Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

Thi pháp truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 1985 (LA tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1006.06 KB, 193 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN VŨ CÔNG HOÀI

THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1975 – 1985

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Hà Nội – 2017


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN VŨ CÔNG HOÀI

THI PHÁP TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1975 – 1985

Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 62.22.01.21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS. Tôn Thảo Miên

Hà Nội – 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài
liệu, những kết luận, nhận định trong luận án là trung thực và chưa được
công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 19 tháng 07 năm 2017
Tác giả luận án

Đoàn Vũ Công Hoài


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ............................................ 5
5. Đóng góp về khoa học của luận án ................................................................ 6
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ....................................................... 7
7. Cơ cấu của luận án ......................................................................................... 7
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu ................................................ 8
1.1. Những nghiên cứu lý thuyết về thi pháp và thi pháp truyện ngắn ............. 8
1.2. Những nghiên cứu về thi pháp truyện ngắn VN giai đoạn 1975-1985 .... 24
Chương 2: Truyện ngắn Việt Nam 1975-1985, bước chuyển đổi quan
niệm nghệ thuật về con người ....................................................................... 36
2.1. Bối cảnh lịch sử xã hội và văn học nghệ thuật sau năm 1975 .................. 36

2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người ........................................................ 51
Chương 3: Thời gian và không gian, giọng điệu và ngôn ngữ trong
truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985 ............................................. 73
3.1. Thời gian và không gian nghệ thuật ......................................................... 73
3.2. Giọng điệu và ngôn ngữ ........................................................................... 93
Chương 4: Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985 trên bình diện
thi pháp thể hiện ........................................................................................ ..116
4.1. Thi pháp cốt truyện, tình huống ………….…………………………....116
4.2. Thi pháp kết cấu, trần thuật ……………………………………….…...138
KẾT LUẬN………………………………………………………………...163
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ……………...167
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………168
PHỤ LỤC: TÁC PHẨM KHẢO SÁT TRONG LUẬN ÁN………….…184


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Thi pháp học là một trong những đường hướng nghiên cứu văn
học có từ lâu, nhưng nó thực sự được các nhà nghiên cứu quan tâm vào
những năm đầu của thế kỷ XX. Người ta căn cứ vào ngôn ngữ để cắt nghĩa
thế giới tinh thần của nhà văn. Từ đó, trích đoạn để phân tích, so sánh, chỉ
ra cách cảm nhận về tư tưởng thẩm mĩ trên ba phương diện: không gian,
thời gian nghệ thuật và phương thức biểu hiện. Bởi nghệ thuật là một thế
giới chủ quan của người nghệ sĩ. Nó kết tinh cách nhìn, cách nghĩ của nhà
văn về thế giới. Vì vậy, đối tượng nghiên cứu của văn học là chỉ ra ý thức
của chủ thể nghệ thuật, các phạm trù của thế giới khách quan và chủ quan
như một phương cách nhìn ra thế giới. Cách tiếp cận thi pháp học cho phép
người ta khám phá ra các chiều kích khác nhau như: hình tượng tác giả,
phong cách nghệ thuật trong chỉnh thể nghệ thuật của tác phẩm.
Ở Việt Nam thi pháp học du nhập vào một số trường đại học ở miền

Nam trước năm 1975. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu này mới chỉ được giới
thiệu, tiếp nhận theo hướng thi pháp xã hội học. Vào những năm 80, thi
pháp học bắt đầu có sự du nhập, đổi mới mạnh mẽ với các khuynh hướng
ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu trúc luận, phân tâm học, phong cách học, thi
pháp học lịch sử, tự sự học… Điều này thể hiện rõ trong các công trình
nghiên cứu của Hoàng Trinh, Phan Ngọc, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình
Sử, Nguyễn Phan Cảnh, Đỗ Đức Hiểu, Lại Nguyên Ân, Lê Ngọc Trà, Đỗ
Lai Thuý, Nguyễn Xuân Kính, Vương Trí Nhàn… Đây được coi như là
hiện tượng mới của nghiên cứu văn học.
1.2. Sau 1975, tình hình đất nước đã có nhiều biến đổi, đời sống xã
hội chuyển từ chiến tranh sang hoà bình. Cuộc sống mới hiện ra với tất cả
những bộn bề, phức tạp của nó. Đây là thời kỳ giao thoa giữa cái cũ và cái
1


mới, cái cũ vẫn chưa mất đi, cái mới manh nha hình thành. Những khó khăn
sau giải phóng và khủng hoảng kinh tế xã hội cuối thập niên 70, cho thấy
tính chất phức tạp và sự chi phối của nền kinh tế bao cấp đưa đến sự phân
cực giữa trắng - đen, thiện - ác, tốt - xấu…; cơ chế quan liêu bao cấp hiện ra
ngày càng rõ. Tất cả những điều trên đã tác động không nhỏ đến đời sống
văn học, tạo ra những đề tài nóng bỏng cho nhà văn khai vỡ, phát triển theo
quy luật mới, quy luật đời thường. Nhà văn Nguyễn Minh Châu nhận định
khái quát về bức tranh xã hội Việt Nam những năm sau chiến tranh đang
diễn ra “một cuộc đối chứng giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa hoàn
thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng và những khoảng bóng tối còn rơi
rớt bên trong tâm hồn của mỗi con người” [30, 364].
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đã mở đường cho nền kinh tế bao cấp
chuyển sang cá thể, cơ chế thị trường; cởi trói cho tư duy con người, đưa lại
một bầu không khí dân chủ, cách nhìn thông thoáng, uyển chuyển về mọi
mặt chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội. Nhờ đổi mới, văn học có điều kiện

chuyển mình với tinh thần nhìn thẳng sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ
sự thật. Không khí cởi mở, dân chủ của đời sống và học thuật đã tác động
mạnh mẽ đến chủ thể sáng tạo, khiến cho quan niệm của họ về hàng loạt
vấn đề dần thay đổi. Từ quan niệm về hiện thực, con người cá nhân đến
quan niệm về cách viết, về sự cần thiết của việc đổi mới thi pháp thể loại.
Quá trình đổi mới văn học ở Việt Nam diễn ra hết sức sôi động và đa dạng
trên các thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, kịch, ký,… Ngoài ra, phải
nói đến lý luận, phê bình đã đạt được nhiều thành tựu, đặc biệt khi đi sâu
cắt nghĩa tiểu thuyết và truyện ngắn theo hướng thi pháp học.
1.3. Truyện ngắn từng đóng vai trò xung kích, tiên phong trong quá
trình hiện đại hoá văn học nước nhà ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX.
Thể tài này tiếp tục năng động, cơ động, có khả năng cập nhật hiện thực đời
sống hàng ngày - một hiện thực luôn vận động, biến chuyển không ngừng.
2


Năm 2008, báo Văn nghệ đã xuất bản tuyển tập 60 năm truyện ngắn báo
Văn nghệ (gồm 5 tập với 5 giai đoạn: 1945 - 1954, 1954 -1965, 1965 1975, 1975 - 1986, 1986 - 2007). Bộ tuyển tập này đã đem đến cho người
đọc một cái nhìn bao quát về các chặng đường trong 60 năm phát triển của
truyện ngắn Việt Nam. Qua đó, có thể hình dung được bước đi, những đổi
mới của thể loại, dấu ấn của lịch sử, thời đại và tư duy nghệ thuật của nhà
văn qua từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Trong ba mươi năm chiến tranh, truyện ngắn đã hoàn thành xuất sắc
vai trò, sứ mệnh của mình là phục vụ kháng chiến với đề tài chiến tranh,
không gian chiến trường và hình tượng là người lính. Với khối lượng đồ sộ,
truyện ngắn giai đoạn này đã cổ vũ tinh thần nhiều thế hệ vượt qua khó
khăn của kháng chiến, lay động lòng người vươn lên trong niềm tin chiến
thắng, thức tỉnh con người về mặt trái của nó. Năm 1975, đất nước bước
sang thời bình, nhưng văn học nói chung và truyện ngắn nói riêng vẫn còn
lao theo quán tính của một nền văn học minh hoạ. Điều đó đã làm cho

truyện ngắn xa rời cuộc sống, lạnh nhạt với tâm tư, tình cảm của con người.
Tuy nhiên, đến cuối những năm 1970, truyện ngắn đã có sự chuyển động
âm thầm, tích cực và cần thiết, tạo tiền đề cho quá trình đổi mới truyện
ngắn đương đại. Tuy không phải là duy nhất, nhưng truyện ngắn lại tập
trung nhiều các yếu tố đổi mới của nền văn học Việt Nam đang trăn trở
chuyển mình. Có thể coi truyện ngắn giai đoạn 1975 -1985 là bước tiền
trạm cho cái mới, là giai đoạn xây nền móng, vỡ giọng để phát triển rực rỡ
từ sau năm 1985.
1.4. Trong các sáng tác qua từng giai đoạn, thi pháp truyện ngắn có
chiều hướng rạn nứt dần, mà nhiều người gọi là hậu hiện đại. Là hướng
nghiên cứu thiên về cắt nghĩa cái lý của hình thức, hình thức mang tính
quan niệm, tức là hình thức mang tính nội dung, thi pháp học là cơ sở quan
trọng trong việc xác lập và phân chia các giai đoạn, thời kỳ và khuynh
3


hướng văn học. Cho nên, để có giai đoạn phát triển rực rỡ từ năm 1986, văn
học phải có thời gian manh nha hình thành, chuẩn bị hay gọi là thể nghiệm,
đó là giai đoạn 1975 – 1985. Chúng tôi lấy thi pháp để soi rọi, so sánh giữa
các giai đoạn phát triển của văn học, đặc biệt là giai đoạn trước và sau đổi
mới.
Rõ ràng, văn học luôn cần những tổng kết qua từng giai đoạn, từ đó
đánh giá về nội dung, nghệ thuật và thi pháp, khuyến khích tìm tòi và thể
nghiệm mới trong sáng tác và nghiên cứu. Đề tài Thi pháp truyện ngắn
Việt Nam giai đoạn 1975 - 1985 sẽ góp phần giải mã những nét độc đáo
đối với truyện ngắn giai đoạn này dưới góc nhìn thi pháp học. Trên cơ sở
đó, so sánh với các thể loại văn học khác, hoặc giữa các giai đoạn, tạo điều
kiện cho truyện ngắn tiếp tục có những đóng góp và tác động trong thực
tiễn sáng tạo.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
Chọn đề tài Thi pháp truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985,
luận án khái quát những nét chung về truyện ngắn Việt Nam giai đoạn hậu
chiến (1975 – 1985), đồng thời phác thảo diện mạo của thi pháp học trong
nghiên cứu truyện ngắn nói chung và truyện ngắn thời kì này nói riêng.
Tìm hiểu truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 trên quan niệm nghệ
thuật về con người, thời gian, không gian và phương thức thể hiện dưới góc
nhìn thi pháp học; luận án khẳng định vị trí, vai trò và đóng góp của những
nhà văn tiêu biểu thời kì này trong tiến trình vận động và đổi mới văn học
Việt Nam thế kỉ XX.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đưa ra một cái nhìn chung về truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 từ
góc nhìn thi pháp học. Khảo sát, phân tích, xác định thi pháp truyện ngắn
4


thời kì này trên phương diện quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian,
không gian nghệ thuật và phương thức thể hiện.
Tìm hiểu thi pháp truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 trên một số
bình diện, phương thức thể hiện. Sau đó rút ra một số kết luận về thi pháp
truyện ngắn Việt Nam thời kỳ này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Trước hết, luận án tập trung khảo sát những tuyển tập truyện ngắn
đoạt giải, đặc sắc do Hội Nhà văn, Báo Văn nghệ và Tạp chí Văn nghệ
Quân đội tuyển chọn từ năm 1975 đến 1985.
Tiếp nữa, luận án khảo sát những truyện ngắn đặc sắc khác của các
Nhà xuất bản ấn hành từ năm 1975 đến 1985.
Ngoài ra, luận án còn mở rộng giao diện với một số truyện ngắn tiêu
biểu ở giai đoạn văn học khác, nhằm chỉ ra nét độc đáo, khác lạ của một

giai đoạn văn học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu đặc điểm thi pháp truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985,
luận án tập trung vào ba phương diện: quan niệm nghệ thuật về con người ;
thời gian và không gian; thi pháp tạo dựng cốt truyện, tình huống, kết cấu,
giọng điệu, ngôn ngữ và nghệ thuật trần thuật.
Chúng tôi không khảo sát toàn diện mà chỉ tập trung nghiên cứu một
số phương diện có tính chất loại hình nhằm nhận ra diện mạo của một giai
đoạn văn học chuyển mình (1975 – 1985).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Ngoài những phương pháp luận chung của nghiên cứu khoa học xã
hội là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, để thực
5


hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng kết hợp nhiều phương pháp chuyên biệt.
Tựu trung lại có thể kể đến các phương pháp chủ yếu sau:
- Phương pháp tiếp cận thi pháp học: đây được xem là phương pháp
chính. Nhằm nghiên cứu về sự tiến hóa của các phương thức, phương tiện
chiếm lĩnh thế giới bằng hình tượng, sự hoạt động chức năng xã hội - thẩm
mỹ của chúng, nghiên cứu số phận của các khám phá nghệ thuật.
- Phương pháp loại hình: nhằm tìm ra những đặc điểm tương đồng
loại hình về thi pháp thể loại, qua đó thấy được nét đặc sắc của thể loại từ
thực tế đời sống văn học.
- Phương pháp so sánh: để có sự đối sánh và cái nhìn sâu hơn về đối
tượng, chúng tôi sẽ tiến hành khảo sát truyện ngắn giai đoạn này trong sự
liên hệ để tìm ra những nét tương đồng và khác biệt giữa truyện ngắn ở giai
đoạn sau năm 1986 và truyện ngắn giai đoạn trước đó (1945 - 1975).
- Phương pháp cấu trúc hệ thống: đặt truyện ngắn Việt Nam giai đoạn
1975 - 1985 trong sự vận động của văn học nói chung, xem xét đối tượng

như một hiện tượng có tính hệ thống, chúng tôi hướng tới việc xác định vị
trí, ý nghĩa của truyện ngắn giai đoạn này trong diễn trình văn học.
- Phương pháp phân tích tác phẩm: nhằm tìm hiểu các yếu tố của văn
bản tác phẩm thông qua việc phục nguyên lại đời sống văn hóa của một thời
đại nhất định, dùng nó để lý giải các vấn đề văn học, đặc biệt là các quan
niệm về văn học và sáng tác văn chương.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng các thao tác nghiên cứu văn học
khác như: phân tích, đối chiếu, thống kê, phân loại, mô hình hóa, khảo sát
văn bản…
5. Đóng góp về khoa học của luận án
Luận án là công trình đầu tiên tìm hiểu, xác định diện mạo của thi
pháp truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 với cái nhìn văn học ở bề sâu.
6


Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể làm tài liệu tham khảo
cho việc tìm hiểu và nghiên cứu truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 nói
riêng, truyện ngắn Việt Nam nói chung.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án vào tìm hiểu, bổ sung thêm một số kết quả nghiên cứu thi
pháp truyện ngắn, góp phần xác định diện mạo và vai trò của truyện ngắn
giai đoạn 1975 – 1985 trong quá trình hiện đại hoá nền văn học Việt Nam.
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, tìm hiểu và
nghiên cứu thi pháp truyện ngắn giai đoạn 1975 – 1985 nói riêng và văn
xuôi Việt Nam hiện đại nói chung.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận án được triển khai thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985, bước

chuyển đổi quan niệm nghệ thuật về con người.
Chương 3: Thời gian và không gian, giọng điệu và ngôn ngữ trong
truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985.
Chương 4: Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 – 1985 trên một số
bình diện thi pháp thể hiện.

7


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Những nghiên cứu lý thuyết về thi pháp học và truyện ngắn
1.1.1. Nghiên cứu lý thuyết về thi pháp học
1.1.1.1. Thi pháp học là một hướng nghiên cứu văn học có từ lâu,
nhưng thực sự có ảnh hưởng và được nhiều nhà nghiên cứu chú ý vào thế kỉ
XX. Thuật ngữ thi pháp học có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp, trong công trình
Poetica (Thi pháp học) của Aristote, khi nhìn nhận bản chất nghệ thuật như
các thể loại bi kịch, sử thi, cấu trúc cho đến ngôn từ. “Qua hàng nghìn năm
tồn tại và phát triển, thi pháp học nhiều lần được hiểu khác nhau, khi thì thu
hẹp vào loại hình thi ca, vào thi luật, phép làm thơ, biến thành quy phạm,
giáo điều, khi thì mở rộng chỉ toàn bộ nghệ thuật, khi lại bị coi thường như
một thứ hình thức chủ nghĩa ít có ý nghĩa và cho đến nay cách hiểu vẫn còn
phân tán” [52, 9]. Từ đầu thế kỉ XX, vấn đề ngôn ngữ, văn bản, cấu trúc của
văn học được đặt lên hàng đầu, tạo thành khuynh hướng thi pháp học ngôn
ngữ nghệ thuật, lấy văn bản làm đối tượng nghiên cứu đã đổi mới thi pháp
học. Đến những năm 60 (thế kỉ XX), khi phương tiện truyền thông nghe
nhìn chiếm ưu thế, trong xu thế toàn cầu hoá về kinh tế, tri thức, giao lưu
văn hoá thì nghiên cứu văn học từ bình diện ngôn ngữ chuyển sang văn hoá
học, nghiên cứu các vấn đề văn hoá như diễn ngôn, tri thức, hậu thực dân,
chủ nghĩa đa nguyên, chủ nghĩa nữ quyền, thân thể, thời thượng, phi huyền

thoại hoá, phi trung tâm, đại tự sự, trò chơi và mua vui… trở nên thịnh
hành. Đó đang là hướng vận động của thi pháp học mà nhiều người quan
tâm.
Từ cuối thế kỉ XIX, A. N. Veselovski, các nhà hình thức Nga đến các
nhà cấu trúc Pháp, đều ra sức đi tìm định nghĩa về thi pháp học. Sau đây là
một số định nghĩa tiêu biểu. V. Girmunski: “Thi pháp học là khoa học
8


nghiên cứu thi ca (tức là văn học) như là một nghệ thuật. Viacheslav
Ivanov: “Thi pháp học là khoa học về cấu tạo của tác phẩm văn học và hệ
thống các phương tiện thẩm mĩ được sử dụng trong đó…” [52, 11]. M. L.
Gasparov: “Thi pháp học - khoa học về hệ thống các phương tiện biểu hiện
trong tác phẩm văn học… Trong nghĩa rộng thi pháp học trùng với lí luận
văn học, trong nghĩa hẹp trùng với một trong các lĩnh vực của thi pháp lí
thuyết. Là lĩnh vực của lí luận văn học thi pháp học nghiên cứu đặc trưng
của các loại hình, thể loại văn học, các dòng và trào lưu, các phong cách,
phương pháp, nghiên cứu quy luật liên hệ nội tại và tuơng quan các cấp độ
của chỉnh thể nghệ thuật”… V. Vinogradov: “Thi pháp học là khoa học về
các hình thức, các dạng thức, các phương tiện, phương thức tổ chức tác
phẩm sáng tác ngôn từ, về các kiểu cấu trúc và các thể loại tác phẩm văn
học. Nó muốn bao quát không chỉ ngôn từ thơ, mà còn cả các khía cạnh
khác nhau nhất của tác phẩm văn học và sáng tác dân gian,”. B.
Tomashevski :“Nhiệm vụ của thi pháp học là nghiên cứu phương thức cấu
tạo của tác phẩm văn học. Đối tượng của thi pháp học là các sáng tác có giá
trị. Phương pháp nghiên cứu thi pháp là tiến hành miêu tả, phân loại và giải
thích các hiện tượng được nghiên cứu.” [52, 12]. Đối với R. Jakobson, đối
tượng của thi pháp học là “tính văn học” và “các thủ pháp”, phương pháp
nghiên cứu thi pháp học là phương pháp ngôn ngữ học… Các học giả Pháp,
như Kibedi Verga cho rằng thi pháp học tức là lí luận văn học; Gérard

Genette thì cho rằng thi pháp học nghiên cứu các văn bản quá độ, khám phá
tính liên văn bản trong đó.
Từ các định nghĩa trên, ta thấy thi pháp học là “một lĩnh vực nghiên
cứu về đặc trưng, tổ chức, các phương thức, phương tiện, nguyên tắc làm
nên giá trị thẩm mĩ của văn học trong tính chỉnh thể của văn bản [52, 13].
Đó là lĩnh vực nghiên cứu quy luật nội tại của tác phẩm, cấu tạo và phong
cách, nó phân biệt với các lĩnh vực nghiên cứu khác. Thi pháp về thực chất
9


là hệ thống ngôn ngữ nghệ thuật, mang tính mở. “Thi pháp học bao gồm
các bộ phận lí thuyết, miêu tả và lịch sử, gồm cả phong cách học, và ngày
nay bao gồm cả tự sự học, tu từ học, mỗi bộ phận có đối tượng riêng, nhưng
đều không ra ngoài phạm vi nói trên. Xét về cách tiếp cận còn có thể phân
biệt thi pháp học lịch sử, thi pháp học ngôn ngữ học, thi pháp học so sánh,
thi pháp học xã hội học, thi pháp học văn hoá” [52, 13]. Nhiều nhà nghiên
cứu đồng nhất thi pháp học với lí luận văn học, theo R. Wellek, trong
trường hợp đó, nên dùng thuật ngữ “lí luận văn học”, vì hàm ý của lí luận
văn học rộng hơn thi pháp học. Tuy nhiên, người ta vẫn thích nói “thi pháp”
để nhấn mạnh tính chất nghiên cứu nội tại của nó.
Thi pháp học hiện đại (từ thế kỉ XX) khác thi pháp học truyền thống.
Nó được hiểu như lĩnh vực nghiên cứu đặc trưng văn học hay tính văn học
và ngôn ngữ biểu hiện của nó chứ không đóng khung trong nghệ thuật thi
ca. Phương pháp lấy việc nghiên cứu tính hệ thống, tính chỉnh thể thay cho
việc nghiên cứu các yếu tố cá biệt, khác biệt để khái quát theo quan niệm
“nguyên tử luận; lấy việc nghiên cứu các biến số lịch sử thay cho nghiên
cứu các nguyên lí bất biến, vĩnh hằng; nghiên cứu hướng tới người đọc hơn
là dạy dỗ nhà văn về cách sáng tác; lấy việc khái quát các phương thức
phương tiện từ trong bản thân sáng tác hơn là đưa ra những công thức quy
phạm. Mặc dù đã có những quan điểm hoài nghi đặc trưng cũng như tính

văn học, nhưng văn học ở đâu, thời nào cũng tồn tại trong sự đối lập với cái
phi văn học, dù cho ranh giới giữa hai cái đó có đổi thay trong lịch sử.
Chừng nào còn đối lập ấy thì chừng ấy còn thi pháp học. Chính vì thế
phương pháp nghiên cứu thi pháp chủ yếu là miêu tả, quy nạp, hệ thống hoá
và thuyết minh, diễn giải chứ không phải là diễn dịch từ những nguyên lí
của đại tự sự”[52, 14].
Các trường phái hình thức ở Nga, Anh, Mĩ, Đức nghiên cứu thế giới
tinh thần và thế giới nghệ thuật của nhà văn biểu hiện qua văn bản ngôn
10


ngữ. Fredric Gundolf “chủ trương phân biệt cuộc sống kinh nghiệm thực tế
của nhà văn với cuộc sống trong tác phẩm nghệ thuật. E.R.Curtius căn cứ
vào ngôn ngữ mà nghiên cứu thế giới tinh thần của nhà văn, phản đối lối
nghiên cứu dựa vào các quy tắc để đánh giá sáng tác. Eric Auerbach nghiên
cứu phương thức mô phỏng thế giới của các văn bản kinh điển mà ông trích
từng đoạn để phân tích, so sánh, chỉ ra cách cảm nhận con người, không
gian, thời gian, đồ vật”[52, 17]. Leo Spitzer chủ trương đi tìm thế giới bên
trong, cách cảm nhận thế giới của nhà văn và giải thích bằng hệ thống biểu
hiện ngôn ngữ, nhưng không loại trừ tác động của các nhân tố thời đại.
Nghệ thuật là một thế giới chủ quan của nghệ sĩ, phân biệt với thực tại
khách quan. Tác phẩm văn học như một thế giới thẩm mĩ đặc thù. Đối
tượng nghiên cứu của văn học là ý thức của chủ thể nghệ thuật, là các phạm
trù của thế giới quan như thế giới, không gian, thời gian… Cách tiếp cận
này cho phép người ta khám phá các chiều kích thi pháp, phong cách nghệ
thuật ngay trong tác phẩm nghệ thuật.
Thi pháp học cấu trúc chủ nghĩa ở Pháp theo M. L. Gasparov nói:
“Thi pháp học cấu trúc không phải là thi pháp của các yếu tố tách rời, mà là
thi pháp về các quan hệ của các yếu tố tạo nên tác phẩm”[52, 20]. Thành
công hơn cả của chủ nghĩa cấu trúc là “Tự sự học” của G. Genette. Đây là

hệ thống các thuật ngữ dành để phân tích cấu trúc văn bản tự sự mà ngày
nay đã trở thành một lĩnh vực nghiên cứu có hiệu quả như lĩnh vực thi pháp
tiểu thuyết và nghệ thuật tự sự nói chung. Từ đó, theo J. Watte, các vấn đề
của tự sự như người trần thuật, điểm nhìn, hình thức không gian…đã được
bàn rộng rãi, chúng gắn liền với sự ý thức về vai trò độc lập tự chủ của con
người cá nhân. Ngoài ra, phong trào kí hiệu học Pháp hiện đại rất sôi động,
họ nghiên cứu theo hướng khám phá “tính văn học”, khai thác ý nghĩa siêu
ngôn từ của văn bản văn học trong công trình nguyên lí kí hiệu học của
Roland Barthes hay ngữ nghĩa học cấu trúc của Greimas. Đáng chú ý là
11


nghiên cứu kí hiệu học trong phong cách học. Phong cách học cũng là một
bộ phận của thi pháp học, trở thành trào lưu “Phê bình mới” ở Pháp thập
niên 60, 70 (thế kỉ XX). Đặc biệt, phân tâm học đem lại cho nghiên cứu
phong cách một đường lối giải thích sự thống nhất của phong cách. Ch.
Mauron là đại diện cho hướng nghiên cứu này đã giải thích các “hình tượng
ám ảnh” chỉ từ phương diện tâm lí vô thức.
Ở Nga, thi pháp học lý thuyết được hồi sinh, tiếp tục phát triển
trong Những vấn đề thi pháp Đốtxtôiépxki, của M. Bakhtin. Ông xây dựng
mô hình lí thuyết thi pháp bắt đầu từ quan niệm nhân vật như một ý thức
độc lập, làm nền tảng cho cấu trúc phức điệu; tiếp đến xem xét thế giới của
nhân vật với không gian, thời gian, đặc trưng cốt truyện, thể loại, đặc điểm
ngôn ngữ. Các yếu tố của cấu trúc nghệ thuật đều phụ thuộc vào quan niệm
con người. “Ngôn ngữ của Đốtxtôiépxki đều phụ thuộc vào đặc điểm của
con người trong ấy. Mô hình của Bakhtin ở đây thích hợp trước hết đối với
tiểu thuyết phức điệu của Đốtxtôiépxki. Chúng tôi đã rút ra và phổ quát hoá
mô hình đó để có thể vận dụng vào thế giới nghệ thuật thuộc các thể loại
văn học khác như thơ trữ tình, một thể loại mà Bakhtin không mấy hứng
thú. Mô hình của chúng tôi bao gồm: quan niệm nghệ thuật về con người,

không gian, thời gian nghệ thuật, hình tượng tác giả, tình tiết, kết cấu, trần
thuật, ngôn ngữ thể hiện”[52, 31].
1.1.1.2. Qua bức tranh khái quát trên, có thể thấy thi pháp học ở Việt
Nam có cội nguồn từ thi pháp học hiện đại trên thế giới. Nó có khuynh
hướng phong cách học ngôn ngữ, kí hiệu học, phân tâm học, thi pháp học
xã hội và thi pháp học lịch sử, văn hoá. Trước năm 1975, ở miền Bắc
nghiên cứu văn học đi theo thi pháp xã hội học, thể hiện ở chủ nghĩa hiện
thực với các phạm trù văn học với hiện thực ý thức hệ; ở miền Nam, các
quan niệm nghiên cứu, phê bình văn học hiện đại mới được giới thiệu, tiếp
nhận trong các công trình của Nguyễn Văn Trung. Sau năm 1975, nghiên
12


cứu văn học trong cả nước có một thời gian trì trệ; cho đến những năm 80
bắt đầu có sự đổi mới. Thi pháp học được du nhập với các khuynh hướng
ngôn ngữ học, kí hiệu học, cấu trúc luận, phân tâm học, phong cách học, thi
pháp học lịch sử, tự sự học… “Các công trình của Phan Ngọc, Nguyễn
Phan Cảnh, Trần Đình Sử, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Xuân Kính, Đỗ Lai
Thuý… xuất hiện, được coi như là hiện tượng mới của nghiên cứu văn học.
Hoàng Trinh vận dụng kí hiệu học khẳng định văn bản là cơ chế tạo nghĩa”
[52, 30]. Phan Ngọc nghiên cứu phong cách theo cơ chế lựa chọn, lệch
chuẩn, thiên về cấu trúc, chú ý thao tác luận khách quan. Đỗ Đức Hiểu phê
bình phong cách học trên cơ sở phát hiện từ chìa khoá, hình tượng ám ảnh,
xếp chồng văn bản, làm nổ tung văn bản; từ ngôn từ, văn bản, bên cạnh một
số bài phát hiện thi pháp có tính khách quan, nhiều bài khác gần với lối phê
bình ấn tượng, nặng về cảm thụ chủ quan. Nguyễn Phan Cảnh giải thích đặc
trưng thơ bằng cơ chế ngôn ngữ. Đỗ Lai Thuý cũng đi theo hướng khám
phá đặc trưng ngôn từ, phát hiện quan niệm, giải thích từ nền tảng văn hoá
trên cơ sở phân tâm học…
Trong Thi pháp Truyện Kiều đã có tự sự học, trong “Thi pháp văn

học trung đại Việt Nam đã có các bình diện của thi pháp văn học một giai
đoạn. Các yếu tố của mô hình lí thuyết tương tự như thế có thể tìm thấy
trong Thi pháp văn học Nga cổ và Con người trong văn học Nga cổ, Thế
giới bên trong của tác phẩm văn học của Likhachev” [52, 31]. Các học giả
của Viện văn học thế giới cũng thường xem xét thế giới nghệ thuật trong
tương quan với quan niệm nghệ thuật. Đó là mô hình được đúc kết nhằm
phản ánh chỉnh thể nội tại của các thế giới nghệ thuật do nghệ sĩ sáng tạo ra
mà người ta chỉ có thể khám phá từ bên trong văn bản. Mô hình này cũng
có thể vận dụng vào nghiên cứu thể loại văn học, bởi thể loại văn học là
một kiểu thế giới nghệ thuật. Điểm đặc biệt là mô hình lí thuyết này có tính
mềm dẻo, có thể bao hàm vào bản thân nó những bình diện của phong cách
13


học, tự sự học, tu từ học, kí hiệu học, ngôn ngữ học. Theo quan niệm này,
thế giới nghệ thuật chỉ có thể được quy nạp, khái quát từ cái nền ngôn từ
của văn bản, xuất phát từ những biểu hiện của ngôn từ.
Trần Đình Sử trong Toàn cảnh thi pháp học cho rằng: "Thi pháp học
là một lĩnh vực nghiên cứu có ảnh hưởng lớn trong ngành nghiên cứu văn
học thế kỉ XX, tuy có cội nguồn xa xưa nhưng đã được cải tạo triệt để,
mang nội dung mới, rất đa dạng về quan niệm, phương pháp, đồng thời tự
nó cũng biến đổi nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử” [52, 9]. Ở Việt
Nam, thi pháp học đã có lịch sử phát triển lâu dài trong nhiều công trình
nghiên cứu như đã nêu trên. Nhưng “phải đến Trần Đình Sử, thi pháp học
hiện đại – từ lý thuyết, diện mạo, tinh thần, thao tác nghiên cứu – mới có
tầm ảnh hưởng rộng lớn đến đời sống nghiên cứu và phê bình văn học. Nói
chính xác hơn, một mặt, Trần Đình Sử là người giới thiệu vào Việt Nam
một cách đầy đủ và có hệ thống về thi pháp học” [52, 470]. Đây là một
đánh giá xác đáng, một ghi nhận trân trọng của tác giả Nguyễn Đăng Điệp
trong công trình Thi pháp học ở Việt Nam.

Trong Thi pháp hiện đại, Đỗ Đức Hiểu quan niệm: “Tôi hiểu phong
cách học, nói một cách đơn giản nhất, nghiên cứu những đặc trưng ngôn từ
văn chương của một tác giả, một tác phẩm, còn thi pháp học nghiên cứu
tính văn học của một trào lưu, một thời đại, có thể gọi là phong cách
lớn”[78]. Thành công của Đỗ Đức Hiểu là vận dụng lí thuyết, đi theo một
hướng thi pháp học phương Tây, xem thi pháp biểu hiện ở phạm vi ngôn từ,
lấy tính văn học của ngôn từ làm đối tượng nghiên cứu. Ông cũng xem xét
thi pháp học theo phạm vi thể loại như thơ, văn xuôi, kịch, nghiên cứu cách
vận dụng ngôn từ trong một số tác phẩm văn học cụ thể.
Ngoài ra, Đỗ Lai Thúy cũng là một trong những nhà phê bình văn
học theo khuynh hướng thi pháp học được chú ý. Ông đã nổi lên như một
nhà nghiên cứu với nhiệt tình cách tân và định hình được phong cách riêng.
14


Đỗ Lai Thúy gây được tiếng vang với Con mắt thơ (1992), một tác phẩm
phê bình thơ mới. Nhìn từ con đường tiếp cận, thành công vang dội của
Hoài Thanh trước đây trong phê bình thơ mới, theo một số nhà nghiên cứu,
gắn liền với phương pháp phê bình ấn tượng. Sau Hoài Thanh có thể kể đến
Phan Cự Đệ với cách tiếp cận xã hội học trong công trình Phong trào Thơ
mới. Đỗ Lai Thúy lại lựa chọn hướng tiếp cận thi pháp học và nó đã thực sự
mang lại những phát hiện mới.
Nhìn chung khuynh hướng thi pháp học đã gây được ảnh hưởng
trong xã hội, nhất là trong các trường đại học và tạo thành một khuynh
hướng nghiên cứu nổi bật trong nghiên cứu phê bình văn học suốt những
năm 80 cho đến nay. Thi pháp học mang lại nhiều thuật ngữ và khái niệm
mới trong nghiên cứu văn học như: quan niệm nghệ thuật về con người và
nhiều khái niệm hình thức văn học đã đi vào phê bình một cách phổ biến,
có tác dụng làm mới bộ công cụ phê bình văn học. Nhưng quan trọng hơn,
đó là thi pháp học đem lại cách tiếp cận mới, phương pháp mới nghiêng về

tính nội tại. Nó tuy là nghiên cứu phương diện nội tại, song không tách rời
hiện thực, lịch sử, bởi đó vẫn là căn cứ để giải thích mọi sự biến đổi văn
học. Đó là một hiện tượng chưa từng có trong phê bình, lí luận văn học Việt
Nam trước những năm 80. Hàng loạt công trình nghiên cứu văn học có vận
dụng thi pháp học ra đời. Trong số đó có không ít công trình có giá trị, có
sức thuyết phục cao, mở ra triển vọng mới. Nhưng trong số đó cũng có một
số không ít nghiên cứu theo hướng thi pháp học mà chưa thực sự thấu đáo
về thi pháp học. Đó cũng là một chuyện thường tình, bởi chẳng có một tư
tưởng, lí luận, hướng nghiên cứu mới nào mà không bị hiểu lầm, bị đọc
nhầm trong quá trình tìm tòi, nghiên cứu.
Mô hình lí thuyết có tính chất định hướng nghiên cứu, còn đặc điểm
thi pháp cụ thể thì phải miêu tả, đúc kết từ văn bản nghệ thuật. Mô hình đó
có thể thay đổi gia giảm tuỳ theo đối tượng nghiên cứu cụ thể như tác
15


phẩm, tác giả, thể loại… Tính quan niệm là yếu tố chi phối tất cả mọi yếu tố
của văn bản: nhân vật, không gian, thời gian, sự kiện, điểm nhìn, ngôn ngữ.
“Mô hình này đã khẳng định tính độc lập của thế giới nghệ thuật, phế bỏ
mô hình xem hình tượng nghệ thuật là hình ảnh tương đồng với hiện thực
của lí thuyết phản ánh thịnh hành, khẳng định cá tính và tính tích cực của
chủ thể nghệ sĩ. Mô hình này như mọi mô hình khác cũng chỉ là một trong
các mô hình có thể dùng để miêu tả thế giới nghệ thuật, tìm ra quy luật nội
tại của chúng. Nghiên cứu thi pháp, như Todorov đã nhận xét, không nhằm
để bình giảng, giảng văn, phát hiện ý nghĩa biểu đạt của một tác phẩm, mà
nhằm khám phá quy tắc ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm, tìm thấy tính
độc đáo, không lặp lại của ngôn ngữ ấy, cùng những giới hạn biểu hiện,
chiếm lĩnh đời sống của nó” [52, 32]. Chừng nào còn có thế giới nghệ thuật
thì chừng ấy vẫn còn có khả năng vận dụng mô hình thi pháp học, để khám
phá ra tính độc đáo của văn bản. Dĩ nhiên, nó cần được hiểu đúng và đồng

thời cập nhật nhiều khái niệm mới mà ngành nghiên cứu văn học mang lại,
nhằm làm công cụ miêu tả thế giới nghệ thuật được hữu hiệu hơn.
1.1.2. Nghiên cứu về thể loại truyện ngắn
1.1.2.1. Truyện ngắn, một thể loại văn tự sự, nó thường là các câu
chuyện kể bằng văn xuôi, có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa.
Thông thường nó có độ dài từ vài dòng đến vài chục trang và chỉ tập trung
vào một tình huống, một chủ đề nhất định. Do đó, truyện ngắn thường hết
sức hạn chế về nhân vật; thời gian và không gian cũng không trải dài như
tiểu thuyết. Đôi khi truyện ngắn chỉ là một khoảng khắc của cuộc sống,
chẳng hạn như Chí phèo của Nam Cao thời gian chỉ dăm ngày, Phiên chợ
Giát của Nguyễn Minh Châu chỉ xảy ra trong vài tiếng.
Paul Bourget, nhà văn, nhà phê bình Pháp có nhận định về thể loại
truyện ngắn, qua đó cũng giải thích phần nào về sự chênh lệnh số trang của
16


chúng: “Phong cách của truyện ngắn và của tiểu thuyết rất khác nhau.
Phong cách của truyện ngắn là thuộc về tình tiết. Cái tình tiết mà truyện
ngắn dự định diễn tả, truyện ngắn đã tách nó ra, làm cô lập nó lại. Các tình
tiết mà cả dãy đã làm nên đối tượng của tiểu thuyết, tiểu thuyết đã làm
ngưng kết chúng, nối chúng lại với nhau. Tiểu thuyết tiến hành thông qua
cách triển khai, còn truyện ngắn thông qua sự tập trung... Truyện ngắn là
độc tấu. Tiểu thuyết là giao hưởng” [226]. Nguyễn Kiên quan niệm: “Tôi
cho rằng truyện ngắn là một trường hợp, trường hợp đó là một quan hệ (tình
huống) những khoảnh khắc trong quan hệ giữa con người và đời sống”
[195,19]. Nguyễn Công Hoan: “Truyện ngắn không phải là truyện mà là
một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết” [195, 25]. Nguyên Ngọc thì cho
rằng: “Truyện ngắn là một bộ phận của tiểu thuyết nói chung, vì thế không
nên nhất thiết trói buộc truyện ngắn vào những khuôn mẫu gò bó. Truyện
ngắn có nhiều vẻ, có truyện viết về cả một đời người, lại có truyện chỉ ghi

lại một vài giây phút thoáng qua” [195, 27].
Để có một cái nhìn thống nhất, qua khảo sát một số khái niệm, truyện
ngắn là một tác phẩm tự sự cỡ nhỏ và thường được viết bằng văn xuôi, đề
cập hầu hết các phương diện của đời sống con người và xã hội, có sự giới
hạn về dung lượng và thích hợp với người tiếp nhận là đọc nó liền một
mạch không nghỉ. Từ đó, để nhận định truyện ngắn cần dựa vào hai tiêu chí
chính là dung lượng và thi pháp. Các yếu tố như cốt truyện, tình huống, kết
cấu, lối trần thuật, giọng điệu... cũng được coi là cơ bản khi tìm hiểu thể
loại này.
Truyện ngắn, một thể loại được coi là xung kích của đời sống văn
học và có tính chất tiền trạm đối với hầu hết nhà văn trên con đường sáng
tạo nghệ thuật. Vì thế, khi nghiên cứu sự phát triển của những thể loại thì
phải lưu ý đến con người và lịch sử sinh ra chúng. Nếu như có những tư
tưởng của thời đại thì cũng có những hình thức của thời đại. Vì vậy, nên lưu
17


ý rằng, khi quan sát sự bộc lộ mối liên hệ với thời đại, với hiện thực lịch sử,
sự phát triển của những thể loại, chúng ta phải thấy rằng điều đó trong
những thời kỳ lịch sử nhất định, nằm trong mối tương quan với sự phát triển
những khuynh hướng nghệ thuật. Và, cũng phải chú ý đến sự không đồng
đều độc đáo của quá trình phát triển nghệ thuật, nghĩa là trong khi một số
thể loại này sống không lấy gì làm lâu, thì những thể loại khác, tuy có sự
biến đổi cơ bản, lại chứa đựng nội dung xung đột của những thời đại khác
nhau.
Khi tiếp xúc với truyện ngắn mà đặc biệt là truyện ngắn có dạng cốt
truyện tâm lý, có người cho rằng: phải chăng truyện ngắn là thơ, một dạng
thơ đặc biệt - thơ văn xuôi. Truyện ngắn, tên gọi đã thể hiện khá rõ diện
mạo của nó, truyện ngắn thì truyện phải là ngắn. Không cần phải dùng lối
chiết tự hoặc tra ngữ nghĩa của thuật ngữ truyện ngắn như nhiều người đã

làm mà hãy cứ nhìn vào phương thức tồn tại. Với hình hài ngắn gọn đến
ngạc nhiên của những truyện ngắn sẽ có ngay được ý niệm cơ bản về truyện
ngắn. Có thể nói là một chỉnh thể nghệ thuật bé nhỏ, nhưng có sức chấn
động phi thường. Đó là Anh hai của Lý Thanh Thảo, nhà văn Nguyễn
Quang Sáng nhận định: “Truyện viết hồn nhiên đến mức không ai có thể
nghi ngờ có sự bịa đặt gì trong câu chuyện. Ngắn, gọn nhưng đủ sức chứa
về mối quan hệ giữa người với người trong thời buổi bây giờ. Từ câu
chuyện đã lên đến đỉnh đủ gây ấn tượng và xúc động Em ba ngón, anh hai
ngón. Rất nghèo, nhưng rất tình và rất trẻ con. Thương biết mấy” [195,161].
Một số người dựa vào chính cách tồn tại của truyện ngắn để giải
thích những đặc điểm của thể loại. Đây cũng là một hướng tiếp cận, bởi vì
từ khi ra đời cho đến nay, truyện ngắn ngày càng khẳng định rõ chức
năng của mình ở cả hai phương diện báo chí và văn chương. Môi trường
sống của truyện ngắn là báo chí, nhưng tính chất của nó là một tác phẩm
văn chương. Báo chí qui định cho truyện ngắn một hình thức, khuôn khổ
18


ngắn gọn. Tính chất văn chương đòi hỏi truyện ngắn phải đạt tới một tác
phẩm nghệ thuật có cấu trúc hoàn chỉnh, một chỉnh thể thẩm mỹ. Cũng là
cái hạt mầm được gieo trên mảnh đất báo chí, nhưng truyện ngắn phải phát
triển thành một loài cây đặc biệt, nó phải vươn tới tầm cao của sự sáng tạo
nghệ thuật để tạo nên một thế giới nghệ thuật văn chương.
Nhìn chung, truyện ngắn Việt Nam hợp với tính chất thời sự báo chí,
người viết bị gò về tính chất của tờ báo, vào những đề tài mà tờ báo đó
phải bám sát. Song, chủ yếu là do tài năng của người viết, phải nhìn từ
khung cửa của đề tài mà có thể mở rộng khả năng ôm trùm hiện thực, bao
quát của thể loại truyện ngắn như Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp.
Tương tự, AQ chính truyện của Lỗ Tấn là truyện ngắn có tầm cỡ của một
tiểu thuyết dù chỉ dài khoảng 70 trang. Truyện gồm IX phần, mỗi phần

tương ứng với một chương tiểu thuyết, nội dung truyện hầu như phản ánh
toàn diện thực trạng xã hội Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XX.
1.1.2.2. Truyện ngắn Việt Nam phôi thai từ Truyền kỳ mạn lục của
Nguyễn Dữ (thế kỉ XVI) và bắt đầu hình thành từ cuối thế kỉ XIX với Thầy
Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản viết bằng chữ Quốc ngữ. Sang thế kỉ
XX, truyện ngắn bắt đầu phát triển với các sáng tác của Phan Kế Bính,
Phan Bội Châu, Nguyễn Phương Chánh, Tản Đà, Nguyễn Bá Học, Tam
Lang, Nguyễn Chánh Sắt, Phạm Duy Tốn... Trong đó, Nguyễn Bá Học và
Phạm Duy Tốn là hai nhà văn có công lớn mở lối cho truyện ngắn Việt
Nam phát triển. Tuy không tránh khỏi những hạn chế của chủ nghĩa quy
phạm, ngôn ngữ ước lệ, khuôn sáo và kết thúc duy tâm chủ quan, nhưng Lời
khuyên học trò (Nguyễn Bá Học) và Sống chết mặc bay (Phạm Duy Tốn) là
những truyện ngắn tạo được dấu ấn nhất định trong tiến trình hình thành và
phát triển thể loại. Qua thập kỉ 20 (thế kỉ XX), Nguyễn Ái Quốc nổi lên với
với hàng loạt truyện viết bằng tiếng Pháp như: Lời than vãn của bà Trưng
Trắc, Vi hành, Những trò lố hay Varen và Phan Bội Châu... Với dung
19


lượng ngắn gọn, ngôn ngữ hàm súc, truyện ngắn Nguyễn Ái Quốc chứa
đựng nhiều ý nghĩa, thông tin thời đại mới.
Giai đoạn 1930 - 1945, truyện ngắn Việt Nam hiện đại có sự khởi sắc
và được mùa với các tên tuổi Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, Nam Cao,
Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyên Hồng, Kim Lân, Nhất Linh,
Khái Hưng, Thanh Tịnh, Đỗ Tốn, Vũ Trọng Phụng... Với vai trò xung kích,
truyện ngắn khám phá đời sống trong giai đoạn lịch sử biến động, phân hoá
xã hội, các mâu thuẫn ngày càng gay gắt và phức tạp. Ở một khía cạnh nào
đó, truyện ngắn giai đoạn này nhờ sự quảng bá của báo chí mà trở thành thể
loại dân chủ, áp sát đời sống xã hội và đời tư từng con người nhỏ bé. Đó là
Đứa ăn cắp, Đào kép mới, Ngựa người và người ngựa, Đàn bà là giống yếu

(Nguyễn Công Hoan), Trẻ con không được ăn thịt chó, Chí Phèo, Một bữa
no, Lang rận, Nửa đêm (Nam Cao), Gió lạnh đầu mùa, Hai đứa trẻ, Sợi tóc
(Thạch Lam), Vang bóng một thời (Nguyễn Tuân) và sáng tác của Tô Hoài,
Bùi Hiển, Kim Lân... Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 “thực
sự đa dạng về phong cách, bút pháp. Có thể nói trong lịch sử truyện ngắn
hiện đại thế kỉ XX, chưa bao giờ có sự nở rộ phong cách như mười lăm năm
đáng ghi nhớ của văn học” [195, 182].
Cách mạng tháng 8 (1945) thắng lợi đã đưa Việt Nam bước sang một
trang mới và định hướng cho một nền văn học mới ra đời. Truyện ngắn tiếp
tục phát triển với những cây bút: Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Thạch
Lam, Nam Cao, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Bùi Hiển, Nguyên Hồng, Kim Lân,
Nguyễn Huy Tưởng; thế hệ tiếp theo là Nguyễn Đình Thi, Hồ Phương, Vũ
Tú Nam, Nguyễn Văn Bổng, Từ Bích Hoàng, Đoàn Giỏi, Minh Lộc… Với
dân tộc Việt Nam, từ mùa thu 1945 đến mùa xuân 1975 là ba mươi năm
chiến đấu anh dũng, ngoan cường cùng những biến cố dữ dội. Gắn với một
nền văn học mang đậm tính sử thi là âm điệu hào hùng và niềm lạc quan
cách mạng. Ngợi ca những chiến công oanh liệt, những người anh hùng xả
20


thân vì nền độc lập, những con người kết tinh đầy đủ phẩm chất cao quý
của cộng đồng. Dù trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, dù đi vào chốn
lửa đạn, vào nơi mà ranh giới giữa sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc,
nhưng tất cả đều náo nức trong niềm vui ra trận, lạc quan tin tưởng đã trở
thành cảm xúc tiêu biểu của thời đại. Với cảm hứng sử thi, truyện ngắn giai
đoạn này đã khẳng định được vị trí trong chiều dài lịch sử truyện ngắn Việt
Nam.
Sau 1945, Nam Cao sáng tác không nhiều, nhưng Đôi mắt đã trở
thành “Tuyên ngôn nghệ thuật” (Tô Hoài) của văn học giai đoạn này. Tiếp
theo, Nguyễn Tuân tài hoa, ngẫu hứng vang bóng một thời, nay khoác ba lô

đi kháng chiến với “Lại ngược” tâm trạng đầy hồ hỡi. Còn Kim Lân thì thể
hiện cảm hứng về tương lai trong Vợ nhặt, hiện lên hình ảnh “đám người
đói và lá cờ đỏ bay phất phới”; Bùi Hiển thì hai vợ chồng tranh thủ Gặp gỡ
trên đường công tác; Trần Đăng thì vô tư, trong sáng Một lần tới Thủ đô;
nhưng nổi bật hơn hết là Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài. Đây là thời kỳ
không có chỗ đứng cho cá nhân, cho những riêng tư đời thường. Cảm hứng
yêu nước, anh hùng ca gần như là hơi thở xuyên suốt hầu hết chặng đường
của nền văn học chiến tranh. Bằng nguồn cảm hứng này, văn học đã phản
ánh và ca ngợi cuộc chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc, góp phần đốt
lên ngọn lửa nhiệt tình trong lòng bạn đọc. Nó là mạch cảm hứng chính
xuyên suốt gần nửa thế kỷ văn học, tạo nên diện mạo của văn học ở thời
điểm lịch sử đặc biệt này. Nhìn “toàn bộ hệ thống thể loại của văn học Việt
Nam 1945 - 1975 đều rất thống nhất với nhau trong khuynh hướng cảm
hứng. Từ truyện cho tới thơ, từ kịch cho đến kí, tất cả đều rưng rưng cảm
hứng trước cái đẹp cao cả… Đó là thế giới của cái cao cả, cái đẹp vượt lên
trên sự tàn phá, huỷ diệt của bom đạn chiến tranh. Cho nên, tiếp xúc với bất
kỳ một thể loại nào của giai đoạn văn học này ta đều chứng kiến sự chiến
thắng huy hoàng của chất thơ đối với chất văn xuôi, và ưu thế tuyệt đối của
21


×