Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Kiểm soát hôn nhân cận huyết thống theo pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (647.14 KB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ XUÂN CẦN

KIỂM SOÁT HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ XUÂN CẦN

KIỂM SOÁT HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số

: 60 38 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Cừ

Hà Nội - 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Lê Xuân Cần

1


MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN....................................................................................................1
MỤC LỤC................................................................................................................2
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT..................................................................................5
DANH MỤC CÁC BẢNG......................................................................................6
MỞ ĐẦU..................................................................................................................7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÔN NHÂN CẬN HUYẾT
THỐNG VÀ YÊU CẦU KIỂM SOÁT BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HÔN
NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG……… ……………………………………...… 11
1.1. Những vấn đề lý luận chung về hôn nhân cận huyết thống……...….........11

1.1.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của hôn nhân ........................………...........11
1.1.2. Quan niệm về huyết thống và hôn nhân cận huyết thống ………………….14
1.1.3. Khái niệm kiểm soát hôn nhân cận huyết thống............................................17
1.2. Yêu cầu kiểm soát bằng pháp luật đối với hôn nhân cận huyết thống…..17
1.2.1. Mục đích của việc kiểm soát hôn nhân cận huyết thống……………...........18
1.2.2. Vai trò của pháp luật trong việc kiểm soát hôn nhân cận huyết thống…......19
1.3. Khái quát pháp luật điều chỉnh hôn nhân cận huyết thống ở Việt Nam
qua các thời kỳ…………………………………………………………………...21
1.3.1. Quy định về hôn nhân cận huyết thống trong pháp luật thời kỳ phong
kiến……………………………………………………………………………......21
1.3.2. Quy định về hôn nhân cận huyết thống trong pháp luật Việt Nam thời kỳ
Pháp thuộc………………………………………………………………………...23
1.3.3. Quy định về hôn nhân cận huyết thống trong pháp luật Việt Nam từ Cách
mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1975……………………………………......24
1.3.4. Quy định về hôn nhân cận huyết thống trong pháp luật Việt Nam từ năm
1976 đến nay……………………………………………………………………....26

2


1.4. Mối tƣơng quan giữa quy định của pháp luật hiện hành và luật tục của
một số đồng bào dân tộc về hôn nhân cận huyết thống.....................................28
1.4.1. Khái quát về Luật tục.....................................................................................28
1.4.2. Những quy định của Luật tục về hôn nhân cận huyết thống và mối tương
quan với pháp luật hiện hành ở Việt Nam hiện nay................................................30
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT HÔN NHÂN CẬN HUYẾT
THỐNG TẠI VIỆT NAM.....................................................................................38
2.1. Khái niệm “những ngƣời cùng dòng máu về trực hệ” và “những ngƣời có
họ trong phạm vi ba đời” theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình Việt

Nam năm 2014…………………………………………………………………...38
2.1.1. Cấm kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có cùng dòng
máu về trực hệ……………………………………………….………………........38
2.1.2. Cấm kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có họ trong
phạm vi ba đời…………………………………………………………………….41
2.2. Các biện pháp pháp lý kiểm soát tình trạng hôn nhân cận huyết thống
hiện nay ở Việt Nam………………………………………………………..……47
2.2.1. Hủy việc kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ
trong phạm vi ba đời…………………………………………………………..…..47
2.2.2. Xử lý hành chính ..........................................................................................51
2.2.3. Xử lý hình sự ................................................................................................53
Chương 3
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT HÔN NHÂN CẬN
HUYẾT THỐNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HIỆN VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT.....................................................................56
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật kiểm soát hôn nhân cận huyết thống...........56
3.2. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật kiểm soát hôn nhân cận huyết thống.........63
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật kiểm soát hôn nhân cận huyết thống phải xuất phát từ
thực tế......................................................................................................................63
3


3.2.2. Hoàn thiện pháp luật kiểm soát hôn nhân cận huyết thống phải lấy việc bảo
tồn các giá trị truyền thống, đạo đức tốt đẹp làm gốc rễ.........................................65
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật kiểm soát hôn nhân cận huyết thống phải xuất phát từ
yêu cầu nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật...............................................66
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện và áp dụng pháp luật kiểm
soát hôn nhân cận huyết thống.............................................................................71
3.3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật..........................................71
3.3.2. Một số giải pháp khác ...................................................................................73

KẾT LUẬN............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................77

4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GS. TS:

Giáo sư, Tiến sĩ

HN&GĐ:

Hôn nhân và gia đình

KHHGĐ:

Kế hoạch hóa gia đình

PGS. TS:

Phó giáo sư , Tiến sĩ

TANDTC:

Tòa án nhân dân tối cao

TS:


Tiến sĩ

VKSNDTC:

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

5


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tỷ lệ gene giống nhau giữa những người có quan hệ huyết thống

6


MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong một xã hội phát triển thì yếu tố con người là quan trọng nhất. Với xu
hướng dân số già hóa của Việt Nam hiện nay thì chất lượng lao động trẻ mang
vai trò quyết định đối với các hoạch định chính sách của quốc gia. Dù có thừa
nhận hay không thì nguồn lao động chất lượng cao với hàm lượng chất xám
trong sản phẩm lao động hiện nay vẫn chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn,
nơi mà con người sinh ra đã được đầu tư các yếu tố phát triển từ chính những
bậc sinh thành, đặc biệt là các kiến thức về sức khỏe. Nói một cách khác, tại các
vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu vùng xa, vùng dân trí thấp, trẻ em được sinh
ra dưới sự thiếu thốn cả về điều kiện vật chất lẫn sự kém hiểu biết của chính cha
mẹ và cộng đồng. Một trong những hủ tục gây ảnh hưởng trực tiếp đến chất
lượng nòi giống đang tồn tại hiện nay phải kể đến đó là hôn nhân cận huyết
thống.
Quan hệ gia đình bị chi phối bởi nhiều yếu tố, trong đó có những tập tục

được cộng đồng người coi là văn hóa đã tồn tại cố hữu ngàn đời nay. Để thay
đổi tư duy hủ lậu đã bám rễ trong nhận thức của cả một tập thể lẽ đương nhiên
không phải là một việc làm dễ. Do đó, nhiệm vụ của khoa học pháp lý là chỉ ra
được bản chất của các mối quan hệ hôn nhân trên cơ sở bảo đảm lợi ích cho các
chủ thể mang quyền, đồng thời hướng tới những mục tiêu xa hơn nhằm đảm bảo
sự phát triển của toàn xã hội.
Trên góc độ pháp lý, việc phối hôn giữa những người có mối quan hệ về
huyết thống bị pháp luật cấm với những điều kiện nhất định. Tuy nhiên, thực tế
cần nhiều hơn một vài điều luật quy định chung chung để có thể điều chỉnh một
cách có hiệu quả vấn đề này. Muốn ngăn chặn vấn đề một cách hệ thống thì
trước hết phải có cơ sở pháp luật vững chắc, tuy nhiên nếu pháp luật liên quan
nghèo nàn, thiếu cơ sở khoa học và không thực tế thì cũng không mang lại hiệu
quả tối đa. Với lý do đó, bằng việc khai thác đề tài: Kiểm soát hôn nhân cận
huyết thống theo pháp luật Việt Nam người viết mong muốn đóng góp những
7


kiến thức tổng hợp về hệ thống phá luật liên quan, qua đó đưa ra những giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật đối với tình trạng hôn
nhân cận huyết thống ở Việt Nam hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề hôn nhân cận huyết thống dường như vẫn chỉ được tiếp cận dưới
các góc độ xã hội mà chưa có một công trình khoa học pháp lý cụ thể nào. Các
quan điểm liên quan chủ yếu nằm ở dạng những mục bài viết và ý kiến rời rạc,
thiếu sự quan tâm đúng mức. Do đặc trưng của tình hình hôn nhân cận huyết
thống diễn ra chủ yếu ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, những nghiên cứu,
đánh giá nhằm kiểm soát tình trạng này cơ bản còn thiếu và ít được tiếp cận quy
mô, chủ yếu là những tác phẩm về luật tục, văn hóa cộng đồng dân tộc và vấn đề
kiểm soát hôn nhân cận huyết thống cũng chỉ được tiếp cận dưới một tiểu mục
có nội dung chưa chuyên sâu. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu và hoàn

thành luận văn này, tác giả đã tìm hiểu, tham khảo một số bài viết có nội dung
liên quan đến phạm vi nghiên cứu của luận văn như sau:
- Bùi Thị Mừng: “Chế định kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình – Lý
luận và thực tiễn” Luận án Tiến Sỹ luật học, Người hướng dẫn: PGS.TS Đinh
Văn Thanh, TS. Nguyễn Văn Cừ, Hà Nội – 2015;
- Ngô Cường: “Nên cấm kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi
mấy đời” Tạp chí Tòa án nhân dân-Tòa án nhân dân tối cao số 7 năm 2013;
- Ngô Thị Hường: “Vài ý kiến về việc kết hôn giữa những người cùng
huyết thống” Tạp chí Luật học số 5 năm 1996;
- Nguyễn Huyền Trang, Khoa luật-Đại học Quốc gia Hà Nội, Luận văn thạc
sỹ “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về kết hôn trái pháp luật trong tình hình
xã hội hiện nay”;
- Trần Thị Diệu Thuần, Trường Đại học Luật Hà Nội, KLTN “Huỷ việc kết
hôn trái pháp luật theo Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000”, Hà Nội – 2008.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài.
3.1. Mục đích:
8


Khai thác khía cạnh lý luận pháp lý của vấn đề hôn nhân cận huyết thống
thông qua việc phân tích những quy định của pháp luật Việt Nam trong từng giai
đoạn lịch sử. Thấy được yêu cầu kiểm soát tình trạng hôn nhân cận huyết thống
bằng pháp luật, làm rõ sự cần thiết phải quy định một cách chi tiết và đầy đủ hơn
nữa của pháp luật. Đồng thời đề xuất một số kiến nghị nhằm xây dựng hành lang
pháp lý làm cơ sở phổ biến pháp luật liên quan.
3.2.Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ cụ thể đặt ra là:
- Tiếp cận, làm rõ những vấn đề lý luận về hôn nhân và hôn nhân cận huyết
thống.
- Phân tích được yêu cầu kiểm soát hôn nhân cận huyết thống bằng pháp

luật.
- Phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về hôn nhân cận huyết thống
qua từng thời kỳ.
- Chỉ ra những hạn chế trong quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh
hôn nhân cận huyết thống cũng như bất cập trong thực tiễn áp dụng luật.
- Đề xuất những kiến nghị và đưa ra các giải pháp để hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đố với tình trạng hôn nhân cận huyết
thống.
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Tiếp cận đối tượng nghiên cứu là hôn nhân cận huyết
thống ở khía cạnh pháp lý, cơ sở lý luận và thực tiễn tại Việt Nam qua từng giai
đoạn lịch sử, qua đó đưa ra một số giải pháp pháp lý nhằm giải quyết mặt tiêu
cực của đối tượng nghiên cứu. Cụ thể là nghiên cứu, đánh giá thực trạng kiểm
soát hôn nhân cận huyết thống hiện nay ở nước ta hiện nay trên phương diện
pháp lý cũng như thực tế, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm gia tăng hiệu
quả kiểm soát hôn nhân cận huyết thống ở Việt Nam. Các số liệu và thực trạng

9


của đối tượng nghiên cứu tập trung chủ yếu ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
miền núi ít người, vùng dân trí thấp.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
Nhà nước và Pháp luật, về hôn nhân và gia đình và các vấn đề dân tộc.
Trong quá trình nghiên cứu và tiếp cận vấn đề, luận văn sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu phổ dụng của khoa học xã hội và pháp lý như: thống
kê, phân loại, so sánh, phân tích, tổng hợp…qua đó làm sáng tỏ nội dung nghiên
cứu trong phạm vi luận văn.
6. Kết quả nghiên cứu mới của luận văn.

Luận văn hình thành góc nhìn tổng quan nhất về những quy định của hệ
thống pháp luật Việt Nam từ trước đến nay đối với vấn đề hôn nhân cận huyết
thống, qua đó giúp các cá nhân, tổ chức có nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu nắm
được bản chất vấn đề này và có những đánh giá cá nhân riêng. Ngoài ra, luận
văn còn góp phần bổ sung và hoàn thiện những vấn đề khoa học pháp lý liên
quan đến hôn nhân cận huyết thống và có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
hoạt động giảng dạy, nghiên cứu ở các cơ sở đào tạo luật học ở Việt Nam.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết
cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về hôn nhân cận huyết thống và
kiếm soát bằng pháp luật đối với hôn nhân cận huyết thống.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về kiểm soát hôn nhân cận huyết thống
tại Việt Nam.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật kiểm soát hôn nhân cận huyết
thống và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện và áp dụng pháp luật.

10


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÔN NHÂN CẬN
HUYẾT THỐNG VÀ YÊU CẦU KIỂM SOÁT BẰNG PHÁP
LUẬT ĐỐI VỚI HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÔN NHÂN CẬN HUYẾT THỐNG

1.1.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của hôn nhân
Có thể nói, hôn nhân và gia đình là một trong những thể chế cổ xưa nhất
của loài người. Sự gắn kết giữa hai cá thể đã là một phạm trù cơ bản và nguyên
thủy. Ngay từ những trang đầu tiên, Kinh Thánh đã đề cập đến hôn nhân như là

một sự kết hợp giữa hai con người khác giới với mục đích phát triển mối quan
hệ xã hội đặc trưng: “Giê-hô-va Đức Chúa trời dùng chiếc xương sườn đã lấy từ
A-đam dựng nên một người nữ và đưa đến cho A-đam. A-đam nói rằng: Bây giờ
mới có người này, là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi, nàng sẽ được gọi là
nữ, vì từ người nam mà có. Bởi vậy, người nam sẽ xa lìa cha mẹ mà gắn bó với
vợ mình, và cả hai trở nên một thịt” [4, tr.22] . Hôn nhân nói đến ở đây dù chưa
thật sự được định hình rõ nét nhưng về cơ bản đã hướng tới vấn đề cốt lõi của
khái niệm hôn nhân, đó là sự tương tác đặc biệt giữa hai người, tạo thành một
quan hệ đôi bên bền vững hướng tới mục tiêu phát triển: “Hãy sinh sôi nảy nở
cho nhiều, đầy mặt đất và thống trị nó” [4, tr.23].
Dưới cái nhìn của Phật giáo, hôn nhân là sự kết giao thế tục của đôi bên
và đôi vợ chồng phải có bổn phận với nhau. Phật học nhấn mạnh sự hòa hợp
giữa vợ và chồng khi hình thành đời sống hôn nhân, đồng thời quan tâm tới bổn
phận mà mỗi người phải thực hiện khi chung sống với người bạn đời của mình.
Một bản Kinh nguyên thủy trong Kinh Tạng Pàli – Sigalovada Sutta, tóm lược
như sau: “Này Gia chủ tử, có năm cách, người chồng phải đối xử với vợ như
phương Tây: Kính trọng vợ, không bất kính đối với vợ; trung thành với vợ; giao
quyền hành cho vợ; sắm đồ nữ trang với vợ; Này Gia chủ tử, được chồng đối xử
như phương Tây theo năm cách như vậy, người vợ có lòng thương tưởng chồng
11


theo năm cách: Thi hành tốt đẹp bổn phận của mình; khéo tiếp đón bà con;
trung thành với chồng; khéo gìn giữ tài sản của chồng; khéo léo và nhanh nhẹn
làm mọi công việc” [18, tr.34]. Trên nền tảng đạo đức nhà Phật, hôn nhân không
được khuyến khích, nhưng Đức Phật tán thán những cặp vợ chồng sống hạnh
phúc với nhau.
Trên thế giới, một khái niệm được coi như cổ xưa và mang tính truyền
thống về hôn nhân của Cơ đốc giáo được Lord Penzance đưa ra trong phán
quyết về vụ án Hyde v Hyde (1866) như sau: “Hôn nhân là sự liên kết tự nguyện

suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà, mà không vì mục đích
nào khác” [29, tr.15]. Khái niệm này tuy được đưa ra cách đây khá lâu xong vẫn
thể hiện được một số đặc điểm cốt lõi của hôn nhân như: Tính chất tự nguyện,
tính bền vững và tính chất dị giới. Ngoài khái niệm trên, hiện nay, một số luật
gia ở Châu Âu và Mỹ quan niệm: “Hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa một
người nam và một người nữ với tư cách là vợ chồng” [30], hoặc: “Hôn nhân là
hành vi hoặc tình trạng chung sống giữa một người nam và một người nữ với tư
cách là vợ chồng” [28, tr.39]. Các khái niệm này đều nhấn mạnh tới tư cách vợ
chồng của hai người khác giới. Tuy nhiên hiện nay, với sự phát triển đa dạng
của xã hội, vấn đề giới tính được đặt ra bàn luận dưới cơ sở vững chắc về quyền
con người đã khiến một số quan điểm pháp lý mà đặc biệt là quan niệm về hôn
nhân được thay đổi một cách phù hợp hơn, đó là việc thừa nhận hôn nhân đồng
tính. Trong phiên bản mới cuốn từ điển giải thích nổi tiếng của Pháp - cuốn Le
Petit Robert, khái niệm “hôn nhân” được giải thích là “sự kết hợp hợp pháp giữa
nam và nữ và trong một vài hệ thống pháp luật là sự kết hợp giữa hai người
cùng giới”. Hay trong phần diễn giải từ điển Oxford nêu: “ Hôn nhân có thể là
một mối quan hệ chính thống có đối tác là đồng giới”.
Ở Việt Nam, trước khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực,
chưa có một khái niệm chính thức nào về hôn nhân được ghi nhận trong luật.
Một khái niệm được sử dụng phổ biến trong giai đoạn này là “giá thú”, “giá thú
(hay hôn thú) là sự phối hợp của một người đàn ông và một người đàn bà theo
thể thức luật định” [17, tr.239], hoặc “giá thú” cũng được hiểu: “sự trai gái lấy
12


nhau trước mặt viên hộ lại và phát sinh ra những nghĩa vụ tương hỗ cho hai bên
về phương diện đồng cư, trung thành và tương trợ” [13, tr.100]. Trong Từ điển
Tiếng Việt của Hoàng Phê đưa ra một khái niệm ngắn gọn “Hôn nhân là việc
nam nữ chính thức lấy nhau làm vợ chồng” [16, tr.461]. Trong Luật HN&GĐ
Việt Nam năm 2000, khái niệm hôn nhân đã được các nhà làm luật và các nhà

nghiên cứu luật học quan tâm hơn với quy định: “Hôn nhân là quan hệ giữa vợ
và chồng sau khi đã kết hôn” (Khoản 6, Điều 8), Luật HN&GĐ năm 2014 cũng
giữ nguyên khái niệm về hôn nhân như Luật HN&GĐ năm 2000 (Khoản 1, Điều
3). Còn theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của trường Đại học Luật Hà
Nội, hôn nhân được hiểu là: “Sự liên kết giữa người nam và người nữ dựa trên
nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, theo điều kiện và trình tự nhất định, nhằm
chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc và hoà thuận”
[24, tr.148]. Từ đây có thể thấy hôn nhân thực chất là việc xác lập quan hệ vợ
chồng trước pháp luật thông qua sự kiện kết hôn với tính chất tự nguyện, tính
bền vững, tính chất một vợ một chồng, tính dị giới và tính chất luật định.
Hiện nay vấn đề bản chất pháp lý của hôn nhân vẫn đang được tranh luận
và tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, trong đó việc coi hôn nhân là hợp đồng
hay là một thiết chế pháp luật là hai luồng ý kiến khác nhau. Xét trên khía cạnh
pháp lý, rất dễ nhầm lẫn quan hệ hôn nhân với quan hệ giao kết hợp đồng vì cả
hai đều thể hiện sự thỏa thuận đôi bên nhằm mục đích thiết lập một quan hệ
pháp lý nào đó và hướng tới việc phát sinh, thực hiện quyền, nghĩa vụ đối với
nhau. Tuy nhiên, nếu xem xét một cách kỹ lưỡng có thể thấy, hôn nhân và hợp
đồng là hai chế định không đồng nhất. Mục đích chủ yếu của hôn nhân là để tạo
lập gia đình, trong khi mục đích của hợp đồng là tạo lập, thay đổi và chấm dứt
quyền, nghĩa vụ dân sự. Mặt khác trong giao kết hợp đồng, năng lực chủ thể
giao kết không phụ thuộc vào các yếu tố như giới tính, huyết thống, điều kiện
một vợ một chồng như trong hôn nhân. Ngoài ra, một hợp đồng có thể chấm dứt
do các bên trong hợp đồng thoả thuận hoặc do ý chí đơn phương của một bên,
mà không cần có phán quyết của Toà án. Trong khi đó, một quan hệ hôn nhân
13


chỉ chấm dứt khi có bản án, quyết định của Toà án xử cho ly hôn hoặc công
nhận thuận tình ly hôn.
Tóm lại, hôn nhân chỉ nên xem là một thiết chế nhằm xác lập tư cách vợ

chồng cho đôi bên trước pháp luật mà thôi.
1.1.2. Quan niệm về huyết thống và hôn nhân cận huyết thống
1.1.2.1. Dưới góc độ xã hội
Lịch sử hình thành và phát triển của loài người từ thuở sơ khai cho đến
nay đã trải qua rất nhiều những giai đoạn, trong đó có những giai đoạn đánh dấu
bước chuyển biến từ một quần thể mang tính loài qua một xã hội mang tính
người nhiều hơn. Ở thời kỳ tiền sử, sự liên kết giữa một người đàn ông và một
người đàn bà không có sự phân chia ngôi thứ thích thuộc, không có bất cứ sự
ràng buộc, ngăn cách hoặc giới hạn nào. Giữa họ đơn thuần là mối quan hệ bản
năng thuần túy nhằm thỏa mãn nhu cầu tính loài và được đặc trưng bởi lối sống,
sinh hoạt bầy đàn. Đương nhiên, quan niệm về huyết thống chưa được hình
thành.
Bước tiếp cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội loài người, sự
tương tác giữa các cá thể trong quần thể người dần dần có xu hướng văn minh
hơn với sự xuất hiện của hình thái hôn nhân – gia đình dù còn sơ khai và tồn tại
những hạn chế nhất định (Gia đình huyết tộc, gia đình Puna Luan và hôn nhân
đối ngẫu). Điều đáng nói ở đây là từ thể chế quần hôn, loài người dần hướng tới
quan hệ hôn nhân gia đình cá thể, và cũng từ đó kéo theo sự xuất hiện quan niệm
huyết thống, họ hàng hay những người có cùng dòng máu.
Huyết thống trước hết được hiểu là quan hệ về di truyền sinh học, là quan
hệ giữa cha, mẹ và con trong đó người này sinh ra người kia. Về mặt sinh học,
con cái là kết quả của quá trình thụ tinh giữa tinh trùng của người cha và trứng
(noãn) của người mẹ. Khi một đứa trẻ chào đời, giữa đứa trẻ đó và bố mẹ của
chúng tồn tại những điểm tương đồng trên phương diện di truyền mà trước hết là
cấu trúc Gene và đặc điểm thể chất. Quan hệ này tiếp tục phái sinh theo chiều
dọc khi những người con tiếp tục quá trình sinh sản. Mặt khác, theo quan niệm
truyền thống của Việt Nam, huyết thống còn được hiểu là quan hệ ruột thịt với
14



nhau như quan hệ anh chị và em, ông bà và cháu, cô dì, chú bác, cậu với các
cháu hay còn gọi là quan hệ họ hàng. Không có một giới hạn nào nói là quan hệ
đến đời thứ mấy thì không còn được gọi là cùng huyết thống, tuy nhiên việc kết
hôn giữa những người này không phải là tự do mà đặt dưới sự điều chỉnh của
pháp luật hôn nhân và gia đình.
Theo từ điển Hán Việt: “Cận” có nghĩa là gần, cạnh bên, ám chỉ khoảng
cách gần gũi xét về mức độ. “Huyết thống” là dòng dõi cùng một máu mủ và
“Huyết tộc” là người họ nội, họ ngoại có quan hệ huyết thống với nhau, do một
ông tổ -tiên sinh ra [1, tr.324]. Như vậy có thể hiểu cận huyết thống là tình trạng
một hoặc nhiều người có quan hệ gần gũi về mặt máu mủ, có thể là có nguồn
gốc do cùng một người sinh ra hoặc có bố, mẹ, ông, bà do cùng một người sinh
ra, mức độ gần gũi giữa những người này còn phụ thuộc vào từng trường hợp cụ
thể. Việc xác lập quan hệ vợ chồng giữa những người nêu trên được gọi là hôn
nhân cận huyết thống.
Dưới góc độ xã hội, hôn nhân cận huyết thống không được ủng hộ bởi
những ảnh hưởng tiêu cực của nó đối với sức khỏe thế hệ trẻ. Trẻ em sinh ra từ
các cặp vợ chồng hôn nhân cận huyết thống dễ có nguy cơ mắc các bệnh di
truyền gene lặn như hồng cầu hình liềm, mù màu, bạch tạng, da vảy cá. Đặc biệt
là bệnh tan máu bẩm sinh - Thalassemia. Trong đó có một số bệnh gây ra nguy
cơ tử vong rất cao. Ngoài những khó khăn về đời sống kinh tế - xã hội, quan hệ
hôn nhân cận huyết thống chính là một trong những nguyên nhân làm suy giảm
sức khỏe, tăng tỷ lệ bệnh tật đối với những đứa trẻ được sinh ra, gây suy thoái
chất lượng giống nòi.
1.1.2.1. Dưới góc độ pháp lý
Dưới con mắt của những nhà làm luật, hôn nhân cận huyết thống là một
trong những yếu tố pháp lý thuộc về điều kiện kết hôn.
Điều kiện kết hôn là một trong những nội dung quan trọng thuộc phạm vi
điều chỉnh của chế định kết hôn. Từ điển giải thích thuật ngữ luật học (Phần
Luật Dân sự, Luật HN&GĐ, Luật Tố tụng dân sự) định nghĩa: “Điều kiện kết
hôn là điều kiện để Nhà nước công nhận việc kết hôn của các bên nam nữ” [24.

15


Tr. 145]. Có thể hiểu điều kiện kết hôn là những yêu cầu mà pháp luật đặt ra đối
với người kết hôn dưới dạng các quy phạm pháp luật, buộc người kết hôn phải
tuân thủ để đảm bảo lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Nếu xét trên phương diện
quyền và nghĩa vụ thì để thực hiện được quyền kết hôn, các bên nam nữ phải có
nghĩa vụ tuân thủ pháp luật về điều kiện kết hôn và một trong những điều kiện
đó là: Cấm kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những
người có họ trong phạm vi ba đời.
Pháp luật Việt Nam không đưa ra khái niệm chính thức thế nào là hôn
nhân cận huyết thống, thuật ngữ hôn nhân cận huyết thống cũng không được
nhắc đến như một khái niệm pháp lý chính thống được ghi nhận trong luật.
Điểm d, khoản 2, Điều 5, Luật HN&GĐ năm 2014 đưa ra một trong những điều
kiện để hôn nhân được công nhận hợp pháp và dường như đã mô tả khái niệm
hôn nhân cận huyết thống bằng ngôn ngữ pháp lý. Theo đó, hôn nhân cận huyết
thống dưới góc độ pháp lý được hiểu là việc kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ, giữa những người có họ
trong phạm vi ba đời.
Một cách tổng quát, “những người cùng dòng máu về trực hệ được hiểu là
những người có quan hệ huyết thống, trong đó, người này sinh ra người kia kế
tiếp nhau” (Khoản 17, Điều 3, Luật HN&GĐ năm 2014). Căn cứ để xác định
giữa hai người có cùng dòng máu về trực hệ hay không được xem xét dưới góc
độ sinh học, tức là giữa những người đó phải có quan hệ huyết thống theo chiều
dọc, người này sinh ra người kia kế tiếp nhau. Như vậy, quan hệ trực hệ được
hiểu là quan hệ về huyết thống, sinh sản và loại trừ quan hệ nuôi dưỡng, hôn
nhân. Một cách cụ thể thì giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là
cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng
với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng không được coi là những
người có cùng dòng máu về trực hệ vì giữa những người này không có quan hệ

huyết thống và người này không sinh ra người kia kế tiếp nhau. Về khái niệm
những người có họ trong phạm vi ba đời, Khoản 18, Điều 2, Luật HN&GĐ 2014
giải thích: “Những người có họ trong phạm vi ba đời là những người cùng một
16


gốc sinh ra gồm cha mẹ là đời thứ nhất; anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha
khác mẹ, cùng mẹ khác cha là đời thứ hai; anh, chị, em con chú, con bác, con
cô, con cậu, con dì là đời thứ ba”. Phạm vi ba đời được tính từ “gốc”, tức là
một cặp vợ chồng là đời thứ nhất thì những người con của họ là đời thứ hai,
trong đó bao gồm cả con chung và con riêng. Quan hệ giữa những người thuộc
đời thứ hai được xác định là anh, chị, em ruột (cùng cha, mẹ) hoặc anh , chị, em
cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha. Đời thứ ba là con của những người thuộc
đời thứ hai, giữa những người ở đời thứ ba được xác định là có quan hệ anh, chị,
em con cô, con cậu, con bác, con dì. Những người thuộc phạm vi nêu trên không
được phép kết hôn với nhau theo quy định của pháp luật.
1.1.3. Khái niệm kiểm soát hôn nhân cận huyết thống
Kiểm soát được hiểu là quá trình đo lường kết quả thực hiện, so sánh với
các tiêu chuẩn, phát hiện sai lệch và nguyên nhân, tiến hành các điều chỉnh
nhằm làm cho kết quả cuối cùng phù hợp với mục tiêu đã được xác định. Một
cách cơ bản, kiểm soát là việc xác định tình hình đối tượng đã và đang vận động
như thế nào trên thực tế, từ đó nhận biết những yếu tố làm phát sinh và hỗ trợ
đối tượng, qua đó tác động với những biện pháp cụ thể nhằm hướng tới mục tiêu
đặt ra cho đối tượng.
Khái niệm kiểm soát khá rộng, bao trùm nhiều lĩnh vực khoa học và xã
hội. Dưới mỗi góc độ nghiên cứu đối tượng, ta lại có những biện pháp kiểm soát
khác nhau, tuy nhiên, dưới góc độ pháp lý, khái niệm kiểm soát thường được
tiếp cận trên phương diện thời gian, lúc này, kiểm soát bao gồm kiểm soát trước,
kiểm soát trong và kiểm soát sau. Trong đó, kiểm soát trước là quá trình được
tiến hành trước khi đối tượng diễn ra nhằm ngăn chặn các vấn đề xảy ra tác động

tiêu cực đến đối tượng; kiểm soát trong là kiểm soát được tiến hành trong quá
trình đối tượng diễn ra nhằm hạn chế những vấn đề phát sinh từ đối tượng; và
kiểm soát sau là kiểm soát được tiến hành sau khi công việc hoàn thành nhằm
điều chỉnh những vấn đề đã xảy ra.
Hôn nhân cận huyết thống là một đối tượng cần và rất cần được kiểm soát
bởi những hệ lụy mà nó mang lại với sức khỏe thế hệ. Với những đặc điểm của
17


kiểm soát, có thể hiểu kiểm soát hôn nhân cận huyết thống là quá trình phát
hiện, đánh giá thực trạng hôn nhân cận huyết thống qua đó tìm hiểu nguyên
nhân và đề ra những giải pháp nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu, khắc phục và hướng
tới mục tiêu xóa bỏ tình trạng này. Kiểm soát hôn nhân cận huyết thống là một
quá trình với nhiều giai đoạn, tuy nhiên, một cách khái quát nhất và cơ bản nhất,
kiểm soát hôn nhân cận huyết thống là việc sử dụng kết hợp những giải pháp
pháp lý và thực tiễn để hạn chế thực trạng hôn nhân cận huyết.
1.2. YÊU CẦU KIỂM SOÁT BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HÔN NHÂN
CẬN HUYẾT THỐNG
1.2.1. Mục đích của việc kiểm soát hôn nhân cận huyết thống
Kiểm soát hôn nhân cận huyết thống để tránh suy thoái giống nòi, để có
nguồn nhân lực chất lượng. Trong quá trình sống, các đặc điểm trên mỗi con
người được quy định bởi vật liệu di truyền ở bên trong, thường được gọi là các
gene. Các gene từ thế hệ trước qua thế hệ sau cứ xảy ra hiện tượng nhân đôi và
trong quá trình đó thì lại xảy ra sai sót, người ta gọi là đột biến gene, tức là xuất
hiện gene lặn. Khi kết hôn giữa hai người cùng huyết thống, cùng một đặc điểm
lặn nào đó, trong cơ thể thế hệ sau có khả năng tổ hợp lại, sinh ra bệnh tật di
truyền. Theo PGS.TS Bùi Thị Mai An, Trưởng khoa Huyết thanh học nhóm máu
– Viện huyết học – Truyền máu Trung Ương khẳng định: Theo thống kê, những
đứa trẻ được sinh ra từ những ông bố bà mẹ có hôn nhân cận huyết thống có
nguy cơ mắc các bệnh máu cao gấp 10 lần so với những trẻ bình thường khác.

Điển hình của các bệnh máu này là Thalassemia (tan máu di truyền) và
Hemophilia (rối loạn đông máu di truyền). Ngoài những bệnh lý về máu, hôn
nhân cận huyết thống còn gây ra một số bệnh lý khác như mù màu, bạch tạng, da
vảy cá…làm suy thoái chất lượng giống nòi và gánh nặng cho gia đình, xã hội
[41]. Tổ chức y tế thế giới WHO cũng khuyến cáo: Tỷ lệ tử vong ở thế hệ sau
của những cặp vợ chồng cùng huyết thống là rất cao, cao gấp 3 lần so với những
người bình thường. Còn tỷ lệ trẻ bị dị tật thì còn cao hơn nữa, gấp khoảng năm
đến sáu lần [38].
18


Khoa học và thực tế đã chứng minh hậu quả nhãn tiền và khốc liệt của
thực trạng kết hôn cận huyết, những ảnh hưởng tiêu cực và lâu dài mà nó mang
lại đối với thế hệ sau là dễ nhận thấy. Với tỷ lệ cao mắc các bệnh di truyền của
trẻ được sinh ra từ những cuộc hôn nhân cận huyết đã đặt ra yêu cầu kiểm soát
và hướng tới xóa bỏ triệt để thực trạng này.
Kiểm soát hôn nhân cận huyết thống để bảo tồn các giá trị truyền thống,
đạo đức. Ở Việt Nam, cách xưng hô giữa những người có quan hệ họ hàng với
nhau phụ thuộc vào thứ bậc và quan hệ gần gũi xét về mặt huyết thống. Các đại
từ nhân xưng thể hiện sự tôn trọng, tính nề nếp và sự giáo dục trong mỗi gia
đình. Việc kết hôn cận huyết thống khiến trật tự các mối quan hệ gia đình bị đảo
lộn gây ra sự lúng túng trong xưng hô, giao tiếp cũng như ảnh hưởng tới các
chuẩn mực đạo đức truyền thống. Trong “Cổ luật Việt Nam lược khảo”, Vũ Văn
Mẫu nhấn mạnh: Trên phương diện luân thường đạo lý, cũng như vì lý do sức
khỏe và tương lai của giống nòi, nên luật pháp nước nào cũng cấm đoán việc kết
hôn giữa các thân thích, chỉ khác nhau trong chi tiết cấm đoán các bậc thân sơ
mà thôi. Theo quan niệm của Khổng giáo trong luật Trung hoa, cũng như trong
luật Việt Nam, các sự cấm đoán rất nghiêm khắc, rộng rãi, bao trùm tất cả các
người cùng một họ [12, tr.181,182]. Vậy nên, việc kiểm soát thực trạng hôn
nhân cận huyết chính là một cách bảo tồn những giá trị truyền thống, đạo đức

trong gia đình, tránh việc xâm phạm đến thuần phong, mỹ tục được bồi đắp từ
ngàn đời nay của dân tộc, đặc biệt là những giá trị đạo đức thể hiện nét đẹp văn
hóa trong gia đình Việt.
1.2.2. Vai trò của pháp luật trong việc kiểm soát hôn nhân cận huyết thống
Hiện nay, kết hôn cận huyết thống đã không còn phổ biến tuy nhiên còn tiềm ẩn
những nguy cơ cần được loại bỏ. Theo thống kê của Tổng cục Dân số và Kế hoạch
hóa gia đình (Bộ Y tế) cho thấy, các dân tộc Lô lô, Hà Nhì, Phù lá, Chứt, Ê-đê, Chu ru,
Si la, Pu péo, Mông, Rơ măm, Brâu… có tỷ lệ hôn nhân cận huyết thống lên đến 10%,
tức là cứ 100 trường hợp kết hôn thì có 10 trường hợp hôn nhân cận huyết thống. Hôn
nhân cận huyết thống xảy ra chủ yếu ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên, điển hình là
các tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng, Hòa Bình, Hà Tĩnh, Kon Tum [26, tr.11].
19


Như đã đề cập, một trong những hậu quả của các cuộc hôn nhân cận huyết là
trẻ sinh ra bị mắc các bệnh di truyền, trong đó có Thalassemia (tan máu di truyền).
Việt Nam là nước có tỷ lệ người mắc bệnh Thalassemia cao, với các thể α Thal, β Thal
và HbE. Tỷ lệ mắc bệnh cũng rất khác nhau giữa các dân tộc: Ở người Ê-đê và
Khơme thì tỷ lệ HbE cao tới khoảng 40%; ở các dân tộc thiểu số Mường, Thái, Tày
cũng cao tới 10-25%, còn ở người Kinh tỷ lệ này từ 2-4% [26, tr.12]. Thực trạng nêu
trên đặt ra yêu cầu kiểm soát và pháp luật là một trong những công cụ tiên quyết và
hiệu quả. Việc kiểm soát hôn nhân cận huyết thống bằng pháp luật giúp hạn chế nguy
cơ hôn nhân cận huyết thống từ trong ý thức.
Một bộ phận người dân, đặc biệt là người đồng bào dân tộc thiểu số vẫn chưa
nhận thức hoặc chưa nắm vững về chế độ hôn nhân và gia đình, quyền và nghĩa vụ
cũng như các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình, điều này đã cản trở
hôn nhân tiến bộ và hiệu quả điều chỉnh của pháp luật bị hạn chế. Tuy nhiên, pháp luật
vẫn thực sự là công cụ hữu hiệu và chính thống nhất để cải thiện tình trạng kết hôn cận
huyết thống hiện nay. Nếu chỉ dừng lại ở mức độ tuyên truyền với những lập luận
thiếu cơ sở pháp lý thì sẽ khó đem lại hiệu quả thuyết phục, việc tuyên truyền sẽ chỉ

thực sự thể hiện được vai trò của nó khi gắn với pháp luật, trên cơ sở pháp luật. Nhiều
hủ tục lạc hậu trong việc kết hôn trong đó có hôn nhân cận huyết thống phần lớn bắt
nguồn từ những phong tục, tập quán đã ăn sâu vào tiềm thức của cả một cộng đồng
người. Để hạn chế điều này, cách tốt nhất và được coi là triệt để nhất chính là thay đổi
cách nghĩ qua đó tác động nhằm hình thành ý thức pháp luật hôn nhân và gia đình tích
cực của người dân. Để làm được điều đó, cần phải nhận ra vai trò không thể thay thế
của pháp luật khi tác động một cách mạnh mẽ đến ý thức của người dân. Những chế
tài pháp luật đối với hành vi kết hôn cận huyết nếu đủ tính răn đe sẽ hạn chế một cách
tối đa ý định tiềm tàng trong mỗi người nhằm ngăn chặn hành vi kết hôn cận huyết
thống phát sinh từ trong tiềm thức của họ. Những chuẩn mực hành vi sẽ dần hình
thành và những hành vi kết hôn trái với pháp luật sẽ được loại bỏ, đó là kết quả và
mục tiêu lâu dài mà pháp luật đem lại trong công cuộc kiểm soát tình trạng hôn nhân
cận huyết thống hiện nay.
20


1.3. KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HÔN NHÂN CẬN HUYẾT
THỐNG Ở VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ.
1.3.1. Quy định về hôn nhân cận huyết thống trong pháp luật thời kỳ
phong kiến.
Với đặc thù của hệ tư tưởng phong kiến lạc hậu, pháp luật hôn nhân và gia
đình thời kỳ này chủ yếu đề cao giá trị tôn nghiêm thứ bậc trong gia đình dưới
ảnh hưởng chủ yếu của quan điểm đức trị và lễ nghĩa Nho giáo: Vợ phải tiết
nghĩa với chồng, con cái phải hiếu thảo với cha mẹ…. Các quan hệ hôn nhân và
gia đình, đặc biệt là quan hệ về kết hôn được pháp luật phong kiến quy định một
cách khá nghiêm ngặt, yêu cầu tuân thủ tối đa lễ nghi tôn giáo, tôn ti trật tự và
các giá trị đạo đức trong gia đình. Trong hệ thống cổ luật Việt Nam, bộ Quốc
triều Hình luật (Luật Hồng Đức) và bộ Hoàng Việt luật lệ (Luật Gia Long) là hai
bộ luật có quy mô và đặc trưng pháp lý lớn nhất, trong đó việc quy định về điều
kiện kết hôn có những điểm tương đồng nhất định, đặc biệt là những quy định

có liên quan đến kết hôn giữa những người thân thích, họ hàng.
Bộ luật Hồng Đức quy định: “Người vô loài lấy cô, dì, chị, em gái, kế nữ,
người thân thích đều phỏng theo luật gian dâm mà trị tội” [27, tr.149]. Có thể
hiểu quy định này theo hướng cấm kết hôn giữa người đàn ông với các đối
tượng thân thích, họ hàng bề trên như cô, dì, bề ngang như chị gái, em gái và bề
dưới như con gái riêng của vợ (kế nữ). Tuy nhiên với tính chất liệt kê thiếu tổng
quát như vậy khiến điều luật nhiều lỗ hổng như chưa tính đến yếu tố huyết thống
trực hệ hay chưa giải thích các trường hợp kết hôn giữa những người thân thích.
Theo Thiên Nam Dư hạ tập, chương Điều lệ có điều “Lệ giá thú phi loài” nói
rằng: Cùng họ trong vòng năm bậc tang phục và cùng họ mà đã xa không có
tang phục, là đồng tính, cùng là con cô, con cậu, con dì, cao thấp không ngang
nhau, đều cấm, nếu là cháu cậu, cháu cô thì không cấm. Điều luật này giới hạn
phạm vi kết hôn khá rộng theo năm bậc tang phục hoặc ngoài năm bậc tang phục
nhưng có cùng họ vẫn thuộc phạm vi cấm kết hôn. Tuy nhiên nếu là cháu cô,
cháu cậu thì được kết hôn với nhau nghĩa là đời thứ tư theo cách tính họ hàng
21


hiện nay, đây là một điều khá tiến bộ dù giai đoạn đó chưa có nhiều thành tựu
trong việc nghiên cứu khoa học di truyền.
Hoàng Việt luật lệ quyển 7 chương Hộ luật hôn nhân điều Tôn ti họ hàng
mà cùng lấy nhau quy định:
Theo chế độ để tang, người thân bên ngoại phải để tang, trừ cháu ngoại của
ông bà ngoại, tôn thuộc ti thuộc mà làm sui gia là cậu của mẹ với cháu ngoại
gái, dì của mẹ với cháu gái của dì, và lấy cùng ở chung một nhà chị em khác
cha, lấy con gái của chồng trước. Bốn hạng vừa nói trên là quan hệ luân lý với
nhau, cho nên lấy nhau thì buộc tội theo luật về bà con lấy nhau, xử tội theo thân
thuộc gian dâm với nhau. Lấy chị em của mẹ thì xử treo cổ. Lấy cháu ngoại gái
và chị em cùng mẹ khác cha, con gái của chồng trước, đều bị phạt 100 trượng, đi
tù 3 năm. Về bà con bên ngoại không có chế độ để tang tôn thuộc: một là chị em

cô cậu của cha mẹ, hai là chị em của cha mẹ, ba là dì của cha mẹ, bốn là dì họ
của cha mẹ, năm là cô của mẹ, sáu là cô họ của mẹ, bảy là cô họ của mình, tám
là dì của mình, hết thảy không được kết hôn với nhau. Về bà con bên ngoại, ti
thân không có chế độ tang phục: một là cháu ngoại gái của mình, hai là chị em
của rể, ba là chị em của vợ, của cháu con. Ba hạng này dù không có chế độ để
tang, nhưng cũng đủ tôn ti mỗi phận nên cũng không được làm sui gia. Nếu ai
làm trái thì phạt 100 trượng. Nếu chị em hai dì cô cậu của mình dù không dính
đến tôn ti, nhưng thân thuộc không xa lắm, lại có chế độ để tang, cho nên cũng
không được làm sui gia. Nếu cưới nhau thì phạt 80 trượng, phải li dị, trả về tông
tộc, trai gái cùng bị xử tội, tiền cưới cho vào nhà quan [19, tr.162].
Có thể thấy Hoàng Việt Luật lệ đã giới hạn phạm vi kết hôn bao quát rộng
ngoài năm bậc tang phục, thể hiện rõ ý chí của nhà làm luật trong việc bảo vệ
những trật tự, luân lí trong hệ thống gia đình Việt.
Nhìn chung, pháp luật phong kiến đối với vấn đề hôn nhân cận huyết
thống vẫn còn nhiều hạn chế thuộc về lịch sử như quy định thiếu bao quát dẫn
đến thiếu các trường hợp cấm kết hôn giữa những người được xem là thân thích,
họ hàng hoặc quy định phạm vi quá rộng khiến hạn chế quyền tự do kết hôn của
cá nhân. Tuy nhiên, trên phương diện tích cực có thể thấy, nhà làm luật thời kỳ
22


này đã có những quan tâm cần thiết với vấn đề hôn nhân cận huyết, hình phạt
được sử dụng rất cứng rắn thể hiện thái độ quyết tâm bài trừ những hành vi xâm
phạm đến tôn ti, trật tự cũng như những giá trị truyền thống của gia đình người
Việt.
1.3.2. Quy định về hôn nhân cận huyết thống trong pháp luật Việt
Nam thời kỳ Pháp thuộc
Dưới ách cai trị của chế độ thực dân, nước ta bị chia cắt làm ba miền: Bắc
kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ, tương ứng với mỗi miền là một bộ luật điểu chỉnh
tương ứng. Ở Bắc kỳ áp dụng Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931, ở Nam kỳ áp dụng

Bộ Dân luật Trung kỳ năm 1936 và tập Dân luật giản yếu Nam kỳ năm 1883
được áp dụng tại Nam kỳ. Đối với vấn đề hôn nhân cận huyết thống, cả ba bộ
luật đều gói gọn trong những quy định về điều kiện kết hôn nhằm bảo vệ lợi ích
trực tiếp của những người kết hôn.
Thứ nhất: Việc cấm lấy người thân thích về trực hệ được quy định thống
nhất trong cả ba bộ luật. Phạm vi nghiêm cấm bao gồm các quan hệ tôn thuộc, ti
thuộc về huyết thống thân sinh, về nghĩa dưỡng, do hôn nhân hoặc do biệt tình
(ngoại tình và có con ngoài giá thú). Điều 74 thuộc Chương hai – Giá thú: Tiết
thứ nhất: Tư cách cần thiết về sự kết hôn – Dân luật Trung kỳ năm 1936 ghi
nhận: “Phàm những người thân thuộc hay người phối ngẫu của người thân
thuộc về trực-hệ, bất cứ là tôn thuộc hay ti thuộc, hoặc do chánh đáng thân
sanh, hoặc do biệt tình, hoặc do nghĩa dưỡng mà thành ra thân thuộc đều cấm
không được lấy nhau. Cấm người chồng không được lấy con riêng của người vợ
do lấy chồng trước mà sanh ra, người vợ góa không được lấy con riêng của
người chồng do lấy vợ trước mà sanh ra” [9, tr.35,36]. Sự thống nhất trong tinh
thần quy định của cả ba bộ luật xuất phát từ các chuẩn mực đạo đức, lễ giáo
phong kiến dung hòa với truyền thống tôn ti, trật tự và yêu cầu kế thừa, học hỏi
các văn bản pháp luật đương thời trong và ngoài nước.
Thứ hai: Về cấm kết hôn trong bàng hệ, nhìn chung các văn bản luật ở cả
ba miền Bắc, Trung, Nam đều có quy định khá giống nhau, cấm kết hôn giữa
một số quan hệ bàng hệ giữa các đối tượng họ hàng như anh, chị em (cùng cha,
23


×