Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Xuất khẩu lao động việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (813.91 KB, 12 trang )

Xuất khẩu lao động Việt Nam
1 Hình thức
Có 5 hình thức xuất khẩu lao động sang nước ngoài:
• Hiệp định chính phủ ký kết giữa hai nước
• Hợp tác lao động và chuyên gia
• ông qua doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu,
khoán xây dựng công trình, liên doanh, liên kết
chia sản phẩm ở nước ngoài và đầu tư ra nước
ngoài
• ông qua các doanh nghiệp Việt Nam làm dịch
vụ cung ứng lao động (chủ yếu)
• Người lao động trực tiếp ký hợp đồng lao động với
cá nhân, tổ chức nước ngoài.

Lao động Việt Nam được khai thác, đào tạo tại Đông Đức năm
1982.

2 Đối tượng liên quan
Xuất khẩu lao động Việt Nam ra nước ngoài, thường
gọi tắt là Xuất khẩu lao động Việt Nam, là hoạt động
kinh tế dưới hình thức cung ứng lao động Việt Nam
ra nước ngoài theo hợp đồng có thời hạn, phục vụ cho
nhu cầu nhân công lao động của doanh nghiệp nước
ngoài. Hoạt động này bắt đầu từ năm 1980 dưới hình
thức hợp tác lao động với các nước Xã hội chủ nghĩa,
trong tình hình kinh tế Việt Nam đang gặp nhiều khó
khăn. Kết quả đã đem lại nhiều thuận lợi cho đất nước.
Từ khi cơ chế thay đổi năm 1991, hoạt động xuất khẩu
lao động phát triển mạnh mẽ, mở rộng thị trường ra
nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ. Bước sang thế kỷ 21,
có sự tăng đột biến lượng lao động Việt Nam xuất khẩu


sang nước ngoài, nhiều nhất tại ba thị trường Đài Loan,
Malaysia và Hàn ốc. Tính đến 2011, Việt Nam có
khoảng 500.000 lao động làm việc tại nước ngoài, trong
đó 85.650 tại Đài Loan, giữ vị trí thứ 2 về tổng số lao
động nước ngoài tại Đài Loan.

2.1 Cơ quan chính phủ và Cục Quản lý
Lao động
Cục ản lý lao Động Ngoài nước (có tên giao dịch
quốc tế là Department of Overseas Labour, viết tắt là
DOLAB) trực thuộc Bộ Lao động - ương binh và Xã
hội có các nhiệm vụ chính như thực hiện chiến lược,
chương trình, kế hoạch dài hạn và hàng năm, dự án, đề
án về đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng; nghiên cứu định hướng phát triển
về khai thác thị trường lao động ngoài nước; tổ chức
quản lý, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và xử lý những
vấn đề liên quan đến người lao động; thu, quản lý và sử
dụng các nguồn thu từ hoạt động đưa người lao động
đi làm việc ở nước ngoài…[1] Tại mỗi quốc gia có người
lao động Việt Nam còn có các Ban ản lý Lao động
tại địa phương.

Xuất khẩu lao động góp phần giải quyết việc làm và cải
thiện đời sống cho nhiều người dân, tăng nguồn ngoại
tệ cho đất nước và nhiều lợi ích kinh tế khác. Tuy nhiên,
bên cạnh đó diễn ra song song những vấn đề bất cập về
cơ chế, chính sách, quản lý từ cả hai phía trong và ngoài
nước, những hạn chế về trình độ và ý thức người lao
động, tình trạng lưu trú bất hợp pháp. Ngoài ra, người

lao động còn có thể đối mặt với việc bị lừa đảo, bóc lột
và ngược đãi.

2.2 Doanh nghiệp tuyển dụng lao động
Các doanh nghiệp này ngoài những quốc gia phát triển,
phần lớn là những quốc gia đang phát triển, có nhu cầu
tuyển dụng lao động cao. Họ có thể tư vấn, tuyển dụng
lao động trực tiếp tại địa phương, hiệp định ký kết giữa
các chính phủ hoặc thông qua công ty môi giới.
1


2

2.3

3

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN

Công ty xuất khẩu lao động

Tính đến cuối tháng 6 năm 2010, tại Việt Nam có 167
doanh nghiệp hoạt động dịch vụ xuất khẩu lao động,
trong đó có khoảng 60% doanh nghiệp 100% vốn Nhà
nước hoặc cổ phần có vốn Nhà nước chi phối.[2] Công
ty làm nhiệm vụ giới thiệu, đào tạo, thủ tục đi nước
ngoài, lo nơi định cư, giấy tờ, hợp đồng lao động,… cho
người lao động. Đổi lại, lao động chi trả cho công ty
khoản phí gọi là phí môi giới.


2.4

Người lao động xuất khẩu

Người đi lao động xuất khẩu gồm lao động phổ thông
và lao động có tay nghề. Người xuất khẩu theo dạng
lao động phổ thông thường là những nông dân hay là
người các tỉnh nghèo, người dân tộc, vì muốn tăng thêm
thu nhập cho gia đình. Người đi lao động thường phải
chịu chi phí cao trước khi xuất hành, có thể rơi vào điều
kiện làm việc kham khổ, và đôi khi là nạn nhân của lừa
đảo, bóc lột, buôn người.
eo báo cáo của 10 tỉnh, thành phố được giám sát, tỷ
lệ lao động có tay nghề khoảng 20-30%, chủ yếu làm
lao động làm các công việc giản đơn, phổ thông ở các
thị trường có thu nhập thấp. 70-80% người lao động
không được tuyển dụng trực tiếp mà phải thông qua
môi giới.[2]

3

Quá trình phát triển

Số lượng người lao động Việt Nam đi làm ở Liên Xô, CHDC
Đức, Tiệp Khắc, Bungari từ 1980- 1990.[3]

chủ trương đưa lao động ra làm việc tại các nước Xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu.[4]
Năm 1980, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu lao động đi

làm việc có thời hạn ở nước ngoài với hình thức chủ
yếu là hợp tác sử dụng lao động thông qua các Hiệp
định Chính phủ trực tiếp ký kết. Trong giai đoạn này,
gần 245.000 lao động và chuyên gia đang làm việc tại
các nhà máy, xí nghiệp trong nước được đưa đến 4
nước Xã hội chủ nghĩa (Liên Xô, CHDC Đức, Tiệp Khắc
và Bungari).[3] Bên cạnh đưa người đi lao động, Việt
Nam cũng đã ký kết về hợp tác chuyên gia trong các
lĩnh vực: y tế, giáo dục, nông nghiệp với một số quốc
gia châu Phi[4] (Libya, Angeri, Angola, Mozambique,
Congo, Madagascar) với con số người đưa sang là 7.200
người; Trung Đông (Iraq) khoảng 18.000 người. Bên
cạnh đó, gần 24.000 thực tập sinh và học sinh học nghề
tại các nước Đông Âu đã chuyển sang lao động trong
những năm thập niên 80. Tổng số lao động được đưa đi
trong thời kì này gần 300.000 người.[3]
eo thống kê của cơ quan chuyên trách, từ năm 1980
đến 1989, ngân sách nhà nước đã thu được khoảng 800
tỷ đồng và hơn 300 triệu USD, một khoản tiền lớn tại
thời điểm lúc đó. Ngoài giảm bớt số người thất nghiệp
trong nước; người lao động được tiếp cận với công nghệ
mới và gửi về nước một khối lượng hàng hóa tiêu dùng
khá lớn, giúp cải thiện cuộc sống gia đình tại Việt Nam
trong thời kỳ khó khăn.

Người lao động Việt Nam tại Đức năm 1985

3.1

Giai đoạn từ 1980 đến 1990


Cuối những năm thập niên 70 và đầu 80, kinh tế Việt
Nam trong tình cảm gặp nhiều khó khăn, sản xuất công
nghiệp trì trệ, mô hình hợp tác xã không tạo ra cạnh
tranh nên không kích thích được sản xuất. êm vào
đó là các khoản nợ sau chiến tranh cần phải trả và hai
cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và phía Bắc ảnh
hưởng nặng nề lên nền kinh tế. Do đó, chính quyền

Năm 1989, có nhiều biến động chính trị lớn xảy ra tại
các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu và khủng hoảng
kinh tế, chính trị tại nhiều nước châu Phi, dẫn đến phần
lớn các nước này không còn nhu cầu nhận lao động từ
Việt Nam. Sau khi nước Đức tái thống nhất vào năm
1990, những công nhân chưa hết hợp đồng được đền
bù để trở về nước.[4]

3.2 Giai đoạn 1991 đến 2001
Tình hình và nhu cầu thực tiễn cùng với việc cơ chế
quản lý kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới
dẫn đến những thay đổi về cơ chế hoạt động xuất khẩu
lao động từ phía chính quyền. Ngày ngày 9 tháng 11


3
Một số thị trường khác như Brunei, Singapore, Các
Tiểu vương quốc Ả Rập ống nhất cũng đang được
mở rộng. Các quốc gia phát triển có thu nhập cao như
Úc, Mỹ, Canada, Phần Lan và Ý cũng là mục tiêu xuất
khẩu lao động Việt Nam hướng đến.[7]


Lao động Việt Nam làm ở nước ngoài từ 1992 đến 2006 theo
giới tính.[5]

Năm 2008, Hàn ốc nhận thêm 12.000 lao động Việt
Nam mới và tái tuyển dụng 6.000 lao động, tăng số
lao động Việt Nam tại quốc gia này lên gần 50.000 lao
động.[7] Đến năm 2011, Việt Nam có khoảng 60.000 lao
động tại Hàn ốc[9] và 85.650 tại Đài Loan - giữ vị trí
thứ 2 về tổng số lao động nước ngoài tại Đài Loan.[10]
Không giống với Đài Loan và Malaysia được xem là thị
trường truyền thống ít đòi hỏi, Nhật Bản được đánh
giá là thị trường có nhiều đòi hỏi cao. Tuy nhiên, theo
những chính sách và chương trình hợp tác tạo nhiều
thuận lợi, lượng tu nghiệp sinh Việt Nam sang Nhật
làm việc ngày càng tăng.[11] Với con số 35.000 tu nghiệp
sinh theo thống kê năm 2011, Việt Nam đứng thứ 2
trong tổng số 14 nước có tu nghiệp sinh làm việc tại
Nhật Bản (sau Trung ốc). Chất lượng lao động cũng
được tín nhiệm.[12]

Năm 2011, tổng số lao động Việt Nam xuất khẩu sang
nước ngoài theo số liệu từ Cục ản lý Lao động Ngoài
[6]
Lao động Việt Nam làm ở nước ngoài từ 1992 đến 2006 theo nước là 81.475 người. eo thống kê của Hiệp hội
quốc gia.[5]
Xuất khẩu Lao động Việt Nam, con số này là 88.298
người.[13] Riêng số lao động Việt Nam đang có mặt tại
bốn thị trường lớn nhất là Đài Loan, Malaysia, Hàn
năm 1991, Nghị định về đưa người đi lao động có thời ốc và Nhật Bản là hơn 200.000 người (40% tổng số

hạn ở nước ngoài ra đời.[4] Cụ thể, các tổ chức doanh lao động Việt Nam tại nước ngoài).[14]
nghiệp được cấp phép kinh doanh dịch vụ xuất khẩu
lao động thông qua hợp đồng ký với nước ngoài. Cơ Năm 2013 con số người Việt Nam lao động ở ngoại quốc
chế này đã đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động tăng lên hơn 88.000, vượt con số chỉ tiêu của nhà nước.
Việt Nam, mở rộng thị trường xuất khẩu. Số lao động Đài Loan tiếp tục là nơi mướn nhiều người Việt nhất,
Malaysia là hai
đưa đi nước ngoài tăng đều mỗi năm. Tổng lao động chiếm hơn 46.000 người. Nhật Bản và[15]
quốc
gia
kế
bảng
hạng
hai

hạng
ba.
[3]
xuất khẩu trong giai đoạn này gần 160.000 người.
Có sự thay đổi về thị trường trong giai đoạn này. Ban
đầu, Việt Nam xuất khẩu công nhân xây dựng sang một 4 Văn bản chính phủ liên quan
số nước Trung Đông (chủ yếu là Iraq), Các Tiểu vương
quốc Ả Rập ống nhất và Kuwait. Năm 1992, Việt Nam
ký các hợp đồng xuất khẩu thuyền viên với Đài Loan, Ngày ngày 9 tháng 11 năm 1991, Chính phủ ban hành
Nghị định 370-HĐBT về quy chế đưa người lao động
Hàn ốc.[4]
Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, cho
phép các tổ chức kinh tế được thành lập và cấp giấy
hoạt động xuất khẩu lao động.[16]

3.3


Giai đoạn 2001 đến nay

Năm 1995, Nghị định 370 được thay thế bằng các văn
Từ năm 2006 đến 2008, trung bình mỗi năm có hơn bản sau:
83.000 lao động xuất khẩu sang nước ngoài, chiếm
khoảng 5% tổng số lao động được giải quyết việc làm
• Nghị định 07/CP: Về việc quy định chi tiết một số
trong cả nước. Đến năm 2009 đã có khoảng 500.000
điều của Bộ luật Lao động về đưa người lao động
lao động Việt Nam làm việc ở 40 quốc gia và vùng
Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành nghề khác nhau.[7]
• Nghị định 05/CP: Về việc quy định chi tiết thi hành
Vào thời điểm năm 2011, xét về lượng tiếp nhận thì
pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập
lao động Việt Nam nhiều nhất tại Đài Loan, sau đó
cao.
là Hàn ốc, Malaysia, Nhật Bản, Ả Rập Saudi, Lào,
[6]
Campuchia,… Trong số đó lao động nữ chiếm gần
50%, chủ yếu làm trong ngành phục vụ cá nhân và xã Năm 2006, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng, chính thức được ốc hội
hội và công nghiệp.[8]


4

6 VAY VỐN


Việt Nam khóa XI thông qua (Số 72/2006/QH11 ngày 29 Lao động Việt Nam khi đi tu nghiệp tại Nhật được nhận
tháng 11 năm 2006), ban hành ngày 12 tháng 12 năm chế độ đối xử như lao động bản địa[27] dưới dạng “tu
2006 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2007.[17]
nghiệp sinh”. Đây là một hình thức sang nước ngoài để
tu nghiệp trong thời gian cho phép khoảng 3
Năm 2007, nhiều Nghị định liên quan làm rõ và hướng học việc,
[28]
năm.
dẫn điều Luật trên ra đời, bao gồm:
• Nghị định 126/2007/NĐ-CP: y định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều trong Luật
• Nghị định 144/2007/NĐ-CP: y định xử phạt vi
phạm hành chính trong hoạt động đưa người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài [17]
Ngoài ra còn một số yết định về việc thành lập, quản
lý và sử dụng ỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước;[18] ban
hành chương trình bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho
người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài;[19]
quy định về tổ chức bộ máy chuyên trách xuất khẩu
và bồi dưỡng kiến thức lao động sang nước ngoài;[20]
ban hành chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức cần thiết cho
người lao động trước khi đi làm việc ở nước ngoài.[21]
Ở cấp độ thấp hơn là các ông tư hướng dẫn chi tiết
một số điều Luật và Nghị định;[22] các ông tư liên
tịch quy định cụ thể về tiền môi giới và tiền dịch vụ;[23]
quy định việc quản lý và sử dụng tiền ký quỹ của doanh
nghiệp và tiền ký quỹ của người lao động xuất khẩu;[23]
hướng dẫn chi tiết một số vấn đề về nội dung hợp đồng
bảo lãnh và việc thanh lý hợp đồng bảo lãnh;[24] hướng
dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự người có hành

vi vi phạm pháp luật liên quan.[25]

5

Quyền lợi pháp lý

Tại Đài Loan, khi suy thoái kinh tế diễn ra, nhiều nhân
công nước ngoài bị cắt giảm. eo luật lao động, dù
không có việc làm, nhưng nếu công nhân vẫn tiếp tục
ở công ty thì họ phải được hưởng lương căn bản hàng
tháng. Nhưng hầu hết các công ty không áp dụng điều
này đối với lao động nước ngoài. Bên cạnh đó, chính
quyền vẫn tiếp tục cho lao động nước ngoài nhập cảnh,
dẫn đến nhiều lao động sang chưa lâu phải sớm trở về
nước.[29]
Tại Malaysia, việc bảo vệ và thúc đẩy quyền của người
lao động ở Malaysia còn nhiều hạn chế. Một số điều trái
với luật lao động của Malaysia và trái với tiêu chuẩn
lao động cơ bản của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
như việc chính phủ nước này ủy quyền cho các doanh
nghiệp tự kiểm soát dịch chuyển công việc của lao động
nhập cư. Mặt khác, theo luật pháp Malaysia, khi người
lao động gặp rủi ro, các doanh nghiệp sử dụng lao động
và doanh nghiệp môi giới sẽ đền bù cho gia đình người
tử nạn. Tuy nhiên, nhiều gia đình trong trường hợp này
nói rằng họ chưa hề biết đến số tiền đó. [30]
Năm 2011, Malaysia tìm kiếm nguồn lao động giúp việc
gia đình từ các nước, bao gồm Việt Nam trong tình
trạng các chính sách bảo vệ quyền lợi của người lao
động giúp việc gia đình còn chưa đầy đủ. Do đó, người

lao động nước ngoài làm giúp việc tại Malaysia dễ gặp
rủi ro và ít được bảo vệ. Phương tiện báo chí đã nêu lên
một số điển hình về tình trạng giữ tiền lương, hành hạ
hoặc lạm dụng người lao động giúp việc.[31]

6 Vay vốn

Tổ chức từ thiện và chính quyền thành phố Đài Bắc tổ chức kiểm
tra sức khỏe lao động nước ngoài tại quảng trường Nam Khẩu
năm 2011.

Người Việt Nam đi xuất khẩu lao động thì phải tuân
thủ theo đúng luật của nước ngoài và đúng luật trong
nước.[26] yền lợi của người lao động Việt Nam tại
nước ngoài tuỳ thuộc chủ yếu vào loại đối tượng, hình
thức xuất khẩu lao động và chính sách đối đãi người
lao động ở nước sở tại và sự quan tâm của chính quyền
trong nước.

Nhiều ngân hàng tại Việt Nam có hình thức cho vay
xuất khẩu lao động, bao gồm không thế chấp tài sản
với một số đối tượng ưu tiên. Tuy nhiên, việc này gặp
nhiều khó khăn trong vấn đề cung ứng vốn. Đại diện
các ngân hàng cho rằng tỉ lệ nợ xấu, quá hạn tăng cao
khiến các ngân hàng lo ngại. Năm 2010, một số tỉnh có
số người xuất khẩu lao động vay nợ quá hạn cao từ 10
đến 15%. Lý do chủ yếu là do lao động phải về nước
trước thời hạn (50%) hoặc không chịu trả nợ (20%). Các
thị trường có tỉ lệ nợ xấu lớn là Malaysia (29%), Đài
Loan (7,4%), Hàn ốc (6,45)…[32] Tuy nhiên, theo đánh

giá của nhiều doanh nghiệp trong ngành, nguồn vốn để
cho vay còn hạn chế, mức cho vay còn thấp, thủ tục vẫn
quá phức tạp. Đại diện phía ngân hàng, phó tổng giám
đốc Agribank, cho biết hiện chưa có quy chế quản lý
thu nhập của người lao động đã vay vốn nên việc thu
hồi khoản cho vay khi đến hạn vô cùng khó khăn.[33]
Việc chỉ một số đối tượng ưu tiên mới được vay không
thế chấp đồng nghĩa với những đối tượng có mức sống


8.2

Chính phủ nước ngoài

5

cao hơn chuẩn nghèo rất khó có điều kiện vay, đặc biệt trợ các huyện nghèo đẩy mạnh xuất khẩu lao động góp
là những thị trường yêu cầu chi phí cao.[34]
phần giảm nghèo bền vững giai đoạn 2009-2020”, triển
khai tại 62 huyện nghèo trong nước.[39]

7

Năm 2010, tổng số lao động được vay vốn xuất khẩu
lao động là gần 82.000 người với tổng số vốn cho vay
đạt gần 1.700 tỷ đồng. Từ năm 2007 đến 2010, cơ quan
chuyên ngành đã tiếp nhận, xử lý 1.184 khiếu nại của
người lao động; thanh tra và xử lý vi phạm hành chính
119 lượt doanh nghiệp, thu hồi giấy phép của 4 doanh
nghiệp.[2]


Lao động hồi hương

8.2 Chính phủ nước ngoài
[35]

kê lao động về nước năm 2008 và 2009

Các lao động Việt Nam về nước đúng hạn hợp đồng
chiếm tỉ lệ cao. Năm 2008, Việt Nam có gần 41.000 lao
động về nước, 74% về nước đúng hạn. Năm 2009, các
con số này tăng lên, có hơn 51.000 lao động về nước,
trong đó hơn 80% về nước đúng hạn hợp đồng.[35]
Ngoài ra, một số lao động Việt Nam bị lừa và lao động
vất vả đã tìm được cách xoay xở tiền lương để về nước
trước hạn (nếu không bị giữ giấy tờ tuỳ thân).[36] Nhiều
lao động tại 12 nước thuộc Liên minh châu Âu mất việc
làm hoặc bị cắt hợp đồng bởi nhiều lý do, một số cố
gắng ở lại tìm kiếm cơ hội mới nhưng phần lớn phải về
nước tìm việc làm kéo theo hàng loạt vấn đề kinh tế xã hội cần giải quyết.[37]

Chính quyền Hoa Kỳ có một số trợ ống
giúp đối với người
lao động xuất khẩu Việt Nam bị lừa đảo.
Năm 2001, tại đảo Samoa, thuộc địa của Hoa Kỳ, dưới sự
kêu gọi của số tổ chức cộng đồng người Việt hải ngoại,
chính quyền Hoa Kỳ đã tiến hành điều tra một công ty
Hàn ốc[40] và tuyên án chủ tịch công ty 40 năm tù
về tội buôn người.[41] Số lao động xuất khẩu Việt Nam
làm việc cho công ty này thoát khỏi tình trạng bị ngược

đãi, bỏ đói và không được trả lương[42] vào khoảng 250
người, đồng thời những công nhân ở lại được giúp đỡ
định cư vĩnh viễn tại Hoa Kỳ. Ngày 2 tháng 12 năm
2004, chính phủ Hoa Kỳ đã viện trợ 155.000 USD cho
Tổ chức ốc tế về Di dân (IOM) nhằm giúp công tác
chống nạn buôn người và hòa nhập cộng đồng cho các
nạn nhân Việt Nam còn ở lại.[40] Những người trở về
nước được đền bù số tiền rất thấp.[43]

Năm 2011, hai công ty quốc doanh Việt Nam gồm
Số khác là do lao động vi phạm nội quy khi làm việc Interserco và Vinamotors, có trụ sở tại Hà Nội, cùng hai
ở nước ngoài bị trả về. Năm 2011, huyện Đak Rông có công ty Mỹ bị người lao động xuất khẩu khởi kiện lên
109/197 người phải xuất cảnh về lại địa phương.[38]
tòa án tại Texas, Hoa Kỳ vì tội buôn người và cưỡng ép
Các địa phương chưa có đầy đủ giải pháp giải quyết lao động. Tờ báo e Houston Chronicle cho biết, tòa án
những vấn đề rủi ro cho lao động sau khi về nước, chưa quận Harris bang Texas đã ra phán quyết yêu cầu hai
tạo được sự kết nối giới thiệu việc làm cho lao động về bên công ty mội giới bồi thường tổng cộng là 60 triệu
đôla cùng một số điều khoản đi kèm khác cho các nạn
nước trước hạn hay hết hạn.[34]
nhân.[44][45]

8
8.1

Trợ giúp
Chính phủ Việt Nam

Nhằm giải quyết những mặt khó khăn và thúc đẩy xuất
khẩu lao động, tháng 9 năm 1998, Bộ Chính trị ra Chỉ
thị 41/CT-TƯ về xuất khẩu lao động và chuyên gia.

eo đó, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động không
bắt người lao động phải ký quỹ quá nhiều. Năm 2008,
Chính phủ phê duyệt dự án "Đẩy mạnh xuất khẩu lao
động, góp phần giảm nghèo nhanh, bền vững tại các
huyện nghèo giai đoạn 2009-2015”, kết hợp các doanh
nghiệp hỗ trợ người lao động diện chính sách về phí
đào tạo, ăn ở, đi lại, thủ tục làm việc ở nước ngoài cùng
các chính sách tín dụng ưu đãi.[4]

8.3 Tổ chức phi chính phủ
Liên Minh Bài Trừ Nô Lệ Mới ở châu Á (Coalition to
Abolish Modern-day Slavery in Asia - CAMSA) là một
mạng lưới phối hợp hoạt động của các tổ chức có cùng
mục đích chống nạn buôn người ở châu Á và khắp nơi
trên thế giới, cũng đã giúp nhiều công nhân Việt Nam
tại Mã Lai.[46]

Linh mục Peter Nguyễn Văn Hùng thành lập Văn phòng
Trợ giúp Pháp lý Công nhân và Cô dâu Việt Nam tại Đài
Loan ở thành phố Đào Viên vào năm 2004 để trợ giúp
người Việt sống và làm việc tại Đài Loan, ông đã là
người chỉ trích sự bóc lột và nhục mạ người lao động
và cô dâu nước ngoài, từ năm 2004 đến 2006 đã giúp đỡ
hơn 2000 người Việt thoát lao động đày ải và lạm dụng
Năm 2009, Chính phủ tiếp tục thông qua dự án “Hỗ tình dục, khiến cho Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ xếp Đài Loan


6

11 HẠN CHẾ


vào danh sách các quốc gia cần quan tâm về nạn buôn
người, và ông được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ công nhận
là “anh hùng đấu tranh nhằm chấm dứt chế độ nô lệ
hiện đại”,[47] cũng nhờ thế Đài Loan đã phần nào thay
đổi chinh sách đối với người nước ngoài.

Một lợi ích khác là xuất khẩu lao động giúp một bộ
phận lao động tiếp cận với máy móc và công nghệ tiên
tiến, cơ chế quản lý hiện đại, tác phong công nghiệp,
nâng cao trình độ và tay nghề. Do đó, xuất khẩu lao
động được coi là ngành kinh tế đối ngoại mang lại nhiều
lợi ích kinh tế và xã hội.[4]

Tại những huyện nghèo vùng núi, nơi có nhiều dân tộc
thiểu số, đa số thanh niên đều có nhu cầu lao động và
công việc lao động ở quê nhà thường được cho là vất
Dưới đây là thống kê đặc trưng chi phí và loại hình vả hơn so với đi xuất khẩu lao động.[39]
tuyển dụng, lương trung bình tại một số thị trường xuất
khẩu lao động Việt Nam năm 2006:[5][48]

9

Đặc trưng một số thị trường

11 Hạn chế
10
10.1

Hiệu quả

Giải quyết việc làm

Mặc dù nền kinh tế của Việt Nam đã phục hồi và tiếp
tục tăng trưởng, phần lớn người Việt Nam vẫn trong
tình trạng nghèo đói, thất nghiệp, trình độ giáo dục
chưa cao. Mong muốn cải thiện đời sống là nguyên
nhân chính thúc đẩy người lao động Việt Nam đi làm
việc tại nước ngoài.[49][50]
eo thống kê năm 2009, Việt Nam có 46,7 triệu lao
động, chiếm hơn 50% dân số, trong đó 90% hoạt động ở
khu vực kinh tế ngoài nhà nước. Bên cạnh đó, mỗi năm
có thêm hơn 1 triệu người đến tuổi lao động.[7] êm
vào đó, mức độ gia tăng của lực lượng lao động trong
Biển báo với thông điệp “Người lao động bất hợp pháp sẽ bị truy
bối cảnh tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị và tỷ lệ thời gian tố" viết bằng 5 thứ tiếng thông dụng tại Singapore.
nhàn rỗi ở nông thôn tương đối cao đặt ra những vấn
đề giải quyết việc làm cho người lao động. Trong đó,
xuất khẩu lao động được xem một giải pháp để giảm tỷ
11.1 Người lao động
lệ thất nghiệp tại Việt Nam.[51]
11.1.1 Kỹ năng và trình độ lao động

10.2

Nguồn thu ngoại tệ

Lao động xuất khẩu qua đào tạo ngày càng tăng. Năm
2007, người lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi về
nước lượng kiều hối từ 1,6 tỷ USD.[52] Trung bình
mỗi năm gửi về từ 1,6 tỷ đến 2 tỷ USD. Trong đó từ

Hàn ốc trên 700 triệu USD, Nhật Bản hơn 300 triệu
USD.[7][11] Năm 2010, Việt Nam đứng thứ 16 trong 30
quốc gia có lượng kiều hối chuyển về nhiều nhất,[53] là
một trong 10 quốc gia có thu nhập lớn từ xuất khẩu lao
động.[4]

10.3

Lợi ích khác

Xuất khẩu lao động cũng tạo điều kiện thay đổi đời
sống của người dân. Tại một số làng xã tỉ lệ xuất khẩu
lao động cao, nhiều người từ nghèo trở nên giàu có, ước
tính trung bình số tiền gửi về hằng năm có thể đạt từ
40 đến 100 tỷ đồng.[39] êm vào đó, nhiều người trở
về nước đã trở thành các nhà đầu tư, gây dựng doanh
nghiệp, tạo việc làm cho lao động địa phương.[4]

Mặc dù tỷ lệ lao động được đào tạo tăng gần 35% nhưng
trình độ và kỹ năng của nhiều lao động Việt Nam chưa
thích ứng với yêu cầu của thị trường lao động trong và
ngoài nước, dẫn đến chất lượng lao động chưa cao. Một
số lao động ở nước ngoài thiếu ý thức, vi phạm pháp
luật, ảnh hưởng không tốt đối với lao động Việt Nam
tại nước ngoài.[7][37]
11.1.2 Bỏ trốn và lưu trú bất hợp pháp
Một vấn đề khác là việc lao động bỏ trốn và cư trú bất
hợp pháp diễn ra điển hình tại Hàn ốc[55] (40%), Nhật
Bản (30%) và Đài Loan (10-15%). Mục đích các lao động
phá vỡ hợp đồng ra ngoài làm là để có thu nhập cao hơn,

cư trú bất hợp pháp để có thể ở lại làm việc lâu hơn, như
tu nghiệp sinh tại Nhật Bản có mức lương trung bình
khoảng 500 – 700 USD/tháng, nhưng nếu trốn ra làm
việc ở ngoài có thể được mức lương gấp 3 lần.[28] Tại
châu Âu cũng có tình trạng nhiều lao động Việt Nam
tự ý phá vỡ hợp đồng và lưu trú bất hợp pháp.[37]


11.3

Đơn vị tuyển dụng và sử dụng lao động

7
tỉnh để đưa người lao động đi nước ngoài để quản lý
chặt chẽ hơn.[26]
Bên cạnh đó là tình trạng vi phạm các quy định pháp
luật của một số doanh nghiệp Việt Nam với các hình
thức như không thẩm định hợp đồng, không đào tạo
trước khi đi, không báo cáo danh sách lao động, thu
tiền quá quy định… Các tổ chức, cá nhân không có chức
năng thực hiện xuất khẩu lao động lừa đảo đưa người
lao động sang các quốc gia khác lao động bất hợp pháp,
điển hình như tại Malaysia[31] và Đài Loan.
11.2.2 Thông tin thân phận người lao động

Con đường về nước của lao động xuất khẩu, bao gồm lưu trú
bất hợp pháp[54]

Nhiều lao động Việt Nam qua đời ở nước ngoài, tuy
nhiên những con số này chưa được công bố rộng rãi.

Bộ Lao động - ương binh và Xã Hội cho biết những
trường hợp chết đã làm thủ tục thông báo về gia đình,
còn đăng lên báo thì không có lợi trong dư luận xã hội
vì nhiều vấn đề chưa được rõ ràng. Một số trường hợp
do khâu kiểm tra sức khỏe không được kỹ nên ra nước
ngoài gặp điều kiện lao động căng thẳng, cộng thêm có
lao động không giữ mình nên đã uống rượu, dẫn đến
đột tử.[26] Có thông tin về trường hợp người lao động
mất do tai nạn nhưng hai tháng sau gia đình tại Việt
Nam mới được báo tin.[59]

Tại Hàn ốc, Hiệp hội Nông - Ngư nghiệp, Hiệp hội
các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có những đánh giá
không tích cực về lao động Việt Nam trong việc chuyển
đổi nơi làm việc cũng như tình trạng lưu trú bất hợp
pháp. Điều này dẫn đến xu hướng tuyển dụng lao động
Việt Nam có dấu hiệu giảm dần tại một số công ty.
ống kê năm 2011 của Hàn ốc cho biết Việt Nam
đứng đầu về số lượng lao động cư trú bất hợp pháp
(8.780 trong hơn 60.000 lao động) và đứng đầu về yêu
cầu đòi chuyển đổi nơi làm việc với các lý do không eo thống kê của Cục ản lý Lao động Ngoài nước
Việt Nam, từ tháng 4 năm 2002 đến đầu năm 2008 đã
chính đáng (32%) so với các quốc gia khác.[9][56]
có hơn 300 trường hợp người lao động Việt Nam chết
Bên cạnh đó còn hiện tượng người dân tự ý hoặc được
tại Malaysia.[30] Riêng năm 2007, Phóng viên báo Pháp
môi giới đưa sang nước ngoài làm việc và lưu trú bất
Luật ành phố Hồ Chí Minh thống kê có ít nhất 100
hợp pháp không qua hợp đồng lao động bằng những
lao động Việt Nam chết tại Malaysia. Con số này nhiều

con đường như như đi du lịch, thăm người thân hoặc
hơn hẳn các thị trường lao động khác, trong đó 1/3
kết hôn giả.[57]
thống kê do "đột tử". Có nhiều nghi vấn chưa giải đáp
Ứng phó với tình trạng này, Nhật Bản tuyên bố sẽ quanh vấn đề này vì nhiều nhân chứng tại Malaysia
mạnh tay hơn trong việc kiểm soát người lao động nước và gia đình các nạn nhân khẳng định những người bị
ngoài, nếu bỏ trốn khi bắt được sẽ trục xuất ngay về chết đều khỏe mạnh, trước đó không có biểu hiện bệnh
nước.[11] Về phía Hàn ốc, chính quyền đã cân nhắc tật.[60] Bộ Lao động - ương binh và Xã hội cho biết
đến biện pháp hạn chế việc tổ chức kỳ kiểm tra tiếng việc khám sức khỏe không cẩn thận là nguyên nhân
Hàn hoặc cắt giảm chỉ tiêu tiếp nhận lao động Việt chủ yếu dẫn đến lao động bị đột tử phổ biến tại quốc
Nam, đồng thời thực hiện các giải pháp truy quét tình gia này.[61]
trạng lao động nước ngoài cư trú bất hợp pháp. Kết quả
áng 12 năm 2011, ba lao động tại Nga thiệt mạng vì
con số này giảm xuống đáng kể. Nhận định từ giới chức
bị ngạt khí gas. Do xuất khẩu lao động theo đường dây
Việt Nam cho biết, việc lao động “cư trú bất hợp pháp
bất hợp pháp nên khi chết, họ không được chôn cất mà
tại Hàn ốc ngày càng gia tăng đã tác động xấu đến
chỉ được quấn vải rồi lấp đất lên.[62][63]
ổn định xã hội và góp phần làm phát sinh tội phạm liên
quan đến người nước ngoài”.[9]

11.2

Quy định và công tác quản lý

11.3 Đơn vị tuyển dụng và sử dụng lao
động

11.2.1


Quy định và thủ tục pháp lý

11.3.1 Chi phí môi giới

y định và thủ tục pháp lý không rõ ràng tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp lợi dụng lách luật để cuối
cùng bắt người lao động phải chịu những chi phí cao
một cách bất hợp lý.[58] eo khuyến nghị của các nước
khác, Việt Nam nên tập trung vào các đầu mối ở cấp

Công ty môi giới có trách nhiệm giúp người lao động
làm thủ tục cư trú và giấy tờ thuế đồng thời tìm công
việc thích hợp, sau đó nhận được một khoản cố định từ
lương hàng tháng của người lao động.[64]
Mặc dù theo luật định, mức trần tiền môi giới cho các


8

11 HẠN CHẾ

thị trường cứ mỗi năm của hợp đồng không vượt quá
một tháng lương của người lao động, tuy nhiên trong
thực tế, nhiều công ty xuất khẩu đòi hỏi người lao động
phải đóng phí môi giới cao hơn. Ngoài ra còn tiền dịch
vụ (mức trần khoảng 10% của lương tháng, đóng trước
18 tháng) trả cho công ty xuất khẩu, chi phí đặt cọc
“chống trốn”, chi phí dạy nghề và ngoại ngữ trước khi
xuất hành, vé máy bay lượt đi,… Nhiều lao động đã phải

thế chấp đất và nhà cửa hay vay mượn để có đủ tiền lo
chi phí.
eo sự tính toán của báo Lao động: “Mức lương
tối thiểu người lao động được hưởng là 15.840 Đài
tệ/tháng. Bị trừ thuế tại Đài Loan: 3.168 đài tệ; phí cho
công ty Việt Nam tuyển dụng lao động là 12%/tháng
lương: 2.000 đài tệ; bảo hiểm tại Đài Loan: 46 đài tệ; phí
môi giới 5.750 đài tệ. Mỗi tháng người lao động được
ứng 2.000 đài tệ để sinh hoạt. Như vậy với mức lương
15.840 đài tệ/tháng, sau khi trừ các chi phí, người lao
động chỉ tiết kiệm mỗi tháng khoảng 2.876 đài tệ. Số
tiền này chỉ bằng 1/2 số tiền chi cho môi giới. Nếu với
việc quy đổi khoảng 33 đài tệ = 1 USD thì họ chỉ còn
giữ lại để gửi về nhà khoảng 87 USD/tháng. Như vậy
có thể nói người lao động làm việc quần quật trong 1
tháng chủ yếu chỉ để trả cho các loại phí và chủ yếu là
phí môi giới.”[58] Cứ mỗi người lao động thì công ty môi
giới có thể hưởng lợi gấp ba lần số tiền mà mỗi người
làm công có thể để dư được (phí môi giới gần gấp 2, và
phí dịch vụ gần bằng) và gần phân nửa số lương tháng
của họ, dù không phải trực tiếp lao động.
eo luật của Đài Loan, mức phí môi giới lao động phải
trả hàng tháng là từ 47 đến 56 USD, tuỳ thuộc thời hạn
hợp đồng. Tuy nhiên, có nguồn tin cho biết có nhiều
trường hợp bên môi giới lấy số tiền nhiều hơn mức cho
phép và không quan tâm đến quyền lợi của người lao
động.[64]

11.3.2


Lừa đảo và buôn người

Đã có nhiều hiện tượng lừa đảo xuất khẩu lao động từ
cá nhân tự phát đến có tổ chức tại Việt Nam. Điều này
xuất phát một phần từ nhu cầu muốn được xuất khẩu
lao động từ phía người dân trong nước. Như năm 2011,
kỳ thi tiếng Hàn đạt kỷ lục về lượng thí sinh tham dự
với gần 67.000 người, gấp hơn 2 lần so với năm 2010
và hơn 8 lần so với năm 2009, trong khi số lượng hồ sơ
phía Hàn ốc đăng ký lựa chọn là 15.000 và chỉ nhận
tuyển khoảng 13.000 người.[65]

Một nhà máy may Bolshevik tại Nga

theo hợp đồng bị xử phạt hành chính với mức phạt chỉ
từ 1500 USD trở xuống.[6]
Nhiều lao động Việt Nam tại Malaysia bị lừa đảo hợp
đồng lao động và bị ngược đãi, đánh đập, bỏ đói, tìm
kiếm sự can thiệp để về Việt Nam.[69]
Đối với việc xuất khẩu lao động sang Nga, người lao
động rất dễ bị lừa và không thể kiếm được chỗ làm hợp
pháp nếu không qua doanh nghiệp xuất khẩu lao động
đã được cấp phép. Có hàng nghìn người Việt Nam bị rơi
vào cảnh "nô lệ lao động” tại thị trường này. Họ bị nhốt
dưới khu vực ngầm cách biệt với thế giới bên ngoài và
lao động vất vả tại những xí nghiệp may phi pháp, bị
bóc lột thậm tệ, bị thu hoàn toàn giấy tờ tùy thân và
cũng không có khả năng tài chính trở về Việt Nam.[70]
Đầu năm 2012, một số lao động xuất khẩu bất hợp pháp
tại Nga gọi điện cho báo giới Việt Nam cầu cứu về tình

hình lao động mà không được trả lương cả năm, trốn
ra ngoài thì bị báo cảnh sát bắt và phạt tiền.[62]
Có tình trạng nhiều đối tượng, công ty lừa đảo người
lao động Việt Nam chiếm đoạt tài sản hoặc đưa người
lao động sang châu Âu bất hợp pháp. Ngoài ra còn có
dấu hiệu hình thành các đường dây đưa phụ nữ Việt
Nam sang châu Âu, bán vào các ổ mại dâm.[37]

Từ 2004 đến 2008, khoảng 5.400 người đã chấp nhận
vay mượn tiền để xuất ngoại đi lao động tại các thị
trường như Hàn ốc, Nhật Bản, Đài Loan và Úc nhưng
[71]
eo số liệu của công an ành phố Hà Nội, riêng không đi được vì bị lừa.
khoảng thời gian từ đầu năm 2006 đến giữa 2007, tại
Hà Nội có hơn 2.000 nạn nhân bị lừa đảo xuất khẩu
11.3.3 Vi phạm hợp đồng và bóc lột
lao động sang Đài Loan và Hàn ốc, tổng lợi nhuận
[66]
chiếm đoạt là hơn 52 tỷ đồng. Tại Hà Nội còn có hiện
tượng giả danh cán bộ quản lý, lừa đảo xuất khẩu lao Việc vi phạm hợp đồng có thể diễn ra từ nhiều phía:
động[67] hoặc lừa đưa người đi xuất khẩu lao động bằng nhà môi giới, nhà tuyển dụng hoặc lao động.
con đường du học.[68] Mặc dù một số công ty vi phạm Các lao động Maylaysia bị nhà mội giới xuất khẩu bỏ
Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài mặc ngay sau khi sang nước ngoài, nhận được việc


9
làm không theo nội dung như trong hợp đồng. Một số
rơi vào tình trạng việc làm lúc có lúc không, bị quỵt
lương, bị chuyển nơi làm việc nặng liên tục như bốc
vác, hàn xì, đổ bê tông,…[36] Đây là thị trường được

xem la có thu nhập thấp, rủi ro cao. u nhập bình
quân của các lao động này ở Malaysia là khoảng 2,5
triệu đồng/tháng.[30] Người lao động có thể phải làm
việc 12 giờ mỗi ngày tại những công trường công việc
nặng nhọc trong điều kiện lao động nguy hiểm mà công
nhân địa phương không chịu làm và nhiều tháng liền
không được trả lương đồng thời bị ngược đãi. Phản đối
điều này, năm 2005, một nhóm lao động Việt Nam đã
biểu tình trước tòa tháp đôi Petronas ở thủ đô Kuala
Lumpur của Malaysia.[72] Tương tự, tại Đài Loan, công
việc chính của người lao động xuất khẩu là làm trong
các ngành mà người dân địa phương không đoái hoài
hoặc chê vì lương quá thấp.[64]
Tại Qatar, số lao động Việt Nam có tỷ lệ vi phạm hợp
đồng cao do các yếu tố như 95% tham gia công việc
xây dựng nặng nhọc, thời tiết khắc nghiệt, thu nhập
trên 200 USD/tháng, khác biệt lớn về văn hoá, các vấn
đề về pháp luật lao động và giải quyết tranh chấp cùng
một số yếu tố kinh doanh, cờ bạc, trộm cắp phát sinh
từ phía lao động Việt Nam.[73]
Tại Cộng hòa Séc, người lao động Việt Nam gặp phải
tình trạng bóc lột, bỏ đói và nhiều vấn đề phức tạp khác.
Giới truyền thông đại chúng Séc sử dụng rộng rãi cụm
từ “nô lệ thời đại mới” để nói về những công nhân ngoại
quốc.[74]
Năm 2010, 120 người lao động thời vụ Việt Nam tại
ụy Điển tổ chức biểu tình để phản đối điều kiện làm
việc.[75]

11.4


Tình hình thế giới

Tình hình bất ổn chính trị bất ổn tại các quốc gia ở
khu vực Trung Đông và Bắc Phi cũng ảnh hưởng đến
lao động xuất khẩu. Năm 2011, do cuộc khủng hoảng
chính trị tại Lybia, Việt Nam đã phải sơ tán khẩn cấp
hơn 10.000 lao động về nước.[13] Những lao động này
khi trở về phải đối mặt với các khoản nợ không nhỏ đã
vay trước khi đi xuất khẩu. Trước đó, năm 1991, Việt
Nam đã sơ tán khoảng 18.000 lao động làm việc tại Iraq
do chiến tranh vùng Vịnh.[76] Một số khó khăn khác
có thể kể đến như: ảnh hưởng của khủng hoảng kinh
tế thế giới, khủng hoảng nợ công châu Âu và sự cạnh
tranh giữa các quốc gia cung ứng lao động như Trung
ốc, Indonesia,…[14][38]

12

Chú thích

[2] “Số liệu xuất khẩu lao động của Việt Nam năm 2010”.
CAMSA - Liên Minh Bài Trừ Nạn Nô Lệ Tân ời Tại
Á Châu. Ngày 1 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 24
tháng 3 năm 2012.
[3] “Tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam”. Cục
ản lý Lao động Nước ngoài. Bản gốc lưu trữ ngày
7 tháng 4 năm 2005. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm
2012. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |archivedate=
(trợ giúp)

[4] “Bài 4: Hiệu quả từ xuất khẩu lao động”. Báo Hà Nội
mới Online. Ngày 15 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày
23 tháng 3 năm 2012.
[5] e Department of Overseas Labour (DOLAB),
MOLISA, 2006
[6] “Gần 90 nghìn người đã xuất khẩu lao động”. Báo điện
tử Dân trí. Ngày 19 tháng 12 năm 2011. Truy cập ngày
21 tháng 3 năm 2012.
[7] “Việc làm và xuất khẩu lao động – những vấn đề đặt ra”.
Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày 3 tháng 6
năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2012.
[8] “Lao động nữ dễ bị ngược đãi khi xuất khẩu lao động”.
Báo điện tử Dân trí. Ngày 22 tháng 11 năm 2011. Truy
cập ngày 21 tháng 3 năm 2012.
[9] “Xuất khẩu lao động Hàn ốc gặp nhiều bất lợi”. Báo
điện tử Dân trí. Ngày 8 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày
21 tháng 3 năm 2012.
[10] “Lao động Việt Nam tại Đài Loan chiếm lượng áp đảo”.
Báo điện tử Dân trí. Ngày 20 tháng 7 năm 2011. Truy
cập ngày 21 tháng 3 năm 2012.
[11] “Xuất khẩu lao động Nhật Bản: Cửa mở nhưng không
dễ”. Báo điện tử Dân trí. 4 tháng 7 năm 2011. Truy cập
ngày 21 tháng 3 năm 2012.
[12] “Nhật Bản tín nhiệm lao động Việt Nam”. Báo điện tử
Dân trí. Ngày 3 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 21
tháng 3 năm 2012.
[13] “Tuyên dương các doanh nghiệp hội viên đạt thành tích
xuất sắc về xuất khẩu lao động 2011”. Hiệp hội Xuất
khẩu Lao động Việt Nam. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm
2012.

[14] “Xuất khẩu lao động năm 2012: ách thức và cơ hội”.
VietnamPlus, ông tấn xã Việt Nam. Ngày 28 tháng 1
năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2012.
[15] “VN gai tăng xuất khẩu lao động…”
[16] Nghị định 370-HĐBT năm 1991
[17] “Khái quát về hệ thống Luật Việt Nam”. Trung tâm
Nghiên cứu Pháp luật.
[18] yết định 144/2007/QĐ-TTg
[19] yết định 18/2007/QĐ-BLĐTBXH

[1] QUYẾT ĐỊNH 159 /QĐ-LĐTBXH Về việc quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục
quản lý lao động ngoài nước

[20] yết định 19/2007/QĐ-BLĐTBXH
[21] yết định 20/2007/QĐ-BLĐTBXH


10
[22] ông tư 21/2007/TT-BLĐTBXH
[23] ông tư liên tịch 17/2007/TTLT- BLĐTBXH-NHNNVN
[24] ông tư liên tịch 08/2007/TTLT/BLĐTBXH-BTP
[25] ông tư liên tịch 09/2006/TTLT/BLĐTBXH - BCA –
VKSNDTC – TANDTC
[26] “"Lao động chết ở nước ngoài: Nếu công bố, dư luận sẽ
sững sờ"”. Báo điện tử Dân trí. 3 tháng 3 năm 2008. Truy
cập ngày 24 tháng 3 năm 2012.
[27] “Xuất khẩu lao động sang Nhật Bản: Không được thu
tiền đặt cọc”. Báo Lao động. Ngày 23 tháng 10 năm 2010.
Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2012.

[28] “Vì sao lao động cứ xuất khẩu được là… bỏ trốn?”. Báo
điện tử Dân trí. 28 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày
21 tháng 3 năm 2012.
[29] “Lao động VN 'biểu tình' ở Đài Loan”. BBC tiếng Việt.
Ngày 18 tháng 2 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 3
năm 2012.
[30] “Một năm, hơn 100 lao động Việt Nam chết ở Malaysia:
ốc hội sẽ vào cuộc”. Báo điện tử Dân trí (eo báo
Pháp luật TP.HCM). Ngày 1 tháng 3 năm 2008. Truy cập
ngày 24 tháng 3 năm 2012.
[31] “Tình hình thị trường lao động Malaysia năm 2011”.
Hiệp hội Xuất khẩu Lao động Việt Nam. Truy cập ngày
21 tháng 3 năm 2012.
[32] “Khó cho vay xuất khẩu lao động vì tỉ lệ nợ xấu tăng
cao”. Báo Lao động. Ngày 27 tháng 4 năm 2010. Truy
cập ngày 21 tháng 3 năm 2012.
[33] “Vốn cho xuất khẩu lao động: Ngân hàng và lao động
đều khó?”. VnEconomy (Báo điện tử - ời báo Kinh tế
Việt Nam). Ngày 22 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày
21 tháng 3 năm 2012.
[34] “Xuất khẩu lao động: Bức tranh muôn màu”. Báo Hậu
Giang Online. Ngày 24 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày
24 tháng 3 năm 2012.
[35] “Số liệu Tổng hợp lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài về nước”. Cục quản lý lao động ngoài nước, Bộ
Lao động - ương binh và Xã hội. Truy cập ngày 24
tháng 3 năm 2012.
[36] “Bi hài chuyện xuất khẩu lao động: Sống chết mặc bay”.
Báo điện tử của báo Nông thôn Ngày nay. 12 tháng 11
năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2012.

[37] “Xuất khẩu lao động sang châu Âu: uận lợi và khó
khăn”. Báo An ninh ủ đô. Ngày 18 tháng 4 năm 2010.
Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2012.
[38] “Rối bời vì lao động xuất khẩu: chưa đi đã về”. Báo điện
tử Dân trí. Ngày 26 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 24
tháng 3 năm 2012.
[39] “Phía sau những đồng ngoại tệ xuất khẩu lao động”. Báo
Hà Tĩnh Online. Ngày 22 tháng 8 năm 2009. Truy cập
ngày 24 tháng 3 năm 2012.

12

CHÚ THÍCH

[40] “Câu chuyện của những công nhân Việt Nam trên đảo
Samoa”. RFA, Đài Á châu tiếng Việt. Ngày 22 tháng 2
năm 2005. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2012.
[41] “Chủ nhà máy Dệt Daewoosa bị kết án 40 năm tù”. Báo
Hà Nội mới Online. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2012.
[42] “Mỹ bắt giữ chủ nhà máy Daewoosa ở Samoa”. Báo Lao
động (theo VTV). Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2012.
[43] “Công nhân trở về từ Samoa tuyệt thực trước cổng Công
ty Du lịch 12”. VnExpress. Ngày 27 tháng 4 năm 2011.
Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2012.
[44] “Were they 'indentured servants’?”. e Houston
Chronicle. Ngày 15 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày
21 tháng 3 năm 2012.
[45] “Hai công ty Việt Nam bị người lao động kiện ở Mỹ”.
Báo anh niên Online. Ngày 16 tháng 4 năm 2011. Truy
cập ngày 21 tháng 3 năm 2012.

[46] CAMSA giới thiệu
[47] “III. Heroes Acting To End Modern Day Slavery”.
Trafficking in Persons Report. Office to Monitor
and Combat Trafficking in Persons, United States
Department of State. Ngày 5 tháng 6 năm 2006. Truy
cập ngày 22 tháng 1 năm 2008.
[48] Dang, Nguyen Anh (2007). Labour Export from
Viet Nam: Issues of Policy and Practice (bằng tiếng
Anh). paper for presentation at the 8th International
Conference of Asia Pacific Migration Research Network
(APMRN), Fuzhou, China, 25-ngày 29 tháng 5 năm
2007. tr. 6.
[49] 500,000 Workers to go Abroad by 2005 (bằng tiếng Anh).
Asia/Africa Intelligence Wire. 2002.
[50] Asian Migrant Yearbook 2002-2003 Migration Facts (bằng
tiếng Anh). Asian Migrant Center (AMC). 2003. tr. 286287.
[51] “Đẩy mạnh xuất khẩu lao động tại chỗ - hướng giải
quyết việc làm quan trọng trong hội nhập”. Tạp chí
Cộng sản. Ngày 13 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày
21 tháng 3 năm 2012.
[52] “Lao động Việt Nam ở nước ngoài đã gửi về khoảng 1,6
tỷ USD”. VnEconomy (Báo điện tử - ời báo Kinh tế
Việt Nam). Ngày 3 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 23
tháng 3 năm 2012.
[53] “Kiều hối về Việt Nam giảm”. BBC tiếng Việt. Ngày 18
tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2012.
[54] “International labour migration from Vietnam to asian
countries, 2000-2009: Process, Experiences and Impact”
(PDF). Institute for Social development studies the
University of Western Ontario, Project funded by the

International Development Research Center of Canada
(IDRC). 2010. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2012.
[55] “Hàn ốc chưa dừng tiếp nhận lao động Việt Nam”.
Báo Lao động. 2011-30-09. Truy cập ngày 21 tháng 3
năm 2012. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ
giúp)


11
[56] “Việt Nam dẫn đầu về số lao động cư trú bất hợp pháp
tại Hàn ốc”. Báo Giáo dục Việt Nam. 15 tháng 6 năm
2011. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2012.

[73] “Tại sao Lao động Việt Nam làm việc tại Qatar có tỷ lệ
vi phạm hợp đồng cao?”. Hiệp hội Xuất khẩu Lao động
Việt Nam. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2012.

[57] “ảm hoạ xuất khẩu lao động… chui”. Báo An ninh ủ
đô. 25 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm
2012.

[74] “Những vấn đề bất cập khi xuất khẩu lao động”. Báo
điện tử Tầm Nhìn. 20 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày
21 tháng 3 năm 2012.

[58] “Lại bàn về phí môi giới đi lao động Đài Loan”. Lao động.
14 tháng 6 năm 2001.

[75] “Lao động VN biểu tình ở ụy Điển”. BBC tiếng Việt.
11 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm

2012.

[59] “Người phụ nữ Việt chết khi giúp việc tại Malaysia”.
VnExpress. 7 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 24
tháng 3 năm 2012.
[60] “Đột tử - nỗi kinh hoàng của người lao động ở
Malaysia”. Báo điện tử Dân trí. 24 tháng 2 năm 2008.
Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2012.
[61] “Lao động VN chết ở Malaysia vì kém sức khỏe?”. Sức
khoẻ và dinh dưỡng - Phụ trang của Báo Người Lao động
Điện tử. 5 tháng 3 năm 2008. Truy cập ngày 24 tháng 3
năm 2012.
[62] “Những cái chết uẩn khúc của lao động bất hợp pháp
tại Nga”. Báo Giáo dục Việt Nam. 2 tháng 3 năm 2013.
Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2012.
[63] “Bi kịch từ xuất khẩu lao động “chui"”. Báo Pháp luật và
Xã hội. 9 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 3
năm 2012.
[64] “Lao động nước ngoài vật lộn mưu sinh ở Đài Loan”.
Báo điện tử Dân trí. 2 tháng 7 năm 2006.
[65] “Xuất khẩu lao động sang Hàn ốc: Số được chọn vẫn
chưa an bài”. Báo An ninh ủ đô. 20/02/2011. Kiểm tra
giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
[66] “Nhiều người vẫn bị lừa xuất khẩu lao động sang Hàn
ốc và Đài Loan”. Báo Tiền Phong Online. 24 tháng 8
năm 2007. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2012.
[67] “Giả danh cán bộ quản lý, lừa đảo xuất khẩu lao động”.
Báo Công an Nhân dân Online. 20 tháng 3 năm 2012.
Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2012.
[68] “Lừa đưa người đi xuất khẩu lao động bằng chiêu du

học”. VnExpress. 18 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày
21 tháng 3 năm 2012.
[69] “30 công nhân làm việc tại Malaysia kêu cứu vì bị ngược
đãi”. Báo Người Lao động Điện tử. 12 tháng 11 năm 2010.
Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2012.
[70] “Hạn chế “nô lệ lao động” Việt tại Nga: Cách nào?”.
VnEconomy (Báo điện tử - ời báo Kinh tế Việt Nam).
30 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm
2012.
[71] “ />VnExpress. 2 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 25
tháng 3 năm 2012.
[72] “Lao động Việt Nam biểu tình ở Malaysia”. BBC tiếng
Việt. 13 tháng 9 năm 2005. Truy cập ngày 25 tháng 3
năm 2012.

[76] “Lao động trở về từ Libya ngập trong nợ nần”. Báo Giáo
dục Việt Nam. 2012-27-02. Truy cập ngày 24 tháng 3
năm 2012. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ
giúp)

13 Liên kết ngoài
• Hiệp hội Xuất khẩu Lao động Việt Nam
• Cục ản lý Lao động Ngoài nước (thuộc Bộ Lao
động - ương binh và Xã hội)
• Những văn bản pháp quy liên quan đến Xuất khẩu
lao động tại trang Ban ản lý Lao động tại Đài
Bắc.
• Xuất khẩu lao động Việt Nam: hơn cả buôn ma
tuý!
• Chuyện Kể Của Người Trực Tiếp Cứu Giúp Nạn

Nhân Buôn Người Ở Malaysia


12

14 NGUỒN, NGƯỜI ĐÓNG GÓP, VÀ GIẤY PHÉP CHO VĂN BẢN VÀ HÌNH ẢNH

14
14.1

Nguồn, người đóng góp, và giấy phép cho văn bản và hình ảnh
Văn bản

• Xuất khẩu lao động Việt Nam Nguồn: />Vi%E1%BB%87t_Nam?oldid=26353503 Người đóng góp: DHN, ái Nhi, Trungda, Duyệt-phố, Túrelio, ASM~viwiki, Phương Huy,
Tuankiet65, Tnt1984, TuHan-Bot, CNBH, DerBorg, Cheers!-bot, Violetbonmua, McZusatz, Dammio, Demon Witch, Alphama, Hoang
Dat, Tuandn68, AlphamaBot, Earthshaker, TuanUt-Bot!, Gaconnhanhnhen, itxongkhoiAWB, KingPika, Pencil87, Tuanminh01,
TuanminhBot, Én bạc AWB, P.T.Đ, Vkhanoi và 15 người vô danh

14.2

Hình ảnh

• Tập_tin:Bundesarchiv_Bild_183-1982-0319-411,_Tagebau_Greifenhain,_Ausbildung_von_Vietnamesen.jpg
Nguồn:
/>Ausbildung_von_Vietnamesen.jpg Giấy phép: CC BY-SA 3.0 de Người đóng góp: is image was provided to Wikimedia Commons by
the German Federal Archive (Deutsches Bundesarchiv) as part of a cooperation project. e German Federal Archive guarantees an
authentic representation only using the originals (negative and/or positive), resp. the digitalization of the originals as provided by the
Digital Image Archive. Nghệ sĩ đầu tiên: Weisflog, Rainer
• Tập_tin:Bundesarchiv_Bild_183-1985-1227-028,_Espenhain,_Gastarbeiter_aus_Vietnam.jpg Nguồn: imedia.
org/wikipedia/commons/f/f7/Bundesarchiv_Bild_183-1985-1227-028%2C_Espenhain%2C_Gastarbeiter_aus_Vietnam.jpg Giấy phép:

CC BY-SA 3.0 de Người đóng góp: is image was provided to Wikimedia Commons by the German Federal Archive (Deutsches
Bundesarchiv) as part of a cooperation project. e German Federal Archive guarantees an authentic representation only using the
originals (negative and/or positive), resp. the digitalization of the originals as provided by the Digital Image Archive. Nghệ sĩ đầu tiên:
Gahlbeck, Friedrich
• Tập_tin:Employment_Paths_of_Migrant_Workers.png
Nguồn:
/>Employment_Paths_of_Migrant_Workers.png Giấy phép: CC BY-SA 3.0 Người đóng góp: Tác phẩm do chính người tải lên tạo
ra. Info from ILAMI Vietnam 2009 Survey. Institute for Social Development Studies Nghệ sĩ đầu tiên: Violetbonmua
• Tập_tin:IllegalWorkersSign-Singapore-20070316.jpg
Nguồn:
/>IllegalWorkersSign-Singapore-20070316.jpg Giấy phép: CC BY-SA 2.0 Người đóng góp: Fih official language of Singapore.
Nghệ sĩ đầu tiên: Benoit Mortgat.
• Tập_tin:RIAN_archive_901609_Bolshevichka_garment_factory.jpg Nguồn: />RIAN_archive_901609_Bolshevichka_garment_factory.jpg Giấy phép: CC BY-SA 3.0 Người đóng góp: RIA Novosti archive, image
#901609, 6x6 film / 6х6 негатив Nghệ sĩ đầu tiên: Yury Artamonov / Юрий Артамонов
• Tập_tin:Tzu_Chi_Health_Care_For_Our_Foreign_Friends_in_Taiwan_and_Fill_The_World_with_Love_20111009.jpg
Nguồn:
/>The_World_with_Love_20111009.jpg Giấy phép: CC BY-SA 3.0 Người đóng góp: Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra Nghệ sĩ đầu
tiên:
• Tập_tin:Vietnamese_export_labour_return_2008.png Nguồn: />export_labour_return_2008.png Giấy phép: CC BY-SA 3.0 Người đóng góp: Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra Nghệ sĩ đầu tiên:
Violetbonmua
• Tập_tin:Vietnamese_export_labour_return_2009.png Nguồn: />export_labour_return_2009.png Giấy phép: CC BY-SA 3.0 Người đóng góp: Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra Nghệ sĩ đầu tiên:
Violetbonmua
• Tập_tin:Vietnamese_labor_exports.png Nguồn: />png Giấy phép: CC BY-SA 3.0 Người đóng góp: Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra. Data from e Department of Overseas
Labour (DOLAB), MOLISA, 2006 Nghệ sĩ đầu tiên: Violetbonmua
• Tập_tin:Vietnamese_labour_exports_by_country.png Nguồn: />labour_exports_by_country.png Giấy phép: CC BY-SA 3.0 Người đóng góp: Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra. Data from e
Department of Overseas Labour (DOLAB), MOLISA, 2006 Nghệ sĩ đầu tiên: Violetbonmua
• Tập_tin:Wikisource-logo.svg Nguồn: Giấy phép: CC
BY-SA 3.0 Người đóng góp: Rei-artur Nghệ sĩ đầu tiên: Nicholas Moreau
• Tập_tin:Xkld_vn_80-90.jpg Nguồn: Giấy phép: CC BY-SA
3.0 Người đóng góp: Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra. Data from [1] Nghệ sĩ đầu tiên: Violetbonmua


14.3

Giấy phép nội dung

• Creative Commons Aribution-Share Alike 3.0



×