Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận môn các đảng chính trị trên thế giới một số vấn đề về quá trình hình thành, quan điểm và cương lĩnh lãnh đạo của đảng cầm quyền xã hội dân chủ thụy điển (SDP)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.27 KB, 23 trang )

MỞ ĐẦU
Trong tiến trinh lịch sử phát triển xã hội của con người từ khi bắt đầu có nhà
nước và hình thành nền chính trị cũng như hoạt động chính trị trong mỗi đất nước
thì trong các nước để tập hợp được sức mạnh cũng như tập hợp được đông đảo
thành viên có chung lý tưởng cũng như mục tiêu và sự ủng hộ thì trong các nước
đã bắt đầu có các Đảng chính trị hoạt động. Những đảng này thường có những
cương lĩnh , mục tiêu cũng như cách thức hoạt động riêng lẻ. Nhưng chúng đều
hướng tới việc đóng góp, ảnh hưởng hay bảo vệ lợi ích cho các thành viên trong
Đảng của mình.
Trong nền chính trị đó, những Đảng nào có cương lĩnh đúng đắn, hợp lý, đại
diện cho tư tưởng, nguyện vọng cũng như lợi ích của nhân dân trong nước đó thì
đẩng đó có thể chiến thắng trong các cuộc bầu cử và thực hiện quyền lãnh đạo xây
dựng đất nước. Những đảng cầm quyền này là những đảng sẽ ảnh hưởng đến vận
mệnh của đất nước, nó có thể giúp đất nước phát triển hay có thể kìm hãm sự phát
triển của đất nước nếu không có được một cương lĩnh xây dựng đất nước đúng đắn.
Thụy Điển là một quốc gia kém phát triển trong những năm cuối thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX, tuy nhiên với việc thắng lợi trong cuộc bầu cử vào năm 1932
thì đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển (SDP) đã trở thành Đảng chính trị cầm quyền
trong đất nước Thụy Điển. Với 44 năm lãnh đạo đất nước liên tục cùng với những
nhiệm kỳ lãnh đạo khác sau này thì Đảng SDP với những lãnh đạo của Đảng, với
cương lĩnh đúng đắn và có sự thay đổi liên tục đã thành công trong việc biến Thụy
Điển từ một nước nghèo nàn , lạc hậu tại Bắc Âu trở thành một trong những nước
phát triển và giàu có bậc nhất. Xuất phát từ điều đó, với mong muốn tìm hiểu về
đảng SDP do vậy em đã chọn đề tài: “Một số vấn đề về quá trình hình thành,
quan điểm và cương lĩnh lãnh đạo của Đảng cầm quyền Xã hội dân chủ Thụy
Điển (SDP)” để làm tiểu luận hết môn của môn Đảng cầm quyền………………

1


NỘI DUNG


Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ NỀN CHÍNH TRỊ ĐẤT NƯỚC THỤY ĐIỂN
1.1.

Tóm lược chung về nước Thụy Điển
Thuỵ Điển là một nước nằm trên bán đảo Scandinavia, với diện tích 450.000

km2, gấp rưỡi Việt Nam, lớn nhất Bắc Âu, đứng thứ 5 châu Âu sau Nga, Ucraina,
Pháp, Tây Ban Nha; với số dân gần 9 triệu người. Có lẽ Thuỵ Điển là một trong số
rất ít dân tộc trên thế giới được hưởng một nền hoà bình lâu dài như vậy. Kể từ
năm 1814 đến nay (qua hai cuộc chiến tranh thế giới), Thuỵ Điển không bị gánh
chịu hậu quả tàn phá của chiến tranh.
Nhờ có môi trường hoà bình này, cộng với một chính sách phát triển kinh
tế, xã hội phù hợp đã đem lại cho Thuỵ Điển một thành tích nổi bật từ một nước
nông nghiệp lạc hậu đầu thế kỷ trở thành một nước công nghiệp phát triển cao, là
một trong số 10 nước giàu nhất thế giới trong vài thập niên qua. "Mô hình Thuỵ
Điển" đã trở thành hình mẫu mà nhiều nước đang phát triển ngưỡng mộ. "Một nhà
nước phúc lợi" trong đó người lao động có điều kiện sống, làm việc đầy đủ ; người
dân tham gia vào những vấn đề quan trọng của đất nước mình thông qua lá phiếu
bầu.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Châu Âu bị chia thành hai khối quân sự và
hai hệ tư tưởng đối lập nhau. Một Tây Âu dưới ảnh hưởng của Mỹ và một Đông
Âu dưới ảnh hưởng của Liên Xô. Thuỵ Điển tiếp tục xa lánh những cam kết chính
trị, quân sự đối với bất kỳ khối nào, và thi hành chính sách trung lập.
Chính sách trung lập đã trở thành đặc điểm chính của chính sách đối ngoại
của Thuỵ Điển trong thế kỷ 20. Các nhà vạch chính sách Thuỵ Điển cho rằng thi
hành chính sách trung lập nhằm hai mục đích : một để tránh nằm dưới ảnh hưởng
của siêu cường gần đó (Liên Xô cũ) và mặt khác tránh trở thành cứ điểm đe doạ
của siêu cường kia (Mỹ).

2



Suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, chính sách trung lập của Thuỵ Điển được thực
thi với phương châm "không tham gia vào các liên minh trong thời bình để trung
lập trong thời chiến", cộng với một nền phòng thủ mạnh mẽ.
Điều này gần như đã trở thành một học thuyết được sự ủng hộ áp đảo trong
nước, trong đó nhấn mạnh : là một nước nhỏ cần độc lập với các cường quốc và
đoàn kết với thế giới thứ ba.
Khác với Thuỵ Sĩ, tính chất trung lập của Thuỵ Điển chưa bao giờ ghi trong
Hiến pháp. Điều đó nhiều lúc lại là một lợi thế cho phép Thuỵ Điển đóng một vai
trò độc lập; chính sách này được thể hiện rõ nét khi Chính phủ do Đảng Xã hội Dân chủ nắm quyền: chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chỉ trích các nước lớn
can thiệp vào các nước nhỏ - như trường hợp Mỹ can thiệp vào Việt Nam, Liên Xô
can thiệp vào Afghanistan, dành viện trợ cho các nước nghèo vô tư, hào phóng,
không kèm điều kiện chính trị, và là một số ít nước đạt được mức 0,7% GNP của
Liên Hợp quốc đề ra, thậm chí có năm đạt được 1% GNP (Mỹ 0,25%, Nhật
0,32%).
Tóm lại, với chính sách nhậy bén, kịp thời, có lúc tỏ ra thực dụng, Thuỵ
Điển đã thành công trong việc duy trì môi trường hoà bình ổn định để phát triển và
đạt được sự phát triển cao. Tuy là nước nhỏ nhưng có vị trí và uy tín trên thế giới.
1.2.

Hệ thống tổ chức Nhà nước

1.2.1. Nguyên thủ quốc gia
Theo Luật Kế tục, Vua hoặc Nữ hoàng Thụy Điển là Nguyên thủ quốc gia.
Từ tháng 9/1973, Nguyên thủ quốc gia của Thụy Điển là Vua Carl XVI Gustaf,
không có quyền lực chính trị và không tham gia vào đời sống chính trị.

3



Với tư cách là Nguyên thủ quốc gia, Vua/Nữ hoàng là người đại diện cho đất
nước và chỉ tham gia các hoạt động mang tính chất nghi thức. Nguyên thủ quốc gia
đóng vai trò là chủ nhà tiếp đón nguyên thủ quốc gia của các nước trong các
chuyến thăm chính thức Thụy Điển.
Vua/Nữ hoàng ký các ủy nhiệm thư cử các đại sứ của Thụy Điển tới các
nước và tiếp nhận đại sứ của các nước tới Thụy Điển. Nguyên thủ quốc gia còn có
nhiệm vụ tổ chức phiên họp hàng năm của Quốc hội (Riksdag). Vua/Nữ hoàng
không tham gia vào các tranh luận cũng như không ký bất cứ quyết định nào của
Chính phủ. Năm 1979, Luật Kế tục sửa đổi đã quy định người thừa kế là nam hay
nữ đều có quyền bình đẳng trong việc kế vị ngai vàng. Từ năm 1980, quyền kế vị
ngai vàng thuộc về người con trưởng bất kể là nam hay nữ.
1.2.2. Quốc hội (Riksdag)
Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, Quốc hội ban hành luật,
quyết định các loại thuế và cách thức đầu tư các nguồn lực của đất nước, giám sát
Chính phủ và các cơ quan nhà nước. Thành viên của Quốc hội được nhân dân bầu
thông qua phổ thông đầu phiếu, trực tiếp, bỏ phiếu kín và đại diện đảng theo tỷ lệ
phiếu bầu. Thành viên của Quốc hội có nhiệm kỳ là 4 năm.
1.2.3. Chính phủ
Chính phủ gồm Thủ tướng Chính phủ (Statsminister) và các thành viên của Hội
đồng Bộ trưởng (Statsrad). Văn phòng Chính phủ (Regeringskansli) chịu trách
nhiệm chuẩn bị các vấn đề cho Hội đồng. Thủ tướng bổ nhiệm các Bộ trưởng.
Thụy Điển có 13 bộ, tuy nhiên có nhiều Bộ trưởng không phải là người đứng đầu
của một bộ (Bộ trưởng không bộ). Chính phủ làm việc theo nguyên tắc thảo luận
và ra các quyết định tập thể.
4


1.2.4. Hệ thống tư pháp
Hệ thống tư pháp độc lập với Quốc hội và Chính phủ. Tòa án Tối cao của Thụy

Điển là cấp xét xử thứ 3 và có thẩm quyền quyết định cuối cùng đối với tất cả các
vụ án về dân sự và hình sự. Toàn án Tối cao (Hogsta Domstolen) là tòa có thẩm
quyền chung cấp cao nhất trong hệ thống tư pháp, còn Hội đồng Chính phủ là cơ
quan có thẩm quyền cao nhất trong xét xử các vụ án hành chính. Thành viên của
Tòa án Tối cao và Hội đồng Chính phủ được bổ nhiệm là thẩm phán suốt đời.
1.2.5. Tổ chức chính quyền địa phương
+ Chính quyền cấp tỉnh: Thụy Điển là nhà nước đơn nhất, bao gồm 21 tỉnh
(Län), trong số đó có 2 vùng lớn do các tỉnh nhỏ hơn sát nhập lại, mỗi tỉnh hoặc
vùng có Ủy ban hành chính tỉnh hoặc vùng đại diện cho chính quyền Trung ương
trong một số lĩnh vực (Ủy ban hành chính đầu tiên được thành lập bởi Thủ tướng
Thụy Điển Axel Oxenstierna vào năm 1634). Mỗi tỉnh cũng có một Hội đồng do
người dân trực tiếp bầu ra.
+ Chính quyền thành phố (Municipalities or kommuner): Thụy Điển có 290
thành phố.
Chính quyền thành phố được thành lập bởi Hội đồng lập pháp của thành phố
(gọi là kommunfullmäktige), các thành viên của Hội đồng này (tổng số thành viên
luôn là số lẻ) được bầu theo phổ thông đầu phiếu theo nhiệm kỳ 4 năm. Các thành
phố này được chia thành các xã (församlingar), cả nước có tổng cộng 2.512 xã.
1.2.6. Hành chính công
*Hành chính Trung ương:

5


Ở Thụy Điển, hành chính nhà nước được tổ chức thành hai cấp độ: Các bộ và
các cơ quan của chính quyền Trung ương.
Các bộ có chức năng hỗ trợ các hoạt động của Chính phủ, bao gồm từ việc
điều tra ban đầu, xây dựng và giám sát việc thực hiện các mục tiêu hoạt động của
chính quyền Trung ương.
Đa số công chức làm việc cho Chính phủ trong các cơ quan của chính quyền

Trung ương, các cơ quan này có thể có văn phòng ở Trung ương, ở cấp vùng và địa
phương. Các cơ quan này là các đơn vị đầu mối chịu trách nhiệm cho hầu hết các
hoạt động vận hành nền hành chính công của Thụy Điển.
Mỗi cơ quan được quản lý bởi một người quản lý điều hành và thường có một
Ban Quản trị do Chính phủ bổ nhiệm. Các cơ quan này thuộc các Bộ nhưng có
mức độ tự chủ cao trong việc ra các quyết định liên quan đến tổ chức, nguồn lực và
nhân sự của mình để thực hiện các mục tiêu đề ra. Theo Hiến pháp Thụy Điển, các
Bộ trưởng không được phép can thiệp trực tiếp vào hoạt động hàng ngày của các
cơ quan của Chính phủ.
* Hành chính vùng:
Hành chính nhà nước ở cấp vùng được phân chia giữa Ủy ban hành chính tỉnh
và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác với các tổ chức vùng (như Ủy ban
Bảo hiểm xã hội, Cảnh sát, Cơ quan việc làm quốc gia…). Ủy ban hành chính tỉnh
đóng vai trò là cơ quan cấp vùng của các cơ quan Trung ương.
Hội đồng tỉnh cung cấp dịch vụ giao thông vận tải và y tế ở cấp khu vực…, đô
thị cung cấp toàn bộ các loại hình dịch vụ và chính sách của địa phương. Ngày nay,

6


Tỉnh trưởng (Landshövding) chịu trách nhiệm quản lý nhà nước trong tỉnh khi
chức năng này không được trao cho một cơ quan khác.
Đô thị tự quản: Các đô thị/thành phố (Kommuner) có quyền hạn tương đối
rộng, như có quyền đặt ra các loại thuế và thu thuế, hầu hết người dân ở các đô thị
chỉ đóng các loại thuế cho thành phố. Hội đồng thành phố (Kommunfullmäktige)
do người dân bầu, ban hành các quyết định của thành phố. Thẩm quyền của thành
phố được quy định trong Luật Chính quyền địa phương.
Hiến pháp Thụy Điển quy định mối quan hệ giữa quyền ra quyết định và quyền
hành pháp. Luật Chính quyền địa phương năm 1992 của Thụy Điển quy định về sự
phân chia thành các thành phố và các tổ chức, cũng như quyền hạn của các thành

phố và Hội đồng tỉnh. Ngoài ra Luật Chính quyền địa phương còn quy định về đại
biểu dân cử, hội đồng thành phố, Ban điều hành và các văn phòng của thành phố.
1.3.

Hệ thống Đảng phái chính trị Thụy Điển
Về mặt hình thức, Thuỵ Điển theo thể chế quân chủ lập hiến. Nguyên thủ

quốc gia từ năm 1973 là vua Carl XVI Gustav. Quốc hội (Riksdag) chỉ có một viện
bao gồm 349 nghị sĩ và được bầu 4 năm một lần.
**Các đảng phái chính trị hiện nay
*Liên minh Xanh đỏ:
Đảng DCXH: (112 ghế) thành lập năm 1889, tiền thân là đại diện những
người lao động, là đảng chính trị lớn nhất ở Thụy Điển, nắm quyền lãnh đạo đất
nước trong một thời gian dài và có những đóng góp to lớn trong việc xây dựng
thành công mô hình nhà nước phúc lợi.
Sau thất bại bầu cử 2006 và 2010, đảng DCXH có nhiều nỗ lực đổi mới đảng
về tổ chức, đường lối và nhân sự nhằm giành lại vai trò lãnh đạo song chưa thấy có
7


chuyển biến rõ rệt. Chủ tịch đảng hiện nay là ông Stefan Lofven, nguyên là lãnh
đạo công đoàn (từ 2/2012).
Đảng Môi trường (Đảng Xanh): (25 ghế) thành lập năm 1981 từ phong trào
phản đối năng lượng hạt nhân, bảo vệ môi trường, bảo vệ thiên nhiên; hiện là đảng
lớn thứ 3 trong Quốc hội. Đảng Xanh ủng hộ việc giảm dần sử dụng năng lượng
hạt nhân, tăng thuế môi trường, đánh thuế cao các sản phẩm không thân thiện với
môi trường, ủng hộ hợp tác ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu. Người phát
ngôn hiện nay là bà Asa Romson và ông Gustav Fridolin (từ tháng 5/2011).
Đảng Cánh tả: (19 ghế) thành lập năm 1917, do nhóm cánh tả của đảng
DCXH tách ra. Năm 1921, đảng đổi tên là đảng Cộng sản Thụy Điển. Năm 1967

đổi thành đảng Cộng sản Cánh tả và năm 1990 đổi thành đảng Cánh tả. Khi mới
thành lập, đảng lấy CN Mác-Lê nin làm nền tảng tư tưởng, dần dần theo con đường
cải lương, chủ nghĩa dân túy. Đảng Cánh tả phản đối tư nhân hóa, chống việc Thụy
Điển gia nhập euro. Chủ tịch đảng hiện nay là ông Jonas Sjostedt (từ tháng
1/2012).
*Liên minh cầm quyền trung hữu:
- Đảng Bảo thủ (Ôn hòa): (107 ghế) thành lập năm 1904, đại diện cho quyền
lợi của tầng lớp đại tư bản công nghiệp và giáo hội theo tư tưởng cực hữu, chống
chủ nghĩa cộng sản, ủng hộ mạnh tư nhân hóa, thị trường tự do, giảm thuế, ủng hộ
tự do cá nhân, hôn nhân đồng tính. Chủ tịch đảng hiện này là ông Fredrik Reinfeldt
(từ năm 2003).
- Đảng Tự do: (24 ghế) thành lập năm 1902, đại diện cho tầng lớp trí thức,
viên chức theo khuynh hướng trung hữu, hiện là đảng lớn thứ 4 trong Quốc hội.
Đảng tự do ủng hộ người nhập cư, nới lỏng các chính sách đối với người nhập cư

8


vì lý do kinh tế, ủng hộ Thụy Điển gia nhập NATO. Chủ tịch đảng hiện nay là ông
Jan Bjorklund.
- Đảng Trung tâm: (23 ghế) thành lập năm 1913, đại diện quyền lợi của tầng
lớp tư bản trong nông nghiệp theo khuynh hướng trung hữu. Những năm 1970 và
đầu năm 1980 là đảng lớn nhất trong các đảng cánh hữu. Đảng Trung tâm có quan
điểm ủng hộ người nhập cư, chính sách viện trợ cho các nước nghèo. Chủ tịch
đảng hiện là bà Annie Loof (từ năm 2011).
- Đảng Dân chủ thiên chúa giáo: (19 ghế) thành lập năm 1964, là đảng
chính trị nhỏ đại diện quyền lợi cho những người theo đạo Thiên chúa, bảo vệ các
ý tưởng của tôn giáo, tự do, nhân quyền; ủng hộ chăm sóc người già, giảm thuế,
phản đối việc công nhận Palestine. Chủ tịch đảng hiện là ông Goran Hagglund (từ
năm 2004).

*Đảng độc lập trong quốc hội, có vai trò cân bằng:
- Đảng những người dân chủ Thụy Điển: (19 ghế) thành lập năm 1988 đại
diện cho tầng lớp theo chủ nghĩa dân tộc cực hữu, bài ngoại; hội viên của đảng đa
số là thanh niên, sinh viên có tư tưởng cực đoan trong chính sách đối với người tị
nạn, chống nhập cư, tham gia EU; bảo vệ các giá trị truyền thống của xã hội Thụy
Điển. Trong cuộc bầu cử năm 2010, lần đầu tiên đảng này được tham gia Quốc hội.
Chủ tịch đảng hiện là ông Jimmi Akersson.
Ngoài ra còn có một số đảng nhỏ khác như Đảng Cộng sản theo đường lối
Mác-xít. Chủ tịch đảng hiện là ông Anders Carlsson. Đảng Cộng sản Thụy Điển,
lãnh đạo đảng hiện là ông Victor Diaz de Filippi (người gốc Chi lê).
Các tổ chức công đoàn, các tổ chức xã hội, các tổ chức NGOs cũng đóng vai
trò quan trọng như: Tổng công đoàn Thụy Điển (LO) thành lập năm 1898, hiện có
1,5 triệu hội viên; Công đoàn giới chủ các doanh nghiệp tư nhân (KFO) thành lập
9


năm 1902; Công đoàn “công nhân cổ trắng” (TCO), tổ chức Bảo trợ trẻ em Thụy
Điển (Save the children Sweden),…
Chương 2: ĐẢNG DÂN CHỦ XÃ HỘI THỤY ĐIỂN (SDP)
2.1.

Lịch sử hình thành và phát triển của SDP
Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển được thành lập từ năm 1889 và là một trong

những chính đảng giàu truyền thống đấu tranh của phong trào XHCN ở châu Âu
cũng như trên thế giới. Đây là đảng đóng vai trò then chốt trong hệ thống chính trị
Thụy Điển từ những thập niên đầu thế kỷ XX đến nay. Trong 76 năm (1932-2008),
Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển đã có 65 năm cầm quyền.
Hướng tới mục tiêu CNXH dân chủ, Đảng này được coi là đã có những đóng
góp lớn trong xây dựng nền dân chủ dưới chế độ quân chủ đại nghị, đưa Thụy Điển

vào hàng ngũ các quốc gia phát triển với mức thu nhập GDP trên đầu người đứng
thứ nhì châu Âu (sau Thụy Sĩ) và xếp thứ nhất thế giới về phúc lợi xã hội.
Với tư cách là một chính đảng có thời gian cầm quyền dài nhất ở Bắc Âu,
Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển cũng tích lũy được nhiều kinh nghiệm rất đáng
tham khảo.
Hoạt động trong hệ thống chính trị đa đảng được hình thành từ khá sớm và
có tính ổn định, Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển với ưu thế nổi trội hơn về thời
gian cầm quyền, cùng với phái bảo thủ và phái tự do đã trở thành ba xu hướng
chính trị chủ yếu chi phối chính trường Thụy Điển suốt một thế kỷ qua.
Hiện nay ở Thuỵ Điển, một nước với gần 9 triệu dân, có 26 đảng chính trị
đăng ký hoạt động trên quy mô toàn quốc. Tuy nhiên theo quy định, đảng nào
giành được tối thiểu 4% số phiếu bầu mới được tham gia Nghị viện, do đó hiện
thời trong Nghị viện Thụy Điển chỉ 7 đảng có đại biểu, gồm: Đảng Xã hội dân chủ,
Đảng Ôn hòa (thuộc phái bảo thủ ra đời năm 1904), Đảng Nhân dân Tự do (Đảng
Tự do trước đây -1890), Đảng Trung tâm (trước đây là Đảng Nông dân - 1914),
10


Đảng Dân chủ Cơ đốc giáo (1964), Đảng Xanh (1981) và Đảng Cánh tả (trước đây
là Đảng Cộng sản - 1917).
Nhìn lại lịch sử gần 120 năm qua của Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển, có
thể thấy, đó là cả một chặng đường đấu tranh lâu dài với không ít cam go để giành
quyền lực chính trị thông qua con đường nghị trường. Vào thời điểm thành lập,
Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển không có cương lĩnh và điều lệ đảng của riêng
mình, nên đã sử dụng gần như nguyên xi cương lĩnh và điều lệ của Đảng Xã hội
dân chủ Đức lúc đó, do Ph.Ăngghen sáng lập.
Cương lĩnh của Đảng xác định, về chính trị phải thông qua bầu cử dân chủ
để quá độ hoà bình giành lấy chính quyền, về kinh tế phải thực hiện chế độ sở hữu
công cộng, phân phối theo lao động và quản lý có kế hoạch.
Trong 30 năm đầu kể từ khi thành lập, Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển công

khai tuyên bố bênh vực quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động,
giương cao ngọn cờ đấu tranh vì dân sinh, dân chủ và Đảng đã cùng với cánh tả
của phái tự do kiên trì đòi mở rộng quyền bầu cử, thực hiện quyền phổ thông đầu
phiếu.
Vì lẽ đó, uy tín chính trị của Đảng Xã hội dân chủ ngày càng được củng cố
và nâng cao. Với thắng lợi giành được tại cuộc bầu cử Nghị viện tháng 9-1917, lần
đầu tiên Đảng Xã hội dân chủ tham gia chính phủ liên minh với Đảng Tự do, cho
dù mới chỉ giữ vai trò thứ yếu và phụ thuộc
Hai năm sau, trước sự lan tỏa của cao trào cách mạng ở châu Âu dưới ảnh
hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, cuộc đấu tranh vì quyền phổ thông đầu
phiếu do Đảng Xã hội dân chủ và các lực lượng cấp tiến phát động đã đạt kết quả.
Chế độ phổ thông đầu phiếu ở Thụy Điển được chính thức ban hành vào giữa năm
11


1919 và bắt đầu áp dụng vào năm 1921, đưa lại quyền bầu cử cho tất cả công dân
từ 23 tuổi trở lên (54% dân số), trong đó lần đầu tiên nữ giới được hưởng quyền
bầu cử như nam giới.
Đây là bước tiến lớn trong quá trình dân chủ hoá nền chính trị Thụy Điển,
nếu so với đạo luật bầu cử có hiệu lực từ 1909 chỉ cho phép các nam công dân đủ
24 tuổi được quyền tham gia bầu cử Hạ viện (chiếm 19% dân số). Tháng 10-1921,
tại cuộc tổng tuyển áp dụng quy chế phổ thông đầu phiếu đầu tiên, Đảng Xã hội
dân chủ giành thắng lợi lớn với 39,4 % số phiếu, đứng ra lập chính phủ liên minh,
mở đường cho Đảng này đạt được quyền lực chính trị hoàn toàn bằng con đường
đấu tranh nghị trường.
Như vậy, sau hơn 30 năm kể từ khi thành lập, Đảng Xã hội dân chủ, về cơ
bản, đã đạt tới mục tiêu đấu tranh chính trị được xác định: từ “đấu tranh giành
quyền bầu cử” sang “đấu tranh tham gia Nghị viện” và tiến tới “đấu tranh giành đa
số trong Nghị viện”.
Nửa cuối thập niên 20 thế kỷ XX, do liên minh giữa Đảng Xã hội dân chủ và

Đảng Tự do bị tan vỡ, nên Đảng Bảo thủ trở lại nắm chính quyền (năm 1925). Từ
đầu thập niên 30, Đảng Xã hội dân chủ tìm cách liên minh với Đảng Nông dân
(tiền thân của Đảng Trung tâm ngày nay) và giành thắng lợi trong cuộc tuyển cử
tháng 9-1932, mở ra một thời kỳ cầm quyền liên tục suốt 44 năm (9/1932 10/1976).
Từ đó đến nay, Đảng Xã hội dân chủ còn có 21 năm cầm quyền trong hai
giai đoạn dài 1982-1990 và 1994-2006, nâng tổng số năm cầm quyền của Đảng
này lên 65 năm trong 76 năm (1932-2008). Đây thực sự là kỷ lục độc nhất vô nhị
trong các nền chính trị đa đảng ở phương Tây đương đại.
12


2.2.

Cương lĩnh của SDP
Xét về mặt quan điểm lý luận chính trị, Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển tuy

đã nhiều lần thay đổi cương lĩnh, nhưng cũng giống như hầu hết các đảng thuộc
trào lưu xã hội dân chủ, họ vẫn kiên trì đa nguyên chính trị, khẳng định rõ tư tưởng
C.Mác, Ph.Ăngghen vẫn là một cơ sở lý luận chủ yếu của Đảng.
Cơ sở giai cấp của Đảng rộng rãi nhưng chủ yếu là giai cấp công nhân, bao
gồm cả công nhân “cổ xanh” cả công nhân “cổ trắng”. Chế độ xã hội mà Đảng chủ
trương xây dựng là “CNXH dân chủ”. Đối với họ, CNXH và dân chủ là hai mục
tiêu song song, gắn bó với nhau và khi cần thiết phải chọn lựa, phải đặt mục tiêu
dân chủ, tự do lên trên mục tiêu bình đẳng… Về kinh tế, thời kỳ đầu Đảng Xã hội
dân chủ Thụy Điển xác định phải thực hiện chế độ sở hữu công cộng, phân phối
theo lao động và quản lý có kế hoạch.
Tuy nhiên, từ cuối thập niên 20 thế kỷ XX, Đảng này điều chỉnh lại quan
điểm kinh tế, trong đó nhấn mạnh rằng trong việc thực hiện CNXH thì xã hội hoá
quyền sở hữu không phải là một vấn đề căn bản, xã hội hoá phân phối mới là vấn
đề căn bản, nghĩa là thực thi phân phối công bằng của cải xã hội như thế nào để

đảm bảo quyền lợi của giai cấp công nhân và người lao động.
Do đó không cần lập thật nhiều doanh nghiệp sở hữu công cộng, trừ các lĩnh
vực bắt buộc phải do Nhà nước làm, mà cần khuyến khích ủng hộ sự phát triển
kinh tế sở hữu phi công cộng, để cho các doanh nghiệp tư nhân làm ra càng nhiều
của cải càng tốt.

13


Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển chủ trương xây dựng nền kinh tế hỗn hợp,
theo đó về chế độ sở hữu thì thực hành pha trộn chế độ sở hữu công cộng và chế độ
tư hữu; về chế độ phân phối thì thực hành phân phối theo lao động kết hợp với
phân phối theo vốn (tư bản); về phương thức vận hành kinh tế thì thực hành Nhà
nước điều hành vĩ mô kết hợp với kinh tế thị trường.
Năm 1982, sau khi giành được thắng lợi trong bầu cử (với 45,6% số phiếu
bầu) dưới khẩu hiệu “Bảo vệ phúc lợi, chấn hưng nền kinh tế”, Đảng Xã hội dân
chủ Thụy Điển đã thực thi chính sách kinh tế “Con đường thứ ba” của mình với
biện pháp chính: Nâng cao sức cạnh tranh, giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước, cải
tổ các xí nghiệp quốc doanh, giảm thuế, theo đuổi “đoàn tàu nhất thể hoá châu Âu”
và năm 1994, chính phủ Đảng Xã hội dân chủ quyết định đưa Thụy Điển gia nhập
EU.
Tháng 11-2001, Đại hội 34 Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển trong cương
lĩnh mới được thông qua thừa nhận Thụy Điển vẫn là một xã hội giai cấp.
Cương lĩnh nhấn mạnh, kinh tế toàn cầu hóa đòi hỏi cuộc đấu tranh của
phong trào công nhân phải toàn cầu hóa, phải liên hiệp các lực lượng tiến bộ của
các nước trên thế giới, thành lập liên minh chính trị mới, biến toàn cầu hóa thành
công cụ thúc đẩy dân chủ, phúc lợi và công bằng xã hội dẫn dắt xã hội phát triển.
Cương lĩnh chỉ rõ nền tảng ý thức hệ của Đảng là chủ nghĩa duy vật lịch sử
và trong cuộc xung đột giữa tư bản và lao động, Đảng luôn đại biểu cho lợi ích của
phía lao động...

Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển rất quan tâm chế độ phúc lợi, ngoài 4 loại
bảo hiểm lớn được pháp luật qui định như: bảo hiểm hưu trí dưỡng lão, bảo hiểm y

14


tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, còn có nhiều loại hình phúc lợi
xã hội khác.
Tuy nhiên, chế độ phúc lợi cao này là dựa vào chế độ thu thuế cao. Do thu
thuế cao nên thu nhập tài chính nhà nước của Thụy Điển chiếm gần 60% GDP,
mức cao nhất thế giới. Nghĩa là gần 3/5 của cải toàn xã hội bị Nhà nước tập trung
vào tay mình, tỷ lệ để lại cho các doanh nghiệp và người dân quá nhỏ, điều này ảnh
hưởng tới tính tích cực của doanh nghiệp và người lao động, khiến cho khả năng
cạnh tranh của Thụy Điển bị giảm sút trong nền kinh tế thế giới đang toàn cầu hóa
một cách mạnh mẽ.
Hơn nữa, chế độ phúc lợi cao rất dễ bị một số người lợi dụng kiếm chác
những khoản lợi ích họ không đáng được hưởng. Tình hình nêu trên khiến cho
người dân nhiều năm gần đây đã không còn thỏa mãn với một “Nhà nước phúc lợi”
hào phóng khi cái giá phải trả là thuế cao, nạn thất nghiệp gia tăng và việc ngày
càng có nhiều dân nhập cư chỉ sống bằng trợ cấp.
Chính phủ xã hội dân chủ của Thủ tướng Pe-son tuy có thành tích tăng
trưởng kinh tế đạt 6%, nhưng vẫn bị phe trung hữu đối lập phê phán là không thể
giải quyết được vấn đề thất nghiệp lên đến 10% và sự suy giảm tính cạnh tranh
quốc tế của kinh tế Thụy Điển vào thời điểm cuộc bầu cử tháng 9-2006.
Với chủ trương cắt giảm thuế, cải cách chế độ an sinh xã hội, tăng sức cạnh
tranh của đất nước trên thị trường toàn cầu mà vẫn dựa trên những nguyên tắc nền
tảng của “Nhà nước phúc lợi”, Liên minh trung - hữu đứng đầu là thủ lĩnh Đảng
Ôn hòa - Fredrik Reinfeldt - đã giành thắng lợi trong cuộc bầu cử tháng 9-2006 lên
cầm quyền.


15


Là một chính đảng cánh tả theo khuynh hướng CNXH dân chủ, Đảng Xã hội
dân chủ Thụy Điển đã có những cống hiến lớn đối với quá trình dân chủ hóa đời
sống chính trị và phát triển kinh tế Thụy Điển.
2.3.

Nguyên nhân thắng lợi trong bầu cử và cầm quyền của SDP
Thành công trên phương diện cầm quyền của Đảng Xã hội dân chủ Thụy

Điển do nhiều nguyên nhân, trong đó trước hết phải kể đến những thành tựu đạt
được trong phát triển kinh tế - xã hội khi cầm quyền.
Đảng này đã có đóng góp lớn trong việc xây dựng Thụy Điển từ một nước
lạc hậu ở châu Âu trở thành một nước kinh tế phát triển, được ca ngợi là một “mô
hình” thành công của “con đường thứ ba” theo CNXH dân chủ.
Theo các số liệu thống kê, bước sang thế kỷ XXI, Thụy Điển có GDP trên
đầu người đạt trên 22.200 USD. Năm 2006, dưới thời cầm quyền của Thủ tướng
Gô-ran Pe-son thuộc Đảng Xã hội dân chủ, tăng trưởng kinh tế ở mức 6%, cao nhất
trong các nước EU, lạm phát dưới 2%, ngân sách bội thu.
Thụy Điển được coi là cơ bản đã thanh toán xong sự cách biệt giữa thành thị
và nông thôn, giữa công nhân với nông dân, giữa lao động trí óc với lao động chân
tay, 10% số người có thu nhập thấp nhất chiếm 3,7% GDP, 10% số người có thu
nhập cao nhất chiếm 20,1%, chênh lệch giàu nghèo khá nhỏ so với các nước khác,
chỉ số này ở Pháp là 2,5 và 24,9% và ở Mỹ là 1,5 và 28,5%.
Phúc lợi xã hội và trợ cấp xã hội cao nhất thế giới, người thất nghiệp được
hưởng trợ cấp tương đương 80% lương cũ trong vòng 12 tháng. Phụ nữ và cả nam
giới có quyền nghỉ 18 tháng để chăm con mới sinh mà vẫn hưởng 80% lương.

16



Người già được trợ giá đến 90% tiền thuê nhà và được chăm sóc miễn phí tại gia,
v.v...
Mặt khác, thành công trên chính trường của Đảng Dân chủ xã hội còn bắt
nguồn từ việc đảng này có sách lược liên minh, tập hợp lực lượng một cách mềm
dẻo, linh hoạt.
Trong 65 năm ở vị trí cầm quyền, Đảng Xã hội dân chủ dựa vào ba sách
lược chủ yếu để duy trì quyền lực bất chấp việc đảng này không nắm được đa số
trong nghị viện:
Thứ nhất, chính phủ liên minh với các đảng khác thuộc phái tự do; thứ hai,
đạt được sự thỏa hiệp và nhất trí rộng rãi của một hoặc hai đảng khác trong nghị
viện; thứ ba, trông cậy vào sự ủng hộ của các đảng thuộc cánh tả, chủ yếu là Đảng
Cánh tả (trước đây là Đảng Cộng sản) mà không cần có một thỏa thuận công khai
về việc này.
Thực tế cho thấy, tuy chưa bao giờ có sự hợp tác chính thức giữa Đảng Xã
hội dân chủ và Đảng Cánh tả, nhưng trong nhiều vấn đề, đặc biệt là trong những
tình huống gây tranh cãi ở Nghị viện, những người thuộc Đảng Xã hội dân chủ có
thể dựa vào sự ủng hộ của Đảng Cánh tả.
Trong một thập niên gần đây, trên chính trường Thụy Điển, đã dần hình
thành hai liên minh chính trị: Liên minh cánh tả với nòng cốt là Đảng Xã hội dân
chủ với Đảng Xanh và Đảng Cánh tả cầm quyền từ 1994-2006; Liên minh trung hữu gồm 4 đảng: Đảng Ôn hoà, Đảng Trung tâm, Đảng Nhân dân Tự do và Đảng
Dân chủ Cơ đốc giáo giành thắng lợi sát nút, chỉ hơn 1% số phiếu bầu so với Liên
minh cánh tả trong cuộc tuyển cử tháng 9-2006.

17


Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển hiện nay có trên nửa triệu đảng viên, chiếm
một tỷ lệ cao trong tổng dân số, khoảng 6% và có tổ chức cơ sở đảng ở tất cả 21

tỉnh, thành trong cả nước. Tuy nhiên, bộ máy cơ quan đảng rất gọn nhẹ và hoạt
động có hiệu quả, cơ quan Trung ương Đảng chỉ trên dưới 100 cán bộ, nhân viên.
Trong hệ thống chính trị đa nguyên, Đảng Xã hội dân chủ luôn cố gắng
chứng tỏ luôn giữ cho mình một hình ảnh giàu mà không xa xỉ, bình đẳng đối xử
với quần chúng, bảo đảm công bằng xã hội, quan chức của Đảng tham gia chính
quyền đều được giám sát chặt chẽ để không thể hoặc không dám lãng phí, tham
nhũng.
Bên cạnh số lượng đảng viên đông đảo, Đảng còn có ảnh hưởng lớn và sự
gắn bó mật thiết với một tổ chức công đoàn công nghiệp lớn nhất, đó là Liên đoàn
các công đoàn Thụy Điển (LO) với hơn 2 triệu đoàn viên, tương đương với khoảng
85% công nhân “cổ xanh” của Thụy Điển.
Đồng thời, Đảng cũng có ảnh hưởng nhất định tới gần 2 triệu những người
làm công “cổ trắng” gắn với Liên đoàn những người làm công chuyên ngành
(TCO) hoặc Liên đoàn các tổ chức chuyên ngành của Thụy Điển (SACO). Với cơ
sở xã hội rộng rãi, Đảng Xã hội dân chủ rõ ràng có lợi thế lớn trong việc củng cố
và duy trì quyền lực chính trị.
2.4.

Quan điểm của Đảng SDP về xây dựng nền dân chủ trong đất nước
Bảy thập kỷ cầm quyền liên tục của Đảng Dân chủ Xã hội, cùng với những

đóng góp không nhỏ của mọi tầng lớp nhân dân Thụy Điển, đã xây dựng nên “bộ
khung cơ bản” của nền dân chủ ấy, dựa trên các tiêu chí sau:
2.4.1. Tự do, cởi mở và minh bạch

18


Thụy Điển là xã hội tự do và cởi mở, nó thể hiện ở nhiều khía cạnh như tự
do báo chí, tự do tham gia tuần hành, tự do diễn thuyết, quyền phát biểu… Cởi mở

còn là tạo ra một xã hội công bằng.
Nước này được coi là một trong những quốc gia có hiến pháp dân chủ rõ
ràng nhất thế giới. Hiến pháp Thụy Điển dẫn nhập bằng các từ ngữ: “Tất cả quyền
lực công đều bắt nguồn từ người dân”.Trong bốn đạo luật nền tảng cấu thành nên
Hiến pháp Thụy Điển có Luật Tự do báo chí. Thụy Điển là quốc gia đầu tiên trên
thế giới cho phép tự do báo chí năm 1776.
Tự do báo chí dựa trên tự do thể hiện và phát biểu. Những người có quyền
hành phải có trách nhiệm giải trình và mọi thông tin luôn sẵn có. Công dân Thụy
Điển, những người cung cấp thông tin cho nhà xuất bản, hãng thông tấn, báo chí
được quyền bảo vệ nguồn, phóng viên nước này có thể không bao giờ phải tiết lộ
nguồn tin của họ.
Luật Tự do thể hiện được thông qua năm 1991, liên quan đến lĩnh vực truyền
thông không in ấn như truyền hình, phim ảnh hay phát thanh. Luật này đảm bảo sự
tự do trao đổi quan điểm, thông tin và sáng tạo nghệ thuật.
2.4.2. Nhân dân giám sát
Nguyên tắc tiếp cận thông tin tại Thụy Điển có nghĩa là người dân nói chung
và các phương tiện truyền thông như báo giấy, đài phát thanh và truyền hình có
quyền tiếp cận tài liệu, hồ sơ chính thức. Điều này cho phép người dân có cái nhìn
thấu đáo, rõ ràng về các hoạt động của chính phủ cũng như chính quyền địa
phương. Nó xuất phát từ ý tưởng, một nền dân chủ tốt cần được giám sát; minh
bạch để giảm bớt nguy cơ lạm dụng quyền lực.
Nguyên tắc tiếp cận công khai với các tài liệu chính thức cũng có nghĩa là
viên chức hay những người khác làm việc cho chính phủ được tự do thông tin cho
báo chí hoặc người ngoài về những gì họ biết. Dĩ nhiên ở đây cũng có ngoại lệ. Tài
liệu có thể được giữ bí mật nếu nó bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia, quan hệ với
19


nước khác hay tổ chức quốc tế, chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, hoạt động
thanh tra kiểm soát và giám sát khách do các cơ quan chức năng đảm nhận; ngăn

chặn hoặc truy tố tội phạm; lợi ích kinh tế của người dân nói chung.
Ở Thụy Điển, sức mạnh nhân dân được sử dụng với sự tôn trọng bình đẳng,
tự do cũng như giá trị của cá nhân. Các cơ quan công quyền đặc biệt phải đảm bảo
quyền làm việc, nhà ở và giáo dục, cũng như thúc đẩy an sinh xã hội, an ninh và
môi trường tốt cho người dân sinh sống ở đó.
Luật pháp và các quy định khác hướng tới việc đảm bảo để không bất kỳ
công dân nào chịu thua thiệt vì họ thuộc về cộng đồng thiểu số như chủng tộc, màu
da, nguồn gốc hay giới tính.
Đảm bảo quyền con người được tương tác với mọi lĩnh vực trong chính sách đối
ngoại: chính sách an ninh, hợp tác phát triển, chính sách di cư, chính sách môi
trường và chính sách thương mại.
Chính phủ Thụy Điển chủ tâm thực thi một hệ thống kinh tế cho phép mọi
công dân có quyền lợi đồng đều, đồng thời cung cấp phụ phí làm việc, được xem
như hệ thống an sinh xã hội. Do đó, tạo sự đồng đều về lợi ích cho tất cả người có
việc làm, ngay cả chỉ làm bán thời gian. Sự cách biệt về mức sống của một người
lao động bình thường với một người có chuyên môn nghiệp vụ cao cấp không quá
lớn.
Nền văn hóa Thụy Điển (cũng như các nước Bắc Âu: Na Uy, Phần Lan, Đan
Mạch) tuy thiên về cá nhân hơn tập thể, nhưng là chủ nghĩa cá nhân nằm ngang.
Nghĩa là tuy mỗi người chịu trách nhiệm chính yếu về sự phát triển của riêng mình,
nhưng họ sẽ cảm thấy hổ thẹn như có tội khi quá giàu hay đã làm những điều khiến
cho người khác trở nên nghèo. Phong cách sống của người Thụy Điển là:“Không
một lá cỏ nào có thể vượt cao hơn những lá cỏ khác, vì lá cỏ ấy sẽ bị cắt trước
tiên”.
2.4.3. Internet và tự do thông tin
20


Thụy Điển nằm trong số quốc gia sử dụng internet cao nhất EU. Trong 9,3
triệu dân, hơn 80% người sử dụng Internet. Luật Dữ liệu cá nhân có hiệu lực năm

1998. Luật này bảo vệ người dân bị xâm phạm thông tin cá nhân khi đã cung cấp
chi tiết cho nhà khai thác Internet.
Luật Ipred của Thụy Điển ra đời dựa trên Hướng dẫn Thực thi quyền sở hữu
trí tuệ của EU, có nghĩa là, một công ty thu âm hay phim ảnh nghi ngờ ai đó tải
một trong các sản phẩm của họ thì có quyền yêu cầu thông tin về người này từ nhà
khai thác điều hành Internet hoặc điện thoại. Sau đó còn có thể yêu cầu bồi thường
do tổn thất thu nhập. Dĩ nhiên, công ty phải đưa ra bằng chứng chứng tỏ người
dùng tải tài liệu bất hợp pháp.
Các diễn đàn Internet và mạng xã hội khá phổ biến với trẻ em Thụy Điển,
lứa tuổi 12-15 tuổi thường dùng ít nhất ba giờ/ngày để lướt Web. Một nửa số trẻ
em năm tuổi và 1/5 trẻ em ba tuổi biết dùng Internet. Chính phủ đã thông qua một
đạo luật ngăn chặn việc tiếp xúc với trẻ em vì mục đích tình dục hay phạm tội, luật
này có hiệu lực ngày 1/7/2009.
*Kinh nghiệm cho VN:
Những kinh nghiệm hoạt động của Đảng này trên các lĩnh vực, nhất là trong
quản lý kinh tế - xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền có giá trị tham khảo hữu
ích đối với nhiều nước, trong đó có Việt Nam. Trong quan hệ với Việt Nam, Đảng
Xã hội dân chủ Thụy Điển đã từng ủng hộ tích cực nhân dân ta trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc trước đây.
Ngày nay, Việt Nam tiếp tục phát triển hợp tác hữu nghị truyền thống trên
nhiều mặt với Thụy Điển, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã thiết lập quan hệ với
Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển. Các thế hệ người Việt Nam trong tâm khảm vẫn
luôn ghi nhớ và trân trọng những tình cảm hữu nghị đối với Việt Nam của Thủ
21


tướng Ô-lốp Pan-mơ, một trong những lãnh tụ xuất sắc của Đảng Xã hội dân chủ
Thụy Điển.
KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu những vấn đề về quá trình hình thành, quan điểm và

cương lĩnh lãnh đạo của Đảng Xã hội dân chủ Thụy Điển đó chúng ta có thể thấy
rõ được những vấn đề mà một Đảng chính trị là Đảng cầm quyền trong một đất
nước cần phải đối mặt để có thể đạt được những thành công trong công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước.
Đối với những Đảng cầm quyền, dù đảng đó co thành công như thế nào đi
chăng nữa thì nội bộ đảng luôn cần có những cố gắng, có nhận thức đúng đắn và
không ngủ quên trên chiến thắng để có thể giữ vững được vị trí và vai trò của mình
trong nền chính trường của các nước. Mà thông qua việc nghiên cứu Đảng Xã hội
dân chủ Thụy Điển (SDP) chúng ta đã thấy rất rõ được điều này.
Trong quá trình hoạt động cũng như lãnh đạo của mình, đảng Xã hội dân chủ
Thụy Điển luôn cố gắng xây dựng được một xã hội tốt đẹp trong đất nước, mà
quan trọng nhất đó chính là việc tạo dựng cơ hội phát triển đồng đều cho tất cả mọi
người trong đất nước. Đảng SDP đã xây dựng những chính sách rất hợp lý và đạt
hiệu quả cao trong quá trình lãnh đạo. Đồng thời với việc trở lại nắm quyền sau
cuộc bầu cử ngày 14/9 vừa qua, chắc chắn Đảng SDP sẽ có nhiều thay đổi để giúp
cho quá trình lãnh đạo đất nước của mình được thành công và lâu dài.
Việc nghiên cứu tìm hiểu về Đảng Xã hội dân chủ cầm quyền Thụy Điển sẽ
đem đến những bài học hết sức quý giá và bổ ích giúp Đảng cộng sản Việt Nam có
thể học hỏi và vận dụng những điều đó vào quá trình lãnh đạo và xây dựng đất
nước. Qua đó giúp đất nước Việt Nam ngày một vững mạnh hơn, phát triển hơn
22


cũng như hiện thực hóa được mô hình phát triển xã hội chủ nghĩa với nhiều điểm
ưu việt để hướng tới mục đích duy nhất giúp nhân dân tự do, hạnh phúc hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lưu Văn An: Lý thuyết và mô hình phát triển xã hội, Nxb Lý luận chính trị,
Hà Nội, 2014.
2. Trường đại học Kinh tế quốc dân: Giáo trình quản lý xã hội, Nxb Khoa học
kỹ thuật, Hà Nội, 2006.

3. GS.TS.Phạm Xuân Nam: Xã hội, phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội,
Tạp chí Lý luận chính trị, số 9 , 2008
4. Bùi Thanh Hương: Tìm hiểu những giải pháp giải quyết vấn đề nông nghiệp,
nông thôn, nông dân Trung Quốc hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc,
số 1, 2007.
5. Đinh Xuân Lý: Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở nước ta thời
kỳ đổi mới, mô hình, thực tiễn và kinh nghiệm”, Nxb Chính trị quốc gia,
2010.
6. Đinh Xuân Lý: Đảng lãnh đạo phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội
trong thời kỳ đổi mới - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.
7. />8.
9. />10.
11.
12.
13.
14.
15.
16.
17.

23



×