Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

NIÊN LUẬN TÍNH TOÁN ĐẶC TRƯNG DÒNG CHẢY MÙA LŨ ĐẾN HỒ CHẢY THÁC BÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.53 KB, 30 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN

SINH VIÊN: HỒ THỊ THANH TÂM

NIÊN LUẬN
TÍNH TOÁN ĐẶC TRƯNG DÒNG CHẢY MÙA LŨ
ĐẾN HỒ CHẢY THÁC BÀ


2

Hà Nội – 2016
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA KHÍ TƯỢNG THỦY VĂN

SINH VIÊN: HỒ THỊ THANH TÂM

NIÊN LUẬN
TÍNH TOÁN ĐẶC TRƯNG DÒNG CHẢY MÙA LŨ
ĐẾN HỒ CHẢY THÁC BÀ


3

Chuyên ngành: Thủy văn
Mã ngành:
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TH.S LÊ THU TRANG


Hà Nội – 2016
Lời cám ơn
Em xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo trong Khoa Khí tượng
Thủy văn – Trường đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã dạy bảo,
truyền thụ kiến thức cho em trong suốt quá trình học tập vừa qua. Đặc biệt em
xin cảm ơn đến cô Ths Lê Thu Trang đã hướng dẫn chỉ dạy rất tận tình và tạo
điều kiện cho em hoàn thành đề tài này.
Trong khuôn khổ của đề tài: “Tính toán đặc trưng dòng chảy mùa lũ
đến hồ chưa Thác Bà”, với sự giúp đỡ và hướng dẫn của thầy cô nhưng do
hạn chế về thời gian và khả năng của bản thân, mặc dù đã có nhiều cố gắng
nhưng niên luận không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Vì vây, em
mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo quý báu của thầy cô !.
Em xin chân thành cám ơn.
Sinh viên thực hiện
Hồ Thị Thanh Tâm.


4

MỤC LỤC


5

DANH MỤC BẢNG


6

DANH MỤC HÌNH



7
Mở đầu
1.

Lý do chọn đề tài
Nhà máy thủy điện Thác Bà là đứa con đầu lòng của ngành thủy điện
Việt Nam, là nhà máy thủy điện được xây dựng đầu tiên ở miền Bắc nước ta
trong thời kỳ quá độ đin lên chủ nghĩa xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã quyết
định xây dựng nhà máy thủy điện Thác Bà trên dòng Sông Chảy, thuộc địa
bàn huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái. Công trình thủy điện đầu tiên của Việt
Nam do sự giúp đỡ của nhà nước Liên Xô cũ nay là nước Cộng hòa Liên
Bang Nga.
Nhiệm vụ cơ bản của hồ chứa là phát điện thương mại và đảm bảo an
toàn chống lũ cho vùng đồng bằng Bắc Bộ. Với nhiệm vụ đặt ra như trên, đòi
hỏi công tác vận hành, khai thác của đơn vị quản lý phải thật tối ưu để làm
sao vừa đảm bảo yêu cầu sản xuất kinh doanh đồng thời phải an toàn cho
công trình khi mùa lũ đến, bên cạnh đó vấn đề xả lũ như thế nào cho hợp lý
nhằm giảm nhẹ lũ cho vùng hạ du cũng hết sức quan tâm. Để làm tốt nhiệm
vụ đề ra thì công tác vận hành tối ưu cho trạm thủy điện phải luôn gắn liền
với vấn đề dự báo lưu lượng dòng chảy đến trong mùa lũ.
Vì vậy, với mong muốn xây dựng phương án dự báo được chính xác
hơn quá trình lưu lượng lũ hồ, nhằm phục vụ đắc lực cho công tác vận hành
tối ưu hóa hồ chứa thủy điện, giúp cơ quan quản lý, đơn vị điều hành, khai

2.

thác đạt hiệu quả công việc cao nhất, tôi chọn đề tài:
“Tính toán đặc trưng dòng chảy mùa lũ đến hồ chứa Thác Bà”

Mục đích của đề tài nghiên cứu:
Nghiên cứu tính toán các đặc trưng dòng chảy mùa lũ, xây dựng
phương án dự báo dòng chảy mùa lũ hồ chưa Thác Bà nhằm cung cấp số liệu
nhằm phục vụ bài toán vận hành tối ưu hồ chứa trong khai thác điện và phòng

tránh lũ hạ du.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu :Các đặc trưng dòng chảy mùa lũ.


8
- Phạm vi nghiên cứu là lưu vực sông Chảy đến hồ chứa thủy điện Thác Bà,
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích thống kê
- Phương pháp phần mềm vẽ đường tần suất FFC 2008.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Số liệu dự báo sẽ giúp cho đơn vị quản lý, vận hành hồ chứa có kết
hoạch tích nước đầy hồ để phát điện cho mùa khô và vẫn đảm bảo an toàn
chop công trình và phòng lũ cho hạ du, nhờ đó mà có thể khai thác tối đa lợi
6.

ích từ hồ chứa.
Cấu trúc niên luận:
Niên luận ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị gồm 3 chương:
CHƯƠNG I : ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ ,TỰ NHIÊN, KHÍ TƯỢNG
THỦY VĂN LƯU VỰC SÔNG CHẢY

CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM MƯA, LŨ VÀ NHỮNG HÌNH THẾ
THỜI TIẾT GÂY MƯA SINH LŨ TRÊN LƯU VỰC SÔNG
CHẢY

CHƯƠNG III: XÁC ĐỊNH CÁC ĐẶC TRƯNG DÒNG CHẢY
MÙA LŨ ĐẾN HỒ THÁC BÀ


9
CHƯƠNG I : ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ ,TỰ NHIÊN, KHÍ TƯỢNG THỦY
VĂN LƯU VỰC SÔNG CHẢY

Hình 1.1 Sông chảy xuôi về hạ du
1.1. ĐIỀU KIỆN ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN
Sông Chảy là phụ lưu lớn thứ hai trong lưu vực sông Lô. Bắt nguồn từ
vùng núi Tây Côn Lĩnh cao nhất khu Đông Bắc. Diện tích sông Chảy chiếm
khoảng 16,7 % diện tích toàn bộ lưu vực sông Lô.
Lưu vực sông Chảy được giới hạn: phía Bắc là vùng núi cao 1.500 m,
đường phân nước giữa sông Chảy và sông Lô. Dãy núi con Voi kéo dài từ tây
bắc xuống đông nam phân cách giữa sông Chảy và sông Thao. Phía đông và
đông nam là đường sống núi của dãy Tây Côn Lĩnh và dãy núi thấp phân chia
giữa lưu vực sông Chảy và dòng chính sông Lô ở phía trung lưu.
Địa hình lưu vực sông Chảy thấp dần từ bắc, tây bắc xuống đông nam.
Phía bắc cao hơn cả, trong đó dãy Tây Côn Lĩnh cao khoảng 1.630 đến trên
2.000 m với đỉnh cao tới 2.419 m. Phía tây, là dãy núi Con Voi cao từ 700 1.450 m. Phía đông nam lưu vực chỉ cao trung bình 200 - 300 m. Hướng dốc
của địa hình đã quyết định hướng của dòng chính sông Chảy ở thượng lưu
theo hướng đông tây; ở trung và hạ lưu theo hướng tây bắc - đông nam.


10
Phần thượng lưu sông Chảy, độ cao đáy sông hạ thấp rất nhanh, trong
vòng 20 km đầu, độ cao giảm từ 1.200 m xuống còn 500 m. Lưu vực có sườn
dốc lớn, trung bình từ 30o – 45o. Sau khi qua Hoàng Su Phì và từ Cốc Pai,
dòng chính sông Chảy là một hẻm vực sâu thẳm. Tại Lúng Thẳng, phụ lưu lớn

nhất từ phía Trung Quốc chảy qua nhập vào sông Chảy ở bờ phải. Sông Chảy
nhập vào sông Lô ở Đoan Hùng, cánh cửa sông Lô 62 km.
Lưu vực sông Chảy hình thành trong một vùng địa hình được nâng cao,
trong vận động tạo lục trẻ và mạnh, độ cao tương đối và tuyệt đối đều lớn hơn
1.000 m. Địa hình bị đào khoét chia cắt mạnh.
Đáy sông chính ở độ cao 50 -100 m, đáy các phụ lưu ở độ cao khoảng
100 - 150 m. Xâm thực trên một nền đá rắn kết tinh thái cổ, thác ghềnh phát
triển, dòng sông trở nên hiểm trở. Chỉ kể từ Bảo Nhai trở về Phố Ràng đã có
tới 41 thác lớn nhỏ và từ Phố Ràng về tới Đoan Hùng dài 82 km, số thác
ghềnh và bãi nổi cũng có tới 82 cái.
Độ dốc bình quân sông Chảy tới 24 %, độ cao bình quân khoảng 858
m. Diện tích có độ cao từ 400 m trở xuống chiếm trên 40 % diện tích toàn lưu
vực. Mạng lưới sông suối phát triển mạnh, trên 1,5 km/km 2 .( riêng lưu vực
sông Trao Chơm tới 1,85 km/km2).
1.2. ĐẶC ĐIỂM KHÍ TƯỢNGT HUỶ VĂN LƯU VỰC SÔNG CHẢY
Trên lưu vực sông Chảy có 47 sông với chiều dài từ 10 km trở lên.
Dòng chính sông Chảy uốn khúc quanh co, hệ số uốn khúc lớn 2,32. §ộ rộng
bình quân lưu vực nhỏ 26 km, hệ số không cân bằng của lưới sông nhỏ hơn 1,
các phụ lưu nhập vào sông chính tương đối đều theo hai bên bờ phải và trái.
Lượng mưa bình quân năm trên toàn lưu vực khoảng 1.925 mm.
Nhưng do vị trí khác nhau đối với gió ẩm và địa hình, trên lưu vực sông
Chảy có sự khác nhau về lượng mưa giữa các vùng.


11
Phân bố mưa có hướng tăng dần từ thượng lưu về trung lưu và sau đó
lại giảm dần về hạ lưu: Xín Mần 1.443 mm, Mường Khương 2.042 mm, Lục
Yên 2.032 mm, Nghĩa Đô 2.340 mm, Chợ Ngọc 2.003 mm và Thác Bà
1.763mm. Riêng khu vực Hoàng Su Phì ở cực bắc lưu vực có vị trí khuất đối
với hướng gió ẩm nên ít mưa (tại Hoàng Su Phì khoảng 1.667 mm). Khả năng

bốc hơi hàng năm trên lưu vực khoảng 850 mm.
Sông Chảy nằm trong vùng mưa nhiều, địa hình núi phát triển, độ dốc
lưu vực lớn, dòng chảy sông ngòi sản sinh thuận lợi. Tổng lượng dòng chảy
bình quân nhiều năm là 6,46 km 3 ứng với lưu lượng bình quân năm là 205
m3/s và mô đun dòng chảy năm là 31,5 l/s/km 2, nhiều nước hơn lưu vực sông
Gâm.
Quy luật phân bố dòng chảy trên lưu vực sông Chảy cũng giống phân
bố mưa. Vùng trung lưu thuộc bờ trái sông Chảy nhiều nước nhất lưu vực, mô
đun dòng chảy năm tại Nghĩa Đô tới 57,6 l/s/km 2. Vùng thượng và hạ lưu ít
nước hơn, mô đun dòng chảy năm đạt 31 đến 32 l/s/km2 (Bảng 1.1)
Bảng 1.1: Đặc trưng dòng chảy năm sông Chảy
F

W

Q

X

M

Cửa sông

km2
6.498

km3
6,43

m3/s

205

mm
1.92

l/s/km2
31,5

-

Cốc Ly

3.290

3,3

104

5

32,2

0,54

-

Yên Châu

5.030


4,9

156

1.93

31,2

0,50

-

Thác Bà

6.170

6,0

192

5

31,6

0,50

Sông

Trạm


Chảy


0,50

1.93
0
1.92
5
Chế độ nước của sông Chảy chịu sự chi phối của chế độ mưa. Đặc điểm
nổi bất là chế độ lũ kéo dài. Mùa lũ trên lưu vực sông Chảy kéo dài tới 5


12
tháng, bắt đầu từ tháng VI và kết thúc vào tháng X. Lượng dòng chảy của 5
tháng này chiếm tới 79,3 % lượng nước cả năm.
Ba tháng có lượng dòng chảy lớn nhất là tháng VII, VIII và IX với tổng
dòng chảy chiếm khoảng 45 đến 50% lượng dòng chảy năm.
Tháng có lượng dòng chảy lớn nhất trên lưu vực sông Chảy xuất hiện
đồng bộ vào tháng VIII chiếm khoảng 19 đến 20 % lượng dòng chảy năm.
Đặc điểm địa hình cao, dốc mạnh, mưa lớn tạo điều kiện cho dòng chảy
lũ trên sông Chảy tập trung rất nhanh và ác liệt. Nhất là ở thượng lưu và trên
các phụ lưu ở bờ trái. Mô đun dòng chảy lớn nhất năm trên sông Chảy tại Cốc
Ly là 821 l/s/km2, tại Nghĩa Đô 1.806 l/s/km2. Biên độ mực nước lớn nhất tại
Cốc Ly là 15,23 m thuộc loại lớn nhất miền Bắc.
1.3. HỒ THUỶ ĐIỆN THÁC BÀ

Hình 1.2 Toàn cảnh nhà máy Thác Bà nhìn từ hạ lưu
Hồ thuỷ điện Thác Bà trên sông Chảy được đưa vào hoạt động từ năm
1971. Cho đến nay, nhà máy thuỷ điện Thác Bà đã cung cấp năng lượng cho

hệ thống điện miền Bắc góp phần to lớn trong việc cung cấp năng lượng ổn
định, tạo điều kiện cho phát triển kinh tế xã hội. Với đập nước cao 60,8 m,


13
diện tích mặt nước rộng 260 km2, hồ Thác Bà có dung tích toàn bộ là 3,6 km 3,
khống chế được khoảng 50 % lượng nước hàng năm của sông Chảy để phục
vụ cho phát điện và tưới ruộng.

Hình 1.3. Khuôn viên nhà máy thuỷ điện Thác Bà
1.3.1. Các chỉ tiêu thông số của nhà máy
Một số thông số kỹ thuật cơ bản của hồ và các công trình đầu mối nhà
máy thuỷ điện Thác Bà :
Cao trình đỉnh đập
Cao trình mực nước gia cường
Mực nước dâng bình thường
Dung tích ứng với mực nước gia cường
Dung tích phòng lũ
Số tổ máy
Công suất lắp máy
Số cửa xả mặt (kích thước)
Cao trình ngưỡng xả mặt
Qmax xả mặt
Qmax lũ thiết kế
Dung tích năm TBNN
Mực nước thời kỳ lũ sớm 15/VI - 15/VII

62 m
61 m
58 m

3,64 tỷ m3
0,45 tỷ m3
3
108 MW
3 (7x12 m)
46 m
3.230 m3/s
5.100 m3/s
6,345 tỷ m3
≤ 56 m


14
Mực nước thời kỳ lũ chính vụ (16/VII - 25/VIII)
Mực nước thời kỳ lũ muộn (26/VIII-15/IX

Hình 1.4. Mặt đỉnh đập

Hình 1.5. Mái hạ lưu đập

≤ 56 m
≤ 58 m


15

Hình 1.6. Cửa tràn (nhìn từ trên cao)
1.3.2. Bối cảnh lịch sử:
Nhà máy thuỷ điện Thác Bà là đứa con đầu lòng của ngành thuỷ điện
Việt Nam, là nhà máy thuỷ điện được xây dựng đầu tiên ở miền Bắc nước ta

trong thời kỳ qúa độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ III, là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc, đấu
tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Quán triệt tinh thần nghị quyết của đại hội với chủ trương “ Điện phải
đi trước một bước”. Đảng và Nhà nước ta đã quyết định xây dựng nhà máy
thủy điện Thác Bà trên dòng Sông Chảy, thuộc địa bàn huyện Yên Bình - Tỉnh
Yên Bái. Công trình thuỷ điện đầu tiên của Việt Nam do sự giúp đỡ của nhà
nước Liên Xô cũ nay là nước Cộng hoà liên Bang Nga.
- Công trình được khởi công xây dựng ngày 19/8/1964.
- Công suất thiết kế: 108 MW
- Sản lượng bình quân: 400 triệu kWh/năm.
Là một công trình trọng điểm trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm lần thứ nhất của nước ta (1960 - 1965). Là nền móng cơ sở vật chất,
kỹ thuật cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước.


16
Nhà máy được xây dựng trong thời kỳ đế quốc Mỹ tập trung mở rộng
quy mô đánh phá ra miền Bắc bằng không quân, hòng phá hoại công cuộc xây
dựng CNXH của nhân dân ta, ngăn cản sự chi viện của hậu phương lớn miền
Bắc đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất tổ quốc.
Ngày 9/7/1965 cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ lan rộng
khắp miền Bắc, công trường xây dựng nhà máy thuỷ điện Thác Bà là một
trong những mục tiêu trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ. Công trường xây
dựng nhà máy liên tục bị chiến tranh phá hoại của không lực Hoa Kỳ nên tiến
độ bị chậm lại, nhiều lúc phải dừng hẳn để đối phó đánh trả máy bay Mỹ. Mãi
đến năm 1968 khi giặc Mỹ ngừng ném bòm công trường mới được tiếp tục
xây dựng.
Ngày 22/2/1970 dòng Sông Chảy đã bị chặn lại bởi bàn tay và sức lao
động của con người.

Ngày 5/10/1971 sau buổi lễ long trọng Đồng chí Thủ tướng Chính phủ
nước ta Lê Thanh Nghị và đồng chí phó chủ tịch Hội Đồng Bộ trưởng Liên
Xô đã cắt băng khánh thành và khởi động tổ máy số 1, chính thức phát điện
lên lưới điện Quốc gia.
Từ đó trở đi ngày 5/10/1971 hàng năm trở thành ngày kỷ niệm truyền
thống, ngày ra đời lịch sử của nhà máy thuỷ điện Thác bà và cũng từ ngày đó
dòng điện Thác Bà đã bắt đầu toả sáng tiếp sức cho công cuộc xây dựng
CNXH ở miền Bắc, đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước.
Trải qua gần 40 năm vừa xây dựng, chiến đấu và vận hành sản xuất, các
thế hệ CBCNV của nhà máy luôn nêu cao tinh thần đoàn kết nhất trí, không
ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu,
xây dựng và sản xuất cung ứng điện xây dựng nền kinh tế xã hội.
1.3.3. Những mốc son lịch sử của Nhà máy:
+ Năm 1959 - 1961 khảo sát thiết kế công trình.


17
+ Năm 1962 - 1964 xây dựng cơ sở hạ tầng và đào hố móng công trình
+ Ngày 19/8/1964 khởi công xây dựng nhà máy thuỷ điện Thác Bà.
Đồng chí Phạm Văn Đồng thủ tướng Chính phủ Nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà (nay là Cộng hoà XHCN Việt Nam) tham gia đổ bê tông đầu
tiên xuống nền móng công trình.
+ Ngày 22/2/1970 ngày hội ngăn sông, nắn dòng sông chảy qua các cửa
tràn của Nhà máy. Đ/c Nguyễn Duy Trinh phó Thủ tướng Chính phủ dự ngày
hội ngăn sông.
+ Ngày 5/10/1971 lễ khánh thành và khởi động phát điện tổ máy số 1,
đ/c Lê Thanh Nghị Phó thủ tướng Chính phủ đã tham gia khởi động tổ máy số
1 nhà máy bắt đầu phát điện lên lưới điện Quốc gia.
+ Ngày 10/3/1972 khởi động tổ máy số 2.
+ Ngày 19/5/1972 khởi động chạy tổ máy số 3. Nhà máy đi vào vận

hành cả 3 tổ máy đạt công suất thiết kế.
+ Ngày 2/6/1972 Đế quốc Mỹ tăng cường ném bom phá huỷ nhà máy
bằng khoảng 2000 quả bom bi nổ chậm. Cán bộ CNV nhà máy và công
trường Thác Bà đã dũng cảm phối hợp nhặt bom bi, sử lý hậu quả và khôi
phục nhà máy trở lại vận hành và phát điện sau 48 giừo phải ngừng máy.
+ Ngày 10/6/1972 Đế Quốc Mỹ lại huy động một lực lượng lớn các
loại máy bay để ném bom hòng huỷ diệt toàn bộ nhà máy, làm nhiều thiết bị
hư hỏng nặng.
+ Ngày 12/8/1972 đã khởi động chạy lại và phát điện tổ máy số 2 với
công suất thiết kế.
+ Ngày 22/4/1975 đã khởi động lại và phát điện tổ máy số 3.
1.3.4. Quá trình phát triển và trưởng thành của nhà máy:
Từ khi tiếp nhận và vận hành sản xuất. Nhà máy đã nhanh chóng ổn
định tổ chức, tiếp thu nhanh nhạy kỹ thuật quảnlý vận hành để độc lập công


18
tác. Công suất và sản lượng điện phát ra của nhà máy trong thời kỳ chiến
tranh và sau khi hoà bình lập lại chiếm 70% sản lượng điện của hệ thống điện
miền Bắc, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng CNXH của miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà.
1.3.4.1. Hoạt động của nhà máy trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu
nước.
Giai đoạn đầu đi vào hoạt động nhà máy vừa sản xuất vừa tiếp tục lắp
ráp các tổ máy số 2 và số 3, đồng thời vừa chiến đấu chống lại sự phá hoại
của máy bay Mỹ để bảo vệ nhà máy.
Khi nhận bàn giao vận hành phát điện tổ máy số 1 nhà máy đã góp
phần đáng kể cùng các nhà máy nhiệt điện trên miền Bắc cung cấp điện có
hiệu quả cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế XHCN, Quốc phòng an ninh.
Với công suất của tổ máy là 36 MW nhà máy đã đóng góp một phần quan

trọng cho nước nhà nhất là khi một số nhà máy điện ở miền Bắc bị bom Mỹ
phá hỏng nặng.
Năm 1971 nhà máy được cấp trên giao kế hoạch sản lượng điện là 35
triệu kWh nhà máy đã phấn đấu thực hiện được 38 triệu kWh, đây là một
thành tích rất có ý nghĩa trong thời điểm bấy giờ, đã chứng tỏ sự nỗ lực cố
gắng rất cao của CBCNV nhà máy.
Ngày 10/3/1972 và ngày 19/5/1972 cả 2 tổ máy số 2 và 3 được lắp đặt
xong, sau khi chạy thử nghiệm các tổ máy được bàn giao và đưa vào vận hành
hết công suất 3 tổ máy là 108.000 kWH, sản lượng điện của nhà máy chiếm
70% tổng sản lượng điện toàn miền Bắc lúc đó.
Ngày 2/6/1972 máy bay Mỹ tiếp tục oanh tạc vào nhà máy, chúng ném
xuống hàng ngàn quả bom bi và bom phá, bom dải dày đặc khu vực nhà máy
với âm mưu phá hoại và huỷ diệt nhà máy thuỷ điện non trẻ của chúng ta. Do
nhà máy đã có kế hoạch sẵn sàng đánh trả từ trước, đại đội tự vệ nhà máy đã


19
hợp đồng tác chiến với Trung đoàn 254 - pháp phòng không bảo vệ nhà máy
đánh trả quyết liệt buộc máy bay Mỹ phải trút bom bừa bãi để tháo chạy.
Ngay sau khi máy bay Mỹ rút chạy, một đội cảm tử của CBCNV nhà
máy đã được thành lập để nhặt phá bom bi đảm bảo sự an toàn cho thiết bị.
Một công việc cực kỳ nguy hiểm, lúc này sự sống và cái chết luôn ở kề bên
nhau và đội quân cảm tử đã chiến thắng. Toàn bộ số bom bi nổ chậm trong
nhà máy và trạm OPY đã được thu nhặt an toàn, các thiết bị máy móc được
kiểm tra lại, khắc phục nhanh những hư hỏng với khẩu hiệu “ Tổ quốc cần
điện như cơ thể cần máu”. Sau 2 ngày đêm liên tục sửa chữa và khắc phục
hậu quả do bom Mỹ phá hoại gây nên, CBCNV nhà máy đã đưa các tổ máy
vào vận hành phát điện bình thường.
Ngày 10/6/1972 giặc Mỹ tiếp tục huy động không quân đánh phá nhà
máy với quy mô lớn hơn trước trong đó có sử dụng các trang thiết bị kỹ thuật

hiện đại, bom laze, phương tiện chiến tranh điện tử, hệ thống gay nhiễu cực
mạnh.v.v. Trong đợt bắn phá này nhà máy đã trúng bom và tên lửa làm gian
máy bị xập đổ hoàn toàn, các tổ máy bị hỏng nặng nhà máy lại phải thực hiện
khắc phục hậu quả để phục hồi sản xuất.
Sau 2 tháng nỗ lực làm việc liên tục không quản khó khăn vất vả, hàng
ngàn tấn bê tông cốt thép đã đưa các tổ máy số 1 và số 2 vào vận hành ngay
trong năm 1972.
Riêng tổ máy số 3 không thể khôi phục được ngay vì toàn bộ các chi
tiết máy còn dùng được đã tháo lắp để bổ xung cho tổ máy số 1 và máy 2, nhà
máy phải chờ đặt hàng gia công đơn chiếc đột xuất tại Liên Xô, đến năm 1975
mới có thiết bị và tổ máy số 3 mới khôi phục. Ngày 22/4/1975 nhà máy đã
thực hiện phục hồi hoàn chỉnh tổ máy số 3, ngày 15/6/1975 phục hồi hoàn
chỉnh tổ máy số 2, ngày 15/7/1975 phục hồi hoàn chỉnh tổ máy số 1 và toàn
nhà máy được xây dựng, củng cố lại hoàn chỉnh theo đúng thiết kế.


20
1.3.4.2. Hoạt động của nhà máy thời kỳ quá độ cả nước đi lên xây dựng
CNXH.
Năm 1975 miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất,
cả nước đi lên thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng CNXH và bảo
vệ Tổ quốc.
Trong giai đoạn lịch sử mới CBCNV nàh máy được giao nhiệm vụ
quản lý, vận hành nhà máy cùng các nhà máy điện trong cả nước cung cấp
điện cho công cuộc khôi phục nền kinh tế của đất nước sau chiến tranh.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV tháng 12 năm 1976 đề ra đường lối
mở đầu thời kỳ cả nước đi lên CNXH. Trước những nhiệm vụ to lớn mà Đảng
ta đề ra càng khẳng định vai trò quan trọng của ngành điện lực, thời điểm này
nhà máy thuỷ điện Thác bà là nhà máy điện lớn nhất miền Bắc. Trong khi các
nhà máy điện Phả lại, Hoà Bình chưa đi vào sản xuất, nhà máy thuỷ điện Thác

Bà phải vận hành liên tục cả 3 tổ máy, phát huy hết công suất, khai thác triệt
đeer khả năng của thiết bị và lượng nước hồ chứa.
Năm 1978 theo đề xuất của nhà máy được sự nhất trí của cấp trên
CBCNV nhà máy đã cùng với chuyên gia Liên xô nghiên cứu, thí nghệm và
thực hiện thành công việc thử nghiệm nâng công suất của nhà máy từ 108
MW lên 120 MW. Trong hoàn cảnh đất nước vừa bước ra khỏi cuộc chiến
tranh, còn rất nhiều khó khăn việc nâng công suất của nhà máy thêm 12 MW
là một thành quả đặc biệt quan trọng, công suất này tương đương với một nhà
máy nhiệt điện mà ta xây dựng trong thời kỳ miền Bắc xây dựng CNXH.
Giai đoạn này nhà máy phấn đấu sản xuất liên tục vượt kế hoạch sản
lượng điện được giao, được Đảng và nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng
cao quý.


21
1.3.4.3 Hoạt động của nhà máy thời kỳ đất nước thực hiện công cuộc đổi
mới
Từ năm 1990 khi các tổ máy của nhà máy thuỷ điện Hoà Bình đi vào
hoạt động, nhà máy thuỷ điện Thác Bà mới có điều kiện tích nước hồ chứa
nhiều hơn.
Từ năm 1991 cấp trên thực hiện giao tài sản cố định và vốn cho nhà
máy tự sản xuất - kinh doanh, nhà máy phải đi vào thực hiện việc chuyển đổi
cơ chế quản lý mới.
Trên cơ sở đó, nhà máy đã dần khắc phục những tồn tại, khó khăn
trong sản xuất, từng bước nâng cao đời sống của CBCNVC. Qua hơn mười
năm thực hiện cơ chế quản lý mới cùng với sự phát triển không ngừng của
nền kinh tế đất nước, đó cũng là thời gian nhà máy không ngừng nâng cao
thành tích trên mọi lĩnh vực sản xuất và công tác. Từ năm 1990 đến năm 2001
nhà máy liên tục hoàn thành vượt mức kế hoạch sản lượng điện được giao từ
5 - 15%.

Nhà máy thủy điện Thác Bà là nhà máy điện duy nhất trong ngành vận
hành liên tục 25 năm không để xảy ra tai nạn lao động hoặc sự cố gây chết
người hoặc hư hỏng thiết bị chính (1971 - 1996).
Trong 5 năm cuối của thế kỷ XX được sự quan tâm đầu tư của Tổng
Công ty Điện lực Việt Nam, nhà máy đã từng bước được cải tạo toàn diện. Đã
thực hiện thay thế nâng cấp khá nhiều thiếtbị mới như: Thay thế toàn bộ hệ
thống máy cắt không khí của Liên Xô bằng loại máy cắt mới SF- 6- 110kV
hiện đại, thay thế toàn bộ hệ thống rơle kỹ thuật số của Đức, hệ thống chống
sét van 110kV, các biến điện áp 110 và 35kV, máy biến áp T2, tổng đài điện tử
kỹ thuật số, tổng đài điều độ, tải ba, hệ thống thông gió điều nhiệt...Sửa chữa
lớn các công trình thuỷ công, công trình kiến trúc như: Sân tiêu năng, bờ trái
hạ lưu. Xây dựng mới nhà điều hành sản xuất, cải tạo các công trình phúc lợi


22
công cộng nhà trẻ mẫu giao, câu lạc bộ băn hoá - thể thao. Thực hiện cải tạo
môi trường cảnh quan làm cho diện mạo nhà máy ngày càng khang trang, đẹp
đẽ. Các thiết bị mới, các công trình được cải tạo đều đảm bảo tốt chất lượng
đưa vào vận hành an toàn hiệu quả. Những thành quả đó đã thực sự trở thành
sự kết dính cán bộ - CNVC nàh máy bền vững hơn.
Tuy vậy vấn đề cốt lõi vẫn chưa được giải quyết, đó là cần phải sửa
chữa nâng cấp bản thể 3 tổ máy, nhà máy mới có thể yên tâm quản lý vận
hành liên tục, hiệu quả và ổn định. Hiện nay Tổng Công ty Điện lực Việt Nam
đã duyệt kế hoạch cho nhà máy sửa chữa lớn, khôi phục toàn diện thiết bị tập
trung vào các tổ máy để có thể tiếp tục vận hành trong một chu kỳ 20 -30 năm
tiếp theo. Đó là một cơ hội lớn cũng là một thách thức lớn, nhiệm vụ hết sức
khó khăn trong cơ chế thị trường hiện nay. Lập dự án như thế nào là khả thi,
chọn hãng nào, thiết bị của ai để đảm bảo an toàn, hiệu quả và tiết kiệm vốn,
quả thực là những câu hỏi khó, cần phải suy nghĩ kỹ và cần phát huy trí tuệ
tập thể mới có thể trả lời chính xác. Để vượt qua nhiệm vụ khó khăn đó, mong

muốn rằng với sự quan tâm và đầu tư thích đáng của Tổng Công ty và sự ủng
hộ của tỉnh, của huyện bằng sức lao động sáng tạo của mình, tập thể CBCNV
nhà máy sẽ tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng và tinh thần đoàn kết sẵn
có, lôn phấn đấu thi đua lao động sản xuất tốt, để xây dựng nhà máy ngày
càng hiện đại, tôn tạo công trình lịch sử đẹp mãi, xứng danh với danh hiệu
dơn vị anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, lòng mong ước của những thế
hệ cha anh đã đổ mồ hôi, nước mắt và xương máu cho công trình này.
Những năm gần đây, mặc dù máy móc thiết bị và các công trình thuỷ
công của Nhà máy đã xuống cấp, xuất hiện nhiều thiếu sót, hư hỏng, trong khi
đó các phương tiện vật tư, phụ tùng thay thế vừa thiếu thốn vừa không đồng
bộ. Cán bộ CNVC nhà máy đã phát huy tình thần tự lực, tự cường, chủ động
sáng tạo, khắc phục khó khăn để tự nghiên cứu sửa chữa thiết bị và công


23
trình, bình quân hàng năm có từ 20- 30 sáng kiến cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá
sản xuất để nâng cao năng suất lao động, đảm bảo vận hành an toàn, khai thác
tốt khả năng của thiết bị và hồ chứa.
Có nhiều đề tài khoa học và sáng kiến có giá trị như:
- Thử nghiệm xác minh nâng công suất của nhà máy từ 108 MW lên
120 MW.
- Tự thiết kế và lắp đặt đưa 3 tổ máy vào làm việc ở chế độ bù đồng bộ.
- Nghiên cứu xây dựng đề tài bồi lắng hồ chứa.
- Nghiên cứu cải tạo lại hệ thống cung cấp khí nẽn, đã ngăn chặn được
sự cố nổ máy ngắt không khí.
- Tự biên soạn, chỉnh lý hàng trăm loại quy trình vận hành, quy chế
quản lý phục vụ cho sản xuất và công tác.
1.4. CÁC THÔNG TIN VỀ MẠNG LƯỚI TRẠM THUỶ VĂN TRÊN
SÔNG CHẢY
Mạng lưới trạm khí tượng thuỷ văn trên sông Chảy hiện rất thưa và

phân bố không đều, chủ yếu tập trung ở trung và hạ du; thượng lưu và vùng
hồ Thác Bà hầu như rất ít trạm đo mưa.
Hiện nay, trên lưu vực sông Chảy đến hồ Thác Bà có 8 trạm đo mưa, 4
trạm đo thuỷ văn (4 trạm khí tượng và 4 trạm thuỷ văn), ngoài ra, đã sử dụng
thêm số liệu mưa trạm thuỷ văn Bảo Hà trên lưu vực sông Thao, sát đường
phân lưu lưu vực sông Chảy. Danh sách các trạm KTTV được thống kê trong
bảng 1.2.


24
Bảng 1.2 : Danh sách các trạm KTTV trên lưu vực sông Chảy
TT Tên trạm

Địa danh

Vĩ độ

Kinh
độ

Loại
trạ
m

Khí tượng
1

0

Hoàng Su Phì


Hà Giang

Mường

Mường

Khương

Cai

3

Bắc Hà

Bắc Hà, Lao Cai

22032’

4

Phố Ràng

Bảo Yên, Lao Cai

22014'

2

22 45’

Khương,

Lao

22043’

104041

104007

104017

104028


III
III
II
II

Thuỷ văn
0

5

Vĩnh Yên

Vĩnh Tuy, Bắc Quang

22 22'


6

Bảo Yên

Bảo Yên, Lao Cai

22010'

7
8
9

Hồ Thác Bà
Thác Bà
Bảo Hà

Yên Bình, Yên Bái
Yên Bình, Yên Bái
Bảo Yên, Lao Cai

0

21 44'
21044'
22032'

104028

104035


II
I


105003' III
105003' I
102025' III


25

CHƯƠNG II: ĐẶC ĐIỂM MƯA, LŨ VÀ NHỮNG HÌNH THẾ
THỜI TIẾT GÂY MƯA SINH LŨ TRÊN LƯU VỰC
SÔNG CHẢY
2.1. ĐẶC ĐIỂM MƯA GÂY LŨ LỚN TRÊN SÔNG CHẢY
- Mưa gây lũ lớn trên lưu vực sông Chảy thường bao gồm một số đợt
mưa (từ 1 đến 3 đợt). Tuy nhiên, cũng có những trận chỉ có một đợt với mưa
lớn tập trung trong 2 - 3 ngày, hình thành lũ lớn đồng bộ trên cả hệ thống
sông. Có trận mưa bao gồm tới 3 - 4 đợt mưa kế tiếp nhau do hoạt động liên
tiếp của nhiều hình thế thời tiết, trong đó, giữa các đợt mưa lớn là thời kỳ mưa
nhỏ hoặc không mưa kéo dài vài giờ đến hơn một ngày.
- Các trận mưa gây lũ lớn thường có một đến vài tâm mưa, tâm mưa
lớn thường ở sườn tây dãy Hoàng Liên Sơn, Hà Giang và Bắc Quang, với
lượng mưa ở vùng trung tâm lên tới 300 – 500 mm tùy từng trận. Vùng mưa
lớn ở mỗi trận thường bao trùm một diện rộng, từ 100 - 200 km 2 đến 1.000 –
2.000 km2. Phần trung - thượng nguồn sông Chảy thường có lượng mưa đạt từ
100 – 300 mm, có khi tới 400 mm, như các trận mưa tháng VII các năm 1986,
2001 và tháng VIII các năm 1969, 1971, 1983, 1996,...
Như vậy, nếu xảy ra mưa đều khắp trên lưu vực sông Chảy với lượng

mưa 200 – 300 mm, thì sẽ xảy ra lũ lớn với lưu lượng lớn nhất đến hồ Thác
Bà trên 2.000 m3/s.
Diễn biến mưa theo thời gian trong 1 trận thường theo một quy luật
chung: mưa tăng dần lên tới đỉnh (với lượng mưa lớn nhất thường tập trung
trong 1 ngày, có khi 2 ngày và lượng mưa ngày lớn nhất tới 100 – 200 mm),
rồi lại giảm nhanh và ngừng hẳn. Do sự phân bố mưa trận như vậy, đã tạo cho
nhánh lũ lên và xuống có dạng dốc đứng gần cân đối thường gặp ở các sông
miền núi.


×