HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
NGUYN NGC HUY
áP DụNG PHáP LUậT TRONG HOạT ĐộNG ĐIềU TRA
CáC Vụ áN CƯớP TàI SảN CủA CƠ QUAN CảNH SáT
ĐIềU TRA CÔNG AN THàNH PHố Hà NộI
LUN VN THC S
CHUYấN NGNH: Lí LUN V LCH S NH NC V PHP LUT
H NI - 2016
HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH
NGUYN NGC HUY
áP DụNG PHáP LUậT TRONG HOạT ĐộNG ĐIềU TRA
CáC Vụ áN CƯớP TàI SảN CủA CƠ QUAN CảNH SáT
ĐIềU TRA CÔNG AN THàNH PHố Hà NộI
LUN VN THC S
Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s Nh nc v phỏp lut
Mó s: 60 38 01 01
Ngi hng dn khoa hc: PGS.TS NGUYN VN MNH
H NI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ
theo quy định.
Tác giả
Nguyễn Ngọc Huy
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ADPL
ANTQ
ANTT
BLHS
BLTTHS
CQĐT
CSĐT
CSĐTTP
CSKT
CSGT
CSQLHC
ĐTV
CTS
QPPL
TP
TSV
TTXH
VKS
VKSND
XKLĐ
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
:
Áp dụng pháp luật
An ninh Tổ quốc
An ninh trật tự
Bộ Luật Hình sự
Bộ Luật Tố tụng hình sự
Cơ quan điều tra
Cảnh sát điều tra
Cảnh sát điều tra tội phạm
Cảnh sát kinh tế
Cảnh sát giao thông
Cảnh sát quản lý hành chính
Điều tra viên
Cướp tài sản
Quy phạm pháp luật
Thành phố
Trinh sát viên
Trật tự xã hội
Viện Kiểm sát
Viện Kiểm sát nhân dân
Xuất khẩu lao động
MỤC LỤC
Chương 1................................................................................................................................9
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC
VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA..................................9
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN CỦA CƠ
QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA......................................................
Tiểu kết chương 1.................................................................................................................32
KẾT LUẬN..........................................................................................................................85
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hà Nội là trung tâm văn hoá - kinh tế - chính trị của cả
nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và xu thế hội nhập
quốc tế hiện nay, tình hình tội phạm cướp tài sản có những diễn biến phức tạp
và xu hướng ngày càng gia tăng không chỉ về số vụ mà cả về tính chất, hậu
quả thiệt hại về tài sản, về tính mạng sức khoẻ và tinh thần con người ngày
càng trầm trọng, gây ảnh hưởng xấu đến hình ảnh của thành phố Hà Nội với
tư cách là Thủ đô của cả nước.
Trong những năm qua, lực lượng Cảnh sát điều tra (CSĐT) tội phạm về
trật tự xã hội (TTXH), Công an thành phố Hà Nội đã không ngừng nỗ lực tổ
chức đấu tranh ngăn chặn mạnh mẽ với các loại tội phạm về trật tự xã hội,
từng bước kiềm chế được sự gia tăng của tội phạm. Tuy nhiên, diễn biến của
các loại tội phạm về trật tự xã hội ngày càng phức tạp cả về tính chất, phạm
vi, quy mô, phương thức và thủ đoạn hoạt động. Trong đó phải kể đến tội
phạm cướp tài sản trên địa bàn Thành phố. Theo báo cáo tổng kết của Công
an thành phố Hà Nội, trong 5 năm vừa qua, từ năm 2010 đến năm 2015, toàn
thành phố xảy ra 26.698 vụ phạm pháp hình sự, trong đó có 1.509 vụ cướp tài
sản (chiếm tỷ lệ 5,6%). Số đối tượng tham gia trong từng băng, ổ nhóm cướp
tài sản có xu thế tăng lên, từ 03- 05 đối tượng. Số vụ án do từng băng, ổ nhóm
gây ra cũng tăng lên và xảy ra liên tục, trung bình từ 02- 06 vụ [26]. Điều này
đã và đang gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự trên địa bàn Thủ
đô. Do đó, nhiệm vụ đặt ra là phải chủ động ngăn chặn và điều tra khám phá
kịp thời đối với loại tội phạm này và là một yêu cầu cấp bách trong thực tế
hiện nay. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm trong thời gian qua ở Hà
Nội đã thu được nhiều kết quả, đã kiềm chế sự gia tăng của tội phạm, làm
giảm các loại án nghiêm trọng, tuy nhiên vẫn còn những tồn tại nhất định làm
hạn chế kết quả đạt được. Diễn biến của tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội ở
2
Hà Nội vẫn còn phức tạp, các vụ án nghiêm trọng có chiều hướng tăng. Trong
đó tình hình tội cướp tài sản diễn biến phức tạp, xu hướng ngày càng gia tăng.
Hoạt động của bọn tội phạm cướp tài sản với những thủ đoạn ngày càng đa
dạng vừa tinh vi, táo bạo, trắng trợn, chúng lợi dụng những sơ hở mới phát
sinh trong cơ chế thị trường để hoạt động phạm tội. Tội cướp tài sản là đặc
biệt nghiêm trọng vì cùng một lúc xâm hại tới hai khách thể quan trọng là tài
sản và tính mạng, sức khoẻ của người khác. Tính nguy hiểm còn thể hiện ở
việc bọn tội phạm cướp tài sản có xu hướng phạm tội có tổ chức và liên kết
thành các băng nhóm, sử dụng các loại vũ khí (súng, lựu đạn, chất nổ, hoá
chất độc), hoạt động gây án liên tục, trên phạm vi rộng. Tội cướp tài sản đã và
đang gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về người và của, gây tâm lý hoang
mang, lo lắng lan rộng trong nhân dân, đồng thời tác động xấu tới tình hình an
ninh trật tự (ANTT) ở Hà Nội. Do đó, việc nghiên cứu về thực trạng và diễn
biến của loại tội phạm này ở Hà Nội, trên cơ sở đó, tìm ra những nguyên nhân
và điều kiện phạm tội, đưa ra các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội phạm
một cách hữu hiệu nhằm giảm bớt những thiệt hại xảy ra, đem lại sự tin tưởng
vào pháp luật cho mọi người dân trên địa bàn Hà Nội, đồng thời tôn vinh hình
ảnh Thủ đô trên trường quốc tế.
Yêu cầu đấu tranh làm giảm và tiến tới loại trừ tội cướp tài sản ra khỏi
đời sống xã hội là cấp thiết đối với thành phố. Vì vậy, nghiên cứu một cách
toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn về tình hình tội
cướp tài sản, nguyên nhân, điều kiện phát sinh, tồn tại của nó, đưa ra những
kiến nghị phương án khả thi phòng và chống tội cướp tài sản ở địa bàn Thủ
đô, vừa là yêu cầu của việc nghiên cứu tội phạm học vừa là yêu cầu của cuộc
đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Nhận thức đúng đắn những vấn đề trên, trong quá trình tiến hành điều
tra các vụ án cướp tài sản những năm gần đây Cơ quan Cảnh sát điều traCông an thành phố Hà Nội đã có nhiều cố gắng trong việc thu thập nghiên
3
cứu phân tích, đánh giá, xây dựng kế hoạch, phương án công tác để kịp thời
ngăn chặn tội cướp tài sản.
Mặc dù, đã đạt được những kết quả đáng kể, song trên thực tế việc áp
dụng pháp luật trong hoạt động điều tra tội cướp tài sản vẫn còn rất hạn chế.
Trong nhiều trường hợp, khi gặp các tình huống phức tạp: bị can không khai
báo, khai báo gian dối hoặc khai báo nhỏ giọt... nhiều Điều tra viên đã không
giữ được bình tĩnh, không thực hiện đúng các nguyên tắc, phương pháp, chiến
thuật sử dụng tài liệu, chứng cứ, thậm chí quát nạt, chửi bới nhục mạ bị can,
sau đó sử dụng tài liệu, chứng cứ một cách tuỳ tiện làm lộ nguồn tài liệu,
chứng cứ hoặc sử dụng một cách ồ ạt vô tình để cho bị can nắm được thông
tin, kết quả điều tra, tìm cách đối phó và cản trở quá trình điều tra.
Cho đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy
đủ, toàn diện và thấu đáo về áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra tội
phạm cướp tài sản trên địa bàn thành phố Hà Nội. Để khắc phục những thiếu
sót, tồn tại hạn chế về hoạt động áp dụng pháp luật đối với tội phạm cướp tài
sản cần thiết phải nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu để tìm ra những
nguyên nhân của thực trạng từ đó và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả việc áp dụng pháp luật đối với tội cướp tài sản.
Xuất phát từ thực tế đó, em lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Áp dụng pháp
luật trong hoạt động điều tra các vụ án cướp tài sản của cơ quan cảnh sát
điều tra công an Thành phố Hà Nội” để làm Luận văn thạc sỹ, Chuyên
ngành lý luận lịch sử Nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu
Đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội cướp tài sản nói riêng
là vấn đề mang tính quốc tế đã và đang được nhiều nhà luật học trong nước và
ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Các nhà xã hội học, luật học ở trong nước
từ trước tới nay cũng đã có những công trình nghiên cứu về các đề tài thuộc,
lĩnh vực đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và các tội phạm cụ thể
đã được công bố như:
4
Các bài viết trên các tạp chí, các đề tài khoa học các cấp về tội phạm:
Tội phạm hình sự trong giai đoạn chuyển sang cơ chế thị trường, Viện
Nghiên cứu khoa học Công an - Bộ Công an [105]; Tội phạm ở Việt Nam thực
trạng nguyên nhân và giải pháp, Đề tài KX 04-14 của Tổng cục Cảnh sát
nhân dân (CSND), Bộ Công an [7]; Đấu tranh chống tội phạm vị thành niên
của Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp [8];
Về tội cướp tài sản, có một số công trình tiêu biểu sau đây: Các biện
pháp nghiệp vụ nhằm ngăn chặn tội cướp tài sản trên tuyến giao thông đường
bộ Hà Nội - Lạng Sơn, Đề tài khoa học của Nguyễn Duy Hùng chủ biên cùng
nhóm tác giả [52]; Những thủ đoạn phổ biến của tội cướp tài sản ở Việt Nam
của Phạm văn Hộ [49]. Ngoài ra, còn một số bài viết rút kinh nghiệm một số
vụ cướp tài sản...
- Chiến thuật sử dụng chứng cứ trong hỏi cung bị can phạm tội giết
người cướp tài sản”, Luận văn thạc sỹ của Đỗ Tiến Độ [48]; Đặc điểm hình
sự của tội phạm giết người cướp tài sản công dân, Luận văn thạc sĩ của
Hoàng Long [54],
- Điều tra tội phạm cướp tài sản của người nước ngoài trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ luật học của Trần Thành Hùng [53].
- Hoạt động phòng ngừa và điều tra tội phạm cướp tài sản trên tuyến
giao thông đường bộ tại địa bàn tỉnh Phú Thọ của lực lượng Cảnh sát nhân
dân, Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Ngọc Thạch [69].
- Điều tra tội phạm cướp tài sản của phụ nữ trên đường phố của Công an
thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sỹ luật học của Trần Quốc Toản [82].
- Đấu tranh phòng chống tội phạm cướp tài sản trên tuyến giao thông
đường bộ tại địa bàn tỉnh Nghệ An, Luận văn thạc sỹ luật học của Lê Minh
Tuấn[89].
- Đấu tranh chống tội phạm cướp tài sản trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh, Luận văn thạc sỹ luật học của Nguyễn Tuấn Thương [73].
5
- Đặc điểm hình sự và giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra tội phạm
cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Hà Nam, Luận văn thạc sỹ luật học của Trần
Văn Tuấn [88].
- Hoạt động điều tra tội phạm cướp tài sản trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình, Luận văn thạc sỹ luật học của Hoàng Thị Hải Yến [108].
Tuy nhiên, hầu hết các đề tài trên mới chỉ đi sâu nghiên cứu một số
mặt, một số khía cạnh trong công tác đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản,
một số vấn đề cụ thể về sử dụng các biện pháp nghiệp vụ của ngành Công an
(nghiệp vụ trinh sát, điều tra xét hỏi...); chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu
một cách toàn diện để giải quyết các vấn đề cả về lý luận và thực tiễn của
công tác đấu tranh phòng, chống tội cướp tài sản. Vì vậy, việc nghiên cứu một
cách hệ thống về lý luận và thực tiễn của công tác đấu tranh phòng chống tội
cướp tài sản là một yêu cầu bức thiết. Yêu cầu đó thôi thúc tác giả vận dụng
những kinh nghiệm thực tiễn trong công tác đấu tranh chống tội phạm để thực
hiện đề tài với mong muốn góp phần vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội
cướp tài sản nói riêng và phòng, chống tội phạm nói chung.
Các công trình nói trên đã đề cập các khía cạnh khác nhau về hoạt động
phòng ngừa, hoạt động điều tra tội phạm cướp tài sản, nhưng chưa có công
trình nào nghiên cứu về áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra tội cướp
tài sản của cơ quan cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng pháp luật
trong hoạt động điều tra tội cướp tài sản của Cơ quan Cảnh sát- Công an
thành phố Hà Nội; rút ra những ưu điểm đạt được, những tồn tại hạn chế và
nguyên nhân của nó; từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật trong điều tra vụ án cướp tài sản của Cơ quan Cảnh sát điều traCông an thành phố Hà Nội.
6
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên, trong quá trình nghiên cứu cần giải
quyết một số nhiệm vụ chính sau đây:
- Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về áp dụng pháp luật trong hoạt
động điều tra tội cướp tài sản của cơ quan cảnh sát.
- Nghiên cứu, phân tích làm rõ tình hình tội phạm cướp tài sản và thực
trạng áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra tội cướp tài sản của Cơ quan
Cảnh sát điều tra- Công an thành phố Hà Nội.
- Dự báo và đề xuất giải pháp góp phần bảo đảm áp dụng pháp luật
trong hoạt động điều tra tội cướp tài sản của Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công
an thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Là những vấn đề về áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra các vụ
án cướp tài sản của Cơ quan Cảnh sát điều tra.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về nội dung: Áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra vụ
án cướp tài sản của cơ quan cảnh sát điều tra.
- Phạm vi về chủ thể tiến hành: Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an
thành phố Hà Nội.
- Phạm vi địa bàn: chỉ nghiên cứu những vụ án cướp tài sản thuộc thẩm
quyền điều tra của Cơ quan CSĐT- Công an thành phố Hà Nội: Văn phòng
Cơ quan CSĐT (PC44); Phòng CSĐT tội phạm về TTXH (PC45) và các vụ
án, chuyên án cướp tài sản mà Cơ quan CSĐT- Bộ Công an đã trưng dụng và
ủy thác cho Cơ quan CSĐT- Công an thành phố Hà Nội điều tra những năm
qua.
- Phạm vi về thời gian: từ năm 2010 đến tháng 12/2015.
7
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những quan
điểm cơ bản của Đảng, Nhà nước ta về đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo
vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, các nguyên tắc cơ bản của
khoa học pháp lý, khoa học điều tra hình sự, lý luận về hoạt động điều tra tố
tụng, tội phạm học.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Sử dụng để nghiên cứu các nội
dung trong cả 3 chương.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tiến hành thu thập, nghiên cứu các
văn bản pháp luật và các tài liệu có liên quan đến hoạt động điều tra tội cướp
tài sản của Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an thành phố Hà Nội từ năm
2010 đến tháng 12/2015.
- Phương pháp tổng kết: Nghiên cứu các tài liệu tổng kết về vụ án, chuyên
án điển hình về tội phạm cướp tài sản xảy ra ở địa bàn thành phố Hà Nội.
- Phương pháp thống kê: thu thập, hệ thống, phân tích, đánh giá, tổng
hợp các tài liệu, số liệu phản ánh diễn biến tình hình điều tra xử lý tội phạm
cướp tài sản.
- Phương pháp so sánh: Sử dụng chủ yếu đánh giá thực trạng áp dụng
pháp luật trong điều tra các vụ án cướp tài sản của cơ quan cảnh sát điều tra
công an thành phố Hà Nội.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Trong phạm vi của mình, đề tài là một công trình nghiên cứu vừa có ý
nghĩa về mặt lý luận, vừa có ý nghĩa về mặt thực tiễn đối với cuộc đấu tranh
phòng, chống tội cướp giật tài sản trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
8
- Về mặt lý luận: đề tài góp phần hoàn thiện nội dung quy định của
Điều 136 BLHS năm 1999, đồng thời nó có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học về lý luận lịch sử Nhà
nước và pháp luật.
- Về mặt thực tiễn: những đề xuất giải pháp nêu trong luận văn sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung
và tội cướp tài sản nói riêng. Ngoài ra, đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho các lực lượng tham gia phòng, chống loại tội phạm này không
những ở Thủ đô Hà Nội mà còn trên địa bàn tỉnh, thành phố khác có điều kiện
tương tự.
7. Điểm mới về mặt khoa học của luận văn
Lần đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối có hệ thống và toàn diện
về áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra đối với tội cướp tài sản ,đồng
thời đưa ra các giải pháp đấu tranh phòng, chống hiệu quả đối với tội cướp tài
sản trên địa bàn thành phố Hà Nội.
8. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu thành 03 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong hoạt động điều
tra các vụ án cướp tài sản của Cơ quan Cảnh sát điều tra.
- Chương 2: Tình hình tội phạm cướp tài sản và thực trạng áp dụng
pháp luật trong hoạt động điều tra các vụ án cướp tài sản của Cơ quan Cảnh
sát điều tra- Công an thành phố Hà Nội
- Chương 3: Dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
trong hoạt động điều tra các vụ án cướp tài sản của Cơ quan Cảnh sát điều traCông an thành phố Hà Nội.
9
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN
CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU TRA
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG
HOẠT ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN CỦA CƠ QUAN CẢNH
SÁT ĐIỀU TRA
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra các vụ
án cướp tài sản của cơ quan cảnh sát điều tra
Pháp luật là công cụ sắc bén để thực hiện quyền lực nhà nước, duy trì
và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Bất kỳ một nhà nước nào hình thành
trong lịch sử cũng phải xây dựng và ban hành pháp luật, sử dụng pháp luật
như là một công cụ hữu hiệu nhất để quản lý xã hội. Tuy nhiên để pháp luật
phát huy được vai trò to lớn của mình, đồng thời với việc xây dựng và ban
hành pháp luật, nhà nước phải bảo đảm để pháp luật được thực hiện triệt để và
thống nhất. Xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật là hai dạng hoạt động
khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau: xây dựng pháp luật là
nền tảng cho việc thực hiện pháp luật, ngược lại thực hiện pháp luật là yếu tố
đảm bảo cho pháp luật được hiện thực hoá trong cuộc sống.
Thực hiện pháp luật là một hiện tượng xã hội mang tính pháp lý, là
hành vi xử sự của con người (hành động hoặc không hành động), phù hợp với
các yêu cầu của các quy phạm pháp luật (QPPL), là quá trình hoạt động có
mục đích làm cho các QPPL trở thành hiện thực trong cuộc sống. Thực hiện
pháp luật: “Là hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hoá các quy định của
pháp luật, làm cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế
của chủ thể pháp luật” [45, tr.468].
Căn cứ vào tính chất của các hoạt động thực hiện pháp luật, khoa học
pháp lý phân chia các hình thức thực hiện pháp luật thành bốn hình thức sau:
10
- Tuân thủ pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các
chủ thể pháp luật tự mình kiềm chế không tiến hành những hoạt động hay
hành vi mà pháp luật ngăn cấm. Những QPPL cấm đoán được thực hiện bởi
hình thức này.
- Thi hành pháp luật (chấp hành pháp luật):là hình thức thực hiện pháp
luật trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nhiệm vụ pháp lý của mình bằng
hành động tích cực. Những QPPL bắt buộc - quy định nghĩa vụ phải thực hiện
những hành vi tích cực nhất định - được thực hiện bởi hình thức này.
- Sử dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật trong đó các chủ
thể tích cực, chủ động thực hiện các quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý của
mình theo quy định của pháp luật. Những QPPL quy định về các quyền và tự
do pháp lý của tổ chức, cá nhân được thực hiện bởi hình thức này. Hình thức
này khác các hình thức trên ở chỗ chủ thể thực hiện pháp luật có thể thực hiện
hoặc không thực hiện quyền được pháp luật cho phép theo ý chí của mình,
chứ không bị ép buộc phải thực hiện pháp luật. Ví dụ: quyền khiếu nại, tố cáo,
đình công, kháng cáo…
- Áp dụng pháp luật: là hình thức thực hiện pháp luật trong đó nhà nước
thông qua các cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ chức
cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của pháp luật, hoặc tự
mình căn cứ vào các quy định pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh,
thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể [45, tr.469].
Khác với các hình thức thực hiện pháp luật khác, là những hình thức phổ
biến mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể thực hiện được, ADPL là hình thức
đặc thù bởi luôn có sự tham gia của nhà nước, thông qua các cơ quan hoặc nhà
chức trách có thẩm quyền. Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp
luật quan trọng. Nếu chỉ thông qua các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành
pháp luật và sử dụng pháp luật thì sẽ có rất nhiều QPPL không được thực hiện.
Lý do có thể là các chủ thể không muốn hoặc không đủ khả năng thực hiện nếu
11
thiếu sự tham gia của các cơ quan nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền.
Tuy nhiên không phải mọi QPPL do nhà nước ban hành đều được thực hiện
dưới hình thức này, ADPL được tiến hành trong một số trường hợp nhất định
sau:
+ Khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể vi phạm
pháp luật hoặc cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Ví dụ:
một công dân thực hiện hành vi cố ý gây thương tích cho người khác, hành vi
đó đã có đầy đủ yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác quy định tại Điều 104 Bộ luật Hình sự (BLHS)
năm 1999. Không phải ngay sau đó trách nhiệm hình sự tự động phát sinh và
người vi phạm tự giác chấp hành các biện pháp chế tài tương xứng. Người
phạm tội thường không tự giác, không biết hoặc lẩn tránh trách nhiệm phải
thực hiện pháp luật khi vi phạm. Vì vậy cần phải có hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng để xác định rõ hành vi phạm tội, đối chiếu với pháp
luật ra quyết định ấn định trách nhiệm hình sự với người phạm tội và buộc
người này phải chấp hành.
+ Khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của nhà nước. Chẳng
hạn Điều 33, Hiến pháp năm 2013 quy định mọi người có quyền tự do kinh
doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm, nhưng quyền này
chỉ phát sinh khi công dân có đủ điều kiện làm thủ tục đăng ký kinh doanh và
được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh [67].
+ Khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các
bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên đó không tự giải quyết được. Đây
là trường hợp quan hệ pháp luật đã xuất hiện, do có sự tranh chấp giữa các
bên về quyền và nghĩa vụ pháp lý nên các bên không thể thực hiện được các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình. Ví dụ: tranh chấp giữa các bên tham gia
hợp đồng kinh tế hoặc hợp đồng dân sự.
+ Trong một số quan hệ pháp luật quan trọng mà nhà nước thấy cần
12
thiết phải tham gia để kiểm tra giám sát hoạt động của các bên tham gia quan
hệ đó, hoặc nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự
việc, sự kiện thực tế nào đó. Ví dụ: UBND xã, phường, thị trấn chứng nhận
việc đăng ký kết hôn, khai sinh, khai tử…
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu trong hoạt động điều tra các vụ
án cướp tài sản của cơ quan CSĐT là hình thức thực hiện pháp luật của cơ
quan CSĐT tiến hành nghiệp vụ điều tra, làm rõ hành vi, động cơ, mục đích
của các đối tượng tham gia hoặc thực hiện các vụ án cướp tài sản, bảo vệ
quyền, nghĩa vụ, lợi ích của các bên trong quan hệ pháp luật hình sự này.
1.1.2. Đặc điểm của áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra các
vụ án cướp tài sản của cơ quan cảnh sát điều tra
Áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra các vụ án cướp tài sản của
cơ quan CSĐT có những đặc điểm sau đây:
Một là, Áp dụng pháp luật là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước
Áp dụng pháp luật chỉ do những cơ quan nhà nước hoặc nhà chức trách
có thẩm quyền tiến hành, ngoài ra trong một số trường hợp cá biệt pháp luật
trao cho các tổ chức xã hội có thẩm quyền ADPL. Trong bộ máy nhà nước các
cơ quan khác nhau có thẩm quyền ADPL khác nhau xuất phát từ nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan đó. Thẩm quyền ADPL của các cơ quan nhà nước
được quy định chặt chẽ, cụ thể trong các văn bản QPPL. Ở đây, Cơ quan
CSĐT của lực lượng công an nhân dân là cơ quan được ADPL trong hoạt
động điều tra các vụ án hình sự nói chung, vụ án CTS công dân nói riêng.
Tính quyền lực của nhà nước của hoạt động ADPL còn được thể hiện ở
chỗ, trong nhiều trường hợp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành
ADPL theo ý chí đơn phương, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp
dụng. ADPL có tính chất bắt buộc đối với các chủ thể bị áp dụng cũng như
những chủ thể có liên quan. Những văn bản ADPL luôn được đảm bảo bởi
sức mạnh cưỡng chế của nhà nước trong trường hợp chủ thể bị áp dụng không
13
tự giác chấp hành.
Hai là, hoạt động áp dụng pháp luật phải tiến hành theo trình tự, thủ
tục chặt chẽ được quy định trong các văn bản QPPL
Do tầm quan trọng và tính chất phức tạp của ADPL, chủ thể bị ADPL
có thể được hưởng những lợi ích rất lớn hoặc chịu những hậu quả bất lợi
nghiêm trọng nên pháp luật luôn xác định rõ ràng cơ sở, điều kiện, trình tự,
thủ tục, quyền và nghĩa vụ của chủ thể trong quá trình, áp dụng pháp luật.
Mặc dù CTS là hành vi có tính chất nguy hiểm rất nghiêm trọng nhưng cơ
quan CSĐT và các bên có liên quan trong quá trình ADPL phải tuân thủ
nghiêm ngặt các quy định có tính thủ tục, để tránh sự tuỳ tiện dẫn đến ADPL
không đúng, không khách quan, không chính xác. Trong hệ thống pháp luật,
tương ứng với mỗi ngành luật nội dung thường có một ngành luật hình thức
(tố tụng hình sự, tố tụng dân sự...) quy định trình tự, thủ tục ADPL. Trình tự
thủ tục ADPL dù đơn giản (như thủ tục xử phạt vi phạm hành chính) hay phức
tạp (như thủ tục giải quyết một vụ án hình sự) cũng đòi hỏi các cơ quan nhà
nước tuân thủ nghiêm ngặt bởi nếu không các văn bản ADPL được ban hành
sẽ không có giá trị pháp lý, không bảo đảm thực hiện đúng đắn quyền, nghĩa
vụ của các bên trong quan hệ pháp luật.
Ba là, áp dụng pháp luật là hoạt động điều chỉnh có tính cá biệt
Nếu như QPPL là những khuôn mẫu chung, là những tiêu chuẩn chung
cho xử sự giữa người với người trong mối quan hệ xã hội thì hoạt động ADPL
luôn mang tính cụ thể, cá biệt. Trên cơ sở những QPPL chung, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền vận dụng để giải quyết những quan hệ xã hội cụ thể phát
sinh trong đời sống. Kết quả của hoạt động ADPL là các văn bản ADPL; văn
bản ADPL luôn xác định đích danh các tổ chức, cá nhân cụ thể trong những
sự kiện cụ thể và chỉ áp dụng một lần đối với các tổ chức, cá nhân đó. ADPL
trong hoạt động điều tra của cơ quan CSĐT là ADPL trong các nội dung công
việc mà cơ quan CSĐT tiến hành nhằm tìm ra sự thật của vụ án, ADPL ở đây
14
điều chỉnh có tính cá biệt đối với các đối tượng gây án.
Bốn là, áp dụng pháp luật là hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo
Hoạt động ADPL là hoạt động có tính thực tiễn cao và đòi hỏi tính sáng
tạo. Các tình huống dự liệu trong các QPPL chỉ là những dấu hiệu chung nhất
có tính khái quát cao. Trong khi những tình huống, sự kiện pháp lý diễn ra
trong cuộc sống thực tế lại rất đa dạng, phong phú trên nhiều lĩnh vực khác
nhau và có những nét đặc thù riêng. Hoạt động ADPL là quá trình vận dụng
cái chung (QPPL) để giải quyết từng vụ việc cụ thể đó. Điều này đòi hỏi
người có thẩm quyền ADPL phải vận dụng pháp luật một cách linh hoạt,
không máy móc, dập khuôn nhưng phải đảm bảo nguyên tắc không trái pháp
luật. Áp dụng pháp luật trong điều tra các vụ án cướp tài sản (CTS), cơ quan
CSĐT và các ĐTV phải nghiên cứu kỹ lưỡng vụ việc, làm sáng tỏ cấu thành
pháp lý của nó, lựa chọn QPPL phù hợp, từ đó ra quyết định, văn bản ADPL
và tổ chức thi hành. Các trường hợp pháp luật chưa quy định hoặc quy định
chưa rõ thì phải vận dụng sáng tạo bằng cách áp dụng tập quán hoặc ADPL
tương tự để giải quyết.
1.1.3. Vai trò áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra các vụ án
cướp tài sản của cơ quan cảnh sát điều tra
Trong bốn hình thức thực hiện pháp luật là tuân theo, thi hành, sử dụng
và áp dụng pháp luật thì áp dụng pháp luật là hình thức thực hiện pháp luật
đặc thù, chỉ do cơ quan nhà nước, cán bộ công chức nhà nước có thẩm quyền
thực hiện, vì vậy ADPL có vai trò rất quan trọng trong thực hiện pháp luật,
bảo đảm cho pháp luật được thực hiện trong thực tiễn.
Áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra các vụ án CTS có những
vai trò cụ thể sau đây:
Một là, Áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra tội CTS góp phần
bảo vệ, bảo đảm giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ gìn kỷ
cương phép nước. Đồng thời, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền
15
XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Bảo đảm cho pháp luật
được thực hiện nghiêm minh, thống nhất. Mọi tổ chức và cá nhân đều nghiêm
chỉnh thực hiện pháp luật, những hành vi vi phạm đều phải được phát hiện, xử
lý nghiêm minh và kịp thời.
Áp dụng pháp luật là phương tiện thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mỗi công dân. Sở dĩ nhà nước quy định các quyền và nghĩa vụ
cho công dân trong pháp luật, bởi vì, một mặt để Nhà nước bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp cho họ, mặt khác để mỗi công dân không thể lợi dụng gây
thiệt hại cho lợi ích của người khác, cho tập thể và cho Nhà nước nói chung.
Áp dụng pháp luật có vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện quyền
lực của nhà nước nhằm mục đích duy trì sự ổn định để phát triển mọi mặt của
đời sống kinh tế - xã hội theo định hướng của Đảng và Nhà nước. Trong đó,
một lĩnh vực hết sức quan trọng là hoạt động ADPL trong hoạt động điều tra,
truy tố, xét xử các loại tội phạm.
Hai là, Áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra các vụ án CTS góp
phần hướng các chủ thể của quan hệ pháp luật này thực hiện những hành vi
phù hợp với các quy định của pháp luật: Thực hiện đúng, đầy đủ chức trách,
nhiệm vụ của mình được giao khi tiến hành tố tụng; đảm bảo quyền, lợi ích
hợp pháp của người tham gia tố tụng; Ngăn ngừa, hạn chế các hành vi vi
phạm mới trong quá trình điều tra các vụ án hình sự của những người tiến
hành tố tụng và những người tham gia tố tụng.
Ba là, Áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra tội CTS góp phần
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và có những kiến nghị phòng ngừa
vi phạm pháp luật và tội phạm trên địa bàn hoạt động. Bằng các biện pháp
phân tích, giải thích pháp luật để nhân dân hiểu rõ những gì pháp luật cho
phép làm và những gì pháp luật cấm, không được làm, các biện pháp trừng trị
cũng như sự khoan hồng của pháp luật đối với người vi phạm pháp luật. Đây
chính là một trong những biện pháp, cách thức để chuyển tải kiến thức pháp
16
luật đến với nhân dân đạt hiệu quả, góp phần quan trọng trong việc nâng cao
sự hiểu biết về pháp luật và ý thức tôn trọng pháp luật trong nhân dân.
Bốn là, Áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra các tội CTS góp
phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Thực tế thấy rằng, các QPPL nói
chung và các QPPL trong lĩnh vực điều tra tội phạm nói riêng đều được
kiểm nghiệm trong thực tiễn cuộc sống về tính phù hợp hay chưa phù hợp
trong đời sống xã hội; về tính có căn cứ hay tính không có căn cứ; tính đầy
đủ, toàn diện hay chưa đầy đủ, còn có lỗ hổng trong QPPL; phát hiện ra
những QPPL còn chung chung, làm cho mỗi người có một cách hiểu khác
nhau dẫn đến tình trạng ADPL một cách tuỳ tiện, vi phạm tính thống nhất
của pháp luật.
1.2. CÁC GIAI ĐOẠN, NỘI DUNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT
ĐỘNG ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN CƯỚP TÀI SẢN CỦA CƠ QUAN CẢNH SÁT ĐIỀU
TRA
1.2.1. Các giai đoạn áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra tội
cướp tài sản của cơ quan Cảnh sát điều tra
Lý luận về ADPL nói chung coi ADPL là một quá trình phức tạp với sự
tham gia, phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Quá trình này được
xác định gồm bốn giai đoạn kế tiếp nhau có mối liên hệ chặt chẽ, giai đoạn
này là tiền đề, cơ sở cho giai đoạn sau. Trên cơ sở lý luận chung về quy trình
ADPL, các quy định của BLTTHS năm 2003, các văn bản hướng dẫn ADPL
của ngành Công an, Kiểm sát, có thể chia quy trình ADPL trong giai đoạn
điều tra của CQĐT thành các giai đoạn sau:
- Nghiên cứu, xem xét, đánh giá các tình tiết, chứng cứ có liên quan
đến sự kiện pháp lý, đối tượng và quyết định xử lý.
Đây là giai đoạn đầu nhưng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt
động ADPL trong giai đoạn điều tra của CQĐT. Thụ lý hồ sơ là hành vi pháp
lý làm phát sinh hoạt động ADPL trong điều tra của CQĐT. Kể từ thời điểm
17
thụ lý hồ sơ, mọi hoạt động điều tra của CQĐT đều phải tuân thủ các quy
định của pháp Luật Tố tụng hình sự.
- Xem xét, lựa chọn, làm sáng tỏ nội dung các quy phạm pháp luật
được áp dụng trong hoạt động điều tra tội phạm cướp tài sản.
Đây là giai đoạn có ý nghĩa quan trọng. Lựa chọn quy phạm để áp
dụng một cách chính xác sẽ đảm bảo chất lượng, hiệu quả của hoạt động
ADPL. Việc lựa chọn QPPL có thể được thực hiện ngay sau khi nghiên
cứu, đánh giá chứng cứ có trong hồ sơ vụ án hoặc cũng có thể được thực
hiện song song với quá trình thu thập chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ, đánh giá
chứng cứ của vụ án.
Quy phạm pháp luật được lựa chọn áp dụng phải là những QPPL đang
có hiệu lực pháp luật, không trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên
hoặc không được trái với văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn. ADPL trong
giai đoạn điều tra thường liên quan đến cả QPPL nội dung và QPPL hình
thức. Đối với QPPL hình thức, việc lựa chọn quy phạm để áp dụng thường dễ
dàng hơn so với việc lựa chọn QPPL nội dung, ví dụ: đối với trường hợp bắt
khẩn cấp, chỉ cần phân tích đối chiếu hành vi phạm tội thực tế với các trường
hợp bắt khẩn cấp được quy định tại Điều 81 BLTTHS năm 2003. Tuy nhiên,
đối với việc lựa chọn QPPL nội dung có phần khó khăn và phức tạp hơn. Để
lựa chọn chính xác QPPL nội dung, đòi hỏi ĐTV phải có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ và ý thức pháp luật cao, có nhiều kinh nghiệm trong công tác
chuyên môn; đồng thời đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ lưỡng hồ sơ vụ án, các yếu
tố cấu thành tội phạm, thiệt hại mà tội phạm gây ra, công cụ, phương tiện, thủ
đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, nhân thân người phạm tội... Tóm lại, việc
lựa chọn và làm sáng tỏ nội dung tư tưởng quy phạm được áp dụng là một
giai đoạn quan trọng trong quy trình ADPL nói chung và quy trình ADPL
trong giai đoạn điều tra nói riêng. Không tìm ra QPPL hiện hành phù hợp,
không hiểu đúng nội dung tư tưởng của QPPL được áp dụng sẽ dẫn đến việc
18
ban hành văn bản ADPL không chính xác, trong nhiều trường hợp dẫn đến
oan sai. Người có thẩm quyền ADPL cần phải khách quan, thận trọng, xem
xét đánh giá chứng cứ một cách toàn diện, từ đó lựa chọn QPPL phù hợp để
áp dụng. Chỉ có như vậy mới đảm bảo sự phù hợp giữa QPPL được lựa chọn
với các tình tiết khách quan của vụ việc được xem xét.
- Ban hành văn bản áp dụng pháp luật.
Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình ADPL nói chung và
ADPL trong giai đoạn điều tra tội phạm CTS nói riêng, bởi mục đích của việc
thụ lý, nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ và lựa chọn QPPL áp dụng cũng
là nhằm ban hành văn bản ADPL và tổ chức thực hiện văn bản đó. Việc ban
hành văn bản ADPL được thực hiện trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá chứng cứ
thu thập được trong hồ sơ vụ án và lựa chọn QPPL áp dụng. Văn bản ADPL
có giá trị bắt buộc thi hành đối với đối tượng bị áp dụng, nó tác động đến
quyền và lợi ích của đối tượng bị áp dụng dưới hình thức này hay hình thức
khác, trong đó có nhiều văn bản nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền nhân thân
và quyền tài sản của đối tượng bị áp dụng. Chính vì vậy, việc ban hành văn
bản ADPL phải thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng quy
định, cụ thể phải đúng thẩm quyền, đúng hình thức, thể thức văn bản; nội
dung văn bản phải cụ thể, rõ ràng, chứa đựng đầy đủ những thông tin cần thiết
như: tên cơ quan ban hành, ngày tháng năm, địa điểm ban hành văn bản, số,
ký hiệu của văn bản, chữ ký, con dấu, tên chủ thể bị ADPL, căn cứ pháp lý để
áp dụng.
- Tổ chức thực hiện văn bản áp dụng pháp luật.
Đây là giai đoạn cuối cùng của quá trình ADPL. Văn bản ADPL của
CQĐT, VKS là các loại quyết định cá biệt, có đối tượng xác định. Các văn
bản này có giá trị bắt buộc thi hành; là căn cứ để phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt hoạt động tố tụng đối với vụ án, bị can (quyết định đình chỉ vụ án,
bị can) hoặc căn cứ để đưa vụ án ra xét xử (bản kết luận điều tra và đề nghị
19
truy tố). Thông thường các quyết định ADPL ở giai đoạn điều tra do CQĐT tổ
chức thi hành, VKS chỉ kiểm tra, giám sát việc tổ chức thi hành đó.
1.2.2. Nội dung áp dụng pháp luật trong hoạt động điều tra tội
cướp tài sản của cơ quan Cảnh sát điều tra
1.2.2.1. Quy định của luật pháp về tội cướp tài sản
Để bảo đảm cho pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh và tự
giác bởi mọi chủ thể trong xã hội, nhiều quy phạm pháp luật đã quy định các
biện pháp cưỡng chế nhà nước cần áp dụng với người vi phạm trong phần chế
tài của nó. Việc áp dụng một biện pháp cưỡng chế nhà nước cụ thể với một
chủ thể cụ thể là bắt họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi hay
những sự thiệt hại nhất định về tài sản, về nhân thân, về tự do…
Áp dụng pháp luật trong lĩnh vực hình sự được quy định trong BLHS là
một hoạt động được các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện một cách thường
xuyên mỗi khi có hành vi phạm tội CTS xảy ra. Trước hết, việc áp dụng pháp
luật trong lĩnh vực hình sự đối với tội CTS là xác định tội phạm và các dấu
hiệu của tội phạm.
Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự khi định tội danh và quyết định
hình phạt đối với tội phạm CTS phải phân tích rõ đặc điểm pháp lý của tội
phạm CTS như sau:
Về hành vi khách quan của tội phạm được thể hiện ở các hành vi sau:
Dùng vũ lực: là dùng sức mạnh vật chất tấn công người chủ tài sản,
người quản lý tài sản hoặc bất kỳ người nào khác ngăn cản việc chiếm đoạt
của người phạm tội nhằm đè bẹp sự phản kháng, làm tê liệt ý chí của nạn
nhân để chiếm đoạt tài sản. Hành vi dùng vũ lực thường là đấm, đá, trói…
hoặc kèm theo sử dụng các phương tiện, công cụ như dao, súng…;
Đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc: là đe dạo dùng tức khắc sức mạnh
vất chất được thể hiện bằng lời nói, cử chỉ hành động đe doạ sẽ tấn công
người quản lý tài sản hoặc những người khác nếu không đáp ứng yêu cầu
hoặc có ý định ngăn cản hành vi chiếm đoạt tài sản của người phạm tội. Ví
20
dụ: A dùng súng bắn chỉ thiên và đe doạ, bắt B phải tháo đồ trang sức trên
người đưa cho hắn nếu không hắn sẽ bắn chết ngay…
Hành vi khác làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể
chống cự được để chiếm đoạt tài sản: Người phạm tội không dùng vũ lực
hoặc đe doạ dùng vũ lực, xong bằng mọi cách thức, thủ đoạn, người phạm tội
đã đưa nạn nhân vào một tình trạng không còn khả năng quản lý được tài sản
như dùng ê te, các loại thuốc ngủ đầu độc nạn nhân, dùng dây chằng qua
đường làm nạn nhân vấp ngã để cướp tài sản…
Thời điểm hoàn thành của tội cướp tài sản được tính từ khi người phạm
tội có một trong các hành vi nói trên.
Mặt chủ quan của tội phạm được thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý trực
tiếp, vì mục đích vụ lợi.
Chủ thể của tội phạm: Người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ
14 tuổi.
Hoạt động áp dụng pháp luật hình sự còn xác định đồng phạm và hình
phạt như phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ hay trục xuất, tù có
thời hạn, tù chung thân, tử hình và các hình phạt bổ sung khác.
- Luật về hình thức
Hoạt động ADPL nào cũng phải tuân theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ
được pháp luật quy định. Đối với hoạt động ADPL của các chủ thể tiến hành
tố tụng trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự thì việc tuân thủ nghiêm
ngặt, chặt chẽ là yêu cầu hết sức quan trọng. Áp dụng pháp luật trong lĩnh vực
tố tụng hình sự được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS), pháp
lệnh tổ chức điều tra hình sự là một hoạt động được các cơ quan tiến hành tố
tụng thực hiện một cách thường xuyên mỗi khi có hành vi phạm tội CTS xảy
ra. Trong đó, cần xác định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của CQĐT theo quy
định của pháp luật, qua đó áp dụng các trình tự tố tụng hình sự, thủ tục, quy
trình, giai đoạn để thu thập tài liệu, chứng cứ để chứng minh làm rõ vụ án,