Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Bài thi tìm hiểu lực lượng vũ trang Thanh Hóa 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng tành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.15 KB, 24 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN .........
BAN CHỈ HUY QUÂN SỰ XÃ .........

BÀI DỰ THI TÌM HIỂU
LỰC LƯỢNG VŨ TRANG THANH HÓA 70 NĂM XÂY DỰNG,
CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH

Họ và tên:
Giới tính:
Dân tộc:
Tôn giáo:
Sinh năm:
Số điện thoại:
Email:

Nam
Kinh
Không
1980

NĂM 2017
1


BÀI DỰ THI TÌM HIỂU “LỰC LƯỢNG VŨ TRANG THANH HÓA 70
NĂM XÂY DỰNG, CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH”
Câu hỏi 1: Anh (chị) cho biết quá trình thành lập và hoạt động của tổ
chức tiền thân LLVT Thanh Hoá ngày nay?
Trả lời:
- Ngày 29/7/1930, Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Thanh Hoá được
thành lập. Trong những năm vận động cách mạng tiến tới tổng khởi nghĩa vũ trang


giành chính quyền từ (1939- 1945), Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá đẩy mạnh việc tổ
chức, xây dựng lực lượng vũ tranh cách mạng, các đội tự vệ phản đế cứu quốc lần
lượt ra đời chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng.
- Ngày 28/01/1941, đồng chí Đặng Châu Tuệ được Tỉnh ủy cử đi dự Hội
nghị liên tỉnh Thanh Hóa - Nghệ An - Hà Tĩnh để tiếp thu Thông báo khẩn cấp của
Ban Thường vụ Trung ương Đảng về hưởng ứng khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ, nội
dung Nghị quyết VII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và tiếp thu kế hoạch chỉ
đạo phong trào cách mạng của Xứ ủy Trung Kỳ.
- Tháng 2 năm 1941, Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị đại biểu các cơ sở Đảng trên
địa bàn toàn tỉnh tại làng Phong Cốc (Xuân Minh, Thọ Xuân). Hội nghị đã chỉ rõ
nhiệm vụ trước mắt: Xúc tiến việc xây dựng phát triển các đội tự vệ và du kích, tiến
tới đấu tranh vũ trang; Lập vành đai căn cứ địa cách mạng từ Tây Bắc xuống Đông
Nam tỉnh Thanh Hóa; Phát động phong trào quần chúng đấu tranh chống thuế vụ hạ.
- Cuối tháng 7 năm 1941, Ban Lãnh đạo chiến khu Ngọc Trạo được thành
lập, gồm 3 đồng chí Đặng Châu Tuệ, Trần Tiến Quân, Đặng Văn Hỷ; lực lượng ban
đầu gồm 21 chiến sỹ cách mạng được chọn lựa từ nhiều Huyện trong Tỉnh, vượt
vòng vây của mật thám đã về Ngọc Trạo tụ họp. Sau một thời gian bọn mật thám
nghi ngờ, chúng tìm đường để dò xét. Để bảo đảm an toàn cho chiến khu, các chiến
sỹ đã bí mật luồn rừng về Hang Treo.
Tại đây, đêm 19/9/1941, đội du kích Ngọc Trạo dưới sự chỉ huy của đồng chí
Đặng Châu Tuệ chính thức làm lễ thành lập. Đây là một trong những lực lượng vũ
trang tập trung tiền thân của lực lượng vũ tranh Tỉnh Thanh Hoá.
Đội du kích gồm 21 chiến sỹ ưu tú tiền thân của lực lượng vũ trang Thanh
Hoá sau này, mang số thứ tự từ 1 đến 21 do đồng chí Đặng Châu Tuệ trực tiếp làm
chỉ huy trưởng. Dưới lá cờ đỏ sao vàng, toàn đội đã đồng tâm nhất trí hô vang lời
thể sắt son của người chiến sỹ cách mạng, thề nguyện hy sinh phấn đấu đến giọt
máu cuối cùng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Sau khi tuyên bố điều lệ, kỷ luật
2



của đội các chiến sỹ hát vang bài đội ca hùng tráng. Và bài hát đã trở thành bài
"Đội ca": "Đời ta khổ bấy lâu rồi/ Mà sao vẫn cam chịu hoài/ Đời mình tự mình
phải cứu/ Chớ trông cậy vào ai/ Công nông binh đoàn kết/ Trên con đường giai
cấp đấu tranh/ Búa liềm kia dắt chúng ta lên đường/ Đại đồng"

Ban Lãnh đạo chiến khu Ngọc Trạo (từ trái qua phải: Đ/c Đặng Châu Tuệ, Đ/c Trần Tiến Quân,
Đ/c Đặng Văn Hỷ) - Ảnh Bảo tàng tỉnh Thanh Hóa

Việc thành lập đội du kích chiến khu Ngọc Trạo đã gây tiếng vang lớn cho
nhân dân, cổ vũ nhiều thanh niên yêu nước trong tỉnh tình nguyện lên chiến khu
hoạt
động.
- Quá trình phát triển về số lượng:
Ngày 19-9 ở hang treo gồm 19 người.
Đến ngày 21 tháng 9 thêm 2 người.
Đến ngày 22 tháng 9 thêm 3 người,
đợt đông nhất 16 người Hà Trung
cùng lên một ngày. Đến 19 thág 10
năm
1941

80
người.
- Đội du kích Ngọc Trạo gồm 3
tiểu đội. Mỗi tiểu đội gồm 7 đội viên.
Ngoài ban chỉ huy chung đội còn có
cá ban chỉ huy: Quân sự, Hậu cần, bảo
vệ và các tổ chiến đấu. Trang bị của đội viên gồm có: Quần áo nông dân, túi dết, xà
cạp xanh, một con dao nhọn. Cán bộ được phát thêm k hẩu súng kíp Thời gian làm
việc của đội là: Buổi sáng tập quân sự, chiều học chính trị, và buổi tối học tập văn

hoá, sinh hoạt văn nghệ.

3


Di tích Hang Treo – được công nhận là Di tích Quốc gia năm 1994

- Đầu tháng 10/1941, được bọn cha cố phản động chỉ điểm, thực dân Pháp đưa
quân đánh úp vào Đa Ngọc, nơi đang tập trung hơn 100 tự vệ; tại đây cuộc chiến đấu đã
diễn ra, nhiều đồng chí đã anh dũng chiến đấu và hy sinh, một số đồng chí trốn thoát tìm
đường đến Ngọc Trạo, bọn mật thám bắt đầu lần ra dấu tích. Ngày 19/10/1941, chúng
đã đưa quân đánh phá chiến khu. Các chiến sỹ đã kiên cường chiến đấu, nhưng vì thế
yếu, bị địch bao vây, anh em phải rút lui để bảo toàn lực lượng.
- Ngay sau cách mạng
Tháng Tám năm 1945
thành công, Tỉnh ủy, Ủy
ban cách mạng lâm thời
tỉnh đã tuyển chọn 1.500
chiến sĩ tự vệ trung kiên
trong các đội quân khởi
nghĩa của các huyện để
thành lập Chi đội giải
phóng quân Đinh Công
Tráng (24/8/1945), do
đồng chí Hoàng Tiến
Trình là Chi đội trưởng.
Ngôi nhà ông Lê Oanh Kiều (làng Hàm Hạ, Đông Tiến,
nay thuộc
thôn Đại Đồng, thị trấn Rừng Thông, Đông Sơn)
- nơi thành lập chi bộ


4


Đảng đầu tiên ở Thanh Hóa đã trở thành Di
tích lịch sử quốc gia.

Câu hỏi 2: Anh (chị) cho biết vị trí, ý nghĩa chiến lược của tỉnh Thanh Hóa
trong kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc hiện nay?
Thanh Hóa từ đầu thời kỳ đồng thau các bộ lạc nguyên thuỷ cũng có mặt trên
địa bàn rất rộng: từ miền núi đến đồng bằng, ven biển. Trong suốt chiều dài lịch sử
của dân tộc, Thanh Hóa là vùng đất phát tích của nhiều vương triều cũng là miền
đất khởi phát nhiều phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc. Như Chu Đạt tập
hợp hơn 5.000 người nổi dậy giết chết huyện lệnh và Thái thú nhà Đông Hán; Bà
Triệu Thị Trinh năm 248; cuộc khởi nghĩa của Lê Ngọc đầu thế kỷ XVII; cuộc khởi
nghĩa của Dương Đình Nghệ năm 931; đặc biệt là 10 năm kháng chiến chống quân
Minh của Lê Lợi, v.v... Có thể nói Thanh Hóa là một vùng địa linh nhân kiệt.
Trong lịch sử hiện đại ngày nay, tỉnh Thanh Hóa cũng đã có những đóng góp
to lớn trong công cuộc giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc.
Thanh Hóa, Tỉnh ở địa đầu Miền Trung của Tổ quốc, nối đồng bằng Bắc bộ
rộng lớn với dải đất Miền Trung dài và hẹp.
Thanh Hóa được định vị từ 19 0 23 đến 2004 vĩ độ Bắc và 1040 25 đến 10603
kinh độ Đông.
Diện tích tự nhiên là 11.168km2; phía Bắc giáp các tỉnh Sơn La, Hòa Bình và
Ninh Bình với đường ranh giới dài 175km; phía Nam và Tây Nam liền kề tỉnh Nghệ
An với đường ranh giới dài hơn 160km; phía Tây giáp tỉnh Hủa-phăn (nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào) có đường biên giới dài 192km; phía Đông mở rộng ra phần
giữa của Vịnh Bắc Bộ thuộc Biển Đông với đường bờ biển dài 102km và một thềm
lục địa khá rộng lớn.
* Thanh Hóa luôn giữ vai trò là căn cứ chiến đấu, hậu phương chiến lược

của các cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại.
Theo các nhà nghiên cứu, với tầm nhìn bao quát toàn diện và sâu sắc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã xác định vị thế chiến lược quan trọng của Thanh Hóa trên cơ
sở phân tích các yếu tố địa lợi, nhân hòa, truyền thống và hiện tại, tiềm năng và sức
bật vươn tới để đáp ứng những yêu cầu mới của cách mạng. Bởi vậy, dù bận trăm
công, ngàn việc, nhưng Bác Hồ vẫn luôn dành cho Đảng bộ, nhân dân các dân tộc
Thanh Hóa những tình cảm đặc biệt và sự quan tâm sâu sắc, trực tiếp chỉ dẫn nhiều
điều quan trọng. Cùng với những bức thư, điện gửi cho các tập thể, cá nhân có
thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, Bác Hồ đã 4 lần về thăm tỉnh ta
(tháng 2/1947, tháng 6/1957, tháng 7/1960, tháng 12/1961).
5


Chủ tịch Hồ Chí Minh nói chuyện với hơn 3 vạn động bào Thanh Hóa ngày 12/12/1961

Đặc biệt, ngay từ những ngày đầu toàn quốc kháng chiến (năm 1946), Hồ
Chí Minh và Trung ương Đảng đã tin tưởng, hy vọng Thanh Hóa trở thành hậu
phương vững mạnh, có thể ngăn chặn được những cuộc tấn công lấn chiếm của
thực dân Pháp và cung cấp sức người, sức của cho tiền tuyến để chiến thắng thực
dân Pháp xâm lược. Ý tưởng đó của Người được thể hiện rõ trong chuyến “vào
Thanh kinh lý” tháng 2 năm 1947.
Các tư liệu lịch sử còn lưu giữ cho biết chuyến đi đầu tiên vào Thanh Hóa
đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh chuẩn bị kỹ lưỡng trước nhiều ngày. Ngày
20/2/1947, khi tới Thanh Hóa, trong thời gian lưu lại rất gấp gáp, buổi sáng Bác đã
nói chuyện với đội ngũ cán bộ tại Rừng Thông (Đông Sơn). Chiều cùng ngày, Bác
gặp gỡ nói chuyện với đại biểu thân sĩ, trí thức, phú hào. Buổi chiều tối, Bác nói
chuyện với cán bộ, nhân dân thị xã Thanh Hóa tại Nhà thông tin Thanh Hóa. Sau
chuyến đi, Người còn băn khoăn vì chưa gặp được đại diện của dân tộc ít người nên
ngày 21/2/1947, Người đã viết thư thăm hỏi đồng bào thượng du Thanh Hóa.
Trong các cuộc gặp gỡ với cán bộ, thân sĩ, trí thức, phú hào và nhân dân Thanh

Hóa, Người đã giao cho Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa những nhiệm vụ quan
trọng để xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh kiểu mẫu, một mô hình hậu phương của
cuộc chiến tranh nhân dân. Và cũng ngay sau đó, Người lại viết bài Thanh Hóa kiểu
mẫu nêu rõ mục đích, phương châm, cách làm cụ thể để xây dựng Thanh Hóa trở
thành một tỉnh kiểu mẫu theo chỉ dẫn của Người.
Trong cuốn tư liệu Bác Hồ với Thanh Hóa, Thanh Hóa làm theo lời Bác, NXB Lao
động ấn hành năm 1998, Phó Tiến sĩ Phạm Hồng Chương, Trưởng ban Nghiên cứu
Viện Nghiên cứu Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, cho biết: “Theo những tư
liệu mà ngày nay chúng tôi sưu tầm được thì khái niệm kiểu mẫu và mong muốn
một địa phương, cụ thể là Thanh Hóa trở thành tỉnh kiểu mẫu được Chủ tịch Hồ
Chí Minh nêu lên lần đầu tiên trong văn bản của Người vào ngày 31/12/1946.
Khái niệm đó được viết rõ trong thư của Người gửi cho Ủy ban Tăng gia sản xuất
tỉnh Thanh Hóa. (...). Khái niệm kiểu mẫu lần đầu tiên được Chủ tịch Hồ Chí Minh
6


sử dụng ra thực tế đúng vào ngày 20/2/1947 tại tỉnh Thanh Hóa. (...). Tại ngày
lịch sử đó, không chỉ khái niệm trên lần đầu được Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra nói
với đồng bào, chiến sĩ tỉnh Thanh mà nó còn được mở rộng hơn, với chiều sâu hơn,
hoàn chỉnh hơn để trở thành một tập hợp khái niệm. Đó là: người kiểu mẫu, làng
kiểu mẫu, huyện kiểu mẫu, tỉnh kiểu mẫu. Và cũng tại đây, nhân dân tỉnh Thanh
được nhận, giữ gìn và thực hiện một tinh thần cực kỳ quý giá mà Chủ tịch Hồ Chí
Minh trao cho khi Người đưa vào nội dung khái niệm này một giá trị tuyệt đỉnh,
như Người nói: “Một tỉnh kiểu mẫu, một nước kiểu mẫu, thì thế giới biết nước ta là
một nước đáng được độc lập, thống nhất; dân tộc tự do; kháng chiến thắng lợi”. Kể
từ đấy, từ ngày mà lần đầu Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với đồng bào Thanh Hóa,
khái niệm kiểu mẫu được Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng rộng rãi trong văn bản
của Người để động viên đến từng lớp người (công, nông, trí thức, bộ đội, du
kích...) và các ngành, cũng như các địa phương khác ngoài tỉnh Thanh Hóa. (...).
Có thể thấy rõ, từ Thanh Hóa, một ý tưởng, một mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí

Minh đã được nhân dân tỉnh Thanh thắp sáng và chuyển tiếp tới đồng bào cả
nước”.
Theo Hồ Chí Minh, xây dựng Thanh Hóa kiểu mẫu luôn gắn với các nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam và phải xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ
cách mạng để xây dựng Thanh Hóa giàu mạnh, cùng cả nước thực hiện mục tiêu
giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước theo định hướng XHCN.
Mục đích của việc xây dựng Thanh Hóa thành tỉnh kiểu mẫu, Người chỉ rõ đó là:
“Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu
thêm. Người nào cũng biết chữ. Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước”.
Người nói về cách làm: Phải dựa vào dân, “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi
cho dân”; phải làm từ việc dễ đến khó, từ việc gấp đến hoãn, từ việc ít tốn tiền đến
việc tốn tiền nhiều; kế hoạch phải thiết thực, làm được. Chính phủ giúp về kế hoạch
và làm một phần để làm kiểu mẫu cho dân. Điều đặc biệt quan trọng mà Hồ Chí
Minh luôn luôn nhấn mạnh đối với Thanh Hóa là không được thỏa mãn với những
gì đã có, dù là truyền thống và tiềm năng, mà phải hết sức cố gắng vươn lên, vươn
lên bằng tinh thần chủ động, sáng tạo, tự lực, tự cường, không ỉ lại Chính phủ.
Về các nội dung xây dựng Thanh Hóa kiểu mẫu, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ những vấn
đề quan trọng để xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, về phát triển kinh tế, văn
hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng.
Nhìn một cách tổng thể theo tư tưởng Hồ Chí Minh, để xây dựng Thanh Hóa thành
tỉnh kiểu mẫu, thì vấn đề căn bản nhất là xây dựng con người kiểu mẫu: xây dựng,
đào tạo và bố trí đội ngũ cán bộ có Đức, Tài - những cán bộ kiểu mẫu và xây dựng
được những công dân mới kiểu mẫu có năng lực, có trách nhiệm để xây dựng và
làm chủ quê hương, đất nước. Vì vậy mà ngay trong buổi làm việc với cán bộ
Thanh Hóa ngày 20/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ngay vấn đề vai trò của
cán bộ một cách rất cụ thể, rõ ràng. Người chỉ rõ 5 đức tính quan trọng cần phải có
ở người cán bộ, trước hết phải có nhân cách, đối với mình phải có ý chí vươn lên
7



nhưng “đừng tự mãn, tự túc”; Phải tìm học hỏi cầu tiến bộ. Đừng kiêu ngạo, học
lấy điều hay của người ta. Phải siêng năng tiết kiệm. Người chỉ cho cán bộ phương
pháp làm việc phải nghĩ cho kỹ, phải nhìn toàn diện trong từng việc, xem tác động
trước sau, xung quanh thế nào, phải có kế hoạch, luôn luôn xem xét việc làm của
mình “thành công thì thế nào”, “nếu thất bại thì thế nào”, phải cẩn thận, nhưng cẩn
thận không phải là do dự, nhút nhát. Người dạy cán bộ phải đi sát dân để hiểu
nguyện vọng của dân, sự cực khổ của dân, hiểu tâm lý của dân, học sáng kiến của
dân. Khi dân chưa hiểu thì phải giải thích cho dân rõ, phải tôn kính dân, phải làm
cho dân tin, phải làm gương cho dân. Người chỉ rõ, muốn cho dân phục phải được
dân tin, muốn cho dân tin phải thanh khiết, tức là có đạo đức trong sạch. Người cán
bộ phải có kỷ luật và tuyệt đối trung thành, phải hết sức làm việc, có đức hy sinh và
giữ gìn thanh danh của Đảng.
Đối với nhân dân, Người đề nghị đồng bào “xóa mù chữ”, “học đạo đức công dân,
phổ thông chính trị” để mọi người tự ý thức được vai trò làm chủ của mình và thể
hiện bằng việc làm; muốn xây dựng thắng lợi CNXH thì nhân dân ta phải nâng cao
tinh thần làm chủ. Mọi người phải làm tròn nhiệm vụ của người làm chủ. Người
yêu cầu “đồng bào hãy phê bình, giúp đỡ” và “giám sát công việc của Chính phủ”.
Người khuyên đồng bào tổ chức lại sản xuất, sản xuất đi đôi với tiết kiệm để “đủ
trở nên giàu, giàu thì giàu thêm”.
Theo Giáo sư, Tiến sĩ Triết học Hoàng Chí Bảo, cần phải đặt những lời dạy
của Người mong muốn Thanh Hóa trở thành một tỉnh kiểu mẫu trong hệ thống các
tác phẩm nói và viết của Người trong thời kỳ này “để thấy rõ chủ kiến và hành
động của Người ở một thời kỳ lịch sử đặc biệt, thấy rõ giá trị và ý nghĩa tư tưởng
Hồ Chí Minh, đó là tư tưởng của đổi mới, của phát triển. Nó vượt khỏi khuôn khổ,
phạm vi của Thanh Hóa để mang tầm cả nước, trở thành đường lối, chủ trương,
chính sách ở tầm chiến lược, thấm nhuần sâu sắc quan điểm thực tiễn, quan điểm
phát triển của Người” (Tài liệu hội thảo khoa học 65 năm Thanh Hóa làm theo lời
Bác Hồ dạy, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thanh Hóa – Trường Chính trị tỉnh chủ trì,
năm 2012, trang 9).
Vâng lời Bác, Thanh Hóa đã đóng góp xuất sắc nhân tài, vật lực trong cuộc kháng

chiến chống Pháp, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Sau thắng lợi
cuộc kháng chiến chống Pháp, cả nước bước sang giai đoạn cách mạng mới, Đảng
bộ và nhân dân các dân tộc trong tỉnh tiếp tục ra sức thi đua, phấn đấu hoàn thành
tốt nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng hậu phương lớn vững mạnh, đánh thắng chiến
tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc, chi viện tối đa sức
người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam, góp phần vào đại thắng mùa xuân
năm 1975, thống nhất đất nước.
Việc xây dựng tỉnh kiểu mẫu là sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trước hết
Người trao cho Thanh Hóa vinh dự đó. Cho đến hôm nay, những bài nói, bài viết,
lời dạy của Bác đối với Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa mãi mãi là di sản vô cùng
8


quý giá, là nguồn cổ vũ, động viên cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, là
động lực tinh thần giúp Thanh Hóa tiếp tục vươn lên xây dựng Thanh Hóa trở nên
tỉnh “kiểu mẫu” như lời dạy của Người.
* Trong 2 cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ xâm
lược (1945 - 1975), Thanh Hóa là hậu phương lớn trực tiếp chiến đấu, chi viện
sức người, sức của cho các chiến trường.
- Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Thanh Hóa là tỉnh
đất rộng, người đông, cùng với 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hợp thành hậu phương
Thanh – Nghệ - Tĩnh, trong đó Thanh Hóa là tỉnh địa đầu của miền Trung, là hậu
phương trực tiếp của chiến trường Liên khu III, Bắc Bộ và Tây Bắc.
Mùa hè năm 1953, cuộc kháng chiến của nhân dân ta bước sang năm thứ 8. Cục
diện chiến trường Việt Nam đã có những biến đổi quan trọng. Tại chiến trường Bắc
Bộ, Tây Bắc, quân và dân ta mở nhiều chiến dịch lớn. Mọi nhu cầu bảo đảm cho cuộc
kháng chiến đòi hỏi rất lớn ở hậu phương.
Những tháng cuối năm 1953, hậu phương Thanh Hóa vừa phải ra sức đẩy mạnh
mọi mặt công tác xây dựng và bảo vệ hậu phương, vừa tích cực động viên sức người,
sức của cho tiền tuyến đánh thắng. Chiến dịch nối tiếp chiến dịch, từ năm 1951-1953,

quân và dân Thanh Hóa liên tiếp bổ sung lực lượng, phục vụ 5 chiến dịch lớn: Trung
Du, Quang Trung, Hòa Bình, Tây Bắc và Thượng Lào. Đặc biệt chiến dịch Thượng
Lào tháng 5-1953, Thanh Hóa bảo đảm tới 76% nhu cầu của cả chiến dịch.
Thực hiện nhiệm vụ quân sự Đông Xuân 1953 - 1954, ngày 6-12-1953, Bộ
Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị:
“Chiến dịch này là chiến dịch rất quan trọng không những về quân sự mà cả về chính
trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì vậy, toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân phải tập trung hoàn thành cho kỳ được” (Chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi cho đồng chí Võ Nguyên Giáp tháng 12 -1953).
Quyết tâm chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiêu diệt toàn bộ quân
địch ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã trở thành ý chí, hành động cụ thể của quân
và dân ta.
Thực hiện kế hoạch của Bộ Chính trị, các binh đoàn chủ lực của ta lần lượt rời
hậu phương Thanh Hóa để dồn sức cho chiến dịch. Các Đại đoàn 304, 320, 316 và một
số trung đoàn của bộ đang đứng chân tác chiến bảo vệ Thanh Hóa và vùng tự do Liên
khu III lần lượt hành quân lên Tây Bắc, sang Lào chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên
Phủ. Bảo vệ Thanh Hóa lúc này do lực lượng vũ trang trong tỉnh đảm nhiệm.
9


Từ trung tuần năm 1953 đến đầu năm 1954, khi biết quân và dân ta đang chuẩn
bị mở các chiến dịch lớn tại Lai Châu, Tây Bắc, Thượng Lào và đang ráo riết tập trung
cho chiến dịch Điện Biên Phủ, thực dân Pháp vừa tăng cường đối phó với ta ở chiến
trường Tây Bắc, vừa cho máy bay, tàu chiến bắn phá, càn quét dữ dội vào Thanh Hóa
nhằm buộc ta chi phối lực lượng và chia cắt hậu phương Thanh – Nghệ - Tĩnh với
chiến trường chính Tây Bắc và Lào. Ngày 15 và 16-10-1953, Na-va mở cuộc hành
binh Hải Âu đánh ra Tây Nam Ninh Bình và cuộc hành binh “con bồ nông” đánh vào
vùng biển Thanh Hóa. 6 tháng cuối năm 1953 và những tháng đầu năm 1954, thực dân
Pháp cho quân đổ bộ, càn quét hơn 10 lần vào các huyện Nga Sơn, Hà Trung, Hoằng
Hóa, Quảng Xương và Tĩnh Gia. Trận càn ít nhất là 100 tên, nhiều nhất là hơn 3.000

tên.

Hình ảnh đoàn xe đạp thồ tiếp viện chiến dịch Điện Biên Phủ

Để phân tán lực lượng của địch hỗ trợ cho chiến dịch Điện Biên Phủ, thực hiện
chia lửa với chiến trường Bắc Bộ, Tây Bắc, quân, dân Thanh Hóa tổ chức những trận
tập kích vào các đồn bốt ở Chính Đại, Mai An Tiêm, Vân Hải thuộc các xã phía bắc
huyện Nga Sơn để kìm chân địch không để chúng ra ứng cứu cho chiến trường Bắc Bộ
và Tây Bắc. Tại các huyện Hà Trung, Quảng Xương, Tĩnh Gia, các đại đội bộ đội địa
phương đã cùng dân quân du kích tổ chức lực lượng chống càn quét bảo vệ địa
phương.
Đầu tháng 12-1953, công cuộc chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ được
tiến hành ráo riết. Lực lượng vũ trang Thanh Hóa một mặt phải tổ chức chiến đấu bảo
vệ địa phương, mặt khác phải tích cực chi viện cho chiến trường thực hiện khẩu hiệu
“Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”. Công tác tuyển quân không chỉ một năm
10


1 đợt, 2 đợt mà có năm lên tới 3, 4 đợt, lúc nào tiền tuyến cần, lúc đó có hậu phương
chi viện. Năm 1953 và 6 tháng đầu năm 1954, Thanh Hóa có 18.890 thanh niên nhập
ngũ, bằng quân số nhập ngũ 7 năm về trước (1946-1953).
Ngày 6/12/1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng thông qua quyết tâm mở chiến
dịch Điện Biên Phủ và cũng bắt đầu huy động lực lượng dồn sức cho Điện Biên Phủ.
Đáp ứng cho chiến dịch, Thanh Hóa đã nhanh chóng củng cố nâng cao chất lượng lực
lượng vũ trang, nhất là lực lượng bộ đội địa phương để kịp thời chi viện cho chiến
trường Điện Biên Phủ. Đảng bộ và nhân dân Thanh Hóa đã bổ sung nhiều đơn vị ra
chiến trường như Tiểu đoàn 275 bộ đội địa phương tỉnh cho Trung đoàn 53, các Đại
đội 150, 160 cho Tiểu đoàn 541 phòng không, 2 trung đội trinh sát cho Đại đoàn 304.
Ngoài ra Thanh Hóa còn điều động hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ của Đại đội 128 bộ đội
huyện Bá Thước, 112 bộ đội huyện Tĩnh Gia, các đơn vị của Hoằng Hóa, Hà Trung,

Quảng Xương, Thạch Thành cho các đơn vị tham gia chiến đấu tại Điện Biên Phủ.
Ngày 13/3/1954, bộ đội ta bắt đầu nổ súng tiêu diệt cứ điểm Him Lam và Độc
Lập, mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ.
Phối hợp với chiến trường chính Điện Biên Phủ, tại Nga Sơn, quân và dân
Thanh Hóa ra sức đẩy mạnh tiến công quân sự để kìm chân địch, tiêu diệt nhiều sinh
lực địch. Mặt khác các tổ dân vận, địch vận vẫn tăng cường tuyên truyền hoạt động
khuyếch trương chiến thắng của ta trên chiến trường Điện Biên, làm lung lay tinh thần
và làm tan rã hàng ngũ địch.
Chiến dịch Điện Biên Phủ thắng lợi, tin chiến thắng nhanh chóng đến với quân
và dân Thanh Hóa, lực lượng vũ trang tỉnh tích cực khuyếch trương chiến thắng, các tổ
dân vận, địch vận đẩy mạnh công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước ta nói rõ âm mưu thủ đoạn của địch, kêu gọi binh lính địch đóng
tại các đồn Điền Hộ, Mai An Tiêm hạ vũ khí đầu hàng. Đồng thời, các đại đội bộ đội
địa phương tổ chức các đợt tấn công truy quét, buộc địch phải đầu hàng.
Thất bại trên chiến trường chính Điện Biên Phủ, buộc địch phải rút khỏi Nga
Sơn, bị tiêu diệt nặng trong các trận càn quét vào bờ biển phía nam Thanh Hóa, âm
mưu phá hậu phương Thanh Hóa bị thất bại hoàn toàn. Ngày 7/8/1954, thực dân Pháp
phải rút khỏi đảo Hòn Mê, chấm dứt sự có mặt của quân Pháp ở Thanh Hóa.
Sau 55 ngày đêm chiến đấu anh dũng, chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng,
quân và dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu một số lượng lớn sinh lực địch và phương
tiện chiến tranh, giải phóng vùng đất đai có ý nghĩa chiến lược.
Chiến thắng Điện Biên Phủ giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của
thực dân Pháp, xoay chuyển cục diện chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho đấu tranh
ngoại giao của ta đi tới kết thúc cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống
11


thực dân Pháp và can thiệp Mỹ. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã trở thành niềm tự hào
của dân tộc Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là nguồn cổ vũ, động viên quân và dân Thanh Hóa

chiến đấu bảo vệ địa phương, dồn sức chi viện cho chiến trường. Trong chiến dịch,
Thanh Hóa đã thể hiện rõ vai trò hậu phương chiến lược quan trọng của Điện Biên
Phủ. Lực lượng vũ trang Thanh Hóa đã bổ sung 1 tiểu đoàn, 2 đại đội, 2 trung đội và
hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến đấu. Tinh thần xả thân chiến đấu
ngoan cường của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang Thanh Hóa trên mặt trận là biểu
tượng tốt đẹp rực sáng chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Kết thúc cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp xâm lược, Thanh Hóa có 5 đồng chí được Đảng và Nhà nước
tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân đó là: Anh hùng liệt sĩ
Trần Đức, xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia; anh hùng liệt sĩ Lê Công Khai, xã Hoằng Phú,
huyện Hoằng Hóa; anh hùng liệt sĩ Trương Công Man, xã Cẩm Phong, huyện Cẩm
Thủy; anh hùng Lò Văn Bường, xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân; tiêu biểu là anh
hùng liệt sĩ Tô Vĩnh Diện, Tiểu đội trưởng Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn
pháo cao xạ 367, quê xã Nông Trường, huyện Nông Cống đã lấy thân mình cứu pháo
không để rơi xuống vực thẳm. Âm vang Điện Biên Phủ đã lan tỏa trên các mạch sống
của nhân dân Thanh Hóa nói chung và lực lượng vũ trang Thanh Hóa nói riêng. Chiến
thắng Điện Biên Phủ tạo nên nguồn lực tiếp sức cho lực lượng vũ trang Thanh Hóa
cùng quân và dân cả nước tiếp tục chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược, vững bước đi
lên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
Quân và dân Thanh Hóa mãi mãi xứng đáng với lời biểu dương khen ngợi của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, khi Người về thăm năm 1957: “Bây giờ tiếng Việt Nam đến đâu,
tiếng Điện Biên Phủ đến đó. Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng
có một phần vinh dự đến đó”.

- Đại thắng mùa Xuân 1975 là những “mốc son bằng vàng” tạc vào lịch sử
dân tộc trong thế kỷ XX. 42 mùa xuân đã đi qua nhưng âm hưởng hào hùng của
một thời đánh Mỹ, thắng Mỹ lật nhào chế độ ngụy quyền Sài Gòn để Nam - Bắc
trọn niềm vui thống nhất vẫn mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam nói chung
và Thanh Hóa nói riêng. Truyền thống đó tiếp tục được khơi dậy trong thời kỳ xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn.

Thanh Hóa hậu phương lớn của miền Nam ruột thịt
Cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, hòa bình được lập lại ở miền Bắc.
Nhưng nhân dân miền Nam vẫn phải sống trong ách thống trị bạo tàn của bè lũ Mỹ
ngụy. Thực hiện chủ trương, đường lối của Trung ương Đảng nhân dân cả nước
cùng lúc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng là xây dựng CNXH ở miền
Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Cùng với nhân dân
12


miền Bắc, Thanh Hóa nhanh chóng thực hiện công cuộc hàn gắn hậu quả tàn phá
của chiến tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, ổn định đời sống nhân dân. Từ
vũng bùn nô lệ cam chịu cảnh đói nghèo, cùng khổ nay được bước lên địa vị làm
chủ xã hội đại đa số người dân đều phấn khởi, lạc quan trước thành quả mà cách
mạng đem lại.
Chính quyền cách mạng đẩy mạnh phong trào
diệt giặc đói, giặc dốt ở khắp mọi vùng miền trong
tỉnh và được nhân dân tích cực hưởng ứng, tự giác
thực hiện. Chủ trương cải cách ruộng đất, cải tạo công
thương nghiệp, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp đã đem lại ruộng đất cho dân cày, tư
liệu sản xuất cho thợ thủ công, đem đến diện mạo mới
trong đời sống người dân. Điều đó tạo nên khí thế thi
đua học tập, lao động sản xuất diễn ra sôi nổi ở khắp
mọi lĩnh vực đời sống xã hội từ đồng bằng đến miền
núi, từ nông thôn tới đô thị. Trong gần 10 năm cải tạo
và xây dựng cơ sở vật chất ban đầu cho CNXH, nhờ
sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, chính quyền, sự nỗ lực phấn đấu của mọi tầng
lớp nhân dân trên địa bàn nên KT-XH phát triển, tiềm lực QP-AN của tỉnh được
tăng cường đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước. Tỉnh đã dồn sức xây
dựng nhiều cơ sở công trình thiết yếu phục vụ đời sống, đồng thời chú trọng áp

dụng tiến bộ của công nghiệp vào sản xuất nông nghiệp nên năng suất lao động
được nâng cao, đời sống nhân dân được cải thiện. Phong trào thi đua xây dựng các
mô hình, điển hình tiên tiến ở tất cả các ngành, các cấp được đẩy mạnh. Các điển
hình tiên tiến trong nông nghiệp như Đông Phương Hồng, Yên Trường, trong công
nghiệp như cơ khí Thành Công, trong giáo dục như Hải Nhân... được nhân rộng
trên toàn miền Bắc.
Thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất Thanh Hóa đã đạt được một số thành
tựu quan trọng trong phát triển KT-XH với nhiều cơ sở vật chất, công trình được
đầu tư xây dựng. Khi thất bại trong áp dụng “chiến tranh đặc biệt” và “cục bộ” ở
miền Nam, giặc Mỹ đã điên cuồng thực hiện chiến tranh phá hoại bằng không quân
và hải quân ra miền Bắc. Với địa thế là cầu nối giữa Bắc Bộ và Trung Bộ, Thanh
Hóa trở thành khu vực “cán xoong”, là huyết mạch giao thông quan trọng của miền
Bắc. Sẵn sàng ứng phó với giặc Mỹ, Thanh Hóa đã nhanh chóng chuyển hướng
hoạt động từ thời bình sang thời chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi của Bác: “Mỗi người
làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, hàng chục phong trào thi đua đã được
phát động liên tục ở tất cả các cấp, các ngành. Đó là các phong trào “Thanh niên ba
sẵn sàng”, “Phụ nữ ba đảm đang”, “Tiếng hát át tiếng bom”... đã lan tỏa khắp các
vùng miền tạo nên khí thế hừng hực, hào hùng trong xưởng máy, công trường,
đồng ruộng, trường học, trận địa. Mặc cho bom đạn giặc ngày đêm tàn phá, người
13


dân vẫn chắc tay cày, vững tay súng để tạo nên những cánh đồng “5 tấn thắng Mỹ”.
Các em thơ vẫn đội mũ rơm đến trường để học tập. Các nhà máy, xí nghiệp vẫn duy
trì sản xuất cung cấp những đồ dùng thiết yếu cho sản xuất, sinh hoạt của người
dân. Trong những năm chống Mỹ, cứu nước, toàn tỉnh đã có hàng ngàn các gia đình
cả ba thế hệ ông bà, cha mẹ, con cháu cùng chung một chiến hào diệt giặc, hàng
vạn gia đình có từ 3 đến 5 con cùng tòng quân nhập ngũ. Toàn tỉnh có 250 ngàn
thanh niên ưu tú và hàng vạn cán bộ, Đảng viên, nam nữ tham gia bộ đội và thanh
niên xung phong. Tỉnh cũng xây dựng và huấn luyện 78 tiểu đoàn bộ đội bổ sung

cho các chiến trường. Không chỉ làm tròn nhiệm vụ là hậu phương lớn của miền
Nam ruột thịt, Thanh Hóa còn thực hiện tốt nghĩa vụ quốc tế giúp nước bạn Lào và
Campuchia trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, quốc phòng, góp phần củng cố thắt
chặt mối quan hệ đoàn kết, hữu nghị.
Những thành tích to lớn trong chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ
Khi giặc Mỹ leo thang đánh
phá miền Bắc bằng không quân và
hải quân thì Thanh Hóa trở thành
địa bàn chiến lược trọng yếu,
“chiếc giáp sắt” bảo vệ thủ đô Hà
Nội, kho dự trữ chiến lược, chiếc
cầu nối giữa miền Bắc với miền
Nam... Các đầu mối giao thông
thủy, bộ, đường sắt như Đò Lèn,
Hàm Rồng, Phà Ghép... nếu ách tắc
sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng sự chi
viện cho chiến trường miền Nam và cách mạng Lào.

Anh hùng Ngô

Thị Tuyển - Ảnh chụp lại

Trong cuộc chống chiến tranh phá hoại thì giao
thông vận tải là mặt trận nóng bỏng và ác liệt nhất.
Giặc Mỹ đã chọn hơn 60 mục tiêu đánh phá hòng làm
tê liệt hoạt động giao thông của ta. Với quyết tâm cao
độ đánh địch mà tiến, mở đường mà đi, địch cứ đánh
ta cứ đi, tất cả vì miền Nam ruột thịt chúng ta đã đảm
bảo mạch máu giao thông luôn thông suốt trong bất
kỳ hoàn cảnh nào. Tỉnh ta đã chủ động sáng tạo lập 4

đường ra, 3 đường vào, mở nhiều điểm vượt sông,
nhiều đường tránh rẽ, làm cầu phao luồng, làm cầu
phao liên hợp... huy động được sức mạnh tổng hợp
của mọi lực lượng để những đoàn xe, đoàn thuyền
nan vẫn nối đuôi nhau chở hàng hóa, vũ khí phục vụ
chiến trường.
14


- Với vị trí địa lý, tiềm năng kinh tế và nguồn nhân lực dồi dào, Thanh Hóa
luôn là địa bàn chiến lược quan trọng về QP- AN của Quân khu 4 cũng như cả nước.

15


Câu hỏi 3: Anh (chị) nêu những chiến công tiêu biểu và đóng góp to lớn
của quân và dân tỉnh Thanh Hóa trong 2 cuộc kháng chiến chống Thực dân
Pháp và Đế quốc Mỹ?
1. Kháng chiến chống thực dân Pháp
1.1. Những chiến công tiêu biểu
- Trận tập kích đồn Poọng Nưa của Tiểu đoàn bộ binh 337 (Hồi Xuân) Thanh
Hóa, đêm ngày 08 tháng 06 năm 1948.
- Trận tập kích đồn Cổ Lũng (Bá Thước) của Tiểu đoàn bộ binh 355, Trung
đoàn 77 vào đêm 24, rạng sáng ngày 25 tháng 07 năm 1949.
- Trận đánh biệt kích của dân quân du kích xã Hoàng Yến và Đại đội 135 bộ
đội địa phương huyện Hoằng Hóa, ngày 07/0/1952.
- Trận chống càn Lương Trung xã Quảng Tiến của Đại đội 98 bộ đội địa
phương huyện Quảng Xương, ngày 23/02/1953.
- Trận chống càn Liên Sơn của Đại đội 10 bộ đội địa phương huyện Nga
Sơn, ngày 11/3/1953.

- Trận chống càn của quân và dân huyện Nga Sơn, từ ngày 26 đến ngày
28/3/1953.
- Trận chống càn khu vực Bỉm Sơn (Hà Trung) của Đại đội 57 bộ đội địa
phương tỉnh Thanh Hóa, từ ngày 25 đến ngày 27/10/1953.
1.2 Những đóng góp to lớn
a) Những thành tích trong xây dựng và bảo vệ địa phương.
* Xây dựng lực lượng vũ trang.
- Xây dựng lực lượng dân quân với quân số 227.248 người, Du kích 32.126
người, trong đó (Lão dân quân: 15.000 cụ, Nữ dân quân: 14.227 chị,Thiếu niên
quân 9.788 em).
- Xây dựng bộ đội địa phương: 3 Tiểu đoàn, 40 Đại đội, 6 Trung đội.
- Tổ chức và duy trì 1 xưởng (Phạm Huy Thuần) sản xuất súng kíp; 01 xưởng
(Thọ Long) sản xuất dao, kiếm, lừu đạn; (2 xưởng) đúc vỏ moóc- chi-ê, mìn, lựu
đan.
* Tăng gia, sản xuất của LLVT.
+ Dân quân.
- Cày cấy: 12.795 mẫu, thu hoạch 3.783 tạ và 15.675 đồng.
- Chăn nuôi: 3.142 con gà, lợn, nuôi 60 ao cá.
- Tự sắm vũ khí: 3.097.953 đồng.
16


+ Bộ đội địa phương.
- Cấy lúa: 312 mẫu.
- Lao động giúp dân sản xuất: 242.636 công.
* Chiến đấu bảo vệ địa phương.
- Đánh 1456 trận lớn, nhỏ, tiêu diệt và sát thương 3.391 tên, bắt sống và gọi
hàng 2.326 tên.
- Thu 1416 khẩu súng các loại và hàng chục tấn quân trang, quân dụng khác.
b) Phục vụ tiền tuyến.

- Tuyển mộ, bổ sung xây dựng bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương: Thanh niên
tòng quân 56.792 người; Thanh niên xung phong: 6.321 người; Bộ đội địa phương
bổ sung chủ lực: 2 tiểu đoàn, 34 đại đội, 6 trung đội; Du kích bổ sung chủ lực: 500
người. Riêng năm 1953 và 6 tháng đầu năm 1954 đã bổ sung 18890 người, bằng
quân số 7 năm (từ 1946 – 1952).
- Dân công tiếp vận, dân công cầu đường, phương tiện huy động phục vụ các
chiến dịch thời kỳ cuối của cuộc kháng chiến với tổng số ngày công phục vụ
34.177.233 ngày; Riêng dân công làm cầu đường: 11.000.000 ngày công. Chiến
dịch Thượng Lào huy động cao nhất so với kháng chiến 300.000 người, bằng 27%
số cử tri. Chiến dịch Điện Biên Phủ huy động nhiều phương tiện nhất (Xe đạp thồ
11.000 chiếc, thuyền các loại: 1.300 chiếc, ngựa thồ: 42 con, Ô tô: 31 xe).
- Cung cấp lương thực, thực phẩm và tiền của phục vụ kháng chiến: Gạo đồng
tâm (năm 1946, 1947) bằng 1076 tấn; lúa hóa giá (1948) bằng 4061 tấn; ủng hộ dân
quân sắm vũ khí 3.960.000 tấn; lúa khao quân (năm 1949) bằng 7936 tấn; cấp
dưỡng bộ đội địa phương (năm 1949) là 400 mẫu ruộng, 1096 tấn thóc và
1.000.000 đồng. Công phiếu kháng chiến 1950 là 42.662.120 đồng; Công trái Quốc
gia 1951 là1.334.914.200 đồng.
2. Chống Mỹ cứu nước :
2.1. Những chiến công tiêu biểu
- Trận đánh máy bay Mỹ phá hoại của quân và dân Lạch Trường ngày
05/8/1964.
- Trận đánh máy bay Mỹ phá hoại của quân và dân khu vực Hàm Rồng, ngày
03/4/1965.
- Trận phối hợp đánh máy bay Mỹ phá hoại của tàu hải quân và dân quân tự vệ
Nam Ngạn, Thị xã Thanh Hóa ngày 26/5/1965.
- Trận đánh máy bay Mỹ ban đêm của bộ đội Đảo Mê ngày 16/10/1965.
- Trận đánh máy bay Mỹ phá hoại của dân quân xã Phú Lệ huyện Quan Hóa,
ngày 14/5/1967.
17



- Trận đánh máy bay Mỹ phá hoại của Trung đội dân quân gái Hoa Lộc huyện
Hậu Lộc, ngày 16/6/1967.
- Trận đánh máy bay Mỹ phá hoại của Trung đội Lão dân quân xã Hoằng
Trường, huyện Hoằng Hóa ngày 14/10/1967.
2.2. Những đóng góp to lớn
a) Đóng góp trong chiến đấu và phục vụ chiến đấu:
* Trong chiến đấu:
- Trên không: đánh 9.983 trận, tiêu thụ 988.970 viên đạn các loại, bắn rơi 376
máy bay (có 3 chiếc B52), trong đó dân quân tự vệ bắn rơi 40 chiếc, bộ đội địa
phương bắn rơi 41 chiếc. Bắt sống 36 giặc lái.
- Trên biển: đánh 175 trận, tiêu thụ 8.897 viên đạn. Bắn chìm, bắn cháy 57 tầu
biệt kích và khu trục hạm (5 tầu biệt kích Ngụy, 52 tầu khu trục hạm). Lực lượng
vũ trang bắn chìm, bắn cháy 12 chiếc. Bắt sống 3 biệt kích người nhái tại khu vực
Nghi Sơn và Hà Nẫm (Hải Thượng, Tĩnh Gia).
* Phục vụ chiến đấu:
- Toàn tỉnh lúc cao nhất (1967) có 1.544 tổ báo động phòng không nhân dân.
Thấp nhất (1968) có 112 tổ báo động phòng không nhân dân.
- Hầm cá nhân lúc cao nhất (1967) có 1.309.845 cái, lúc thấp nhất (1968) có
155.887 cái. Đào gần 5.000 km đường giao thông hào. Có 3.500 đội cấp cứu, trên 2
vạn túi thuốc.
* Đặc biệt là trong chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ :
Quân và dân Thanh Hóa chiến đấu bảo vệ địa phương, dồn sức chi viện cho
chiến trường. Trong chiến dịch, Thanh Hóa đã thể hiện rõ vai trò hậu phương chiến
lược quan trọng của Điện Biên Phủ. Lực lượng vũ trang Thanh Hóa đã bổ sung 1
tiểu đoàn, 2 đại đội, 2 trung đội và hàng ngàn cán bộ, chiến sĩ trực tiếp tham gia
chiến đấu. Tinh thần xả thân chiến đấu ngoan cường của cán bộ, chiến sĩ lực lượng
vũ trang Thanh Hóa trên mặt trận là biểu tượng tốt đẹp rực sáng chủ nghĩa anh
hùng cách mạng. Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Thanh
Hóa có 5 đồng chí được Đảng và Nhà nước tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực

lượng vũ trang nhân dân đó là: Anh hùng liệt sĩ Trần Đức, xã Hải Yến, huyện Tĩnh
Gia; anh hùng liệt sĩ Lê Công Khai, xã Hoằng Phú, huyện Hoằng Hóa; anh hùng
liệt sĩ Trương Công Man, xã Cẩm Phong, huyện Cẩm Thủy; anh hùng Lò Văn
Bường, xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân; tiêu biểu là anh hùng liệt sĩ Tô Vĩnh
Diện, Tiểu đội trưởng Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn pháo cao xạ 367,
quê xã Nông Trường, huyện Nông Cống đã lấy thân mình cứu pháo không để rơi
xuống vực thẳm. Âm vang Điện Biên Phủ đã lan tỏa trên các mạch sống của nhân
18


dân Thanh Hóa nói chung và lực lượng vũ trang Thanh Hóa nói riêng. Chiến thắng
Điện Biên Phủ tạo nên nguồn lực tiếp sức cho lực lượng vũ trang Thanh Hóa cùng
quân và dân cả nước tiếp tục chiến thắng đế quốc Mỹ xâm lược, vững bước đi lên
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay.
b) Đóng góp trong tuyển quân chi viện chiến trường.
* Tuyển quân: Từ năm 1955 – 1975 tuyển được 227.082 thanh niên nhập ngũ
vào quân đôi.
* Chi viện chiến trường: Trung đoàn 14 huấn luyện quân tăng cường (từ
tháng 4/1970 – 1975), đã huấn luyện và giao cho các chiến trường 78 tiểu đoàn, (có
4 tiểu đoàn nữ). Năm 1972 là năm giao cao nhất bằng 17 tiểu đoàn.
c) Đóng góp trong xây dựng lực lượng vũ trang địa phương.
* Xây dựng bộ đội địa phương:
- Năm thấp nhất (1964) có 2 đại đội bộ binh và 2 đại đội cao xã hỗn hợp 37 ly
và 14,5 ly.
- Năm cao nhất (1972) có 4 tiểu đoàn cao xạ, 2 tiểu đoàn bộ binh, 1tiểu đoàn
công binh dự nhiệm, 1 cụm (tương đương trung đoàn), 2 tiểu đoàn hỗn hợp phòng
thủ khu vực và hải đảo (chủ yếu là pháo binh) tương đương 12 đại đội pháo binh.
Một trung đoàn huấn luyện quân tăng cường (quân số thời kỳ ít có 3 tiểu đoàn, cao
nhất có 11 tiểu đoàn).
* Xây dựng lực lượng dân quân tự vệ:

- Năm cao nhất (1967) có 220.848 dân quân tự vệ (nữ có 64.400 chị, chiếm
11,3%).
- Năm thấp nhất (1974) có 166.744 dân quân tự vệ (nữ 67.415 chị).
- Có 3.064 dân quân tự vệ tham gia chiến đấu sử dụng súng cao xạ 12,7 ly và
14,5 ly (nữ 588 chị, lão quân 39 cụ).
- Tay cày tay súng, có 3.355 người biết sử dụng súng trường, trung liên đến
pháo cao xạ 37, 57 và 100ly để chiến đấu với máy bay Mỹ.
- Có 4 đại đội súng 12,7 ly chi viện cho chiến trường Trị Thiên.
- Có 647 tổ (2.345 người) làm nhiệm vụ công binh giao thông và khắc phục
bom đạn địch.
- Có 1.311 tổ (3.806 người) quân báo nhân dân.
- Có 1.410 tổ (3601 người) thông tin liên lạc.
- Có 3.129 dân quân tự vệ được huấn luyện bổ sung pháo cao xạ.
- Có 543 dân quân tự vệ được huấn luyền bổ sung pháo mặt đất.
d) Những thành tích khen thưởng:
19


Lực lượng vũ trang Thanh Hóa và 156 tập thể, 79 cá nhân đã vinh dự được
Đảng và Nhà nước phong tặng và truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, ngày 7/1/2013, lực lượng vũ trang Thanh Hóa đã được Đảng và Nhà nước
phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng vũ trang nhân dân trong thời kỳ đổi mới.
Câu hỏi 4: Anh (chị) cho biết những đóng góp nổi bật của Bộ CHQS tỉnh
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc từ năm 1976 đến nay?
Trả lời:
- Sau năm 1975, Lực lượng vũ trang và con em Thanh Hóa lại tiếp tục lên
đường chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam và giúp nhân dân Campuchia khỏi họa
diệt chủng của Khơ-me đỏ; chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc và làm nhiệm vụ

quốc tế với nước bạn Lào.
- Sau hơn 30 năm đổi mới (1986 - 2017), Lực lượng vũ trang Thanh Hóa
tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang, thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự quốc phòng
- an ninh, xây dựng lực lượng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nêu
cao tinh thần cảnh giác và sẵn sàng chiến đấu cao; thực sự trở thành lực lượng nòng
cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, góp
phần ngăn chặn và đấu tranh làm thất bại âm mưu chiến lược "diễn biến hòa
bình" của các thế lực thù địch, giữ vững an ninh chính trị, an ninh biên giới, trật tự
an toàn xã hội.
- Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc những năm qua, lực lượng vũ
trang Thanh Hóa tiếp tục hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, lập nhiều chiến công
mới. Đảng ủy và Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh đã làm tốt công tác tham mưu cho Tỉnh
ủy, HĐND, UBND tỉnh xây dựng quốc phòng toàn dân; gắn quốc phòng với xây
dựng kinh tế, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc trên địa bàn.
Với những thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc, ngày 7/1/2013, lực lượng vũ trang Thanh Hóa đã được Đảng và Nhà nước
phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng vũ trang nhân dân trong thời kỳ đổi mới.
Câu hỏi 5: Anh (chị) hãy giới thiệu về 01 tập thể hoặc cá nhân tiêu biểu
trong xây dựng, gìn giữ và phát huy những giá trị truyền thống của LLVT tỉnh
(có thể đã được ghi nhận hoặc phát hiện mới)?
Trả lời :
Giới thiệu về : Ban Chỉ huy Quân sự Xã .................
20


Những năm qua, Ban Chỉ huy Quân sự (CHQS) Xã ......... luôn chủ động
tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm chăm sóc chu đáo đối
tượng chính sách, người có công và thực hiện đầy đủ chính sách hậu phương quân
đội, các chế độ đối với quân nhân, đặc biệt là chính sách cho người dân tộc thiểu số
trên địa bàn. Qua đó, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho các đối tượng thụ

hưởng chế độ, chính sách, góp phần xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” vững
chắc.
Với phương châm “nhiệt tình, trách nhiệm, hiệu quả”, thời gian qua, Ban Chỉ
huy Quân sự (CHQS) Xã ........... đã xét duyệt, giải quyết chế độ trợ cấp đối với các
nhóm đối tượng theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ đều bảo đảm chu
đáo, kịp thời, đúng đối tượng, công bằng, dân chủ, không xảy ra khiếu nại, tố cáo.
Trong quá trình thực hiện công tác rà soát, hoàn chỉnh thủ tục, Ban Chỉ huy Quân
sự (CHQS) Xã ..... đã gặp không ít khó khăn, do một số đối tượng không ghi rõ quá
trình công tác, địa bàn hoạt động, mất giấy tờ gốc, bản khai họ tên không khớp với
chứng minh nhân dân, hay có những trường hợp quyết định phục viên, xuất ngũ khi
đối chiếu với danh mục của Bộ Quốc phòng thì không nằm trong danh mục. Như
tổng cả hồ sơ chế độ chính sách là 73, mới nhận được 60 bộ. Với tinh thần trách
nhiệm cao, ban CHQS xã đã làm tốt vai trò tham mưu cho Ban Chỉ huy Quân sự
(CHQS) huyện, BCHQS huyện kiện toàn ban chỉ đạo cũng như hội đồng chính
sách các xã. Đồng thời, triển khai đầy đủ các nội dung theo quyết định, làm tốt
công tác tuyên truyền, hướng dẫn kê khai hồ sơ và tổ chức cấp phát, để các đối
tượng được hưởng trợ cấp của Thủ tướng Chính phủ theo đúng quy định. Trong
năm 2016 và 3 tháng đầu năm 2017, Ban Chỉ huy Quân sự (CHQS) xã .... đã phối
hợp với các ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn xã triển khai thực hiện Quyết định số
62 của Thủ tướng Chính phủ về “Chế độ, chính sách đối với các đối tượng từng
tham gia chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, giúp
nước bạn Lào sau ngày 30-4-1975 đã phục viên, xuất ngũ, thôi việc”. Đến nay toàn
huyện đã chi trả chế độ theo Quyết định số 62 với số tiền trên 550 triệu đồng. Đối
với việc thực hiện Quyết định 49 của Thủ tướng Chính phủ về “Một số chế độ,
chính sách đối với dân công hỏa tuyến tham gia kháng chiến chống Pháp, chống
Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ quốc tế”, huyện đã và đang chỉ
đạo các địa phương, ban, ngành phối hợp rà soát, thẩm định các hồ sơ, bảo đảm
quyền lợi cho người có công.
Cùng với việc giải quyết tốt chế độ, chính sách trên địa bàn, những năm qua,
Ban Chỉ huy Quân sự (CHQS) Xã ........... luôn hoàn thành tốt công tác tuyển chọn

và gọi công dân lên đường nhập ngũ. Năm 2017, thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch
21


UBND tỉnh, huyện, Ban CHQS huyện ............ đã bàn giao 05 nam thanh niên cho
các đơn vị quân đội. Các thanh niên lên đường làm nghĩa vụ quân sự đều ý thức,
trách nhiệm trong bảo vệ Tổ quốc.
Với những việc làm trách nhiệm, nghĩa tình của Ban Chỉ huy Quân sự
(CHQS) Xã .... đã góp phần động viên gia đình chính sách, quân nhân vượt qua khó
khăn, ổn định cuộc sống; thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc,
được nhân dân và đối tượng chính sách trên địa bàn đồng tình, đánh giá cao.
Câu hỏi 6: Trên cương vị công tác và vị trí xã hội của mình, Anh (chị) sẽ
làm gì để góp phần gìn giữ, phát huy những giá trị truyền thống của LLVT tỉnh
Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay? (nội dung không quá 1.500 từ).
Trả lời:
Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế đến năm
2020, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc đang đứng trước những cơ hội nhưng cũng đan xen không ít
nững khó khăn, thách thức. Với trách nhiệm là học sinh đang ngồn trên ghế nhà
trường. Bản thân tôi luôn gìn giữ, phát huy những giá trị truyền thống của LLVT
tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay bằng những việc làm cụ thể sau :
- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của học sinh về nhiệm vụ bảo vệ an ninh
trong thời kỳ mới đó là :
Nhận thức được tính chất, nhiệm vụ, nội dung bảo vệ an ninh địa phương là
thường xuyên, phức tạp, quyết liệt và lâu dài. Từ đó xác định trách nhiệm là một
lực lượng tuyên truyền tích cực cho nhiệm vụ này.
Tích cực học tập nâng cao kiến thức về hiến pháp và pháp luật. Hiểu được
những nội dung cơ bản về bảo vệ an ninh ở địa phương.
Luôn nâng cao cảnh giác, chủ động phòng ngừa, tích cực tham gia phong
trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc.

Thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân trong bảo vệ an ninh của tổ quốc.
- Thực hiện tốt những nội quy bảo vệ an ninh:
Thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch
lành mạnh, tự giác chấp hành pháp luật và quy chế nhà trường, chính quyền, đoàn
thể, góp phần xây dựng phong trào sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
Thực hiện phương châm học sinh với ba không : Không xem, đọc lưu truyền
văn hóa phẩm đồi trụy, phản động.
22


Không a dua bôi nhọ xuyên tạc đường lối chính sách của Đảng, nhà nước,
chế độ và chia rẽ, khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Không truy cập các website chứa những nội dung không lành mạnh, phản
động.
Không tự phát lập hội, CLB, gia báo bản tin, tạp chí và các hình thức khác
trái quy định của pháp luật. Cảnh giác, tích cực phòng ngừa những âm mưu, thủ
đoạn phá hoại cách mạng của các thế lực thù địch.
Đoàn kết tương trợ giúp nhau trong học tập, rèn luyện, hoàn thành tốt nhiệm
vụ trong học tập góp phần xây dựng đoàn Thanh Niên(TN) vững mạnh.
Tích cực tham gia tuyên truyền, hướng dẫn cùng mọi người thực hiện nhiệm
vụ, nội dung bảo vệ an ninh trong tình hình mới.
Nêu cao cảnh giác, chủ động, tích cực tham gia đấu tranh phòng chống tội
phạm góp phần bảo vệ ANTQ.
Luôn nêu cao cảnh giác, phát hiện và báo cáo kịp thời, đầy đủ, chính xác
những thông tin về: Người có dấu hiệu nghi vấn phạm tội; hoạt động tệ nạn xã hội;
chống đối, xuyên tạc chế độ và chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của
Đảng và nhà nước.
Chủ động đề phòng, không để bị kẻ xấu kích động, lôi kéo vào các hoạt động
vi phạm pháp luật, gây dối an ninh trật tự. Tích cực, tự giác tham gia giải quyết các
nhiệm vụ theo yêu cầu của công tác an ninh và giữ gìn trật tự toàn xã hội.

Gần gũi, động viên giúp đỡ, những người lầm lỡ, xa ngả để giúp họ mau
chóng tiến bộ, hòa nhập với cộng đồng. Đồng thời, kiên quyết không bao che
khuyết điểm mà phải cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết cho nhà trường
hoặc gia đình để có biện pháp giải quyết kịp thời, tích cực.
Tích cực hưởng ứng, thực hiện tốt các cuộc vận động do các cấp phát động
như phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, “ Uống nước nhớ
nguồn”, phong trào “ Đền ơn đáp nghĩa”, quyên góp ủng hộ các quỹ từ thiện, đạt
kết quả tốt.
...................., ngày 20 tháng 5 năm 2017

23


24



×