành nghề khác
787.847
16,6
4.774.325

100
(Nguồn: Báo cáo quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội tỉnh Đăk Lăk 1994-2000)

Về lao động việc làm, tính đến ngày 31/12/1999 toàn tỉnh Đăk Lăk có 885.299
lao đông chiếm 48% dân số. Trong đó lao dộng trong lĩnh vực nông - lâm nghiệp
chiếm 84%, công nghiệp - xây dựng chiếm 2,63%, còn lại thuộc các ngành kinh tế xã
hội khác. Về tỉ lệ sự dụng lao động thì có khoảng 90% dân số có việc làm và chủ yếu
làm trong lĩnh vực nông –lâm nghiệp.
Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội và những chính sách của nhà nước, thu
nhập và mức sống của người dân Đăk Lăk cũng được cải thiện đáng kể trong những
năm gần đây. Tuy nhiên, tỉ lệ hộ đói nghèo vẫn còn khoảng 11,5%(1999). Nguyên
nhân chính dẫn đến tỉ lệ đói nghèo còn cao là tình trạng cơ sở hạ tầng quá kém, trình
độ dân trí thấp, tình trạng du canh du cư phổ biến, thiếu vốn, thiếu công cụ sản xuất
tiên tiến, thiếu hiểu biết về khoa học kỹ thuật canh tác, chăn nuôi.
Về đời sống văn hóa xã hội và tinh thần, nhìn chung cơ sơ vật chất cũng như
mạng lưới giáo dục còn nghèo nàn và lạc hậu, hiên tượng bỏ học nhất là khu vực miền
núi, vùng sâu vùng xa còn khá phổ biến. Đời sống văn hóa hiện tại còn tồn tại nhiều
thủ tục lạc hậu, các phương tiện vui chơi giải trí chưa được quan tâm đầu tư đúng mức
nên chỉ có một số công trình vui chơi giải trí ở các thị trấn, thị tứ, thành phố còn vùng
sâu, vùng xa còn rất xa lạ với phương tiện kỹ thuật mới.

13


1.2.Đặc điểm khí tượng thủy văn lưu vực sông Srêpok
1.2.1.Lưới trạm khí tượng thủy văn
Lưới trạm khí tượng: Trong lưu vực và lân cận có tổng số 22 trạm đo mưa, trong
đó có 7 trạm khí tượng đo các yếu tố nhiệt độ đó là Buôn Ma Thuật, Đăk Mil, Buôn
Hồ, Lăk, Đăk Nông, M’Đrăk, Đà Lạt. Nhưng hiện nay có 17 trạm đo mưa và chỉ còn 5
trạm đo khí tượng đó là Buôn Ma Thuật, Buôn Hồ, Đăk Nông, M’Đrăk và trạm Đà Lạt

là trạm vùng lân cận, trạm Lăk vả Đăk Mil hiện nay không đo các yếu tố khí tượng nữa.
Lưới trạm thủy văn: Trên lưu vực có 18 trạm đo thủy văn trong đó có 13 trạm đo
mực nước, lưu lượng, còn lại đo mực nước. Tính đến năm 2002 trên lưu vực chỉ còn 6
trạm thủy văn cấp I do Tổng cục khí tượng thủy văn quản lý đó là: Cầu 14, Bản Đôn
trên sông Srêpok, Giang Sơn trên sông Krông Ana, Đức Xuyên trên sông Krông Knô,
Cầu 42 và Đăk Nông trên sông Đăk Nông.
Lưới trạm khí tượng và đo mưa trong lưu vực:
TT

Trạm

Kinh độ

Vĩ độ

1

Buôn Ma

10803

1240

Thuật

Yếu tố quan

Thời gian

Số


trắc
X,T,E,R,V

quan trắc
1928-1931

năm
65

Số giờ nắng

1933-1944
1954-1974

2
3
4
5

Bản Đôn
Cầu 14
Cầu 42
Krông

10747
10745
10822
10827


1253
1237
1246
1233

X
X
X
X

1977-2002
1977-2002
1977-2002
1977-2002
1977-2002

6

Bông
Buôn Hồ

10816

1255

X,T,E,R,V

1978-2002

25


1227

Số giờ nắng
X,T,E,R,V

1951-1967

43

1225
1248
1306
1202

Số giờ nắng
X
X
X
X,T,E,R,V

1978-2002
1977-2002
1978-1984
1979-2002
1977-2002

26
7
24

26

1202
1218

Số giờ nắng
X
X

1978-1987
1978-2002

10
25

7
8
9
10
11
12
13

14

Đăk Mil
Lăk
Đoàn 333
Ea Sup
Đăk Nông

Krông pach
Đức Xuyên

10737
10811
10837
10852
10853
10800
10959

26
26
26
26


Yếu tố quan

Thời gian

Số

1230
1245

trắc
X
X,T,E,R,V


quan trắc
1977-2002
1978-2002

năm
26
25

1231
1226

Số giờ nắng
X
X

1987-1998
1986-1997

12
12

TT

Trạm

Kinh độ

Vĩ độ

14

15

Giang Sơn
M’Đrăk

10811
10846

16
17

Buôn Đrây
Buôn Triết

10758
10803

(ghi chú:X,T,E,R,V là mưa,nhiệt độ,bốc hơi,độ ẩm, tốc độ gió)
1.2.2.Chế độ khí hậu lưu vực sông Srêpok
Lưu vực sông Srêpok thuộc vùng Tây Nguyên nằm trọn bên sườn Tây của dãy
Trường Sơn bởi vậy khí hậu ở đây chịu ảnh hưởng của các hoàn lưu khí quyển sau:
Vào mùa đông khối không khí cực đới lục địa có hướng Bắc và Đông Bắc tràn
xuống phía Nam gây nên những biến đổi thời tiết như sự hạ thấp nhiệt độ, thời tiết
lạnh hanh, ẩm và mưa phùn vào cuối mùa đông. Lưu vực các sông suối của Srêpok
nằm ở phía nam đèo Hải Vân bị dãy Trường Sơn ngăn cách, ngăn cản các đợt gió mùa
Đông Bắc, trừ những trường hợp gió mùa Đông Bắc rất mạnh mới ảnh hưởng và gây
mưa trên lưu vực. Mùa đông ở đây bắt đầu từ tháng XI và kết thúc vào tháng III.
Vào mùa hạ khối không khí thịnh hành là gió mùa Tây Nam, bắt nguồn từ khu
vực Nam Thái Bình Dương và một phần từ Nam bán cầu di chuyển lên. Khối không
khí này hoạt động mạnh vào các tháng VI,VII,VIII mang hơi ẩm nên đã mang mưa

dông đến toàn lưu vực và cũng là thời kỳ nắng nóng bắt đầu. Vào mùa này còn có khối
không khí xích đạo bắt nguồn từ biển Bắc Ấn Độ Dương kết hợp với một phần yếu ớt
của Tín phong Nam bán cầu di chuyển lên Bắc bán cầu. Khối không khí này tạo thành
gió Tây hay Tây Nam thổi qua Ấn Độ Dương và vịnh Bengan, ảnh hưởng đến bán đảo
Đông Dương gây cho lưu vực thời tiết nắng nóng. Vì vậy tạo đối lưu nhiệt phát triển
kết hợp với địa hình núi cao của dãy Trường Sơn ngăn cản gây ra mưa dông, mưa rào
vào đầu mùa hạ có khi đạt cường độ rất lớn và mưa bắt đầu ổn định ở bên sườn Tây
của dãy Trường Sơn, trong khi đó ở sườn Đông Trường Sơn chịu ảnh hưởng của dòng
phơn gây ra thời kỳ khô nóng.
Vào giữa mùa hạ Tín phong Nam bán cầu bắt đầu vượt lên phía Bắc hình thành
gió mùa Tây Nam lớn dần tới cường độ cực đại.Sau đó gần cuối mùa hạ thì khối
không khí này suy yếu dần và bị lấn át bởi khối không khí Xích đạo từ Nam Thái Bình

15


Dương lên.Vì vậy vào mùa hạ lưu vực bị ảnh hưởng bởi sự hội tụ giữa Tín phong và
gió mùa Tây Nam.Chính sự ảnh hưởng của dải hội tụ nội chí tuyến đã gây ra mưa lớn
trên lưu vực vào các tháng VIII, IX.
1.2.2.1.Đặc điểm mưa
Mưa xảy ra trên lưu vực là sự tổng hợp của rất nhiều hình thái thời tiết khác nhau
như gió mùa, dông ,bão…kết hợp với yếu tố địa hình làm cho lượng mưa trên lưu vực
biến đổi theo cả thời gian lẫn không gian.
Về mặt thủy văn, mưa là một quá trình quan trọng, đóng vai trò chính trong sự
hình thành dòng chảy trên lưu vực, lượng mưa và quá trình mưa quyết định lưu lượng
và quá trình dòng chảy.
Bảng lượng mưa các tháng trong năm (mm)
Cả năm
Tháng 1
Tháng 2

Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
Tháng 7
Tháng 8
Tháng 9
Tháng 10
Tháng 11
Tháng 12

2005
1.913,3
0,0
0,3
0,0
24,4
292,7
129,6
324,8
209,2
605,1
124,6
63,7
57,9

2006
2007
2008
1.890,2

2.081,7
1.824,2
0,4
1,0
12,1
0,0
0,0
4,2
5,0
61,4
112,9
233,2
61,6
10,4
262,4
155,6
405,3
226,1
170,6
163,0
216,6
194,4
87,3
406,4
625,2
273,7
365,2
541,9
354,1
157,0

128,0
227,2
4,6
141,5
148,8
13,3
0,0
25,2
(Theo niên giám thông kê tỉnh Đăk Lăk năm 2008)

1.2.2.2.Các đặc trưng khí hậu khác
● Chế độ nhiệt:
Đặc điểm nổi bật của chế độ nhiệt ở Tây Nguyên nói chung cũng như trong lưu
vực Srêpok nói riêng là hầu như không có mùa lạnh với một nền nhiệt độ đồng đều,
chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng không cao và có sự hạ thấp nhiệt độ theo độ cao.
Nhiệt độ trung bình ở những vùng có độ cao 500-800m dao động từ 22-23 0C. Những
vùng có nhiệt độ trên 240C thường ở dưới độ cao 500m. Nhiệt độ bình quân năm đạt
23,70C ở Buôn Mê Thuật, 24,7 0C ở Krông Ana, vùng thung lũng nhưở Buôn Hồ:
21,80C, ở Đak Mil: 22,40C. Tương ứng với sự hạ thấp nhiệt độ theo độ cao thì tổng

16


nhiệt độ toàn năm đạt 8000-85000C ở vùng có độ cao 500-800m. Ở những vùng có độ
cao 800-1100m tổng nhiệt độ giảm xuống còn 7000-80000C trong năm.
Chênh lệch nhiệt độ giữa các tháng trong năm không lớn 5-6 0C, tháng lạnh nhất
có nhiệt độ trung bình tháng là tháng I đạt 21,0 0C ở Buôn Ma Thuật 18,60C ở Buôn
Hồ, 20,10C ở Đăk Mil, 200C ở M'Đrăk. Tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất là tháng
IV với nhiệt độ trung bình tháng đạt 26,3 0C ở Buôn Ma Thuật, 27,20C ở thung lũng
Krông Ana, 260C ở vùng Lăk, 24,20C ở vùng Buôn Hồ. Nhiệt độ cao nhất đạt vào

tháng IV trong năm đạt 33,9 0C ở Buôn Ma Thuật, 310C ở Buôn Hồ, 32,30C M'Đrăk.
Nhiệt độ cao nhất tuyệt đối quan trắc được là 390C vào ngày 14/04/1937 ở Buôn
Ma Thuật, 34,60C ngày 15/03/1984 ở Buôn Hồ, 35,80C ngày 6/04/1980 ở Đăk Nông.
Nhiệt độ trung bình tối thấp rơi vào tháng lạnh nhất trong năm là tháng I đạt
15,10C ở Buôn Hồ, 17,10C ở Buôn Ma Thuật, 17,20C ở M'Đrăk. Nhiệt độ thấp nhất
tuyệt đối đo được là 7,40C ngày 03/07/1955 tại Buôn Ma Thuật, 8,90C ngày
09/01/1984 tại Buôn Hồ.
Biên độ dao động của nhiệt độ ngày đêm khá lớn, tháng I có biên độ nhiệt độ
ngày đêm đạt 13,60C ở Buôn Ma Thuật, 12,20C ở Buôn Hồ, 15,40C ở Đăk Nông. Tuy
có sự hạ thấp nhiệt độ theo độ cao, xong nhìn chung biến trình năm của nhiệt độ trong
vùng nghiên cứu thuộc dạng biến trình nhiệt độ của vùng nhiệt đới gió mùa. Đó là
dạng biến trình đơn gồm một cực đại về mùa hè vào tháng IV và một cực tiểu vào mùa
đông vào tháng I.
Tháng II sang tháng III nhiệt độ tăng rất nhanh, tháng X, XI có nơi tháng XII
nhiệt độ bắt đầu giảm rất mạnh.
Chế độ nhiệt trong vùng khá phong phú với tổng số giờ nắng trong năm khá cao
đạt 2400-2500giờ/năm, tổng lượng bức xạ đạt cao, bức xạ tổng cộng đạt 233240Kcalo/cm2 khi trời không mây, độ cao mặt trời lớn ít thay đổi trong năm.
Đây là điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cây công nghiệp và hoa màu khác
cũng như việc phát triển mùa vụ trong năm.
Bảng nhiệt độ trung bình các tháng trong năm (°C)
Cả năm
Tháng 1
Tháng 2

17

2005
24,00
21,00
24,10


2006
24,00
21,60
22,90

2007
23,80
21,30
23,30

2008
23.40
20,70
20,80


Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
Tháng 7
Tháng 8
Tháng 9
Tháng 10
Tháng 11
Tháng 12

24,20
26,30

26,70
25,50
24,30
24,30
23,80
23,80
23,10
20,80

24,60
24,90
23,50
25,70
26,00
26,10
25,50
25,60
24,60
25,30
25,50
25,10
24,40
24,30
24,70
23,90
24,00
24,10
24,40
24,30
23,80

23,70
23,60
24,30
23,80
21.50
22.60
22,00
21,80
21,10
(Theo niên giám thông kê tỉnh Đăk Lăk năm 2008)

● Độ ẩm không khí:
Độ ẩm tương đối trung bình năm trong vùng nghiên cứu dao động 82-85%. Quy
luật biến đổi của độ ẩm tương đối trong vùng tăng theo độ cao. Tại Buôn Ma Thuật có
độ cao 490m độ ẩm tương đối đạt 82%, tại Buôn Hồ có độ cao 700m độ ẩm tương đối
đạt 85%, tại Đăk Nông cao độ vùng này là 660m độ ẩm tương đối đạt 83%.
Độ ẩm tương đối thay đổi trong năm khá rõ rệt. Biến trình độ ẩm trùng với biến
trình mưa và ngược lại với biến trình của nhiệt độ. Độ ẩm tương đối trung bình tháng
thấp nhất xẩy ra vào các tháng II, IV và cao nhất vào các tháng IX, X, XI.trong năm từ
tháng IV sang tháng V độ ẩm tăng rất nhanh đạt từ 4-6% và giảm nhanh từ tháng X
sang tháng XI nhất là những vùng có độ cao thấp như Buôn Ma Thuật, Đăk Nông
giảm 2-5%
Độ ẩm thấp nhất xảy ra vào các tháng III, IV. Trị số thấp nhất tuyệt đối đạt 11%
tháng 03/1930 ở Buôn Ma Thuật, 14% ngày 16/02/1985 ở Buôn Hồ. Độ ẩm thấp nhấtở
các tháng mùa mưa, dao động từ 40-60%.
Bảng độ ẩm trung bình các tháng trong năm (%)
Cả năm
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3

Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
Tháng 7
Tháng 8
Tháng 9

18

2005
81
74
70
71
70
78
82
87
83
90

2006
82
82
76
74
78
79
85
87

89
88

2007
82
79
73
76
73
82
85
87
89
89

2008
84
81
79
73
75
87
85
87
90
91


Tháng 10
Tháng 11

Tháng 12

87
86
89

86
81
81

89
87
81

88
88
85

(Theo niên giám thông kê tỉnh Đăk Lăk năm 2008)
● Số giờ nắng:
Số giờ nắng trên lưu vực hàng năm khoảng 2200 - 2600 giờ/năm. Tháng có số
giờ nắng nhiều nhất thường rơi vào tháng III (cuối mùa khô) và đạt tới 260 - 300 giơ
̀/tháng, 9,8 giờ/ngày. Tháng có số giờ nắng ít nhất thường rơi vào tháng giữa mùa mưa
và chỉ đạt khoảng 105 giờ/tháng, 3,5giờ/ngày.
Một số vị trí có quan trắc giờ nắng đã quan trắc được số giờ nắng trong tháng,
năm như sau.

19



Số giờ nắng các tháng trong năm (giờ)
Cả năm
Tháng 1
Tháng 2
Tháng 3
Tháng 4
Tháng 5
Tháng 6
Tháng 7
Tháng 8
Tháng 9
Tháng 10
Tháng 11
Tháng 12

2005
2.299,8
297,8
264,4
292,7
262,3
263,6
211,7
92,2
153,8
99,6
128,6
169,4
63,4


2006
2007
2008
2.560,2
2.392,7
2.332,4
212,8
202,6
219,4
251,2
267,0
229,6
276,9
256,5
262,7
247,4
256,0
267,9
181,1
231,5
177,2
214,1
206,6
228,4
161,3
189,3
205,8
142,9
148,2
175,0

187,1
167,3
106,8
211,5
129,1
181,3
255,0
127,0
109,1
218,6
211,6
169,2
(Theo niên giám thống kê tỉnh Đăk Lăk năm 2008)

● Bốc hơi:
Lượng bốc hơi đo bằng ống Piche trong vùng ở các địa điểm khác nhau có khác
nhau. Khả năng bốc hơi này đạt cao nhất ở Buôn Ma Thuột đạt 1429mm trung bình
nhiều năm, đạt 1073mm ở Buôn Hồ, đạt 941 mm ở Đăk Nông và đạt 1224mm ở
M'Đrăk.
Thời kỳ khô nóng vào tháng III, khả năng bốc hơi đạt cao nhất 214mm ở Buôn
Ma Thuật, 154mm ở Buôn Hồ, 246 mm ở Đăk Mil, 155mm ở M'Đrăk (tháng VII). Bốc
hơi nhỏ nhất xảy ra vào các tháng IX, X, XI là các tháng có lượng mưa lớn nhất.
Lượng bốc hơi đo bằng ống Piche chỉ đạt 53mm vào tháng IX ở Buôn Ma Thuật,
56mm vào tháng XI ở Buôn Hồ, 56mm vào tháng X ở Đăk Mil, 51mm vào tháng XI ở
M'Đrăk.
Bốc hơi khả năng trong vùng lớn hơn các vùng thấp lân cận, mặc dù nhiệt độ
không khí trên vùng không cao bằng các vùng khác có cùng vĩ độ. Nguyên nhân chính
do: Cường độ bức xạ mặt trời trên cao nguyên lớn hơn, nhất là vào thời kỳ khô nóng,
và độ ẩm tương đối của không khí thấp và tốc độ gió trên cao nguyên cũng mạnh hơn.
Lượng bốc hơi khả năng vào các tháng mùa khô rất lớn điều này là một bất lợi đối với

phát triển nông nghiệp trong lưu vực, do bốc hơi lớn đã gây ra hạn hán khắc nghiệt
trên cao nguyên như đợt hạn hán đầu năm 1998 đã làm cho hàng nghìn ha cây công
nghiệp của lưu vực bị chết.

20


1.2.3.Chế độ thủy văn sông Srêpok
Lưu vực sông Srêpok chịu sự ảnh hưởng của chế độ gió mùa phức tạp lại chịu
thêm ảnh hường tích cực của yếu tố địa hình nên chế độ khí hâu rát khác nhau với hai
kiểu khí hậu Đông và Tây Trường Sơn. Điều này làm cho diễn biến lượng mưa các
tháng trong năm trở nên không ổn định, dẫn đến phân phối dòng chảy sông Srêpok
diễn ra rất phức tạp về mùa cũng như thành phần lượng nước giữa các tháng trong
năm.
1.2.3.1.Dòng chảy năm
Dòng chảy trên sông không chỉ thay đổi hàng năm mà còn thay đổitheo các thời
kì trong năm, thể hiện tính tuần hoàn của các yếu tố khí hậu. Sự thay đổi có tínhchu kì
nàyđược gọi là phân phối dòng chảy trong năm.
Do chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa cùng với điều kiện địa hình nên chế độ
mưa trên lưu vực tương đối phức tạp, làm ảnh hưởng trực tiếp đến dòng chảy, làm
dòng chảy có sự phân bố theo mùa trong năm rất phức tạp.
I.1.3.2.Dòng chảy lũ
Dòng chảy lũđược hình thành trên lưu vực chủ yếu là do mưa. Nguyên nhân gây
mưa lũ trên lưu vực là do cácloại hình thế thời tiết sau:
● Mưa dông do gió mùa mùa hạ hướng Tây Nam kết hợp với dải hội tụ nhiệt đới.
● Mưa do bão từ biển Đông đổ bộ vào đất liền gặp dải Trường Sơn ngăn cản bị
suy yếu, sau khi vượt qua dải Trường Sơn thì hình thành một vùng áp thấp nhiệt đới
gây nên mưa lớn trên diện rộng.
● Mưa lớn hình thành do cả hai loại hình thế thời tiết trên gặp gỡ nhau. Thường
xảy ra vào cuối mùa mưa của Tây Trường Sơn vào cuối tháng X hoặc tháng XI.

Do ảnh hưởng mưa lũ hàng năm từ tháng VIII tới tháng XI mực nước sông trên
sông Krông Ana, Krông Knô dâng cao và đạt cao nhất vào tháng IX và tháng X
Trong cùng một đợt mưa sinh lũ, trên sông Krông Ana lũ thường chậm hơn trên
sông Krông Knô 2-5 ngày (do độ dốc lòng sông của sông Krông Ana nhỏ hơn sông
Krông Knô, và lưu vực có tác dụng điều tiết tốt hơn).
Ngoài ra, lũ lớn nhất trên sông Krông Ana thường chậm hơn trên sông Krông
Knô xấp xỉ 1 tháng (do lưu vực sông Krông Ana còn chịu tác động của khí hậu Đông
Trường Sơn)

21


Tuy nhiên, do khả năngđiều tiết lũ tự nhiên của lưu vực nhưđã phân tíchở trên
nên đỉnh lũ trạm hạ lưu trong một số trường hợp lại nhỏ hơn đỉnh lũở trạm thượng lưu,
cùng vớiđó là khả năng tiêu thoát kém gây tình trạngúng ngập lâu ngày.
1.2.3.3.Dòng chảy kiệt
Mùa kiệt trên lưu vực từ tháng XI, XII đến tháng VII, VIII năm sau. Tháng XI
vùng thượng nguồn sông Krông Ana (sông Krông Pach) do chịu ảnh hưởng yếu của
khí hậu Đông Trường Sơn nên có nơi còn có lượng mưa đạt tới trên 300mm/tháng
(Theo số liệu quan trắc của trạm M’Đrăk). Trong khi đó các nơi khác lượng mưa tháng
chỉ còn xấp xỉ 100mm/tháng. Tháng XII lượng mưa ở vùng thượng nguồn sông Krông
Pach vẫn còn đạt trên 100mm/tháng. Lúc đó lượng mưa ở các nơi khác giảm xuống
dưới mức 10-20 mm/ tháng. Tháng I, II trên toàn lưu vực lượng mưa rất ít, chỉ một số
nơi có mưa, nhưng lượng mưa chỉ đạt từ 5-10mm/tháng. Sang đến tháng III toàn lưu
vực hầu như không có mưa. Từ tháng IV gió mùa Tây Nam đã thổi xen kẽ và bắt đầu
xuất hiện lác đác các trận mưa dông sớm với lượng mưa tháng xấp xỉ 100mm/tháng.
Tháng V,VI,VII lượng mưa có khá hơn và hình thành dòng chảy nhưng lượng dòng
chảy này chưa đủ lớn lớnđểđược xếp vào dòng chảy của mùa lũ. Tại Bản Đôn dòng
chảy bình quân tháng nhỏ nhất rơi vào tháng IV đạt 62 m 3/s, dòng chảy tháng IV với
tần suất 75% chỉ đạt 46,1 m3/s tương ứng với môđun dòng chảy 4,3 l/s/km2.


22


Chương 2 : PHƯƠNG PHÁP TÍNH MƯA BÌNH QUÂN LƯU VỰC SREPOK
2.1 Tính toán mưa bình quân tháng
Để tính toán lượng mưa bình quân tháng trên lưu vực Srêpok ta chia lưu vực ra
thành nhiều tiểu lưu vực và tính toán mưa trung bình tháng cho các tiểu lưu vực này.
Lượng mưa tháng này góp phần lớn vào việc hình thành dòng chảy trên sông Srêpok
và các nhánh của nó. Việc phân chia tiểu lưu vực được thực hiện bằng mô hình SWAT
(Soil and Water Assement Tools) – là một phần mềm khá tiện dụng trong phân chia các
tiểu lưu vực được xây dựng liên kết trong môi trượng giao diện của phần mềm
ARCVIEW.
2.1.1.Phân chia tiểu lưu vực bằng SWAT
1. Dữ liệu đầu vào cho mô hình
Để phân chia tiểu lưu vực bằng phần mềm SWAT cần phải sử dụng các dữ liệu
đầu vào sau:
+ Mô hình số độ cao UTM – DEM 90 cho khu vực Việt Nam
+ Bản đồ lưu vực Srêpok (Atlát Việt Nam) dạng Shape ESRI
+ Bản đồ lưới trạm thủy văn (dạng Shape ESRI)
2. Sử dụng SWAT phân chia thành các tiểu lưu vực
Khởi động ARCVIEW chọn Extensions “AVSWATX”, giao diện của SWAT sẽ
được mở ra.

Hình 2.1: Giao diện phần mềm SWAT
Sau khi đưa bản đồ DEM, bản đồ lưu vực Srêpok và bản đồ lưới trạm thủy văn
vào mô hình SWAT sẽ tự động khoanh lưu vực bằng công cụ “Watershed Delineation”.
Ta được kết quả là các tiểu lưu vực và mạng lưới sông trên lưu vực.

23



Hình 2.2: Các tiểu lưu vực đã phân chia
Như vậy ta đã chia lưu vực Srêpok ra thành 8 tiểu lưu vực được đánh số thứ tự
từ 1 đến 8. Trong đó tiểu lưu vực 1 chứa dòng chính sông Srêpok, tiểu lưu vực 2 chứa
dòng chính sông Krông Buk, tiểu lưu vực 3 chứa dòng chính sông Krông Pach, tiểu
lưu vực 4 chứa dòng chính sông Krông Bông, tiểu lưu vực 6 và 7 chứa dòng chính
sông Krông Ana và tiểu lưu vực 8 chứa dòng chính sông Krông Knô.
Sau khi đã phân chia tiểu lưu vực xong ta khởi động lại ARCVIEW, mở lưu vực
đã phân chia rồi vào bảng thuộc tính của nó để tính lại diện tích các tiểu lưu vực bằng
công cụ “Calculate” (máy tính). Kết quả tính toán diện tích các tiểu lưu vực được thể
hiện trong bảng sau.

Bảng 2.1: Diện tích các tiểu lưu vực
Tiểu lưu vực
Tên sông chính
1
Srêpok
2
Krông Buk
3
Krông Pach
4
Krông Bông
5
6
Krông Ana
7
Krông Ana
8

Krông Knô
2.1.2.Tính toán mưa bình quân tháng các tiểu lưu vực

24

Diện tích (km²)
3297,54
606,32
609,98
756,37
657,82
191,80
1683,70
3608,28


Trên lưu vực ta có số liệu mưa bình quân tháng của 3 trạm Bản Đôn, Đức
Xuyên và Giang Sơn, để tính toán mưa bình quân tháng cho các tiểu lưu vực ta áp
dụng phương pháp đa giác Theissen.
1. Phương pháp đa giác Theissen
Cơ sở của phương pháp là nếu một lưu vực có nhiều trạm mưa thì mưa tại một
điểm bất kì trên lưu vực sẽ coi bằng lượng mưa đo đạc được tại trạm mưa gần nhất đó.
Trên bản đồ lưu vực có nhiểu trạm mưa ta có thể kẻ các đường trung trực giữa
tất cả các cặp trạm mưa lân cận nhau. Tập hợp các đường trung trực này cùng với biên
của lưu vực tạo thành các đa giác Theissen.
Trong trường hợp tổng quát trạm mưa không nhất thiết phải nằm trong lưu vực,
miễn là đa giác chứa trạm đó có một phần diện tích nằm trong lưu vực.
Như vậy với một lưu vực có trạm đo mưa gần hay nằm trong lưu vực thì lượng
mưa bình quân trên lưu vực là trung bình có trọng số của các lượng mưa tại các trạm
thành phần với trọng số tỉ lệ diện tích của đa giác chứa tram mưa đó.

X=

f1 X 1 + f 2 X 2 + ... + f n X n
F

Trong đó: f1, f2... là các diện tích đa giác thành phần (đơn vị diện tích)
X1, X2... là lượng mưa các trạm thành phần (mm)
F: diện tích toàn bộ lưu vực (đơn vị diện tích)
X: lượng mưa trung bình của lưu vực (mm)
2.Vẽ đa giác Theissen
Ta sử dụng Extenssion “Create Thiessen Polygon v2.0” trong ARCVIEW để vẽ
đa giác Theissen.

25


×