Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Mô hình các cơ sở giáo dục đại học việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (782.34 KB, 9 trang )

Mô hình các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam
trường chuyên nghiệp, trường sư phạm, trường cao
đẳng, trường đại học công lập và tư thục hệ hai năm,
và viện kỹ thuật. Điều kiện nhập học căn bản đối với
hầu hết các cơ sở giáo dục đại học là phải hoàn thành
giáo dục trung học, và tuổi nhập học thông thường là
khoảng 18 tuổi.[3]
Giáo dục đại học bao gồm các hoạt động giảng dạy,
nghiên cứu, thực tập (như trong các trường y khoa và
nha khoa), và phụng sự xã hội của các cơ sở giáo dục đại
học. Các hình thức giáo dục đại học bao gồm: giáo dục
tổng quát (general education), thường bao gồm đáng kể
những yếu tố lý thuyết và trừu tượng cùng với những
khía cạnh ứng dụng; giáo dục chú trọng đến các ngành
khai phóng (liberal arts education), bao gồm các ngành
nhân văn, khoa học, nghệ thuật; giáo dục mang tính
huấn nghệ (vocational education), kết hợp cả việc giảng
dạy lý thuyết lẫn những kỹ năng thực hành; giáo dục
chuyên nghiệp (professional education), như trong các
ngành kiến trúc, kinh doanh, luật, y khoa, v.v…

Một góc khuôn viên Viện Đại học Princeton ở tiểu bang New
Jersey, Hoa Kỳ, một trong những cơ sở giáo dục đại học danh
tiếng thế giới.

Giáo dục đại học hay giáo dục bậc cao (tiếng Anh:
higher education)[1] là giai đoạn giáo dục thường diễn
ra ở các trường đại học, viện đại học, đại học, trường
cao đẳng, học viện, và viện công nghệ. Giáo dục đại
học nói chung bao gồm các bậc sau trung học như cao
đẳng, đại học, và sau đại học,[2] và gồm cả một số cơ


sở giáo dục bậc đại học hay cao đẳng như các trường Ở nhiều quốc gia phát triển, có tới 50 phần trăm dân số
huấn nghệ và trường kinh doanh có trao văn bằng học theo học trong các cơ sở giáo dục đại học. Giáo dục đại
học do đó rất quan trọng đối với kinh tế quốc gia, với
thuật hay cấp chứng chỉ chuyên nghiệp.
tư cách là một ngành kinh tế và là nơi giáo dục và đào
yền tiếp cận giáo dục đại học được nói đến trong một tạo nhân lực cho phần còn lại của nền kinh tế. Những
số văn kiện nhân quyền quốc tế. Điều 13 của Công ước người theo học đại học thường kiếm được mức lương
ốc tế về các yền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (1966) cao hơn và ít có khả năng bị thất nghiệp hơn so với
của Liên Hiệp ốc cho rằng “giáo dục đại học phải những người có học vấn thấp hơn.[4][5]
được phổ cập bình đẳng cho mọi người bằng những
phương cách thích hợp, tùy thuộc vào khả năng, và đặc
biệt phải tiến dần đến miễn phí.” Điều 2 của Công ước
2 Giáo dục đại học tại Việt Nam
châu Âu về Nhân quyền (1950) quy định các nước ký
tên phải bảo đảm quyền giáo dục.
Bài này chưa nói đến hoạt động nghiên cứu và học tập
bậc cao trong các tôn giáo và trong các cơ sở do tôn
giáo điều hành như tu viện, thiền viện, chủng viện, và
trường Phật học. Bài viết cũng không đề cập đến những
hoạt động giáo dục sau trung học không thuộc phạm
vi giáo dục đại học mô tả ở trên. Về những hoạt động
học tập bậc cao thời cổ đại, xem bài Các cơ sở học tập
bậc cao thời cổ đại.

1

Tổng quan

Giáo dục đại học bao gồm các hình thức giáo dục diễn Một tòa nhà của Viện Đại học Huế (nay là Đại học Huế), ở số
ra ở các cơ sở học tập bậc sau trung học, cuối khóa 3 đường Lê Lợi, Huế.

học thường được trao văn bằng học thuật hoặc cấp
chứng chỉ. Các cơ sở giáo dục đại học không chỉ bao
gồm các trường đại học và viện đại học mà còn các
1


2

3 MÔ HÌNH CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM

Các chính thể độc lập ở Việt Nam từ thế kỷ 20 nói chung
đều nhấn mạnh đến công tác giáo dục và quyền được
giáo dục của người dân, mặc dù triết lý giáo dục, mục
tiêu giáo dục, và cách tổ chức thực hiện có khác nhau.
Điều này thể hiện trong các tuyên bố của chính phủ
Trần Trọng Kim thời Đế quốc Việt Nam,[6] và trong các
bản hiến pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946
và 1959), Việt Nam Cộng hòa (1956 và 1967), và Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1980 và 1992). Riêng
Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa còn nói rõ “nền giáo dục
đại học được tự trị.”[7]
Năm 1975, sau chiến tranh, tất cả các cơ sở giáo dục đại
học tư thục từng hoạt động ở miền Nam dưới chính thể
Việt Nam Cộng hòa bị giải thể, các cơ sở giáo dục đại
học công lập bị giải thể hoặc bị chia ra hay sắp xếp lại
theo mô hình phân tán ngành học của Liên Xô; quyền
tự trị đại học bị bãi bỏ.[8] Giáo dục Việt Nam dưới các
chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, gồm cả giáo dục đại học,
bị chính trị hóa,[9][10] và hoàn toàn nằm dưới sự quản

lý của nhà nước và Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều 36
Hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1992)
quy định “nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo
dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung, kế
hoạch giáo dục, tiêu chuẩn giáo viên, quy chế thi cử và
hệ thống văn bằng.”[11]

Giáo dục đại học Việt Nam trải qua chuyển biến lớn
vào đầu thập niên 1990 với sự ra đời của loại hình cơ
sở giáo dục đại học được gọi là "đại học”,[12] gấn giống
mô hình viện đại học hay university; mỗi "đại học” được
thành lập trên cơ sở sáp nhập một số trường đại học đơn
ngành đơn lĩnh vực. Ngày 18 tháng 6 năm 2012, ốc
hội lần đầu tiên thông qua Luật Giáo dục Đại học, đưa
ra “quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ
sở giáo dục đại học, hoạt động đào tạo, hoạt động khoa
học và công nghệ, hoạt động hợp tác quốc tế, bảo đảm
chất lượng và kiểm định chất lượng giáo dục đại học,
giảng viên, người học, tài chính, tài sản của cơ sở giáo
dục đại học và quản lý nhà nước về giáo dục đại học.”[13]

2.1 Tình trạng giáo dục hiện thời
eo TS Phạm ị Ly (ĐH ốc gia TP.HCM), mặc dù
tỉ lệ sinh viên vào ĐH còn thấp, đậu cử nhân ra trường
vẫn thất nghiệp. Tuy nhiên, mặc dù nhiều cử nhân thất
nghiệp, các doanh nghiệp vẫn thiếu người. Điều này
cho thấy đang có một khoảng cách khá xa giữa những
gì các trường đang dạy và những gì xã hội thật sự cần.
Cử nhân thất nghiệp do nhiều nguyên nhân, trong đó
phải kể đến chất lượng đào tạo có vấn đề, và do một

nguyên nhân sâu xa hơn: chính sách sử dụng người tài.
Việc số người vào đại học tuy ít (so với các nước khu
vực, Số liệu thống kê tại VN cho thấy chỉ có khoảng
24% thanh niên từ 18 - 24 tuổi được tiếp cận giáo dục
ĐH, trong khi con số này ở những nước như ái Lan,
Malaysia là 50 - 60%.) mà lại còn giảm là do việc có
những người học hành không ra gì vẫn có cương vị cao
trong xã hội đã phá hủy hết động lực học tập của người
trẻ. Ngoài ra, học hộ, thi thuê, bằng giả, cũng là những
thứ đã phá tan giá trị của tấm bằng đại học.[14]

Giáo dục đại học Việt Nam ở miền Bắc trước 1975 và ở
cả nước sau 1975 tuân theo mô hình bao cấp giống như
ở các nước xã hội chủ nghĩa khác. Hàng năm nhà nước
phân bổ chỉ tiêu tuyển sinh cho các cơ sở giáo dục đại
học, căn cứ vào tính toán nhu cầu của các cơ quan và
các địa phương. Căn cứ vào chỉ tiêu đó, ngân sách được
phân bổ cho các bộ chủ quản, rồi các bộ rót tiền xuống
cho các cơ sở giáo dục do mình quản lý. Sinh viên ra
trường được nhà nước phân công công việc. Tình hình
thay đổi kể từ năm 1987, khi những lĩnh vực trước đây
thuộc khu vực công bắt đầu do “các thành phần kinh 3 Mô hình các cơ sở giáo dục đại
tế" khác đảm trách; biên chế không còn nhu cầu và sinh
học Việt Nam
viên ra trường không có việc làm vì không còn được
phân công về các cơ quan nhà nước. Điều này đã dẫn
đến việc các cơ sở giáo dục đại học có nguy cơ tan rã,
do “sinh viên không muốn học, thầy cô không muốn
Các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam có các tên gọi:
dạy”.[9]

trường đại học, trường đại học bách khoa, trường đại
Mùa hè năm 1987, Bộ Đại học và Trung học Chuyên
học tổng hợp, trường đại học cộng đồng, viện đại học,
nghiệp triệu tập cáchiệu trưởng và bí thư Đảng ủy các
viện đại học bách khoa, đại học, đại học quốc gia, học
trường đại học về dự một hội nghị ở Nha Trang. Hội
viện, nhạc viện, trường cao đẳng, trường cao đẳng cộng
nghị đã thảo luận kế hoạch cải cách bao gồm bốn tiền
đồng, v.v… Trong ngôn ngữ hàng ngày, “trường đại
đề đào tạo: Đào tạo không chỉ cho các cơ quan nhà nước
học” và “viện đại học” thường được gọi ngắn gọn hay
mà còn cho cả các thành phần kinh tế; đào tạo theo dự
thân mật là "đại học”, mặc dù "đại học” là một loại hình
báo về yêu cầu nhân lực trong tương lai; đào tạo phục
cơ sở riêng biệt; về những nghĩa khác của "đại học”,
vụ nhu cầu học tập của người dân, không kèm trách
xem Đại học (định hướng).
nhiệm phân công, sinh viên tự tìm việc làm; đào tạo
đa dạng, có cả những loại hình đào tạo phi chính quy,
không chỉ bằng ngân sách nhà nước mà còn thu học 3.1 Trường đại học
phí. Cũng trong thời kỳ này, chính quyền Cộng hòa Xã
hội Chủ nghĩa Việt Nam bắt đầu sửa đổi chính sách Trường đại học (từ tương tự trong tiếng Anh: college;
phân loại “13 hạng thanh niên” trong tuyển sinh.[9]
có khi còn được dịch ra tiếng Anh là university) là một


3.2

Viện đại học


Lễ khai giảng, 15 tháng 11 năm 1945, ở Trường Đại học Quốc
gia Việt Nam, cơ sở giáo dục đại học đầu tiên của Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa

3
community college) là cơ sở giáo dục đại học sơ cấp và
đa ngành được thành lập ở Việt Nam dưới chính thể
Việt Nam Cộng hòa. Sinh viên học ở đây để chuyển
tiếp lên học ở các viện đại học, hoặc mở mang kiến
thức, hoặc học nghề để ra làm việc. Các trường đại học
cộng đồng được thành lập với sự tham gia đóng góp,
xây dựng, và quản trị của địa phương nhằm đáp ứng
nhu cầu phát triển ở địa phương trong các mặt văn hóa,
xã hội, và kinh tế.[8] Khởi điểm của mô hình trường đại
học cộng đồng ở Việt Nam là một nghiên cứu của ông
Đỗ Bá Khê tiến hành vào năm 1969 mà các kết quả sau
đó được đưa vào luận án tiến sĩ trình ở Viện Đại học
Nam California năm 1970.[15] Cơ sở đầu tiên được hình
thành là Trường Đại học Cộng đồng Tiền Giang, thành
lập năm 1971 ở Định Tường, sau khi mô hình giáo dục
mới này được mang đi trình bày sâu rộng trong dân
chúng.[8]

loại hình cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam. Hầu hết 3.2
các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam dưới các chính thể
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam có tên là trường đại học và theo mô
hình phân mảnh ngành học và phân mảnh cơ sở giáo
dục của Liên Xô, tức là mỗi trường đại học tập trung
vào một chuyên ngành hay một nhóm chuyên ngành

riêng; ví dụ: Trường Đại học Kinh tế ốc dân, Trường
Đại học Xây dựng, Trường Đại học ủy lợi… Trong
trường đại học thường có các khoa; trong khoa có các
bộ môn.

Viện đại học

Trường đại học có khi là một đơn vị thành viên trong
một viện đại học, ví dụ Trường Đại học Văn khoa thuộc
Viện Đại học Sài Gòn, hay trong một đại học, ví dụ
Trường Đại học Kinh tế thuộc Đại học Đà Nẵng.
Trường đại học tổng hợp (từ tương tự trong tiếng Anh:
college hoặc university) là loại hình cơ sở giáo dục đại
học của Việt Nam dưới hai chính thể Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Các
trường loại này gồm có Trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội (nay thuộc Đại học ốc gia Hà Nội), Trường Đại
học Tổng hợp Huế (nay thuộc Đại học Huế), và Trường
Đại học Tổng hợp ành phố Hồ Chí Minh (nay thuộc
Đại học ốc gia ành phố Hồ Chí Minh). Các trường
đại học tổng hợp này chỉ tập trung vào các ngành nhân
văn và khoa học cơ bản.
Trường đại học bách khoa (từ tương tự trong tiếng Anh:
polytechnic), có khi còn gọi là trường đại học kỹ thuật,
là loại hình cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam dưới
hai chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Các trường loại này gồm
có Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Trường Đại học
Bách khoa Đà Nẵng (nay thuộc Đại học Đà Nẵng), và
Trường Đại học Bách khoa ành phố Hồ Chí Minh

(nay thuộc Đại học ốc gia ành phố Hồ Chí Minh).
Các trường đại học bách khoa này chỉ tập trung vào các
ngành kỹ thuật và công nghệ.
Trường đại học cộng đồng (từ tương tự trong tiếng Anh:

Mặt tiền tòa nhà hành chánh Viện Đại học Sài Gòn, cơ sở giáo
dục đại học lớn nhất miền Nam Việt Nam thời Việt Nam Cộng
hòa.

Viện đại học (từ tương tự trong tiếng Anh: university)
là một loại hình cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam.
Hầu hết các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam dưới chính
thể Việt Nam Cộng hòa có tên là viện đại học theo mô
hình university của Hoa Kỳ và Tây Âu, cùng với nó
là hệ thống đào tạo theo tín chỉ; ví dụ: Viện Đại học
Huế, Viện Đại học Đà Lạt, Viện Đại học Vạn Hạnh. Mỗi
viện đại học bao gồm nhiều phân khoa đại học (tiếng
Anh: faculty; thường gọi tắt là phân khoa) hoặc trường
hay trường đại học (school hay college). Trong mỗi phân
khoa hay trường có các ngành; mỗi ngành tương ứng
với một ban (tương đương với đơn vị khoa hiện nay).[8]
Giáo dục Việt Nam thời Liên bang Đông Dương có
một cơ sở giáo dục theo mô hình viện đại học là Viện
Đại học Đông Dương (Université Indochinoise);[16] sau
1945 đổi tên thành Viện Đại học Hà Nội (Université de
Hà Nội). Ở Việt Nam hiện có một cơ sở giáo dục có tên
bắt đầu bằng cụm từ viện đại học là Viện Đại học Mở Hà
Nội. Mô hình viện đại học không giống như mô hình



4

4 GIÁO DỤC ĐẠI HỌC Ở MỘT SỐ QUỐC GIA

trường đại học tổng hợp vì các trường đại học tổng hợp chính phủ Việt Nam Cộng hòa, bậc đại học và sau đại
chỉ tập trung vào các ngành nhân văn và khoa học cơ học), Học viện ốc gia Nông nghiệp (năm 1974 trở
bản.
thành một trường thành viên của Viện Đại học Bách
Viện đại học bách khoa (từ tương tự trong tiếng Anh: khoa ủ Đức), v.v…
polytechnic university) là một cơ sở giáo dục đại học
đa ngành và đa lĩnh vực tương tự như mô hình viện
đại học, nhưng chú trọng đến các ngành thực tiễn. Vào
năm 1973, Viện Đại học Bách khoa ủ Đức được thành
lập dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa, dựa theo mô
hình polytechnic university ở California, Hoa Kỳ.[8] Đây
là viện đại học bách khoa duy nhất từng tồn tại ở Việt
Nam. Trong thời gian đầu, Viện Đại học Bách khoa ủ
Đức có các trường đại học chuyên về nông nghiệp, kỹ
thuật, giáo dục kỹ thuật, khoa học tự nhiên và nhân
văn, kinh tế và quản trị, và thiết kế đô thị; ngoài ra
còn có trường sau đại học. Các cơ sở giáo dục đều gom
chung lại trong một khuôn viên rộng lớn, tạo một môi
trường gợi hứng cho tri thức suy luận, với một cảnh
trí được thiết kế nhằm nâng cao óc sáng tạo; quản lý
hành chính tập trung để tăng hiệu năng và giảm chi
phí.[8] Mô hình viện đại học bách khoa không giống
như mô hình trường đại học bách khoa vì các trường
đại học bách khoa chỉ tập trung vào các ngành kỹ thuật
và công nghệ.


Ở Việt Nam hiện nay, học viện vừa đào tạo đại học, sau
đại học vừa nghiên cứu chuyên sâu trong một lĩnh vực,
một ngành trọng điểm quốc gia, như: Học viện Chính
trị ốc gia Hồ Chí Minh, Học viện ốc phòng, Học
viện Hải quân, Học viện Kỹ thuật ân sự, Học viện
Tài chính, Học viện Ngân hàng, Học viện Ngoại giao,
Học viện Cảnh sát Nhân dân, Học viện Nông nghiệp
Việt Nam v.v…
Trong khi đó, nhạc viện (từ tương tự trong tiếng Anh:
conservatory) hay học viện âm nhạc (music academy) là
cơ sở đào tạo và nghiên cứu âm nhạc từ trình độ dưới
đại học, đại học, và sau đại học; ví dụ: Nhạc viện ành
phố Hồ Chí Minh, Học viện Âm nhạc Huế.

3.5 Trường cao đẳng

Các école (tiếng Pháp, có nghĩa là trường) của Université
Indochinoise (Viện Đại học Đông Dương) thường được
gọi là “trường cao đẳng"; ví dụ: École des Beaux-Arts de
l'Indochine là Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương,
có khi là Trường Mỹ thuật Đông Dương. Một số trường
3.3 Đại học
thành viên của Trung tâm ốc gia Kỹ thuật Phú ọ
thời Việt Nam Cộng hòa cũng được gọi là trường cao
Đại học (từ tương tự trong tiếng Anh: university) chính đẳng; ví dụ: Trường Cao đẳng Công chánh, Trường Cao
thức có nghĩa là một cơ sở hay cơ cấu giáo dục đại học đẳng Điện học, v.v…
vào đầu thập niên 1990, khi chính phủ Việt Nam thành
lập các đại học quốc gia và đại học cấp vùng bằng cách Ở Việt Nam hiện nay, trường cao đẳng là một loại hình
gộp một số trường đại học lại với nhau. Hiện Việt Nam cơ sở giáo dục đại học đào tạo trình độ sau trung học
có hai đại học quốc gia (Đại học ốc gia Hà Nội và Đại nhưng thấp hơn bậc đại học, gọi là bậc cao đẳng. Các

học ốc gia ành phố Hồ Chí Minh) và ba đại học trường cao đẳng tuyển những người có bằng trung học
và có chương trình đào
cấp vùng (Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, và Đại học phổ thông học tương đương,
[20]
tạo
dài
khoảng
ba
năm.
Sinh
viên học xong cao đẳng
ái Nguyên). Các "đại học” này có mô hình gần giống

thể
tham
gia
thi
tuyển
để
được
chọn vào học “liên
[16]
với “viện đại học"; mỗi đại học có vài trường đại học
thông”
lên
bậc
đại
học

một

số
trường
đại học.
thành viên, và thường áp dụng một phần hay toàn bộ
[17][18]
hệ thống học theo tín chỉ.
Tuy vậy, các trường
đại học thành viên này gần như biệt lập với nhau; sinh
viên từ một trường thành viên này thường không học 4 Giáo dục đại học ở một số quốc
để lấy tín chỉ từ một trường thành viên khác. Có thể
gia
nói là mô hình "đại học” là một sự kết hợp giữa mô
hình phân mảnh ngành học và phân mảnh cơ sở giáo
dục của Liên Xô và mô hình viện đại học, và vẫn mang 4.1 Giáo dục đại học ở Pháp và Đức
nặng đặc điểm của mô hình phân mảnh của Liên Xô.
Vào tháng 10 năm 2009, một số đại biểu của ốc hội
Việt Nam đưa ra đề nghị gọi tên các đại học cấp quốc
gia và cấp vùng là viện đại học.[19]
Hệ thống giáo dục đại học ở cả Pháp và Đức nói chung
đều nằm dưới sự quản lý của các cơ quan nhà nước.
Điều kiện nhập học của sinh viên ở hai nước này
3.4 Học viện, Nhạc viện
tương tự nhau. Ở Pháp có kỳ thi tú tài (tiếng Pháp:
baccalauréat) ở cuối bậc trung học. Giáo dục đại học
ời Việt Nam Cộng hòa, học viện thường là cơ sở giáo ở Pháp miễn phí và dành cho tất cả các sinh viên đậu
dục đại học có tính chất như là trường chuyên nghiệp kỳ thi này. Sau khi đậu tú tài, sinh viên được nhận vào
(professional school), ví dụ: Học viện ốc gia Hành học năm thứ nhất dự bị ở một viện đại học, đến cuối
chánh (nơi đào tạo nhân viên hành chánh cao cấp cho năm thì trải qua một kỳ thi khác khó hơn. Nếu vượt



4.2

Giáo dục đại học ở Anh

5
hình mẫu cho các trường kỹ thuật. Giáo dục Đức thì
tạo ảnh hưởng thông qua những khái niệm triết học
liên quan đến vai trò của các viện đại học. Người Đức
đi tiên phong trong việc nhấn mạnh tầm quan trọng
của các viện đại học với vai trò là những cơ sở nghiên
cứu, và họ cũng tạo ra cảm nhận về các viện đại học
như là biểu tượng của tri thức quốc gia.[3]

4.2 Giáo dục đại học ở Anh

Tòa nhà chính của Viện Đại học Humboldt Berlin ở Berlin, Đức.

qua kỳ thi này sinh viên sẽ được phép học trong các
viện đại học thêm ba hay bốn năm cho đến khi nhận
được bằng đại học đầu tiên, ở Pháp gọi là license.[3]
Tuy nhiên có những khác biệt căn bản trong hệ thống
giáo dục giữa hai nước này. Các académie (học khu)
của Pháp,[21] nằm dưới sự quản lý của một giám đốc do
chính quyền bổ nhiệm và cũng là người giám sát các cơ
sở giáo dục đại học trong học khu. Chương trình học
đồng nhất trên khắp cả nước khiến các viện đại học khó
làm mình khác đi. Vì thế mà nhiều sinh viên chọn đến
Paris, nơi có chỗ ăn ở tốt hơn và có cơ hội tiếp xúc với
nhiều hoạt động văn hóa. Một khác biệt nữa là Pháp
có các cơ sở giáo dục đại học gọi là grand école, nơi

có chương trình giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp
bậc cao. Hầu hết các trường này không thuộc các viện
đại học, mặc dù họ cũng tổ chức các kỳ thi khắt khe
để tuyển những ứng viên đã có bằng tú tài. Các grand
école có các chương trình đào tạo trong tất cả các ngành
khoa học ứng dụng và công nghệ, và bằng cấp mà các
cơ sở này trao được đánh giá cao hơn các license thông
thường.[3]
Ở Đức, quốc gia hình thành từ các tiểu quốc hùng mạnh
một thời, các viện đại học cấp vùng có quyền tự trị
trong việc quyết định chương trình học của mình dưới
sự chỉ đạo của các viện trưởng hay hiệu trưởng bầu
chọn từ bên trong viện đại học. Sinh viên ở Đức thay
đổi nơi học tùy theo sở thích và thế mạnh của từng cơ
sở giáo dục. ực sự sinh viên thường theo học hai, ba,
hay thậm chí là bốn viện đại học khác nhau trong suốt
khóa học bậc đại học của mình, và phần đông các giáo
sư ở một viện đại học giảng dạy ở bốn hay năm cơ sở
khác nữa. Mức độ lưu chuyển cao này khiến cho hệ
thống giáo dục đại học Đức khác với hệ thống ở Pháp,
nơi thiếu sự tự do và tính cá thể.[3]

Trường Đại học Keble, một trong những trường thành viên của
Viện Đại học Oxford ở Anh Quốc.

Các cơ sở giáo dục đại học ở Anh ốc có một mức
độ tự trị cao. Các viện đại học ở Anh gần như hoàn
toàn tự trị đối với chính quyền quốc gia và địa phương
trong việc điều hành cũng như trong việc quyết định
chương trình học, dù cho các cơ sở này nhận tài trợ

gần như hoàn toàn từ nhà nước. Điều kiện tuyển sinh
ở các viện đại học Anh khá phức tạp. Sinh viên phải
lấy được Chứng chỉ Giáo dục Phổ thông (tương tự như
bằng tú tài ở Pháp) bằng cách thi đậu các kỳ thi trong
nhiều môn học khác nhau. Sinh viên thi đậu các kỳ thi
này với thứ hạng càng cao thì càng có cơ hội được vào
học ở một viện đại học do mình chọn. á trình tuyển
sinh khắt khe này, cùng với việc hướng dẫn sinh viên
chặt chẽ thông qua hệ thống phụ đạo, khiến hầu hết
sinh viện bậc đại học ở Anh có thể hoàn thành chương
trình trong ba năm, thay vì thông thường là bốn năm.
Các chương trình đào tạo ở Anh có mức độ chuyên môn
hóa cao hơn so với chương trình ở các nước châu Âu
lục địa. Ảnh hưởng của mô hình giáo dục đại học Anh
có thể tìm thấy ở Canada, Úc, Ấn Độ, Nam Phi, New
Zealand, và các cựu thuộc địa khác của Anh ở châu Phi,
Đông Nam Á, và ái Bình Dương.[3]

Cả hai nước đều có ảnh hưởng đến giáo dục đại học
ở các nước khác. ông qua ảnh hưởng lên các nước
thuộc địa hay thông qua công tác truyền giáo, người
Pháp đã đưa nhiều khía cạnh của hệ thống giáo dục
của họ vào Bắc và Tây Phi, vùng Caribe, và vùng Viễn
Đông. Trong thập niên 1870, hệ thống các viện đại học 4.3
của Nhật Bản được phát triển dựa theo mô hình của
Pháp. Đặc biệt các grand école của Pháp được lấy làm

Giáo dục đại học ở Hoa Kỳ



6

5

CHÚ THÍCH

khoảng 13 đến 15 trường đại học và viện đại học Hoa
Kỳ nằm trong nhóm 20 cơ sở giáo dục đại học đứng
đầu thế giới.[23][24] Giáo dục Hoa Kỳ có một đặc điểm
đáng chú ý bắt nguồn từ mô hình của Đức là việc coi
nhẹ các bài giảng và các kỳ thi. Ở cả hai quốc gia này,
sinh viên được đánh giá thông qua thành tích học tập
của họ trong các khóa học riêng lẻ, nơi mà việc viết
các bài luận và tham gia thảo luận được xem trọng. Mô
hình giáo dục đại học Hoa Kỳ được áp dụng triệt để
ở Philippines và đã ảnh hưởng đến hệ thống giáo dục
Nhật Bản và Đài Loan sau Chiến tranh ế giới thứ
hai.[3]
Tháp chuông trong khuôn viên Viện Đại học California-Berkeley
ở Hoa Kỳ.

Giáo dục đại học Hoa Kỳ khác với châu Âu ở một số
khía cạnh. Ở Hoa Kỳ, người ta có cảm nhận chung rằng
sinh viên hoàn thành giáo dục trung học nên học ít nhất
hai năm ở đại học. Do đó mà rất nhiều các trường đại
học tư thục hệ hai năm và trường đại học cộng đồng
đã được mở ra để cung cấp hai năm giáo dục bậc đại
học, không giống như các trường đại học và viện đại
học truyền thống, nơi đa số sinh viên hoàn thành bốn
năm học để lấy bằng và nơi có nhiều sinh viên tiếp tục

học thêm chương trình sau đại học từ một đến ba năm
ở các trường sau đại học. Các viện đại học cung cấp các
khóa học bốn năm là các cơ sở tư thục hoặc công lập
phụ thuộc vào sự hỗ trợ tài chính của chính phủ. Các
trường và viện đại học tư thục dựa nhiều vào số tiền
học phí thu được từ sinh viên. Các chính quyền tiểu
bang tài trợ cho cho các hệ thống viện đại học công lập
quy mô lớn, theo đó bảo đảm cơ hội giáo dục đại học
cho phần lớn dân chúng sẵn lòng và hội đủ điều kiện
về mặt học thuật để theo học.[3] Trong số những người
Mỹ từ 25 tuổi trở lên, 52.6% có đi học đại học, 27.2% có
bằng đại học, và 9.6% có bằng sau đại học.[22]
Ở Hoa Kỳ, bằng cử nhân hệ bốn năm thường có được
không phải bằng cách thi đậu các kỳ thi mà bằng cách
tích lũy các tín chỉ khóa học hay số giờ tham dự lớp
học. Chất lượng học tập trong các khóa học này được
đánh giá thông qua bảng điểm. Hoàn thành một số các
khóa học khác nhau và đạt điểm đậu thì sẽ được trao
bằng đại học. Trong hai năm đầu tiên, sinh viên thường
theo học các khóa học theo quy định trong một loạt các
lĩnh vực khác nhau, cùng với một số khóa học do sinh
viên tự chọn. Trong năm thứ ba và thứ tư, sinh viên
tập trung vào một hoặc hai lĩnh vực chuyên môn. Sinh
viên sau đại học có thể học cao hơn hay làm nghiên
cứu ở một trong số nhiều trường sau đại học, thường
là những cơ sở có sự chuyên môn hóa cao. Ở những
trường sau đại học này, sinh viên học để lấy bằng thạc
sĩ (gồm một đến hai năm học sau đại học) hoặc bằng
tiến sĩ (gồm hai đến bốn năm học cùng những yêu cầu
khác nữa).[3]

Hoa Kỳ có nhiều cơ sở giáo dục đại học công lập và
tư thục danh tiếng. eo các bảng xếp hạng uy tín,

4.4 Giáo dục đại học ở Nga

Giáo dục đại học ở Nga đặc trưng bởi sự quản lý trực
tiếp của nhà nước và cho đến năm 1990-1991 nằm dưới
sự kiểm soát của Đảng Cộng sản Liên Xô. Các cơ sở
giáo dục đại học được chia thành các trường đại học
tổng hợp, nơi giảng dạy các ngành nhân văn và khoa
học cơ bản; các viện, nơi dạy từng ngành riêng lẻ (ví dụ:
luật, y khoa, và nông nghiệp); và các viện bách khoa,
nơi có các ngành tương tự như trong các viện nhưng
được dạy với một nền tàng khoa học rộng hơn. Một
điểm khác biệt khác của hệ thống giáo dục đại học Nga
là việc mở rộng đáng kể mạng lưới giáo dục thông qua
những khóa học hàm thụ (từ xa) được thiết kế cẩn thận.
Những khóa học này được hỗ trợ bởi thêm các chương
trình phát trên đài phát thanh và đài truyền hình và
được tăng cường thông qua các trung tâm học tập cấp
vùng. Nhiều sinh viên do đó có thể học bán thời gian
trong khi làm việc toàn thời gian hay bán thời gian.
Sinh viên được tuyển vào các cơ sở giáo dục đại học
dựa trên cơ sở kết quả các kỳ thi. ời gian học để lấy
bằng cấp đầu tiên mất chừng bốn đến sáu năm, trong
đó trung bình là năm năm. Chương trình học bao gồm
các môn bắt buộc, thay thế, và tự chọn. Các sinh viên
học lấy bằng phải thi hai hay ba môn cơ bản liên quan
đến chuyên ngành mà mình chọn. Ở cuối khóa học bậc
đại học, các sinh viên đều được nhận bằng như nhau,

nhưng sinh viên có thành tích xuất sắc nhất thì được
bằng ưu. Hầu hết các cơ sở giáo dục đại học có các khóa
học sau đại học cho sinh viên theo học. Các khóa học
này thường kết thúc bằng một loạt các kỳ thi.[3]

5 Chú thích
[1] Về cách dịch cụm từ higher education, xem, chẳng hạn:
Frank H. T. Rhodes, Tạo dựng tương lai: Vai trò của các
viện đại học Hoa Kỳ, Hoàng Kháng, Tô Diệu Lan, và Lê
Lưu Diệu Đức dịch, Nhà xuất bản. Văn hóa Sài Gòn, TP.
Hồ Chí Minh, 2009, tr. 18.
[2] “Đại học”. Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam. Truy
cập ngày 19 tháng 11 năm 2013.


7
[3] “Higher education”. Encyclopedia Britannica. Truy cập
ngày 19 tháng 11 năm 2013.

[13] “Luật Giáo dục Đại học”. Chính phủ Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam.

[4] Michael Simkovic, Risk-Based Student Loans (2013)

[14] Đại học cần được cấu trúc lại , tuoitre, 22/09/2015

[5] OECD, Education at a Glance (2011)
[6] “Lịch sử độc lập và nội các đầu tiên Việt Nam” (PDF).
Việt Đông xuất bản cục. 1945. Truy cập ngày 20 tháng
11 năm 2013.

[7] “Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1967”. Wikisource.
[8] Nguyễn anh Liêm, Giáo dục ở miền Nam tự do trước
1975 (Education in South Vietnam before 1975), Lê Văn
Duyệt Foundation, California, 2006.
[9] Huy Đức, Bên thắng cuộc. Cuốn II. yền bính
(OsinBook, 2012), tr.47-56.
[10] Bức điện Ban Giáo dục Chuyên nghiệp tỉnh Nghĩa Bình
gởi báo anh Niên vào mùa hè năm 1987, nhân vụ ông
Nguyễn Mạnh Huy thi đậu đại học nhưng không được
học vì “cha chết trận”, có đoạn: “Về việc tuyền sinh vào
các trường đại học, trong tổng kết năm 1986, Giáo sư,
ứ trưởng Bộ Đại học và Trung học Chuyên nghiệp
Mai Hữu Khuê đã nói: Công tác tuyển sinh khẳng định
là phải mang tính chất giai cấp. Ở bất cứ chế độ xã hội
nào đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công
nhân kỹ thuật, đội ngũ đó phải trung thành với chế độ
và phục vụ một cách có hiệu quả cho chế độ đó.” eo
Huy Đức, sách đã dẫn, tr. 48-49.
[11] Điều 41, Hiến pháp Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam 1980 cũng quy định: “Sự nghiệp giáo dục do Nhà
nước thống nhất quản lý. Nhà nước chăm lo phát triển
cân đối hệ thống giáo dục: giáo dục mầm non, giáo dục
phổ thông, giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục đại học;
phát triển các trường dạy nghề, trường vừa học vừa làm,
hệ thống học tại chức; hoàn thành thanh toán nạn mù
chữ, tăng cường công tác bổ túc văn hoá, không ngừng
nâng cao trình độ văn hoá và nghề nghiệp của toàn dân.
Đoàn anh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, gia đình và xã
hội cùng với nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh
niên, thiếu niên và nhi đồng.”

[12] Lâm ang iệp. “Hệ thống giáo dục sau trung học
Việt Nam và vấn đề phân tầng”. Trung tâm Đào tạo và
Phát triển Nguồn Nhân lực, Đại học ốc gia Tp. Hồ
Chí Minh. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2013. Loại
hình university (viện đại học – đại học): Để khắc phục
thiếu sót của hệ thống giáo dục đại học trong thời kỳ
kinh tế kế hoạch hóa tập trung, vào năm 1993 một loạt
trường đại học đa lĩnh vực (thường được gọi là university
ở Mỹ và nhiều nước) đã được thành lập trên cơ sở sáp
nhập một số trường đại học đơn ngành đơn lĩnh vực.
Đây là một loại hình trường đại học mới, chưa có ở nước
ta trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tuy rằng
đã tồn tại ở nước ta dưới thời Pháp thuộc vào thập niên
1940, cũng như ở Miền Nam trước năm 1975, và đã được
gọi là viện đại học (Viện Đại học Đông Dương, Viện Đại
học Sài Gòn, v.v…). Để đặt tên cho loại hình trường đại
học mới, các văn bản nhà nước lúc đó không sử dụng
thuật ngữ viện đại học đã có trong lịch sử mà đưa vào
một thuật ngữ mới là "đại học”.

[15] Do, Khe Ba (1970). e Community Junior College
Concept: A Study of Its Relevance to Postwar
Reconstruction in Vietnam. Los Angeles, California:
University of Southern California..
[16] Lâm ang iệp (2004), Về xu hướng hội nhập giáo dục
đại học trên thế giới và những đổi mới của giáo dục đại
học Việt Nam. Trích từ Kỷ yếu Hội thảo "Đổi mới giáo
dục đại học Việt Nam, Hội nhập và ách thức”, Bộ Giáo
dục và Đào tạo, Hà Nội, 3/2004.
[17] “Cơ cấu tổ chức của Đại học ốc gia Hà Nội”. Đại học

ốc gia Hà Nội. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2013.
[18] “Cơ cấu tổ chức của Đại học ốc gia ành phố Hồ
Chí Minh”. Đại học ốc gia ành phố Hồ Chí Minh.
Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2013.
[19] “Báo cáo tổng hợp ý kiến thảo luận ở tổ của đại biểu
quốc hội về Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Giáo dục ngày 28 tháng 10 năm 2009 (mục 8)”.
Báo Giáo dục ời đại. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm
2013.
[20] “Cao đẳng”. Từ điển Bách khoa Toàn thư Việt Nam.
Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2013.
[21] Académie (học khu) là một đơn vị quản lý hành chánh
của Bộ ốc gia Giáo dục và Bộ Giáo dục Đại học và
Nghiên cứu. Pháp hiện có 26 học khu. Đứng đầu mỗi
học khu là một recteur d'académie (giám đốc học khu)
được bầu ra trong số các giáo sư đại học và được tổng
thống bổ nhiệm.
[22] “Educational Aainment in the United States: 2003”
(PDF). U.S. Census Bureau. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm
2006.
[23] “QS World University Rankings”. Topuniversities. Truy
cập ngày 10 tháng 7 năm 2011.
[24] “Top 200 – e Times Higher Education
World
University
Rankings
2010–2011”.
Timeshighereducation.co.uk. Truy cập ngày 10
tháng 7 năm 2011.


6 Đọc thêm
• Rhodes, Frank H. T. (2009). Tạo dựng tương lai: Vai
trò của các viện đại học Hoa Kỳ. Hoàng Kháng, Tô
Diệu Lan, và Lê Lưu Diệu Đức dịch. TP. Hồ Chí
Minh: Nhà xuất bản. Văn hóa Sài Gòn. Nguyên
tác: Rhodes, Frank H. T. (2001). e Creation of the
Future: e Role of the American University. Ithaca:
Cornell University Press. ISBN 0-8014-3937-X.
• Ngô Bảo Châu, Piere Dariulat, Cao Huy uần,
Hoàng Tụy, Nguyễn Xuân Xanh, và Phạm Xuân
Yêm chủ biên (2011). Kỷ yếu Đại học Humboldt 200
năm (1810-2010): Kinh nghiệm thế giới & Việt Nam.
Hà Nội: Nhà xuất bản. Tri ức.


8

7
• Kennedy, Donald (2012). Nghĩa vụ học thuật.
Hoàng Kháng, Tô Diệu Lan, và Cao Lê anh Hải
dịch. Hà Nội: Nhà xuất bản. Tri ức. Nguyên
tác: Kennedy, Donald (1997). Academic Duty.
Cambridge: Harvard University Press. ISBN 0674-00222-9.
• Do, Khe Ba (1995). “e Difficult Path Toward an
Integrated University and Community College
System in Vietnam” (PDF). khiemdo.net. In
trong: Yee, Albert H. (ed.), East Asia Higher
Education: Traditions and Transformations
(Oxford: Pergamon, 1995), tr. 135-154.
• Do, Khe Ba (1970). e Community Junior

College Concept: A Study of Its Relevance to
Postwar Reconstruction in Vietnam. Los Angeles,
California: University of Southern California.
Luận án Tiến sĩ.
• Douglass, John A. and Todd Greenspan, eds. “e
History of the California Master Plan for Higher
Education”. University of California, Berkeley.
• Green, Madeleine, F., ed. 1988. Leaders for a New
Era: Strategies for Higher Education. New York:
Macmillan.
• Hồ Tú Bảo và các cộng sự (2006). “Sử dụng trí thức
Việt kiều để xây dựng giáo dục đại học chất lượng
cao tại Việt Nam: Một đề án”. ời đại mới, số 9,
tháng 11/2006.
• Nguyễn iện Tống (2013). “Việt Nam cần hướng
đến mô hình viện đại học đa lĩnh vực”. Giáo dục
Việt Nam, ngày 14/09/2013.

7

Liên kết ngoài
• e Origin of Universities (Nguồn gốc các viện đại
học). Bản liệt kê của GS. Jerome Bump ở Viện Đại
học Texas-Austin.
• Giáo dục đại học. Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt
Nam.
• Giáo dục các nước. Viện Nghiên cứu Phát triển
Giáo dục. Có một số chương sách rút từ cuốn Kỷ
yếu Đại học Humboldt 200 năm.
• Ethical Principles in University Teaching. Society

for Teaching and Learning in Higher Education,
Canada. Bản dịch tiếng Việt: Những nguyên tắc
đạo đức trong giảng dạy đại học, báo Tia Sáng.
• Tertiary Education (Giáo dục sau trung học). Ngân
hàng ế giới.
• League of European Research Universities (Liên
đoàn các Viện Đại học Nghiên cứu châu Âu): Các
bài viết về giáo dục đại học, chẳng hạn “What are

LIÊN KẾT NGOÀI

Universities for?" (Mục đích của các viện đại học
là gì?).
• ông tin giáo dục Pháp, Vương quốc Anh, Đức,
và Hoa Kỳ trên trang mạng của cơ quan ngoại giao
và văn hóa các nước này tại Việt Nam.


9

8

Nguồn, người đóng góp, và giấy phép cho văn bản và hình ảnh

8.1

Văn bản

• Giáo dục đại học Nguồn: />26680305 Người đóng góp: Mekong Bluesman, Chobot, Lưu Ly, Vinhtantran, Newone, Dung005, Trungda, Escarbot, JAnDbot, Squall282,
VolkovBot, TXiKiBoT, Synthebot, Vieted, SieBot, TVT-bot, Qbot, MelancholieBot, Luckas-bot, SilvonenBot, ick thi sock, Kemmue,

Porcupine, Xqbot, Trần Nguyễn Minh Huy, HalcyonL, Zaahuu, Dinhtuydzao, EmausBot, ZéroBot, Minhthu.151, WikitanvirBot,
Mjbmrbot, Movses-bot, Cheers!-bot, Nathanh, MerlIwBot, Hamhochoilatoi, DanGong, Wkpda, Alphama, AlphamaBot, Hugopako,
Addbot, itxongkhoiAWB, Alsips, Tuanminh01, TuanminhBot, Én bạc AWB và 15 người vô danh

8.2

Hình ảnh

• Tập_tin:Commons-logo.svg Nguồn: Giấy phép: Public
domain Người đóng góp: is version created by Pumbaa, using a proper partial circle and SVG geometry features. (Former versions
used to be slightly warped.) Nghệ sĩ đầu tiên: SVG version was created by User:Grunt and cleaned up by 3247, based on the earlier
PNG version, created by Reidab.
• Tập_tin:Folder_Hexagonal_Icon.svg Nguồn: />Giấy phép: CC-BY-SA-3.0 Người đóng góp: Own work based on: Folder.gif. Nghệ sĩ đầu tiên: Original: John Cross
Vectorization: Shazz
• Tập_tin:HCMvaVudinhhoe.jpg Nguồn: Giấy phép: Phạm vi
công cộng Người đóng góp: ? Nghệ sĩ đầu tiên: ?
• Tập_tin:Humboldt_Universitaet_Berlin.jpg
Nguồn:
/>Universitaet_Berlin.jpg Giấy phép: CC-BY-SA-3.0 Người đóng góp: German Wikipedia Nghệ sĩ đầu tiên: Mussklprozz
• Tập_tin:Huế_University.jpg Nguồn: Giấy
phép: CC BY-SA 3.0 Người đóng góp: Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra Nghệ sĩ đầu tiên: Lưu Ly
• Tập_tin:Keble_College_Chapel_-_Oct_2006.jpg Nguồn: />Chapel_-_Oct_2006.jpg Giấy phép: CC BY 2.5 Người đóng góp: Tác phẩm do chính người tải lên tạo ra Nghệ sĩ đầu tiên: Diliff
• Tập_tin:Nassau_Hall,_Princeton.jpg Nguồn: />jpg Giấy phép: CC0 Người đóng góp: Nghệ sĩ đầu tiên: Smallbones,
cropped by Inabluemn
• Tập_tin:Saigon_University.JPG Nguồn: Giấy phép:
Public domain Người đóng góp: e-gioi Tu-do Nghệ sĩ đầu tiên: USIA
• Tập_tin:UCBerkeleyCampus.jpg Nguồn: Giấy phép:
CC BY 2.0 Người đóng góp: Flickr Nghệ sĩ đầu tiên: brainchildvn on Flickr
• Tập_tin:Wiktionary_small.svg Nguồn: Giấy phép: CC
BY-SA 3.0 Người đóng góp: ? Nghệ sĩ đầu tiên: ?


8.3

Giấy phép nội dung

• Creative Commons Aribution-Share Alike 3.0



×