Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Gợi ý thi tìm hiểu việt lào online (TUẦN 12 )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.5 KB, 6 trang )

Tài liệu phục vụ thi tìm hiểu quan hệ Việt Lào, trực tuyến tuần 12
Một số sự kiện lịch sử về tình đoàn kết hữu nghị đặc biệt Việt - Lào năm 19541955
(TCTG)- Đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Uỷ
viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam, Phó Bí thư
Tổng Quân uỷ, Chủ nhiệm Tổng cục Chính
trị, thay mặt Trung ương Đảng, Tổng Quân
uỷ và Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân
Việt Nam công bố quyết định ký ngày 16
tháng 7 năm 1954 về việc thành lập Đoàn cố
vấn quân sự Việt Nam, mang phiên hiệu
Đồng chí Thiếu tướng Phết Sa Đoàn 100.
Moon (hàng đầu tiên, thứ hai từ
phải sang), Chủ nhiệm Tổng cục Tháng 7 năm 1954
Chính trị Quân đội nhân dân Lào Thành lập Đoàn 100 cố vấn quân sự Việt
tiếp các cựu chiến binh Đoàn 100. Nam giúp cách mạng Lào
Ảnh do Ban liên lạc Đoàn 100 Theo đề nghị của Chính phủ Kháng chiến Lào
cung cấp.
và Bộ Quốc phòng Lào, đồng chí Nguyễn Chí
Thanh, Uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam, Phó Bí thư Tổng Quân uỷ, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, thay mặt Trung
ương Đảng, Tổng Quân uỷ và Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam công
bố quyết định ký ngày 16 tháng 7 năm 1954 về việc thành lập Đoàn cố vấn quân sự
Việt Nam, mang phiên hiệu Đoàn 100, có nhiệm vụ giúp quân đội Pathết Lào trong
thời kỳ mới. Đồng chí Chu Huy Mân, Chính uỷ Đại đoàn 316 (giữa năm 1955 đổi
thành sư đoàn), được cử làm trưởng đoàn cố vấn quân sự kiêm bí thư Đảng uỷ
Đoàn 100.
Bộ Quốc phòng Việt Nam giao nhiệm vụ cho Cục Tổ chức cán bộ thuộc Tổng cục
Chính trị và Cục Quân lực thuộc Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu, lựa chọn và điều
động ngay một số cán bộ trung cấp, sơ cấp, bản lĩnh chính trị vững vàng, có nhiều
kinh nghiệm trong xây dựng, chiến đấu và bảo đảm chiến đấu, từng công tác ở các


cơ quan chiến lược, các đại đoàn chủ lực và lực lượng vũ trang địa phương của
Việt Nam tham gia Đoàn 100 sang Lào giúp xây dựng quân đội Pathết Lào ở ba
cấp: Bộ Quốc phòng, nhà trường và các đơn vị, địa phương. Sau khi được lựa chọn
và nhận quyết định của Bộ Quốc phòng, hầu hết số cán bộ tham gia Đoàn 100 tập
trung về trạm Thống nhất của Bộ Quốc phòng ở khu vực Chợ Chu, huyện Định
Hoá, tỉnh Thái Nguyên để học tập chính trị, nắm vững đường lối quốc tế trong
sáng của Đảng và tư tưởng "giúp bạn là mình tự giúp mình" của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Từ ngày 22 tháng 3 đến 6 tháng 4 năm 1955
Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào
Trước sự chuyển biến của tình hình thế giới, Đông Dương và ở Lào, thực hiện
Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 2 năm 1951), Hội nghị đại


biểu các chiến sĩ cộng sản Lào đã được triệu tập từ ngày 22 tháng 3 đến 6 tháng 4
năm 1955 tại tỉnh Sầm Nưa. Tham dự có 20 đại biểu chính thức thay mặt cho gần
400 đảng viên đang chiến đấu và công tác trên khắp các chiến trường Lào. Hội
nghị diễn ra tích cực, khẩn trương, trong không khí phấn khởi, tin tưởng vào sự
nghiệp giải phóng dân tộc Lào và được sự giúp đỡ chí tình của Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hội nghị đã phân tích, thảo luận, thông qua các văn kiện quan trọng:
1. Báo cáo thành lập Đảng Nhân dân Lào. Xuất phát từ tình hình, đặc điểm chính
trị xã hội ở Lào, Hội nghị đã quyết định thành lập một chính Đảng lấy tên là "Đảng
Nhân dân Lào", xác định tính chất là đảng của giai cấp công nhân. Đảng lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng, làm kim chỉ nam cho hành động của
Đảng.
2. Thông qua chương trình hành động (trước mắt) của Đảng.
3. Tình hình và nhiệm vụ cách mạng Lào.
4. Điều lệ Đảng Nhân dân Lào.
Sau đó Hội nghị bầu Ban Lãnh đạo toàn quốc của Đảng (Ban Chấp hành Trung

ương) gồm năm đồng chí: Cayxỏn Phômvihản, Nủhắc Phumxavẳn, Bun Phôm
Mahảxây, Xỉxávạt Kẹo Bunphăn, Khăm Xẻng. Sau đó, Ban Lãnh đạo bổ sung
thêm bốn ủy viên gồm các đồng chí: Xuphanuvông, Phumi Vôngvichít, Phun
Xipaxợt và ủy viên bổ sung sau. Ban Lãnh đạo toàn quốc đã bầu đồng chí Cayxỏn
Phômvihản làm Bí thư Ban Chỉ đạo kiêm Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng Chỉ
huy quân đội. Phân công các đồng chí khác phụ trách các ngành: tuyên huấn, tổ
chức, chính quyền, mặt trận...
Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào thành công, đánh dấu bước trưởng thành
mới của cách mạng Lào và mở ra triển vọng phát triển mới trong quan hệ đoàn kết
giúp đỡ lẫn nhau giữa Đảng, Quân ủy, quân đội hai nước Việt Nam - Lào.
Ngày 6 tháng 4 năm 1955
Đảng Nhân dân Lào gửi điện tới Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam
Sau khi tiến hành Đại hội thành lập Đảng Nhân dân Lào thành công, ngày 6 tháng
4 năm 1955, Đảng Nhân dân Lào đã gửi điện tới Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam. Bức điện nêu rõ: “Chúng tôi, những đảng viên cũ
của Đảng Cộng sản Đông Dương, sau khi tình hình thay đổi, Đảng Cộng sản Đông
Dương không còn, nhưng nhờ sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhờ Đảng
Lao động Việt Nam đưa người sang giúp đỡ một cách chân thành, đã tiếp tục sự
nghiệp của Đảng Cộng sản Đông Dương đấu tranh thắng lợi.
Hòa bình đã trở lại, ngày nay đứng trước tình hình mới, chúng tôi cùng nhau họp
hội nghị thành lập Đảng Nhân dân Lào, vạch đường lối chính sách đấu tranh trước
mắt; đồng thời thành lập Ban Chỉ đạo để dẫn đường chỉ lối cho cuộc cách mạng
Lào đi tới thắng lợi cuối cùng. Chúng tôi thành công trong việc thành lập Đảng
Nhân dân Lào là nhờ công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã theo dõi, dìu dắt và
nhờ sự giúp đỡ vô điều kiện của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam trong thời
gian qua.
Trong hội nghị có treo ảnh các lãnh tụ, trong đó có ảnh của Hồ Chí Minh, hình ảnh
Người ảnh hưởng đến tinh thần chúng tôi, làm cho suốt thời gian diễn ra hội nghị



tất cả chúng tôi đều phấn khởi, hào hứng tích cực làm việc, làm cho hội nghị thu
được kết quả tốt đẹp.
Từ nay, chúng tôi có Đảng Nhân dân Lào tổ chức theo đường lối Mác-Lênin là đội
tiên phong lãnh đạo cách mạng Lào. Vì thế, chúng tôi tin tưởng cách mạng Lào
nhất định sẽ thắng lợi tốt đẹp. Chúng tôi xin hứa cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Đảng Lao động Việt Nam rằng: chúng tôi sẽ noi theo tinh thần và sự nghiệp đấu
tranh của Đảng Cộng sản Đông Dương để đẩy mạnh cách mạng Lào đến thắng lợi
cuối cùng.
Chúng tôi xin báo cáo tin thành lập Đảng, chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam sức khỏe để lãnh đạo đấu tranh giải phóng nước
Việt Nam và tiếp tục giúp đỡ cách mạng Lào đi đến thành công, làm cho hai nước
độc lập hoàn toàn, bảo vệ và củng cố hòa bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế
giới cùng vững chắc...”
(còn tiếp)
(Nguồn: Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam (1930-2007),
Biên niên sự kiện, tập 1 (1930-1975), Nxb. CTQG, H, 2011).
TG
Trung đoàn được thành lập ngày 27 tháng 2 năm 1947[1]. Binh sĩ bao gồm các
chiến sĩ giải phóng quân từ Việt Bắc về Hà Nội chuyển thành Vệ quốc đoàn, tự vệ
chiến đấu, công nhân, nông dân, trí thức, dân nghèo thành thị, các nhà sư, cựu binh
trong quân đội thuộc địa Pháp, người dân tộc... tự nguyện tham gia Mặt trận Việt
Minh[2].
Đơn vị Tây Tiến đầu tiên là đại đội Vệ quốc đoàn do các đ/c Anh Đệ, Tuấn Sơn và
Lam Ngọc chỉ huy đưa quân từ Hà Nội lên Mộc Châu. Đây là một điểm của bộ đội
Tây Tiến tập kết từ xuôi lên rồi tỏa đi các mặt trận Tây Bắc biên giới Việt Lào.
Ngày 7-10-1945 đồng chí Lê Hiến Mai Phó tư lệnh, tham mưu trưởng chiến khu II,
cùng đặc phái viên của Chính phủ và trợ lý Thanh Tùng, bộ phận điện đài lên Mộc
Châu, Khi lên tới Mộc Châu, được tin A lếch xăng đri đã về chiếm đóng thị xã Sầm
Nưa. Đồng chí nhận định đây là một mối đe dọa trực tiếp đối với Tây Nam Sơn La

(nhất là Mộc Châu), vì nếu từ Sầm Nưa chúng đánh sang chiếm được Mộc Châu
thì Sơn La sẽ bị cô lập, nên đ/c đã báo cáo về Hà Nội xin chỉ thị của Trung ương
Đảng.
Ngày 12-10-1945 sau khi nhận được chỉ thị của Trung ương Đảng với nội dung:
“Cứ cho bộ đội sang ta”. Ngày 15-10-1945 đồng chí Lê Hiếu Mai nhận lệnh cho
tiểu đoàn 52 (tức trung đoàn Tây Tiến) chuyển hướng sang Lào thực hiện nghĩa vụ
Quốc tế.
Ngày 22-10-1945, tiểu đoàn 52 giải phóng Sầm Nưa và đánh đuổi địch chạy về
Xiêng Khoảng, đại đội đồng chí Nguyên Duy Phiên được lệnh tiến lên thị xã Sơn
La vào hạ tuần tháng 10-1945, đồng chí Trần Quang Thường được cử lên làm
chính trị viên, đại đội Phú Thọ do đồng chí Nguyễn Duy Phiên làm đội trưởng.
Tháng 11-1945 nhân dân các dân tộc Mộc Châu, Sơn La tưng bừng tiếp đón chi
đội 3 do đ/c Nam Hải và đ/c Lê Trọng Tấn chỉ huy, cùng lên có đại đội vệ quốc
đoàn của Hà Nam do đ/c Thiều Văn Cố là đại đội trưởng, đ/c Đỗ Ngọc Du làm


chính trị viên và đại đội vệ quốc đoàn của Nam Định do đ/c Hoàng Khải Tiến làm
đội trưởng, đ/c Quỳnh là chính trị viên. Sau khi lên Mộc Châu các đ/c nhận lệnh
chặn đánh một số đại đội khố đỏ do sĩ quan Pháp chỉ huy từ Sơn La tiến xuống.
Đây là một trận đánh mà bộ đội ta phải đương đầu với một quân đội được trang bị
vũ khí hiện đại, nhưng đơn vị chiến đấu rất kiên cường chặn đánh cuốc tiến quân
xâm lược lãnh thổ của địch, khiến chúng phải hoảng loạn tháo chạy. Trong trận
đánh này đ/c đại đội trưởng Lê Thám đã hy sinh anh dũng, sau đó đội vũ trang
tuyên truyền của Cao Bằng do đ/c Hoàng Đông Tùng làm đội trưởng được bổ sung
cho đơn vị. nhận được lệnh giải thể cung cấp cán bộ cho các Châu xây dựng củng
cố chính quyền và các tổ chức đoàn thể ở cơ sở.
Đầu năm 1946, tư lệnh chiến khu II Hoàng Sâm sau khi giải phóng Sầm Nưa đã
quay về Mường Hét dự cuộc họp với đại diện quân đội Quốc gia Lào để bàn về
việc thành lập mối liên minh chiến đấu Việt - Lào. Sau đó đ/c Hoàng Sâm trở về
Sơn La triệu tập các cán bộ chủ chốt của Trung đoàn, đại diện ban cán sự và

UBHC KC tỉnh Sơn La công bố quyết định thành lập Ban chỉ huy trung đoàn Sơn
La. Tháng 11 -1946, đ/c Lê Trọng Tấn được Trung ương cử lên Sơn La lần thứ 2 để
thay cho đ/c Phùng Thế Tài, đ/c làm trung đoàn trưởng.
Ngày 6-3-1946 quân Pháp ở Thuận Châu, Chiềng Pấc, chúng ra sức cấu kết với
bọn phản động địa phương cho xây dựng hệ thống đồn bốt, bắt thanh niên đi lính,
tập hợp bọn tay sai cũ, lập chính quền tề ngụy và sử dụng bọn phản động dẫn
đường chỉ điểm để đàn áp lực lượng tự vệ, bộ đội và gia đình cách mạng. Mặt khác
chúng ra sức càn quét vơ vét của cải, bắt dân nộp lương thực, thực phẩm, bắt phụ
nữ lên đồn. Những thủ đoạn đàn áp dã man và cướp bóc trắng trợn của quân Pháp
khiến chi nhân dân càng thêm căm thù, sẵn sàng ủng hộ bộ đội, tham gia kháng
chiến. Bọn phản động địa phương dẫn đường cho quân Pháp đánh chiếm Mường
La và Mường Chanh (Mai Sơn), Mộc Châu. Chúng phối hợp với quân Pháp ở Lào
đánh sang rồi đánh xuống Chiềng On, Tô Vang. Bộ Chỉ huy chiến khu II pháo điều
2 đại đội lên chi viện cho Mộc Châu.
Ngày 25-4-1947 quân Pháp nhảy dù chiếm đánh ở Mộc Châu; Do vậy toàn trung
đoàn rút quân sang Tây nam Phú Thọ để bảo toàn và củng cố lực lượng. Đến tháng
10-1947, trung đoàn 148 còn được ban chỉ huy chiến khu chi viện cho tiểu đoàn
56. Trong khi Hà Nội và nhiều tỉnh thành phố trong cả nước đang đẩy mạnh phong
trào kháng chiến. Quân và dân Tây Bắc bắc bộ với lực lượng trang bị vũ khí có hạn
nhưng vẫn cương quyết dũng cảm chặn từng bước tiến của quân thù. Thời gian này
quân Pháp từ các vị trí đã chiếm đóng như: Thuận Châu, Mường Hung. Sốp Cộp,
Chiềng Khương, Chiềng Cang. Hát Lót, Yên Châu, Mộc Châu. Chúng đã tổ chức
thành nhiều đợt tấn công mở rộng vùng chiếm đóng, tuyển mộ ngụy binh Thái, lôi
kéo Thổ Ty ở Sơn La, Lào Cai, Hòa Bình, Yên Bái, hà Giang lập cơ sở phản động
chống đối Cách mạng và đàn áp bóc lột nhân dân các dân tộc trong vùng.
Tháng 7-1947, có thêm chi viện quân Pháp từ Thuận Châu đánh chiếm Sơn La, Hát
Lót, Mai Sơn, Tạ Khoa, Chiềng Ban, Yên Châu, Mộc Châu. Lực lượng địa phương
cùng với trung đoàn 148 Sơn La làm nòng cốt liên tiếp chặn đánh địch ở Hát Lót.
Nổi bật là trận tập kích ở Mộc Hạ, Mộc Châu, đã tiêu diệt được nhiều địch trong



đó có tên quan 3 Pháp và thu được nhiều chiến lợi phẩn của chúng. Nhưng do lực
lượng của ta có hạn, quân địch đã chiếm được một vùng rộng lớn từ Sầm Nưa
(nước Lào) đến Sông Mã. Tại các vùng chiếm đóng địch đặt bộ máy cai trị, đóng
quân ở nhiều vị trí, khủng bố bóc lột nhân dân, mua chuộc quan lại cũ, chia rẽ dân
tộc, chia rẽ tình đoàn kết Việt – Lào, đồng thời chúng tổ chức các ổ phỉ quấy rối
miền Tây và các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Hòa Bình.
Cuối năm 1947, trung đoàn 52 và trung đoàn Thủ đô đứng chân trên đất Hòa Bình
và chuyển dần phương thức hoạt động: Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung theo
chủ trương của hội nghị quân sự toàn quốc lần thứ IV họp từ ngày 27 đến ngày 29
tháng 9 năm 1947; đồng thời thực hiện “huấn luyện về cuộc vận động, luyện quân
đội, lập chiến công” và “huấn luyện về phát động du kích chiến tranh” của bộ tổng
chỉ huy.
Tháng 10.11.12 năm 1947, thực dân Pháp huy động 12 nghìn quân với nhiều máy
bay, xe tăng, pháo lớn… bắt đầu chúng tấn công Việt Bắc hòng tiêu diệt thủ đô
kháng chiến của ta. Nhưng chúng đã thất bại thảm hại. Trung đoàn Tây Tiến phối
hợp với các lực lượng vũ trang địa phương và các đơn vị bạn đẩy mạnh hoạt động
chiến đáu giữ chân địch không cho chúng tập trung quân đánh lên Việt Bắc. Thời
kỳ này trung đoàn gặp nhiều khó khăn, ngoài nhiệm vụ đánh địch còn phải đối phó
với các loại bệnh tật nhất là sốt rét, hổ báo, rắn độc, ruồi vàng (hình ảnh của bộ đội
Tây Tiến đã được nhà thơ Quang Dũng khắc họa “Tây Tiến đoàn quân không mọc
tóc, Quân xanh màu lá dữ oai hùng…Rải rác biên cương mồ viễn xú…Chiến
trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Trong hoàn cảnh gian khổ đó trung đoàn Tây Tiến
đã biết dựa vào chính quyền và nhân dân địa phương, nêu các quyết tâm chiến đấu
bảo vệ căn cứ, bám đất, bám làng, tuyên truyền vận động nhân dân các dân tộc tích
cực tham gia kháng chiến. Tuy kết quả diệt dịch còn hạn chế, nhưng buộc địch phải
co cụm lại những đòn bốt chính, vì vậy các phong trào cách mạng địa phương phát
triển mạnh mẽ.
Tháng 6 năm 1949, Trung đoàn 52 Tây Tiến đổi tên thành trung đoàn 12 thuộc liên
khu III. Từ cuối năm 1949 đến đầu năm 1950, các đ/c An Giang (trung đoàn

trưởng), đ/c Lê Tư (chính ủy) và đ/c Trần Quang Thường (trung đoàn phó) được
cấp trên lần lượt điều động đi nhận công tác mới. Đ/c Ngô Lân và Đ/c Lê Khanh
được bổ nhiệm làm trung đoàn trưởng và chính ủy trung đoàn 12. [3]
Năm 1951, khi sư đoàn 320 (Đại đoàn Đồng Bằng) được thành lập, Trung đoàn
Tây Tiến trở thành một trong ba trung đoàn của sư đoàn này.
Từ tháng 4 đến tháng 6 (04/06/1954) Trung đoàn 52 (Trung đoàn Tây Tiến) phối
hợp với Trung đoàn 48 (Trung đoàn Thăng Long), trong đội hình Đại đoàn Đồng
Bằng các Trung đoàn của QĐNDVN đã đánh tiêu diệt các cụm cứ điểm Thức Hóa
(huyện Giao Thủy), đặc biệt cụm cứ điểm Đông Biên (huyện Hải Hậu)[4] giải
phóng hoàn toàn tỉnh Nam Định[5].
Trong cuộc Kháng chiến Chống Thực Dân Pháp (1945 – 1954) Trung đoàn đã loại
khỏi vòng chiến đấu 11.439 tên địch trong đó có 3.049 lính Âu Phi: Thu và phá
hủy 6.158 súng các loại, 76 xe cơ giới, 8 ca nô tàu chiến, 3 máy bay và hang tram
tấn đạn dược, quân dụng.


Trung đoàn đã vinh dự được tặng cờ “Quyết chiến, chiến thắng” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh và được mang tên truyền thống đoàn Đông Biên; trung đoàn được 8
huân chương quân công và 218 huân chương các hạng.
(Nguồn />%E1%BA%BFn)

Theo đó.
Đáp án có thể chọn là:
Câu 1. Phương án 1: Ngày 21/7/1954
Câu 2. Phương án 1: Từ ngày 22/3/1095 – 6/4/1955
Câu 3: Phương án 3: Mộc Châu, tỉnh Sơn La.




×