Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

CHỦ NGHĨA yêu nước VIỆT NAM nửa CUỐI THẾ kỷ XIX đầu THẾ kỷ XX (nét độc đáo TRONG sự BIẾN đổi của văn hóa VIỆT NAM)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.79 KB, 14 trang )

CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX
ĐẦU THẾ KỶ XX (NÉT ĐỘC ĐÁO TRONG SỰ BIẾN ĐỔI CỦA
VĂN HÓA VIỆT NAM)
DẪN NHẬP
Đất nước Việt Nam trải dài qua hàng ngàn năm lịch sử với nhiều thăng trầm, gắn
liền quá trình dựng nước và giữ nước. Do đó, dựng nước và giữ nước đã trở thành
biểu tượng của lòng yêu nước Việt Nam. Ý chí dựng nước và giữ nước ấy lại nảy
sinh và phát triển trong cái khung xã hội Việt Nam cổ truyền, đó là Nhà – Làng –
Nước, trên nền tảng kinh tế – xã hội: nông dân – nông thôn – nông nghiệp. Chính
trong cái môi trường tự nhiên, kinh tế, xã hội và lịch sử ấy đã hình thành nên chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam – điểm nổi bật của bản sắc văn hóa Việt Nam, với nhiều
sắc thái đặc thù.
Khác với quan niệm của nhiều quốc gia trong khu vực, ở Việt Nam “nước” luôn
được đặt lên hàng đầu. Khái niệm “nước” ở Việt Nam thể hiện trên nhiều mặt. Ở
khía cạnh thiên nhiên, địa lý, nước chỉ non sông, giang sơn gấm vóc, chỉ lãnh thổ
biên cương. Nước còn bao gồm những tộc người, dân tộc và sự đoàn kết giữa các
dân tộc trên mảnh đất đó. Từ đó, nước còn bao gồm gia đình, làng xóm, quê
hương, quốc gia với những thiết chế chính trị kinh tế của mình. Nước còn gắn liền
với văn hóa như phong tục, tập quán, ngôn ngữ, truyền thống lịch sử.
Do đó, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam bắt nguồn từ gia đình, quê hương và mở rộng
ra cả dân tộc, đất nước. Tạo thành một thứ chủ nghĩa yêu nước được “gia tộc hóa”.
Từ đó hình thành một thứ ứng xử theo kiểu “thân tộc hóa” các quan hệ xã hội. Đó
là nét biểu hiện độc đáo của bản sắc văn hóa Việt Nam.


Cùng như các thành tố văn hóa khác, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có sự biến đổi
theo sự biến thiên của lịch sử dân tộc. Theo các nhà nghiên cứu, chủ nghĩa yêu
nước Việt Nam đã trải qua 5 giai đoạn đoạn: Giai đoạn Hùng Vương; Giai đoạn
Bắc thuộc; Giai đoạn Lý – Trần; Giai đoạn Lê – Nguyễn; Giai đoạn Hồ Chí Minh.
Nếu chủ nghĩa yêu nước giai đoạn Hùng Vương thể hiện bằng huyền thoại, truyền
thuyết mang tính chất anh hùng ca mộc mạc, giản dị; giai đoạn Bắc thuộc thể hiện


sức sống quật khởi của dân tộc chống lại sự đồng hóa của kẻ thù; giai đoạn Lý
Trần phản ảnh những chiến công hào hùng của dân tộc gắn liền với độc lập tự chủ
của đất nước thì chủ nghĩa yêu nước giai đoạn Lê Nguyễn đạt đến trình độ cao ở tư
tưởng của Nguyễn Trãi.
Trong nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lịch sử dân tộc Việt đứng trước sự biến
thiên to lớn, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam cũng có sự biến đổi. Và giai đoạn cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX được coi là thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa yêu nước thời
Lê – Nguyễn sang chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, nét độc đáo trong sự biến đổi
bản sắc văn hóa Việt Nam.
I. NHÀ NGUYỄN ĐỐI DIỆN VỚI CHỦ NGHĨA THỰC DÂN PHÁP
Vào giữa thế kỷ XIX, trước sự xâm lăng của chủ nghĩa tư bản Pháp, vấn đề canh
tân cải tổ đất nước hay thủ cựu giữ nguyên trở thành vấn đề sống còn của đất nước.
Tuy nhiên, tư tưởng thủ cựu của nhà vua, của các triều thần và của nho sĩ trong nửa
cuối thế kỷ XIX đã dẫn đến việc Việt Nam rơi vào tay chủ nghĩa thực dân Pháp.
Năm 1847, Pháp đã một lần nổ súng ở Đà Nẵng, nhưng điều kiện nước Pháp khi
đó đã không cho phép thực dân Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Nam.


Trong bối cảnh đó, nhà Nguyễn đã không thấy được nguy cơ mất nước để lo canh
tân đất nước, đề phòng họa xâm lăng. Các triều đại vua nhà Nguyễn vẫn lo chăm
chút, xây dựng cung điện, “trọng nông, ức thương”, cho phương Tây là “ngoại di”,
hơn là cải tổ, canh tân đất nước.
Mặc dù, vấn đề duy tân đất nước luôn được lên bàn chính sự, song tư tưởng chính
thống của triều đình nhà Nguyễn vẫn là xưa hơn nay, nay thua xưa, quân tử làm
chính sự phải theo phép cũ, trừ hại hơn hưng lợi. Tuy triều đình có đưa người đi
học hỏi những thành tựu khoa học kỹ thuật ở các nước phương Tây, nhưng vẫn giữ
tư tưởng “nội hạ ngoại di”.
Một số nho sĩ theo tư tưởng hòa hoãn muốn tranh thủ hòa với Tây để duy tân đất
nước. Xu hướng duy tân này do Nguyễn Trường Tộ khởi xướng từ năm 1861. Sau

ông còn có Đinh Văn Điền, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ.v.v… Các ông vạch
rõ dã tâm xâm lược của chủ nghĩa tư bản ở Trung Quốc, An Độ, Nam Dương và
của cả thực dân Pháp ở nước ta. Vì thế, để không bị mất nước, theo các ông, triều
Nguyễn phải thủ hòa, đồng thời lập tức canh tân đất nước. Các ông đã đệ trình lên
triều đình nhiều cải cách quan trọng, rộng khắp trên mọi lĩnh vực: nông nghiệp,
công nghiệp, thương nghiệp, tài chính, văn hóa, giáo dục, tôn giáo.v.v… nhưng
triều Nguyễn vẫn không thực hiện. Những đề nghị cải cách này ngày càng được
các sĩ phu yêu nước đặt ra cấp bách cùng với quá trình mở rộng xâm lược của thực
dân Pháp.
Cùng với tư tưởng canh tân, vấn đề “hòa” hay “chiến” trở thành đề tài đấu tranh tư
tưởng và đấu tranh chính trị sôi nổi của tầng lớp sĩ phu triều Nguyễn. Và sau trở
thành cuộc đấu tranh chính trị giữa nhân dân và triều đình và giữa các triều thần
mà sau phát triển thành phong trào kháng Pháp mạnh mẽ trong những thập niên
cuối thế kỷ XIX.


Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công bán đảo Sơn Trà, mở đầu quá
trình xâm lược Việt Nam bằng vũ trang. Đứng trước cuộc xâm lược của thực dân
Pháp, 2000 quân triều đình đóng tại đây được lệnh án binh bất động. Nguyễn Tri
Phương – vị tướng xuất sắc nhất của nhà Nguyễn – được cử làm Tổng thống quân
thứ Quảng Nam chỉ huy toàn bộ mặt trận Quảng Nam – Đà Nẵng nhưng cũng chỉ
tập trung xây dựng phòng tuyến phòng thủ, thực hiện chính sách vườn không nhà
trống để bao vây, cô lập quân Pháp. Trong 5 tháng, quân Pháp bị cầm chân tại chỗ,
kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh thất bại. Song nhà Nguyễn vẫn giữ nguyên thái
độ “hòa hoãn”. Trong khi đó, tại cung điện Huế, cuộc chiến “thủ để hòa” hay “chủ
chiến” giữa các triều thần nhà Nguyễn diễn ra gay gắt. Phái “thủ để hòa” chủ
trương đào hào đắp lũy để cố thủ, hy vọng “trì cửu” cho quân Pháp mệt mỏi mà rút
về. Phái này cho rằng “họ ở xa ta, nên không thôn tính được ta” và “vì ta lạnh
nhạt với họ nên họ mới đánh ta”… Một bộ phận khác của phái “thủ để hòa” chủ
trương tạm thời hòa hoãn, tập trung canh tân đất nước, mở rộng quan hệ với bên

ngoài để chống lại nguy cơ bị xâm lược.
Sa lầy ở Quảng Nam, đầu năm 1859, thực dân Pháp chuyển hướng đánh chiếm
phía Nam, âm mưu lấy đó làm bàn đạp xâm chiếm toàn bộ Việt Nam. Mất nước đã
trở thành một thực tế ngay trước mắt, nhưng triều đình nhà Nguyễn vẫn không có
thái độ tích cực để chuẩn bị chiến đấu. Do vậy, hệ thống phòng thủ của triều đình
từ Vũng Tàu đến Nhà Bè nhanh chóng bị phá vỡ, rồi đến sự thất thủ của thành Gia
Định sau vài giờ chống cự.
Sau đó, trong suốt quá trình xâm lược của thực dân Pháp, Nhà Nguyễn đã bỏ qua
nhiều cơ hội đánh đuổi quân xâm lược.
Chiếm được đồn Gia Định lần thứ I, nhưng quân Pháp lại gặp khó khăn từ cuộc
kháng chiến của nhân dân Gia Định. Lúc này, số quân Pháp còn lại ở Đà Nẵng bị


thương vong trầm trọng vì dịch bệnh. De Genouilly phải rút quân ra Đà Nẵng, chỉ
để lại ở Sài Gòn 3 trung đội và 1 chiến thuyền. Thế nhưng quân địch vẫn yên ổn
trước kế sách án binh bất động của quân triều đình.
Cuối 1859, cuộc chiến tranh Trung – Pháp bùng nổ, đại bộ phận quân Pháp tại Việt
Nam bị huy động sang Trung Quốc. Số quân còn lại khoảng 1000 gồm quân Pháp
và Tây Ban Nha kéo vào Gia Định, đóng trải dài trên phòng tuyến từ Thị Nghè đến
Gò cây Mai. Số quân triều Nguyễn đóng tại đây không dưới 10 ngàn dưới quyền
chỉ huy của Tôn Thất Cát án binh bất động. Cơ hội tiêu diệt quân xâm lược đã bị
bỏ qua do chính sách hòa hoãn của triều đình Huế.
Trong khi đó, Nguyễn Tri Phương, chấp hành đúng đường lối của triều đình, đã
cho xây dựng tuyến phòng thủ từ Sài Gòn đến Chợ Lớn với đồn Chí Hòa làm trung
tâm nhằm ngăn chặn âm mưu mở rộng địa bàn chiếm đóng của quân Pháp.
Hậu quả là ngày 7.2.1861, quân Pháp trở lại Gia Định với một lực lượng hùng
mạnh hơn trước với 150 tàu chiến và 5000 quân nổ súng tấn công đại đồn Chí Hòa.
Gia Định lọt vào tay Pháp. Nguyễn Bá Nghi, quan tứ trụ triều đình thuộc phái chủ
hòa vào Nam cùng 5.000 quân đóng ở Biên Hoà vẫn kiên trì thương thuyết. Chỉ từ
tháng 3.1861 – 3.1862, 3 tỉnh miền Đông lọt vào tay quân Pháp.

Tháng 11.1873, quân Pháp chiếm thành Hà Nội lần thứ I. Phong trào kháng Pháp
của nhân dân Bắc Kỳ nổi lên mạnh mẽ. Ngày 21.12.1873, nghĩa quân cờ đen Lưu
Vĩnh Phúc đã phục kích tiêu diệt Garnier tại Cầu Giấy làm cho quân Pháp đóng tại
Hà Nội và các địa phương lân cận hoang mang. Nhưng ngay lúc đó, triều đình điều
động các toán nghĩa quân lên vùng thượng du đối phó với phong trào khởi nghĩa
của nhân dân.
Không những vậy, triều Nguyễn còn thẳng tay đàn áp phong trào kháng Pháp của
nhân dân. Thực sự quân Pháp không gặp khó khăn nhiều từ quan quân của triều


đình mà chủ yếu là do các cuộc đấu tranh của nhân dân cả nước. Cuộc kháng chiến
của nhân dân Quảng Nam đã buộc địch phải chuyển hướng vào phía Nam, thay đổi
kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh sang chinh phục từng gói nhỏ.
Vào Gia Định, chúng cũng vấp phải sự chống trả quyết liệt của nhân dân ta. Cư
dân 39/40 làng quanh thành đều sơ tán, đốt nhà để cô lập địch, buộc chúng phải rút
xuống tàu sau khi dùng mìn phá huỷ thành Gia Định.
Sau khi chiếm 3 tỉnh miền Đông, Pháp lâm vào khó khăn do phong trào kháng
chiến của nhân dân ta. Quân số giảm sút do thương vong, bệnh tật, thiếu lương
thực, tinh thần sa sút. Lúc này chính là lúc đánh đuổi quân thù thì triều đình lại
quay sang ký hòa ước với Pháp.
Sau khi ký kết hiệp ước Nhâm Tuất (1862), với cớ là phong trào kháng Pháp vẫn
còn tiếp diễn, và với âm mưu tiếp tục thôn tính 3 tỉnh miền Tây, Pháp đã đề nghị
triều Nguyễn cho người Pháp cai quản 3 tỉnh miền Tây. Triều đình chỉ còn biết yêu
cầu Phan Thanh Giản “nói phải trái để giặc đừng tấn công”. Mặt khác, vua Tự
Đức ra lệnh cho quan quân không được chứa chấp nghĩa quân từ miền Đông sang
ẩn náu, không được mộ nghĩa.
Chấp hành lệnh của triều đình, Phan Thanh Giản đã ra lệnh cho nghĩa quân ở các
tỉnh Gia Định hạ khí giới, nộp súng đạn cho Pháp. Đáp lại mong muốn của giặc
Pháp và triều đình, nhân dân khắp nơi vẫn hăng hái chống Pháp. Họ thành lập
những đội nghĩa binh dưới sự lãnh đạo của các quan lại theo tư tưởng độc lập dân

tộc. Việc Trương Định nhận phong soái từ nhân dân và ở lại cùng nghĩa quân chiến
đấu đã thể hiện sự chọn lựa cũng như quyết tâm chống Pháp của nhân dân ta dù
cho triều đình không đứng ra lãnh đạo cuộc đấu tranh của nhân dân. Chính triều
Nguyễn đã tự từ bỏ vai trò lãnh đạo nhân dân trong cuộc đấu tranh chống xâm
lăng của dân tộc.


Từ chính sách “hoà hoãn”, thỏa hiệp nhà Nguyễn ngày càng tiến sâu đến bước
“đầu hàng”. Đầu năm 1862 những thất bại ở các thuộc địa khác đẩy chính phủ
Pháp vào thời điểm khủng hoảng nặng nề. Giữa lúc đó, triều đình Huế đã cử phái
bộ do Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp vào thương thuyết để ký kết hòa ước với
Pháp. 5.6.1862, Hiệp ước Nhâm Tuất được ký kết với 12 điều khoản rất nặng nề.
Hiệp ước Nhâm Tuất về thực chất là sự đầu hàng từng bước của triều đình Huế.
Bằng việc ký kết hiệp ước, triều đình Huế đã phản bội lại nhân dân, tự từ bỏ vai trò
lãnh đạo cuộc kháng chiến chống ngoại xâm của nhân dân ta – điều mà chưa có
một triều đình nào trong lịch sử phong kiến Việt Nam từng làm.
Từ 18 – 24-6-1867, quân Pháp đã chiếm xong 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An
Giang và Hà Tiên. Triều đình Huế chỉ cử Trần Tiễn Thành vào Nam thương thuyết
xin chuộc lại tỉnh Biên Hòa và vùng Gò Công, xin bỏ nợ chiến phí nhưng mọi yêu
cầu đã bị Pháp bác bỏ. Điều này cho thấy triều Nguyễn khiếp sợ trước sức mạnh
của Pháp như thế nào.
Ngày 21-12-1873, nghĩa quân cờ đen Lưu Vĩnh Phúc đã phục kích tiêu diệt
Garnier tại Cầu Giấy. Đáng lý phải vui mừng thì triều đình lại điều động các toán
nghĩa quân lên vùng thượng du đối phó với phong trào khởi nghĩa của nhân dân.
Đồng thời, ngày 15-3-1873, triều đình Huế đã ký với Pháp “Hiệp ước Hòa bình và
liên minh” (Hiệp ước Giáp Tuất). Hiệp ước là sự thừa nhận của triều đình sự đô hộ
của Pháp trên một phần đất nước.
Trước những thất bại về quân sự, ngày 25-8-1885, triều Nguyễn buộc phải ký với
Pháp hiệp ước Harmand chia Việt Nam thành 3 miền: Nam Kỳ từ Bình Thuận trở
vào là thuộc địa của Pháp. Trung Kỳ từ Khánh Hòa đến đèo Ngang theo chế độ nửa

bảo hộ với sự tồn tại của triều đình Huế. Bắc Kỳ từ đèo Ngang trở ra theo chế độ


bảo hộ. Đồng thời mọi hoạt động đối ngoại của Việt Nam phải thông qua Pháp kể
cả quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Quyền cai trị của triều đình Huế chỉ giới
hạn ở Trung Kỳ và phải được sự chuẩn y của Khâm sứ Pháp. Đây thực chất là hiệp
ước đầu hàng hoàn toàn của nhà Nguyễn trước thực dân Pháp.
Ngày 6-6-1884, Pháp buộc triều đình Huế ký thêm hiệp ước Patenotre với nội dung
chính là Pháp nhấn mạnh thêm quyền thay mặt cho triều đình Huế trong quan hệ
ngoại giao.
Mặc dù chỉ phải đối đầu với sự nhu nhược, yếu hèn của triều đình Huế, nhưng thực
dân Pháp đã phải mất 26 năm (1858 – 1885) mới hoàn thành kế hoạch xâm lược
Việt Nam. Đây chính là kết quả của sự đấu tranh kiên cường, anh dũng của nhân
dân ta, điều mà nhà Nguyễn đã không thực hiện được. Trước bối cảnh đất nước gặp
cơn khủng hoảng, tầng lớp sĩ phu cùng nhân dân đã thể hiện lòng yêu nước của
mình với những thang bậc khác nhau.
II. CÁC KHUYNH HƯỚNG YÊU NƯỚC Ở VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỶ
XIX ĐẦU THẾ KỶ XX
1.

Khuynh hướng yêu nước của các nhà Nho

Nhà Nho – những người được nuôi dưỡng trong cái nôi Nho học, thấm nhuần ý
thức hệ Nho giáo và tư tưởng quan chủ phong kiến. Họ vận dụng những khái niệm
của Nho học để thể hiện lòng yêu nước của mình, đồng thời phê phán những kẻ hại
dân, hại nước. Tiêu biểu là Nguyễn Đình Chiểu. Ông coi trọng ái quốc hơn trung
quân, cho rằng dân có thể không theo ý kiến sai trái của vua vẫn có thể được coi là
trung quân. Vì vậy, ông hết lòng ca ngợi Trương Định. Trong Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc ông từng viết rằng “làm người sao nỡ phụ quê hương”, sống theo giặc là
nhục nhã, trả nợ nước thì danh thơm muôn thưở. Tầng lớp sĩ phu này luôn trăn trở



trước thời cuộc. Trước vận nước, họ suy nghĩ, trăn trở trước câu hỏi muốn cứu dân
cứu nước phải làm gì? Họ thấy khó có thể thắng Pháp, nhưng họ vẫn đề cao chính
khí, nghĩa khí của những bậc anh hùng. Bảo thủ gạt bỏ máy móc tinh xảo, khoa
học kỹ thuật của phương Tây.
Một số nhà Nho là quan lại của triều đình nhà Nguyễn, phẫn uất trước cảnh nước
mất, nhà tan đã tuẫn tiết hoặc về quê ở ẩn. Số khác mộ quân khởi nghĩa dứt khoát
đứng về phía nhân dân chiến đấu giành lại độc lập cho dân tộc. Hưởng ứng chiếu
Cần Vương, trung quân đồng nghĩa với ái quốc, nhiều sĩ phu đứng lên khởi nghĩa
“vua tốt, vua giỏi thì dân theo, vua xấu, vua kém dân cũng phải theo, đánh đổ vua
dù là vua Kiệt, vua Trụ cũng là đắc tội lớn nhất vì vua là gốc của nước, nước có
vua bạo ngược vẫn hơn không có vua”. Phong trào Cần Vương lan khắp nước kéo
dài đến cuối thế kỷ XIX. Cuối cùng, do sức yếu thế cô, phong trào đi vào thế hòa
hoãn rồi thất bại. Sự thất bại của phong trào Cần Vương không chỉ nói lên thế và
lực của phong trào, sự yếu kém về tổ chức lực lượng và sự nhụt chí của triều đình
nhà Nguyễn mà còn là sự không phù hợp của ý thức hệ trong điều kiện lịch sử mới.
2.

Khuynh hướng yêu nước bằng cải cách, canh tân, đổi mới đất nước

Những người yêu nước theo khuynh hướng này cho rằng để có điều kiện đánh
thắng Pháp trước hết phải cải cách kinh tế, quốc phòng, giáo dục, văn hóa. Các nhà
cải cách đã nhìn nhận được sự lạc hậu của nước mình so với thế giới phương Tây,
bởi vậy cần phải đổi mới nhiều mặt để thoát khỏi nghèo nàn. Theo họ, làm giàu
không thể chỉ bằng nông nghiệp, mà cần phải khai thác tài nguyên từ rừng, từ biển,
phát triển thương nghiệp để phát triển đất nước. Họ chỉ ra sự bảo thủ của nền giáo
dục Nho giáo, sự lạc hậu về văn hóa, phong tục tập quán và chỉ ra những cái tiến
bộ của văn minh phương Tây mà chúng ta cần học hỏi. Họ cho rằng yêu nước phải
làm cho nước giàu, binh mạnh mới đuổi kịp các nước tiên tiến, đánh đuổi được bọn

ngoại xâm, bài trừ được các hủ tục lạc hậu. Những nhà cải cách tiêu biểu có Đặng


Huy Trứ (1825 – 1874), Phạm Phú Thứ (1821 – 1882) và Nguyễn Trường Tộ
(1830 – 1871).
Đặng Huy Trứ cho rằng muốn thắng Pháp ta phải có tàu to súng lớn, từ đó phải lập
cục dạy nghề và đẩy mạnh buôn bán (lập ty bình chuẩn).
Phạm Phú Thứ cũng đề nghị mở mang buôn bán, phải học và tiếp thu khoa học kỹ
thuật, cải tiến giáo dục.
Nguyễn Trường Tộ chủ trương cải cách toàn diện trên các lĩnh vực kinh tế, tài
chính, giáo dục, quốc phòng, ngoại giao, văn hóa, phong tục. Ông cho rằng theo
thời, tùy thời và phải xuất phát từ thực tế. Không thể hoài cổ như Nho giáo, mà
mọi suy nghĩ và hành động phải hướng vào hiện tại và tương lai.
Tuy nhiên, những đề nghị cải cách của Nguyễn Trường Tộ lại gặp phải hạn chế khi
ông chưa nhận thấy rõ dã tâm xâm lược cướp nước của thực dân Pháp. Ông cũng
đã đánh giá sai thực chất của giáo sĩ phương Tây, những người lợi dụng đức tin để
phục vụ cho mưu đồ xâm lược của thực dân. Trong khi đó, Nguyễn Trường Tộ lại
đánh giá quá cao vũ khí và dũng khí của quân xâm lược. Ngược lại, với quân dân
Việt Nam, ông lại đánh giá thấp tinh thần yêu nước, ý chí quật khởi – cái đã được
hun đúc từ ngàn đơi. Nguyễn Trường Tộ cũng không thấy được những yêu cầu cấp
thiết của quần chúng nhân dân, đó là yêu cầu giảm dịch, bớt tô, có ruộng cày, cho
nên những đề nghị cải cách của ông đã không đề cập đến những yêu cầu đó.
Có thể nói: những nhà Nho chủ trương cải cách, duy tân lại là những nhà Nho
thuộc phái chủ hòa, còn những nhà Nho chủ chiến thì lại là những người bảo thủ,
không muốn đổi mới.
3.

Khuynh hướng dân chủ tư sản



Trước những thành công to lớn của phong trào duy tân ở Nhật Bản, Trung Quốc đã
làm cho các nước Châu Á “bừng tỉnh”. Nhất là sau năm 1868, Nhật Bản duy tân
chống lại các thế lực cản trở sự phát triển trong nước, tiến theo con đường tư bản
chủ nghĩa và đủ sức chống lại các nước phương Tây. Điều này đã ảnh hưởng đến
tầng lớp sĩ phu yêu nước ở Việt Nam. Các sĩ phu thấy rằng Nhật Bản cũng là dân
da vàng, có hoàn cảnh giống nước ta, Nhật Bản duy tân thành công, tại sao ta
không thành công? Sự hấp thụ tân học để giải quyết vấn đề lịch sử đặt ra, xem đó
là vũ khí lý luận mới trong quá trình đấu tranh chống thực dân Pháp, tức là hệ tư
tưởng tư sản đã manh nha trong các sĩ phu phong kiến tư sản hóa dẫn đến sự phát
triển rầm rộ các phong trào mang màu sắc thời đại tiêu biểu như Việt Nam Quang
Phục Hội, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du v.v…
Các nhà nho yêu nước thời kỳ này chú trọng đến vai trò của văn hóa tư tưởng. Họ
công khai tuyên chiến với ý thức hệ phong kiến lạc hậu, cổ hủ. Tố cáo chính sách
ngu dân của thực dân xâm lược. Đả kích kịch liệt tư tưởng Nho giáo. Phê phán
cách học, cách thi, hệ thống những giá trị luân lý rời xa cuộc sống của xã hội. Đề
cao khoa học kỹ thuật và lấy tính hiện đại của văn minh xã hội làm phương châm
cứu nước. Các nhà Nho yêu nước đã phác họa hình ảnh con người mới, mẫu người:
yêu nước quật cường, yêu đồng bào, ghét cường quyền, trọng danh dự, trọng nghĩa
vụ, thông minh, can đảm, lấy quyền lợi chung của tổ quốc, nhân dân đặt trên lợi
ích cá nhân… Cuộc đấu tranh chống thực dân và tay sai phong kiến lồng trong
cuộc đấu tranh xây dựng nền văn hóa mới làm xuất hiện những khuynh hướng sau:
hoặc lấy cường quốc Nhật Bản làm tấm gương để canh tân đất nước, hoặc dựa vào
văn minh Pháp để xây dựng, phục hưng dân tộc. Những phong trào này gắn liền
với tư tưởng yêu nước của các nhà chí sĩ Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh.


Những năm đầu thế kỷ XX, Phan Châu Trinh đã tiếp thu những tư tưởng mang tính
khai sáng của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu, tư tưởng của Rousseau,
Montesquieu. Từ năm 1920, ông đã lên án chế độ quân chủ, chế độ vua quan nhà
Nguyễn thối nát, bán nước hại dân, đề xướng tư tưởng dân chủ mặc dù còn chịu

ảnh hưởng của tư tưởng dân bản truyền thống. Trên cơ sở kế tục truyền thống cải
cách, canh tân đất nước, ông đề ra chủ trương khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh.
Ông cho rằng nếu không đập tan được nền quân chủ thì dẫu có khôi phục đất nước
cũng không phải là hạnh phúc cho dân. Bởi vậy cần chú trọng khai hóa cho đồng
bào hơn là bạo động để rồi đi đến thất bại, dân bị khủng bố từ đó nhuệ khí thâm
nhụt. Tư tưởng đấu tranh “ôn hòa” xuất hiện ở Phan Châu Trinh cũng bắt nguồn từ
việc ông khẳng định nguyên nhân mất nước nằm trong sự mất đạo đức, mất luân
lý. Do vậy, muốn cứu nước, cứu dân phải chấn chỉnh đạo đức, luân lý, giáo dục và
loại trừ bạo lực cách mạng ra khỏi tư tưởng yêu nước.
Vì vậy, Phân Châu Trinh chủ trương dựa vào Pháp để chống quân chủ hủ lậu, dựa
vào Pháp để cầu tiến bộ dần dần, dần dần yêu cầu cải cách cho đến khi được bình
đẳng với Pháp.
Gần giống chủ nghĩa yêu nước ôn hòa của Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng
chủ trương “dục tốc bất đạt”, muốn theo một đường lối cách mạng công khai gồm
ba yếu tố: phát triển trường học, mở mang báo chí, hoạt động ở nghị trường.
Nhưng rồi cũng chính Huỳnh Thúc Kháng cũng nhận ra rằng: “không có, không
thể có con đường cách mạng công khai bằng trường học, báo chí và nghị trường”,
tuy rằng ba nơi ấy đều là trận địa đối với người yêu nước.


Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền và nhiều sĩ phu khác đúng đắn hơn khi chủ
trương phục Việt chỉ có thể là đánh đuổi giặc Pháp bằng bạo động. Tìm mọi cách
để xây dựng một mặt trận thống nhất tất cả các lực lượng yêu nước chống Pháp.
Duy Tân hội theo đường lối quân chủ để tập hợp các lực lượng thân sĩ, quan lại…
Thơ văn Quang Phục hội hô hào đoàn kết toàn dân. Phan Bội Châu kêu gọi tự do
tín ngưỡng, đoàn kết lương giáo. Thế nhưng, Phan Bội Châu – lãnh tụ Duy Tân hội
rồi Quang Phục hội – vẫn chưa tìm thấy lực lượng nòng cốt đông đảo có thể thực
hiện sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc.
Như vậy, chủ nghĩa yêu nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX phát triển mạnh mẽ,

phong phú, đa dạng và đặc sắc. Tuy nhiên, các phong trào yêu nước đều đi đến thất
bại vì xác định chưa đầy đủ nguyên nhân mất nước, chưa tìm đúng con đường cứu
nước và chưa xây dựng được lực lượng nòng cốt để giải phóng dân tộc.
Các sĩ phu yêu nước vẫn “giữ” một thế giới quan hạn hẹp, chưa nhận thức đúng
bản chất của chủ nghĩa tư bản nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Phan Bội
Châu và các đồng chí của mình lúc đầu đã tin vào Nhật mà cầu viện. Ông mê
nhưng sau thì tỉnh, còn Phan Châu Trinh thì mê đến tận cuối đời khi muốn dựa vào
Pháp mà cầu tiến, mà thực hiện cách mạng văn minh, mà chống quân chủ hủ lậu.
Vì không đề ra mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp nên chủ trương của Phan Châu
Trinh là phản đối bạo động cách mạng, không cần khởi nghĩa mà chỉ cần học, học
mãi học cho thật giỏi thì tây sẽ nể phải xem ngang hàng, cuối cùng trả lại độc lập.
Sai lầm này rất có lợi cho thực dân Pháp và có hại cho phong trào giải phóng dân
tộc.
Tiếp nối truyền thống yêu nước từ ngàn đời, những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX, trước sự xâm lăng và thống trị của thực dân Pháp, chủ nghĩa yêu nước lại
nổi lên thành làn sóng mới. Làn sóng đó không chỉ đơn thuần là những cuộc khởi


nghĩa vũ trang kháng Pháp, nó còn là những áng thơ văn, những tư tưởng chính trị,
những xu hướng cứu nước khác nhau. Tuy rằng phần lớn các trào lưu đều tan rã,
nhưng tất cả đã để lại dấu ấn không phai mờ trong lịch sử Việt Nam. Là bài học
quý báu, đã được các nhà cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh vận dụng
một cách sâu sắc trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đưa lịch sử Việt Nam
chuyển sang một trang mới. Ngày 3-2-1930, chính Đảng vô sản ở Việt Nam ra, đưa
cách mạng Việt Nam đi vào quỹ đạo của thời đại. Chủ nghĩa yêu nước lúc này là
chủ nghĩa yêu nước của nhân dân, không bị hạn chế. Yêu nước gắn liền với mục
tiêu độc lập dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.


Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương Lịch sử Việt Nam tập II, Nxb. Giáo
dục, H. 2000.

2.

Đặng Huy Vận – Chương Thâu, Những đề nghị cải cách của Nguyễn
Trường Tộ cuối thế kỷ XIX, Tủ sách trường ĐHTH, Nxb. Giáo dục, H. 1961.

3.

Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tư tưởng Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX”, Khoa Triết học, TpHCM 2005.

4.

Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến
Cách mạng Tháng Tám, tập 1, Nxb. KHXH, HN – 1973.

5.

Trần Văn Giàu, Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến
Cách mạng Tháng Tám, tập 2, Nxb. KHXH, HN – 1973.

6.

Yoshiharu Tsuboi, Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, Ban
KHXH thành ủy xuất bản, Tp.HCM. 1990.




×