ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ ĐỖ THU TRANG
GÓP VỐN BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT LÀ TÀI SẢN CHUNG THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
VŨ ĐỖ THU TRANG
GÓP VỐN BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT LÀ TÀI SẢN CHUNG THEO PHÁP
LUẬT VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS DOÃN HỒNG NHUNG
Hà Nội – 2017
ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các
kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và tôi xin chịu trách
nhiệm về kết quả nghiên cứu đó.Luận văn này chƣa đƣợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận văn
Vũ Đõ Thu Trang
iii
Mục lục
DANH MỤC VIẾT TẮT .............................................................................................. 3
Mở đầu .......................................................................................................................... 4
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GÓP VỐN BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG
ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT GÓP VỐN BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÀ TÀI
SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG ................................................................................ 9
1.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn về góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài sản
chung của vợ chồng ...................................................................................................... 9
Về cơ sở lý luận ............................................................................................................ 9
Về cơ sở thực tiễn ....................................................................................................... 11
1.2. Khái niệm và đặc điểm của góp vốn bằng quyền sử dụng đất ............................. 13
1.2.1. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng ............................................................. 13
1.2.2. Khái niệm góp vốn bằng quyền sử dụng đất ..................................................... 20
1.3. Ý nghĩa, vai trò của góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của
vợ chồng ...................................................................................................................... 22
1.4. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật về góp
vốn bằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng. ...................................... 23
1.4.1. Sự phát triển của luật Việt Nam về quan hệ tài sản giữa vợ chồng .................. 23
1.4.2. Về chế định góp vốn bằng quyền sử dụng đất ở nƣớc ta giai đoạn trƣớc
khi ban hành Luật Đất đai năm 1993. ......................................................................... 27
1.4.3. Giai đoạn ban hành Luật đất đai năm 1993 đến trƣớc khi ban hành Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai 1998 ................................................... 28
1.4.4. Giai đoạn từ khi ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đất
đai năm 1998 đến trƣớc Luật đất đai năm 2003 ......................................................... 30
1.4.5. Về chế định góp vốn bằng quyền sử dụng đất ở nƣớc ta giai đoạn 2003 2009 ............................................................................................................................. 34
1.4.6. Về chế định góp vốn bằng quyền sử dụng đất ở nƣớc ta giai đoạn 2009 2013 ............................................................................................................................. 35
1.4.7. Về chế định góp vốn bằng quyền sử dụng đất ở nƣớc ta giai đoạn 2013
đến nay ........................................................................................................................ 37
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN BẰNG QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT LÀ TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG .................................... 44
2.1. Căn cứ pháp lý xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng ........ 44
2.2. Điều kiện để vợ chồng sử dụng tài sản chung là quyền sử dụng đất để góp
vốn ............................................................................................................................... 46
2.3. Hợp đồng góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng ........ 52
2.3.1.Thủ tục ............................................................................................................... 52
1
2.3.2. Hợp đồng ........................................................................................................... 53
2.4. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng khi góp vốn bằng quyền sử dụng đất là
tài sản chung................................................................................................................ 55
2.5. Giải quyết tranh chấp liên quan đến góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài
sản chung của vợ chồng .............................................................................................. 59
2.6. Thực tiễn áp dụng pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài sản
chung của vợ chồng .................................................................................................... 67
CHƢƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN BẰNG QUYỀN
SỬ DỤNG ĐẤT LÀ TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG .................................... 75
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất
là tài sản chung của vợ chồng ..................................................................................... 75
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất
là tài sản chung của vợ chồng ..................................................................................... 76
3.2.1. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế độ tài sản của vợ
chồng ........................................................................................................................... 76
3.2.2. Kiến nghị nhằm áp dụng có hiệu quả quy định mới của pháp luật hôn
nhân gia đình và thực tiễn ........................................................................................... 88
3.2.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài
sản chung của vợ chồng .............................................................................................. 91
3.2.4. Hoàn thiện các quy định pháp luật về thủ tục góp vốn bằng quyền sử
dụng đất là tài sản chung của vợ chồng .................................................................... 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 103
2
BLDS
DANH MỤC VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự
HN&GĐ
Hôn nhân và gia đình
QSDĐ
Quyền sử dụng đất
NSDĐ
Ngƣời sử dụng đất
TAND
Toà án nhân dân
3
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Từ lâu, vấn đề về Hôn nhân gia đình luôn chiếm đƣợc sự quan tâm
rất lớn của xã hội. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào
của xã hội mà trong đó kết hợp lợi ích hài hòa của mỗi công dân, Nhà
nƣớc và xã hội.
Trong mỗ i gia điǹ h, bên cạnh đời số ng tình cảm, yêu thƣơng lẫn
nhau, các thành viên không thể không quan tâm đến điều kiện vật chất vì
đó là cơ sở kinh tế giúp cho vơ ̣ chồ ng xây dƣ̣ng cuô ̣c số ng ha ̣nh phúc, đáp
ứng những nhu cầu về vật chất lẫn tinh thần cho các thành viên trong gia
điǹ h. Do đó, trong Luật Hôn nhân & gia đình đã có nhiều quy định điều
chỉnh các quan hệ pháp luật về hôn nhân & gia đình, đặc biệt chú trọng
quy định về chế độ đối với tài sản chung của vợ chồng, tạo điều kiện cho
việc bảo vê ̣ quyề n và lợi ích hợp pháp của vợ , chồ ng và các thành viên
khác trong gia đình. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, vợ
chồng ngày càng tham gia tích cực vào nhiều các mối quan hệ xã hội
nhằm đáp ứng những nhu cầu về tinh thần và vật chất của cá nhân và của
gia đình [50;87]. Đồng thời, khối lƣợng tài sản của vợ chồng tăng lên thì
ý thức và tâm lý về quyề n sở hữu đối với tài sản để phục vụ c ho nhu cầu
cuộc sống, nghề nghiệp, kinh doanh, sinh hoạt cá nhân đƣợc chủ động
hình thành và ngày càng phát triể n. Do đó, vợ chồng càng có nhiều nhu
cầu để phát triển tài sản của mình. Một trong số đó chính là vấn đề vợ
chồng sử dụng tài sản chung của mình với mục đích phát sinh lợi nhuận.
Hiện nay, ở nƣớc ta, đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá,
không chỉ là tƣ liệu sản xuất đặc biệt mà còn là nguồn lực quan trọng để
thực hiện “công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc” [49;33]. Từ đó, vấn
đề sử dụng nguồn tài nguyên này để không chỉ với mục đích phát triển
đất nƣớc mà còn nhằm phục vụ thu lợi nhuận cho cá nhân ngày càng cao.
4
Trong đó, vấn đề góp vốn bằng quyền sử dụng đất đang là vấn đề nhận
đƣợc nhiều sự quan tâm nhất. Nó không chỉ tạo điều kiện cho ngƣời sử
dụng đất tiếp cận đƣợc các nguồn vốn vay của Nhà nƣớc, nâng cao hiệu
quả sử dụng của vốn, góp phần đắc lực vào công cuộc xóa đói giảm
nghèo phát tiển kinh tế.
Ý thức đƣợc nhu cầu này, hiện nay, rất nhiều gia đình và cụ thể là
vợ chồng đã sử dụng tài sản của mình là quyền sử dụng đất để góp vốn
trong các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, đây là vấn đề rất mới, áp
dụng rất nhiều các quy định pháp luật khác nhau nhƣ Luật Dân sự, Luật
Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Hôn nhân & gia đình... Do đó, vấn đề
này hiện nay khi áp dụng trong thực tế còn gặp nhiều khó khăn, vƣớng
mắc. Việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá về vấn đề góp vốn bằng quyền
sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng là vấn đề có ý nghĩa thiết thực,
vừa làm rõ những ƣu điểm, hạn chế, vừa đề ra những giải pháp trứơc mắt
và lâu dài nhằm nâng cao hơn nữa vai trò, trách nhiệm của vợ chồng đối
với đời sống của gia đình nói riêng và toàn xã hội nói chung. Vì thế, việc
lựa chọn và nghiên cứu đề tài “ Góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài
sản chung của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam” làm luận văn thạc
sỹ sẽ phần nào đáp ứng đƣợc những đòi hỏi cấp bách hiện nay trên cả
phƣơng diện khoa học và thực tiễn.
2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội,
các mối quan hệ về tài sản của vợ chồng cũng thay đổi và phát triển
không ngừng, và không phải quan hệ nào cũng đƣợc pháp luật dự liệu để
kịp thời điều chỉnh một cách phù hợp. Chính vì vậy, các công trình
nghiên cứu khoa học về chế độ tài sản của vợ chồng đặc biệt là tài sản
chung của vợ chồng luôn thu hút đƣợc sự quan tâm của nhiều ngƣời.
Một số công trình nghiên cứu khoa học cần phải chú ý nhƣ:
5
- “Chế đô ̣ tài sản của vơ ̣ chồ ng theo Luâ ̣t Hôn nhân & gia đình Viê ̣t
Nam” năm 2008 của PGS.TS Nguyễn Văn Cừ.
- “Chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng trong pháp luật
Cộng hòa Pháp và pháp luật Việt Nam” của tác giả Bùi Minh Hồng đăng
trên tạp chí Luật học số 11 năm 2009.
- “Luâ ̣n bàn về các hình thức sở hữu và sở hữu chung hợp n hấ t của
vơ ̣ chồ ng” năm 2011 của PGS. TS Phùng Trung Tâ ̣p.
- Luận án tiến sĩ “Chế độ tài sản vợ chồng theo luật Hôn nhân &
gia đình Việt Nam” đƣợc TS Nguyễn Văn Cừ bảo vệ thành công vào đầu
năm 2005.
- Hội thảo “Thể chế cho phát triển nông thôn, nâng cao phúc lợi
cho nông dẫn với hình thức công ty bằng góp vốn bằng quyền sử dụng
đất” năm 2009 do Tiến sĩ Lê Đức Thịnh – Viện chiến lƣợc chính sách
phát triển nông thôn.
- Kỷ yếu hội thảo “Xây dựng cơ sở pháp lý về thị trƣờng quyền sử
dụng đất ở Việt Nam” bộ môn Luật Kinh doanh – Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội năm 2002.
- Sách chuyên khảo "Thị trƣờng bất động sản những vấn đề lý luận
và thực tiễn ở Việt Nam của PGS. TS Thái Bá Cẩn và ThS Trần Nguyên
Nam - NXB Tài chính (2003);
- "Thị trƣờng quyền sử dụng đất ở Việt Nam" của Ths. Bùi Thị
Tuyết Mai - NXB Lao động - Xã hội (2005);
- Bài viết "Hoàn thiện khung pháp lý về chuyển nhƣợng quyền sử
dụng đất" - Nguyễn Văn Hiến - Toà án nhân dân Tối cao, Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật số ngày 29/08/2016.
6
- Bài viết “Chế độ sở hữu toàn dân và vấn đề sở hữu đất đai” - Bài
viết của LS. Nguyễn Tiến Lập đăng trên Báo điện tử Tia sáng của Bộ
Khoa học & Công nghệ ngày 20/10/2010.
Đây thực sự là những công trình có giá trị về khoa học và thực tiễn.
Tuy nhiên, những công trình này hoặc đề cập đến những vấn đề mang
tính khái quát chung về chế độ tài sản của vợ chồng; hoặc chỉ bàn về vấn
đề về thị trƣờng bất động sản, đất đai nói chung, chƣa đề cập sâu đến vấn
đề tài sản chung của vợ chồng là quyền sử dụng đất.
3. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc vợ chồng góp vốn bằng
quyền sử dụng đất là tài sản chung của hai vợ chồng theo quy định của
pháp luật Việt Nam.
3.2. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ những quy định góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài
sản chung của vợ chồng trong pháp luật Việt Nam kết hợp phân tích đánh
giá thực tiễn thực hiện tại nƣớc ta hiện nay.
- Đƣa ra giải pháp góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật
về vấn đề tài sản chung của vợ chồng theo Luật hôn nhân gia đình, hoàn
thiện các quy định của Luật đất đai và Luật doanh nghiệp về vấn đề góp
vốn bằng quyền sử dụng đất ở nƣớc ta.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu phân tích, so sánh,
đánh giá, tổng hợp... kết hợp sử dụng các văn bản pháp luật; phƣơng pháp
luận khoa học của Triết học Mác – Lê-nin: phƣơng pháp luận duy vật
biện chứng, phƣơng pháp luận duy vật lịch sử.
5. Phạm vi và địa điểm nghiên cứu
5.1. Phạm vi nghiên cứu
7
Nghiên cứu một cách khái quát những quy định của pháp luật hiện
hành về tài sản chung của vợ chồng, về vấn đề góp vốn bằng quyền sử
dụng đất thông qua Luật Dân sự, Luật doanh nghiệp, Luật đất đai, Luật
hôn nhân & gia đình... từ đó đƣa ra những bất cập của các chế định này
để đóng góp vào dự thảo bộ Luật Dân sự sửa đổi.
5.2. Địa điểm nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu chính của luận văn là địa bàn Hà Nội
6. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Luận văn nghiên cứu về góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài sản
chung của vợ chồng – đây là vấn đề phức tạp và mới mẻ hiện nay. Tuy
nhiên Luật Hôn nhân và gia đình 2014 lại đặt ra những vấn đề nghiên cứu
trong bối cảnh mới. Theo đó, luận văn tập trung giải quyết các vấn đề:
- Nêu ra và phân tích các quy định với tài sản chung của vợ chồng có
liên quan tới quyền sử dụng đất
- Nêu ra và phân tích các quy định về góp vốn bằng quyền sử dụng
đất
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định về góp vốn bằng quyền sử
dụng đất là tài sản chung của vợ chồng tại nƣớc ta từ đó tìm ra những
điểm hạn chế, vƣớng mắc và đƣa ra phƣơng hƣớng hoàn thiện các quy
định liên quan đến vấn đề này.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của Luận văn gồm 3 phần:
- Chƣơng 1: Lý luận cơ bản về góp vốn bằng quyền sử dụng đất và
pháp luật góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng
- Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng
đất là tài sản chung của vợ chồng.
- Chƣơng 3: Hoàn thiện pháp luật về góp vốn bằng quyền sử dụng
đất là tài sản chung của vợ chồng.
8
CHƢƠNG 1:
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GÓP VỐN BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
VÀ PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN BẰNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
LÀ TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
1.1. Cơ sở khoa học về góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài
sản chung của vợ chồng
Về cơ sở lý luận về góp vốn bằng quyền sử dụng đất
Nền kinh tế nƣớc ta chuyển từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp,
kế hoạch hóa cao độ sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, trong đó pháp luật ghi nhận và bảo hộ quyền tự do kinh doanh của
công dân và mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trƣớc pháp luật. Để
xây dựng thành công nền kinh tế thị trƣờng có sự quản lý của Nhà nƣớc
theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa thì trƣớc hết cần xây dựng đồng bộ các
yếu tố cấu thành của nền kinh tế thị trƣờng. Đó là thị trƣờng vốn, thị
trƣờng lao động và thị trƣờng quyền sử dụng đất. Giữa thị trƣờng vốn và
thị trƣờng quyền sử dụng đất có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau.
Một lƣợng giá trị có thể luân chuyển từ thị trƣờng quyền sử dụng đất sang
quyền thị trƣờng vốn và ngƣợc lại. Thị trƣờng vốn đã hình thành với
nhiều hình thức huy động vốn nhƣ thế chấp vay ngân hàng hay góp
vốn… trong điều kiện đất đai đƣợc thừa nhận là một tài sản có giá trị. Do
vậy, cần có các quy định về góp vốn bằng quyền sử dụng đất để xác lập
nhiều hình thức huy động vốn cho các chủ thể kinh doanh lựa chọn, đồng
thời góp phần thúc đẩy thị trƣờng quyền sử dụng đất phát triển mạnh mẽ
ở nƣớc ta.
Đất đai là tƣ liệu sản xuất đặc biệt không gì có thể thay thế đƣợc.
Giữa đất đai và lao động có mối quan hệ khăng khít. Mác đã nhấn mạnh
vai trò của đất đai và sức lao động: “Đất đai là mẹ, sức lao động là cha,
sản sinh ra mọi của cải vật chất” [40]. Nhƣ vậy, quy định góp vốn bằng
quyền sử dụng đất sẽ giúp cho đất đai tích tụ tập trung vào những hộ gia
9
đình, cá nhân có nguồn lao động dồi dào có khả năng và điều kiện sử
dụng đất có hiệu quả. Trên cơ sở đó, tạo ra đƣợc nhiều của cải vật chất và
cải thiện đời sống của chính những ngƣời nhận vốn góp cũng nhƣ ngƣời
góp vốn thông qua việc phân chia lợi nhuận theo tỉ lệ phần trăm vốn góp.
Về mặt lý luận, thừa nhận đất đai là một tài sản đặc biệt thì pháp luật
cần ghi nhận và bảo hộ góp vốn bằng quyền sử dụng đất của ngƣời sử
dụng đất. Bởi lẽ đất đai hội tụ trong bản thân nó các yếu tố giá trị và giá
trị sử dụng. Nếu mà không cho phép ngƣời sử dụng đất đƣợc góp vốn
bằng quyền sử dụng đất là một sự vô lý.
Mặt khác, kết hôn là sự kiện làm phát sinh một gia đình mà ở đó
phản ánh sự chung sống của hai vợ chồng và con cái (nếu có) [24;22].
Nhƣ là một tất yếu của cuộc sống chung, vợ và chồng thực hiện những
quan hệ về tài sản nhằm đáp ứng những nhu cầu tồn tại và phát triển của
gia đình. Đây là những quan hệ xảy ra phổ biến trong xã hội và chịu sự
điều chỉnh trực tiếp của pháp luật về hôn nhân và gia đình, trong một quy
chế đƣợc gọi là Chế độ tài sản của vợ chồng. Có một câu hỏi lớn đặt ra là:
Chế độ tài sản của vợ chồng sẽ đƣợc xác lập theo luật pháp hay theo sự
thỏa thuận của vợ chồng? Tài sản của vợ chồng trong pháp luật về hôn
nhân và gia đình (HN&GĐ) của các nƣớc trên thế giới đƣợc quy định gắn
liền với các điều kiện kinh tế - xã hội, chế độ sở hữu, truyền thống, phong
tục, tập quán, tâm lý, nguyện vọng của ngƣời dân…Do đó, giữa các nƣớc
khác nhau thƣờng có những quy định khác biệt về tài sản của vợ chồng.
Tuy nhiên, về cơ bản tài sản của vợ chồng đƣợc xác định dựa trên hai căn
cứ: Sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng và theo các quy định của
pháp luật (chế độ tài sản pháp định) [24;30].
Trong cơ chế thị trƣờng, đất đai trở thành một yếu tố không thể thiếu
đƣợc của nền sản xuất hàng hóa. Đất đai từ chỗ là điều kiện sinh tồn,
chuyển thành tƣ liệu sản xuất - điều kiện vật chất cần thiết của hoạt động
sản xuất, kinh doanh và vận động không ngừng, nhằm mang lại nhiều lợi
10
nhuận cho ngƣời sử dụng đất. Việc thế chấp, bảo lãnh bằng quyền sử
dụng đất là một trong những hình thức bảo đảm tiền vay chủ yếu của các
ngân hàng, đồng thời cũng là một vấn đề pháp lý rất phức tạp, nhất là đặt
nó trong bối cảnh hôn nhân. Đây là những điều kiện tiền đề cho việc ra
đời quy định góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tải sản chung của vợ
chồng.
Về cơ sở thực tiễn
Tài sản vợ chồng, bao gồm đất đai, là một trong những nội dung
quan trọng của luật hôn nhân và gia đình. Sau khi kết hôn, tài sản chung
đƣợc hình thành, các lợi ích và các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt
đối với khối tài sản này cũng vì thế mà hình thành. Do tài sản không chỉ
gắn liền với những lợi ích thiết thực của hai bên mà còn liên quan đến
ngƣời thứ ba, đặc biệt là khi vợ chồng tham gia vào hoạt động kinh doanh
thƣơng mại, cụ thể trong luận văn này là góp vốn bằng quyền sử dụng
đất, nên vấn đề này lúc nào cũng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, đặc biệt là
sau khi vợ chồng ly hôn. Thực tiễn xét xử cho thấy, phần lớn các tranh
chấp của vợ chồng có liên quan đến tài sản [41;19]. Sự phức tạp trong
việc xác định tài sản chung, tài sản riêng vợ chồng cùng những hạn chế
trong việc qui định về chế độ tài sản vợ chồng trong luật dân sự, luật hôn
nhân và gia đình nƣớc ta ngày càng trở nên bất cập. Một mặt, việc giải
quyết các xung đột trên không thể đảm bảo đƣợc công bằng, bình đẳng
giữa các chủ thể (ngƣời vợ thƣờng thiệt thòi về tài sản sau khi ly hôn).
Mặt khác, số lƣợng và độ phức tạp của các vụ việc liên quan đến tranh
chấp tài sản vợ chồng ngày càng gia tăng gây khó khăn và tốn kém cho
ngành tƣ pháp.
Ngoài ra, theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và Luật dân sự
năm 2015, thì trong điều kiện các quan hệ tài sản giữa vợ và chồng đƣợc
thừa nhận về mặt pháp lý, ta nói rằng luật về quan hệ tài sản giữa vợ
chồng là tập hợp các quy tắc về thành phần cấu tạo của các khối tài sản
11
mà vợ, chồng hoặc cả hai có quyền sở hữu; về các quyền của vợ, chồng
đối với các khối tài sản đó và về những nghĩa vụ tài sản đối với ngƣời thứ
ba mà vợ hoặc chồng hoặc cả hai có trách nhiệm thực hiện. Trong chừng
mực nào đó, có thể nói rằng luật về quan hệ tài sản giữa vợ chồng là sự
pha trộn (đúng hơn, là sự kết hợp) giữa luật gia đình và luật dân sự. Dựa
vào luật dân sự, luật về quan hệ tài sản của vợ chồng xây dựng các quy
tắc liên quan đến thành phần cấu tạo các khối tài sản, đến quyền của vợ
chồng đối với các khối tài sản đó, cũng nhƣ đến các nghĩa vụ tài sản của
vợ chồng đối với ngƣời thứ ba hoặc đối với nhau [22;17]. Dựa vào luật
gia đình, luật về quan hệ tài sản xây dựng các quy tắc mang tính đặc thù
liên quan đến nghĩa vụ và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản, cũng
nhƣ đến việc xác lập quyền sở hữu đối với một số tài sản nhất định, áp
dụng trong điều kiện ngƣời có tài sản, ngƣời có nghĩa vụ, là ngƣời có vợ
(chồng).
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều qui định hai cách thức xác lập
quan hệ tài sản trên. Trong trƣờng hợp không có thỏa thuận của vợ chồng
thì việc giải quyết quan hệ tài sản của họ tuân theo pháp luật. Nhƣ vậy,
chỉ khi không có thỏa thuận của vợ chồng thì chế độ tài sản của họ mới
theo sự điều chỉnh của pháp luật. Thực tế cho thấy, việc qui định nhƣ vậy
trƣớc hết đảm bảo đƣợc quyền tự định đoạt của cá nhân đối với tài sản
của mình. Hơn nữa, điều này còn cho phép vợ chồng có thể tự bảo toàn
khối tài sản riêng của mình; giảm, tránh những xung đột về tài sản sau khi
chia tay. Từ đó, góp phần làm giảm chi phí khi ly hôn và giúp tòa án xác
định tài sản riêng, chung dễ dàng và nhanh chóng hơn. Xét về góc độ
kinh tế thì vợ chồng đƣợc tự do thỏa thuận chế độ tài sản sẽ giúp họ giảm
thiểu các rủi ro trong kinh doanh, do đó tránh đƣợc tình trạng gia đình
bấp bênh khi cả hai vợ chồng cùng tham gia các hoạt động kinh doanh có
rủi ro cao. Vì vậy, nghiên cứu tình hình xây dựng và phát triển chế độ tài
sản vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt Nam, từ đó, tìm hiểu
12
các qui định cụ thể trong lĩnh vực này là việc làm hết sức cần thiết hiện
nay.
Hơn nữa, điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy định công dân có “quyền
tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”
[36;33], mà muốn kinh doanh thì một trong những điều kiện vật chất ban
đầu là họ phải có vốn. Chính vì vậy, việc quy định cho ngƣời sử dụng đất
đƣợc góp vốn bằng quyền sử dụng đất cũng chính là cụ thể hóa quy định
trên đây của Hiến pháp.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đất đai trong
nền kinh tế thị trƣờng các nhà làm luật Việt Nam phải giải quyết mâu
thuẫn giữa lý luận và thực tế đòi hỏi của cuộc sống. Về mặt nguyên lý đất
đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nƣớc thống nhất quản lý, không cho
phép tƣ nhân hóa đất đai, mua bán đất đai. Tuy nhiên thực tiễn hoạt động
sản xuất, kinh doanh trong cơ chế thị trƣờng đòi hỏi đất đai phải có sự
chuyển dịch. Nhất là trong thực tiễn hiện nay, khi mà nhiều vợ chồng có
nhu cầu và đã dùng quyền sử dụng đất của mình để góp vốn trong sản
xuất, kinh doanh. Để giải quyết bài toán này, luận văn sẽ phân tích, đánh
giá vấn đề sử dụng đất chuyển nhƣợng, chuyển đổi, cho thuê, thừa kế, thế
chấp và góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng.
1.2. Khái niệm và đặc điểm của góp vốn bằng quyền sử dụng đất
1.2.1. Khái niệm tài sản chung của vợ chồng
Tài sản chung của vợ chồng là một khái niệm đƣợc pháp luật dân sự
quy định. Cụ thể, theo điều Điều 105 BLDS năm 2015, "Tài sản bao gồm
vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động
sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài
sản hình thành trong tƣơng lai" [34: Điều 105]. Tài sản của vợ chồng gồm
tài sản chung của vợ chồng và tài sản riêng của vợ, chồng. Tài sản chung
của vợ chồng là những tài sản mà cả vợ lẫn chồng cùng là chủ sở hữu đối
với khối tài sản đó, và có thể phân chia khi vợ chồng ly hôn hoặc theo
13
thoả thuận của vợ chồng nhằm mục đích kinh doanh hoặc thực hiện nghĩa
vụ dân sự riêng. Ngoài ra, theo Điều 213 BLDS năm 2015, "Vợ chồng
cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau
trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung" [33; điều 213]
- Đặc điểm của tài sản chung của vợ chồng trong hôn nhân
Quan hệ HN&GĐ có tính chất đặc biệt không giống những hợp
đồng, nghĩa vụ dân sự khác. Đây là quan hệ mà sự xác lập dựa trên yếu tố
tình cảm. Những giao dịch về tài sản mà vợ chồng xác lập trong thời kì
hôn nhân hầu nhƣ vì mục đích xây dựng gia đình. Vì thế, chế độ tài sản
chung của vợ chồng có những nét đặc trƣng cơ bản:
Thứ nhất, xét về chủ thể của quan hệ sở hữu thì các bên phải có quan
hệ hôn nhân hợp pháp với tƣ cách là vợ chồng của nhau. Do vậy, để trở
thành chủ thể của quan hệ sở hữu này, các chủ thể ngoài việc có đầy đủ
năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự còn đòi hỏi họ phải tuân thủ
các điều kiện kết hôn đƣợc quy định trong pháp luật hôn nhân và gia đình.
Thứ hai, xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự
tồn tại và phát triển của xã hội, nhà nƣớc bằng pháp luật quy định chế độ tài
sản của vợ chồng đều xuất phát từ mục đích trƣớc tiên và chủ yếu nhằm bảo
đảm quyền lợi của gia đình, trong đó có lợi ích cá nhân của vợ và chồng.
Những quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng là cơ sở tạo
điều kiện để vợ chồng chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
đối với tài sản của vợ chồng.
Thứ ba, căn cứ xác lập, chấm dứt chế độ tài sản này phụ thuộc vào sự
phát sinh, chấm dứt của quan hệ hôn nhân hay nói cách khác, chế độ tài sản
của vợ chồng thƣờng chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân.
Chế độ tài sản đƣợc pháp luật ghi nhận, dù là chế độ tài sản theo thỏa
thuận hay chế độ tài sản luật định đều nhằm mục đích điều chỉnh các quan
hệ tài sản của vợ chồng, tạo điều kiện để vợ, chồng có những cách “xử sự”
theo yêu cầu của pháp luật và phù hợp với đạo đức xã hội.
14
Chế độ tài sản của vợ chồng đƣợc quy định trong pháp luật có ý nghĩa
nhằm xác định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình. Khi
hai bên nam nữ kết hôn với nhau trở thành vợ chồng, chế độ tài sản của vợ
chồng đƣợc liệu với những thành phần tài sản của vợ chồng. Dù vợ chồng
lực chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận hay chế độ tài sản pháp định luôn
đƣợc pháp luật quy định rõ. Việc phân định các loại tài sản trong quan hệ
giữa vợ và chồng của chế độ tài sản còn nhằm xác định các quyền và nghĩa
vụ của các bên vợ, chồng đối với các loại tài sản của vợ chồng. Là cơ sở
pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau
hoặc với những ngƣời khác trong thực tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng về tài sản cho các bên vợ chồng hoặc ngƣời thứ ba tham gia giao
dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có nhiều điểm mới so với Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000, trong đó có có điểm mới về chế độ tài sản
của vợ chồng. Cụ thể, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 bổ sung quy
định về các nguyên tắc chung trong áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng,
trong đó vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định
hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận [38].
Về chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định, điều 34 của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 qui định tài sản chung của vợ chồng phải đăng
ký theo quy định tại bao gồm quyền sử dụng đất, những tài sản khác mà
pháp luật quy định phải đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu [38;34].
Đối với tài sản chung của vợ chồng đã đƣợc đăng ký và ghi tên một
bên vợ hoặc chồng thì vợ, chồng có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền
cấp đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đất để ghi tên của cả
vợ và chồng.
Trong trƣờng hợp tài sản chung đƣợc chia trong thời kỳ hôn nhân mà
trong giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
ghi tên cả vợ và chồng thì bên đƣợc chia phần tài sản bằng hiện vật có
15
quyền yêu cầu cơ quan đăng ký tài sản cấp lại giấy chứng nhận quyền sở
hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở văn bản thỏa thuận của
vợ chồng hoặc quyết định của Tòa án về chia tài sản chung.
Về chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận: trƣờng hợp vợ chồng
lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận thì vợ chồng có thể thỏa
thuận về xác định tài sản theo một trong các nội dung: Tài sản giữa vợ và
chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng; Giữa vợ và
chồng không có tài sản riêng của vợ, chồng mà tất cả tài sản do vợ, chồng có
đƣợc trƣớc khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung;
Giữa vợ và chồng không có tài sản chung mà tất cả tài sản do vợ, chồng có
đƣợc trƣớc khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng
của ngƣời có đƣợc tài sản đó; Xác định theo thỏa thuận khác của vợ chồng.
Trong trƣờng hợp vợ chồng chọn chế độ tài sản theo luật định thì khi
đó quyền sử dụng đất sẽ là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng nếu nó hình
thành từ sản chung, hoặc đƣợc vợ chồng thống nhất nhập từ tài sản riêng
vào tài sản chung. Còn nếu chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì khi đó
quyền sử dụng đất là tài sản riêng của vợ hoặc chồng nếu nó đƣợc hình
thành từ nguồn tài sản riêng hay vợ, chồng tự thỏa thuận tách thành tài sản
riêng.
- Đặc điểm của quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng
Quyền sử dụng đất khi xem xét dƣới góc độ tài sản của vợ chồng
cũng mang đầy đủ các đặc trƣng của tài sản chung của vợ chồng. Cụ thể:
Thứ nhất: vợ chồng bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản chung
Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2014 ghi nhận nguyên tắc vợ chồng
bình đẳng với nhau về mọi mặt trong gia đình, tài sản chung của vợ
chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất [38]. Khi quyền sử dụng đất là tài sản
chung của vợ chồng thì không phân biệt là do vợ hay chồng tạo lập
ra, „„của chồng công vợ‟‟, việc ngƣời chồng tạo lập ra cũng mặc nhiên
16
thừa nhận có công sức đóng góp của ngƣời vợ và ngƣợc lại. Vợ chồng
đều đƣợc hƣởng phần bằng nhau là ½ giá trị của quyền sử dụng đất đấy.
Pháp luật thừa nhận quyền sử dụng đất hình thành từ nguồn tài sản chung
của vợ chồng trong thời kì hôn nhân đƣợc coi nhƣ là tài sản chung của vợ
chồng. Quyền sử dụng đất phải đăng kí quyền sử dụng mang tên cả vợ và
chồng. Nếu chỉ một bên đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất thì phải có nghĩa vụ chứng minh đó là tài sản riêng của mình.
Vợ chồng với tƣ cách là đồng sở hữu có quyền và nghĩa vụ ngang
nhau trong việc sử dụng quyền sử dụng đất. Tƣ cách đồng sở hữu ở đây
còn đƣợc hiểu là mọi giao dịch liên quan đến quyền sử dụng đất phải
đƣợc sự nhất trí, đồng thuận của cả vợ và chồng. Sự đồng thuận này tùy
từng trƣờng hợp có sự khác nhau. Ví dụ, trong trƣờng hợp vợ hoặc chồng
thực hiện nghĩa vụ tài chính theo qui định của pháp luật đất đai thì mặc
nhiên đƣợc hiểu là cả vợ và chồng cùng thực hiện nghĩa vụ đó. Tuy nhiên
đối với một số quyền năng liên quan đến quyền sử dụng đất nhƣ quyền
chuyển nhƣợng, góp vốn, tặng cho quyền sử dụng đất... thì pháp luật qui
định phải cả vợ và chồng cùng nhất trí, cùng kí kết trong hợp đồng theo
luật định. Nếu chỉ có mình vợ hoặc chồng giao kết những hợp đồng trên,
không có sự ủy quyền của ngƣời còn lại thì giao dịch sẽ vô hiệu do không
đúng thẩm quyền. Điều này khác biệt so với quyền của ngƣời sử dụng đất
là cá nhân.
Thứ hai: quyền tài sản khi một bên vợ (hoặc chồng) mất tích,
bị hạn chế hay mất năng lực hành vi dân sự.
+ Trƣờng hợp vợ hoặc chồng bị tuyên bố mất tích
Khi vợ hoặc chồng đã biệt tích (vắng mặt tại nơi cƣ trú) từ 2 năm
liền trở lên, đã áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm mà vẫn
không có tin tức xác thực của ngƣời đó (tức là Tòa án đã ra thông báo tìm
kiếm nhƣ nói ở trên) thì những ngƣời liên quan, có thể là chồng (hoặc
vợ), bố mẹ, con đã trƣởng thành … có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố
17
ngƣời đó mất tích. Thời hạn 2 năm đƣợc tính từ ngày biết đƣợc tin tức
cuối cùng về ngƣời đó. Trƣờng hợp Tòa án ra quyết định tuyên bố một
ngƣời mất tích thì sẽ chỉ định ngƣời để quản lý tài sản cho ngƣời mất tích.
Theo nguyên tắc tài sản của ngƣời trong thời gian mất tích không ai đƣợc
phép định đoạt, sử dụng. Nhƣ vậy nếu quyền sử dụng đất là tài sản chung
của vợ chồng, trong trƣờng hợp một bên mất tích thì bên kia sẽ không
đƣợc chuyển quyền sử dụng đất. Bởi tài sản chung của vợ chồng là tài sản
chung hợp nhất không chia đƣợc. Vợ hoặc chồng trong trƣờng hợp này
chỉ đƣợc quyền định đoạt phần tài sản của mình tƣơng ứng với ½ giá trị
quyền sử dụng đất đó.
+ Trƣờng hợp vợ hoặc chồng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
Theo qui định tại khoản 1 Điều 23 BLDS năm 2005 thì ngƣời bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự là ngƣời nghiện ma tuý hoặc nghiện các
chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình và bị Toà án ra
quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự theo yêu cầu của
ngƣời có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan [33].
Trong BLDS năm 2015, nội dung này đƣợc qui định tại khoản 1,2 điều 24
[34; Điều 24].
Theo qui định tại Điều 24, Khoản 2 Bộ luật dân sự năm 2015 thì nếu
vợ hoặc chồng là ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thì có quyền yêu
cầu Tòa án tuyên bố chồng hoặc vợ mình bị hạn chế năng lực [33]. Trong
trƣờng hợp này ngƣời đại diện cho ngƣời bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
nhất thiết phải có đủ điều kiện nhƣ một ngƣời giám hộ, dù luật không quy
định rõ. Ngƣời này đƣợc chỉ định theo một quyết định của Toà án. Việc đại
diện không phải đƣợc đăng ký tại UBND nhƣ việc giám hộ. Ngƣời vợ hoặc
chồng bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không hoàn toàn mất năng lực
hành vi dân sự. Họ có thể tự mình xác lập và thực hiện các giao dịch nhỏ
nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Còn đối với các giao dịch khác
đều chỉ có thể đƣợc xác lập và thực hiện với sự đồng ý của ngƣời đại diện.
18
Nhƣ vậy, việc chuyển quyền sử dụng đất của vợ chồng đối với một
bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự bắt buộc phải có sự đồng ý của
ngƣời đại điện. Ngƣời đại diện có quyền thay mặt ngƣời đƣợc đại diện
thực hiện các giao dịch vì quyền, lợi ích của họ. Ngƣời đại diện ở đây tùy
trƣờng hợp có thể là chồng hoặc vợ hoặc là ngƣời khác mà Tòa án chỉ
định.
+ Trƣờng hợp vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự
Khi một ngƣời do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không
thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình thì theo yêu cầu của ngƣời
có quyền, lợi ích liên quan, Toà án ra quyết định tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định.
Nếu vợ hoặc chồng bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự
thì mọi giao dịch về tài sản của ngƣời đó do ngƣời giám hộ xác lập, thực
hiện. Nếu ngƣời giám hộ là vợ hoặc chồng thì quyền và nghĩa vụ của
ngƣời sử dụng đất là vợ chồng sẽ do 1 bên thực hiện nhân danh cho bên
kia.
Tóm lại, Quan hệ tài sản giữa vợ và chồng là một loại quan hệ đặc
biệt ràng buộc hai ngƣời, vốn đã gắn bó với nhau do hiệu lực của hôn
nhân, nghĩa là có đăng ký kết hôn, liên quan đến tài sản, nói chung là đến
các lợi ích vật chất có giá trị tiền tệ. Trong khung cảnh của luật thực định
Việt Nam, sự tồn tại của quan hệ tài sản giữa vợ và chồng lệ thuộc vào sự
tồn tại của quan hệ hôn nhân. Trong trƣờng hợp hai ngƣời chung sống với
nhau mà không kết hôn , nếu có xảy ra tranh chấp sẽ giải quyết theo thoả
thuận của các bên [38;16]. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng bị thủ tiêu
,
trong trƣờng hợp hai ngƣời chung sống với nhau có đăng ký kết hôn
,
nhƣng sau đó hôn nhân bị hủy theo một bản án hoặc quyết định của Toà
án. Quan hệ tài sản giữa vợ chồng chấm dứt , trong trƣờng hợp hai ngƣời
chung sống với nhau có đăng ký kết hôn , nhƣng sau đó hôn nhân chấm
dứt do ly hôn hoặc do có một ngƣời chết.
19
1.2.2. Khái niệm góp vốn bằng quyền sử dụng đất
Luật đất đai năm 2013 [32] quy định cho ngƣời sử dụng đất có
quyền chuyển đổi, chuyển nhƣợng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh
và góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất. Trong đó quyền đƣợc góp vốn
bằng giá trị quyền sử dụng đất chƣa đƣợc quy định cụ thể mà Luật đất đai
năm 2013 chỉ quy định các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình đƣợc Nhà nƣớc
giao đất phải trả tiền sử dụng đất, cho thuê đất mà trả tiền thuê đất cả thời
gian thuê hoặc trả trƣớc tiền thuê đất cho nhiều năm, nếu thời hạn thuê
đất đã đƣợc trả tiền còn lại ít nhất 5 năm có quyền góp vốn bằng quyền sử
dụng đất trong thời hạn giao đất, cho thuê đất.
Đồng thời, cũng theo nhƣ quy định tại khoản 10 Điều 3 Luật Đất đai
năm 2013 thì góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất chính là một hình
thức của chuyển quyền sử dụng đất [32].
Nhƣ vậy, có thể hiểu góp vốn bằng quyền sử dụng đất là trƣờng hợp
tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất hợp pháp đƣợc Nhà
nƣớc cho phép góp vốn bằng quyền sử dụng đất để hợp tác sản xuất, kinh
doanh với cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ thể khác theo quy định
của pháp luật.
- Khái niệm góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ
chồng
Góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng là sự
thỏa thuận giữa các bên trong đó có một bên là vợ hoặc chồng tuân theo
điều kiện, nội dung, hình thức chuyển quyền sử dụng đất đƣợc Bộ luật
Dân sự và pháp luật về đất đai quy định, theo đó vợ hoặc chồng đại diện
góp phần vốn của mình bằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của hai
vợ chồng để sản xuất, kinh doanh với pháp nhân, cá nhân, hộ gia đình,
chủ thể khác.
- Đặc điểm của góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài sản chung của
vợ chồng
20
Thứ nhất, để có thể thực hiện việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất
thì vợ chồng phải có quyền sử dụng đất hợp pháp, tức là phải đƣợc Nhà
nƣớc giao hoặc cho thuê đất hợp pháp hoặc đƣợc thừa kế, nhận chuyển
quyền một cách hợp pháp.
Thứ hai, ở nƣớc ta đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nƣớc thống
nhất quản lý và Nhà nƣớc giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân
trong nƣớc sử dụng ổn định lâu dài nên đối tƣợng của quan hệ góp vốn là
quyền sử dụng đất chứ không phải bản thân đất đai. Sau khi góp vốn để
sản xuất, kinh doanh thì quyền sử dụng đất trở thành tài sản của doanh
nghiệp. Trƣờng hợp doanh nghiệp phá sản thì quyền sử dụng đất này bị
xử lý để giải quyết các khoản nợ.
Thứ ba, giá trị vốn góp đƣợc xác định không chỉ bao gồm quyền sử
dụng đất mà cả giá trị tài sản thuộc sở hữu của bên góp vốn gắn liền với
đất. Vì thực tế sử dụng đất cho thấy đất đai luôn gắn liền với các tài sản
trên đất và trong nhiều trƣờng hợp giá trị của các tài sản này đƣợc thừa
nhận chỉ khi nó gắn liền với đất.
Thứ tư, việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất không làm thay đổi
quan hệ sở hữu đất đai bởi trong quan hệ góp vốn bằng quyền sử dụng đất
thì ngƣời góp vốn không phải là chủ sở hữu đất đai. Ngƣợc lại, đối với
các quan hệ góp vốn bằng các tài sản khác thì ngƣời góp vốn đồng thời là
chủ sở hữu các tài sản này. Do đó, khi doanh nghiệp bị phá sản sẽ có sự
thay đổi chủ sở hữu đối với các tài sản này thông qua việc xử lý phần tài
sản vốn góp.
Thứ năm, góp vốn bằng các tài sản khác đƣợc thực hiện theo ý chí
của chủ sở hữu và không bị pháp luật hạn chế về các điều kiện thực hiện.
Trƣờng hợp góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì ngƣời sử dụng đất chỉ
đƣợc thực hiện trong thời hạn giao đất hoặc cho thuê đất.
Thứ sáu, quyền sử dụng đất đƣợc coi là một loại quyền về tài sản và
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là cơ sở pháp lý xác định quyền về tài
21
sản của ngƣời sử dụng đất. Do đó, việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất
chỉ đƣợc thực hiện khi ngƣời sử dụng đất có giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất do cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền cấp. Hơn nữa, việc góp
vốn này có thể bị chấm dứt bởi ý chí của Nhà nƣớc khi các bên vi phạm
nghiêm trọng các quy định của pháp luật.
Thứ bảy, đất đai có vai trò đặc biệt quan trọng đối với con ngƣời và
đất đai ở nƣớc ta thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nƣớc thống nhất quản lý
nên việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất phải đƣợc đăng ký tại cơ quan
Nhà nƣớc có thẩm quyền.
Thứ tám, các tài sản khác khi đem đi góp vốn thì giá trị do các bên
thỏa thuận còn với trƣờng hợp góp vốn bằng quyền sử dụng đất thì pháp
luật quy định giá trị quyền sử dụng đất góp vốn do các bên thỏa thuận,
nhƣng không đƣợc thấp hơn khung giá đất do Nhà nƣớc ban hành. [33;
Điều 727]
1.3. Ý nghĩa, vai trò của góp vốn bằng quyền sử dụng đất là tài
sản chung của vợ chồng
Cùng với công cuộc "công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [53] đất nƣớc,
việc pháp luật quy định cho vợ chồng quyền góp vốn bằng giá trị quyền
sử dụng đất có ý nghĩa vô cùng to lớn nhằm giúp ngƣời sử dụng đất giải
quyết các nhu cầu về vốn để mở rộng quy mô sản xuất và nâng cao hiệu
quả sử dụng đất đai. Quy định này góp phần chuyển quan hệ đất đai từ
trạng thái "tĩnh" - giao đất và thu hồi đất sang trạng thái "động", đất đai từ
chỗ chỉ là nơi cƣ trú của cộng đồng nay trở thành một nguồn lực to lớn để
phát triển đất nƣớc [14;78].
Thêm vào đó, việc vợ chồng đƣợc góp vốn bằng quyền sử dụng đất
đã tạo điều kiện thuận lợi cho họ trong việc "tiếp cận" các nguồn vốn vay
để đầu tƣ cho sản xuất, đồng thời giúp hệ thống ngân hàng, các tổ chức
tín dụng ở nƣớc ta mở rộng tối đa phạm vi và đối tƣợng cho vay, nâng
cao hiệu quả đồng vốn vay, góp phần trực tiếp vào công cuộc "xóa đói,
22