Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Nghiên cứu hoạt động của không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam trong những năm gần đây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 36 trang )

MỤC LỤC

1

1

1


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn trường Đại Học Tài Nguyên Môi Trường Hà Nội, các thầy
cô khoa Khí Tượng Thủy Văn. Đã quan tâm tạo điều kiện cho em được học tập trong
những năm học vừa qua và hoàn thành tốt bài luận văn tốt nghiệp này.
Đặc biệt trong bài luận văn này. Em xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến cô giáo - Ths:
Chu Thị Thu Hường đã trực tiếp và tận tình hương dẫn em niên luận này. Em xin cám
ơn thầy Phạm Minh Tiến cùng toàn thể giáo viên trong khoa khí tượng thuỷ văn đã tận
tình dạy dỗ chúng em trong thời gian hoc tập
Dù đã rất cố gắng ,nhưng bài niên luận của em không tránh khỏi những thiếu sót, rất
mong nhận được sự thông cảm, những ý kiến góp ý, xây dựng của các Thầy cô, để
luận văn của em được tốt hơn.
Sinh viên
Lê khắc Vũ linh

2

2

2


CÁC KÝ HIỆU, CHỮ CÁI VIẾT TẮT


KKL

: không khí lạnh

GMĐB

: gió mùa đông bắc

KKLTC
HGT
TBNN

3

: không khí lạnh tăng cường
: trường độ cao địa thế vị
: trung bình nhiều năm

3

3


MỞ ĐẦU
Không khí lạnh là một trong những hệ thống thời tiết nguy hiểm, do khối không
khí từ phía bắc xâm nhập xuống nước ta, hệ thống gió đang tồn tại ở miền Bắc thay
đổi một cách cơ bản: trở thành hệ thống gió có hướng lệch Bắc và khí áp tăng. Cùng
với sự xâm nhập lạnh là sự giảm nhiệt độ từ 50C – 100C/ngày.
Không khí lạnh (KKL) xâm nhập xuống miền Bắc nước ta thành từng đợt, gây
ra sự biến đổi thời tiết mạnh mẽ như rét đậm, rét hại, gió trên đất liền chuyển hướng

lệch Bắc với cường độ mạnh gây biển động sóng lớn, gây thiệt hại đáng kể về người
và phương tiện. Những đợt KKL liên tiếp là nguyên nhân gây rét đậm kéo dài ảnh
hưởng nhiều đến sản suất nông - lâm - ngư nghiệp, và đời sống sinh hoạt của nhân
dân. KKL ảnh hưởng đến nước ta hầu như quanh năm. Vào thời kỳ chuyển tiếp Xuân Hè, hoặc đôi khi cuối thu, KKL xâm nhập có thể xuất hiện mưa dông mạnh, đôi khi
kèm theo tố lốc, mưa đá với sức tàn phá lớn. Vào cuối thu đầu đông, KKL thường kết
hợp với các hệ thống thời tiết như: dải hội tụ nhiệt đới, XTNĐ, bão gây ra những đợt
mưa rất lớn diện rộng, đặc biệt là ở các tỉnh ven biển Trung bộ dẫn tới lũ lụt nghiêm
trọng. Đặc biệt trong các tháng chính đông (tháng 12; 1; 2 ) KKL hoạt động thường
kèm theo front lạnh rất mạnh mẽ gây ra những hiện tượng thời tiết như rét đậm, rét
hại, gió đông bắc mạnh, sóng lớn, biển động, mưa nhỏ, mưa phùn kéo dài, đây là
những đặc trưng thời tiết sau front lạnh ảnh hưởng tới miền Bắc nước ta trong các
tháng chính của mùa đông. Vì thế việc theo dõi và dự báo sự xâm nhập của KKL ảnh
hưởng tới Việt Nam là một việc cần thiết đối với những người làm công tác dự báo.
Chính vì lí do trên, trong khóa luận này em đã chọn tên đề tài nghiên cứu là :
“Nghiên cứu hoạt động của không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam trong những năm
gần đây” nhằm tìm hiểu rõ hơn về cơ chế tác động cũng như ảnh hưởng của KKL
trong mùa đông ở Việt Nam.

4

4

4


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHÔNG KHÍ LẠNH
1.1.1 Khái niệm:
KKL là một hiện tượng thời tiết nguy hiểm khi xâm nhập từ phía bắc xuống nước
ta làm thay đổi một cách cơ bản hệ thống gió đang tồn tại ở miền Bắc Việt Nam trở
thành hệ thống gió có hướng lệch bắc và thời tiết biến đổi rõ rệt, đặc biệt có quá trình

giảm nhiệt độ trên diện rộng.
Mỗi đợt KKL được coi là xâm nhập hoặc ảnh hưởng đến nước ta nếu thỏa mãn
một trong hai điều kiện sau đây:
- KKL làm tốc độ gió hướng lệch bắc ngoài khơi đo được tại trạm Bạch Long
Vỹ từ cấp 6 trở lên và kéo dài trên 3 tiếng (2 quan trắc liên tiếp).
- KKL gây thay đổi thời tiết mạnh mẽ: diện mưa tăng lên từ 2 cấp trở lên ở một
hoặc nhiều khu vực và đồng thời làm nhiệt độ trung bình ngày đối với trên một nửa số
trạm ở một hoặc nhiều khiều khu vực giảm liền từ 3 độ trở lên..
1.1.2 Phân loại :
KKL được chia làm 2 loại Gió mùa đông bắc (GMĐB) và Không khí lạnh tăng
cường (KKLTC)
GMĐB: là KKL có kèm theo front lạnh hoặc đường đứt, khi xâm nhập đến nước
ta thường gây ra biến đổi thời tiết mạnh mẽ: gió trong đất liền cấp 3 – 4, vùng ven biển
cấp 5, ngoài khơi từ cấp 6 trở lên, có thể có dông mạnh kèm theo gió giật mạnh trên
cấp 6, tố, lốc, mưa đá …. Nhiệt độ trung bình ngày hoặc nhiệt độ tối cao giảm mạnh.
KKLTC: KKL khi xâm nhập đến nước ta không kèm theo front lạnh hoặc
đường đứt trong khi ở các tỉnh phía bắc vẫn nằm trong khối không khí lạnh.
KKLTC làm tốc độ gió tăng trở lại gây ra gió mạnh ngoài khơi và có thể làm
giảm nhiệt độ hoặc ít thay đổi. Trong một số trường hợp KKLTC làm giảm lượng
mây, do đó có thể làm tăng nhiệt độ vào ban ngày.
1.1.3 : Phân loại cường độ KKL:
Về định tính: KKL luôn được xác định đồng thời bởi sự thay đổi của hệ thống
gió và sự giảm nhiệt độ (mức độ giảm nhiệt T24 ít nhất ở trên một nửa số trạm có
trong một khu vực).
Về định lượng: Cường độ KKL được xác định bởi tốc độ gió. Khi có KKL
thường có sự tăng đồng bộ giữa tốc độ gió trên đất liền và ngoài khơi, vì vậy có thể lấy
tốc độ gió quan trắc được tại trạm Bạch Long Vĩ (VBLV) để xác định cường độ KKL
(có tham khảo thêm các trạm đảo: Cô Tô, Hòn Dấu …).
5


5

5


* GMĐB:
+ Mạnh:VBLV ≥ cấp 7 và kéo dài từ 2 quan trắc trở lên hoặc cấp 6 nhưng kéo
dài liên tục trên 8 quan trắc.
+ Trung bình: VBLV ≥ cấp 6 và kéo dài từ 2 quan trắc trở lên hoặc cấp 7
nhưng không kéo dài quá 1 quan trắc
+ Yếu: VBLV < cấp 6 hoặc cấp 6 nhưng kéo dài không quá 1 quan trắc
* KKLTC: Khi xét đến cấp độ mạnh, trung bình, yếu cũng chỉ xét theo cấp độ gió
như đối với GMĐB mà không xét đến giảm nhiệt độ.
1.2: Hoạt động và ảnh hưởng của KKL tới Việt Nam
Trong các tháng XII và tháng I khi không khí lạnh tràn qua, có gió bắc đến đông
bắc mạnh, trời nhiều mây, có mưa nhỏ, nhiệt độ hạ thấp đột ngột, ∆T24h thường giảm
6-80C có đợt mạnh ∆T24h có thể giảm tới hơn 10 0C. Khi KKL di chuyển sâu xuống
phía nam, Bắc Bộ và Bắc Trung bộ nằm sâu trong lưỡi cao lạnh, thời tiết chuyển khô
hanh, trong một số trường hợp trời quang mây, bức xạ mạnh, nhiệt độ tối thấp ở vùng
thung lũng và núi cao có thể giảm xuống xấp xỉ hoặc dưới 0 0C gây nên băng giá và
sương muối. Các đợt không khí lạnh mạnh kèm front thường gây rét đậm, rét hại, mưa
nhỏ, mưa phùn kéo dài, nhiệt độ hạ thấp trời âm u, biên độ nhiệt độ ngày nhỏ. Chênh
lệch nhiệt độ cực đại và cực tiểu trong ngày khoảng 3-40C, thậm trí chỉ 1-20C.
* KKLTC: Khi xét đến cấp độ mạnh, trung bình, yếu cũng chỉ xét theo cấp độ gió
như đối với GMĐB mà không xét đến giảm nhiệt độ.
1.2.1: Hoạt động và ảnh hưởng của KKL tới Việt Nam
Trong các tháng XII và tháng I khi không khí lạnh tràn qua, có gió bắc đến đông
bắc mạnh, trời nhiều mây, có mưa nhỏ, nhiệt độ hạ thấp đột ngột, ∆T24h thường giảm
6-80C có đợt mạnh ∆T24h có thể giảm tới hơn 10 0C. Khi KKL di chuyển sâu xuống
phía nam, Bắc Bộ và Bắc Trung bộ nằm sâu trong lưỡi cao lạnh, thời tiết chuyển khô

hanh, trong một số trường hợp trời quang mây, bức xạ mạnh, nhiệt độ tối thấp ở vùng
thung lũng và núi cao có thể giảm xuống xấp xỉ hoặc dưới 0 0C gây nên băng giá và
sương muối. Các đợt không khí lạnh mạnh kèm front thường gây rét đậm, rét hại, mưa
nhỏ, mưa phùn kéo dài, nhiệt độ hạ thấp trời âm u, biên độ nhiệt độ ngày nhỏ. Chênh
lệch nhiệt độ cực đại và cực tiểu trong ngày khoảng 3-40C, thậm trí chỉ 1-20C.
Hoạt động của không khí lạnh trên lãnh thổ Việt Nam chịu ảnh hưởng mạnh mẽ
của điều kiện địa hình, nó có thể tràn qua vùng núi Đông Bắc và phía Bắc ảnh hưởng
trực tiếp đến khu vực phía Đông Bắc bộ. Ở phía Tây do dãy Hoàng Liên Sơn cản trở
nên rất ít khi front lạnh vượt sang được.
6

6

6


Thông thường không khí lạnh dừng lại ở đèo Ngang (18 0N) hoặc đèo Hải Vân
(160N), chỉ trong trường hợp không khí lạnh mạnh, front lạnh mới di chuyển tới các vĩ
độ thấp hơn.
Trong trường hợp không khí lạnh ở Việt Nam, hướng gió Đông bắc không biến
đổi rõ rệt khi đi qua front, nhưng sau front lạnh tốc độ gió lớn, tương ứng với gradient
khí áp ngang nhỏ hơn. Front lạnh ở Việt Nam nằm trong một rãnh khuất dọc theo rìa
của áp cao Siberia.
Khi áp cao Siberia yếu đi và phân tán thành nhiều tâm, gió mùa đông bắc suy
giảm và không còn xâm nhập về phía Nam nữa. Sự nguy hiểm của hệ thống thời tiết
không khí lạnh trước hết là ở chỗ không khí lạnh xâm nhập thường gây ra biến đổi thời
tiết có tính chất đột biến và dữ dội. Ở trên biển, gió đổi hướng và mạnh lên đột ngột,
biển đang yên tĩnh bỗng nổi sóng dữ dội, tầm nhìn giảm xuống nhanh, gió thổi mạnh
trong mưa rét là điều kiện thời tiết rất nguy hiểm cho các hoạt động hàng hải và khai
thác gần thềm lục địa. Trên đất liền sự giảm nhiệt độ đột ngột và kéo dài sẽ ảnh hưởng

xấu đến sản xuất và đời sống.
Đặc biệt là vào thời kỳ xuân hè, khi khối không khí trước front ở trạng thái bất ổn
định thì sự xâm nhập của không khí lạnh là điều kiện kích động quan trọng gây ra sự
phát triển mạnh mẽ của khối mây đối lưu, làm xuất hiện dông mạnh kèm theo lốc, tố
và mưa đá. Còn vào thời kỳ mùa đông, sự xâm nhập của không khí lạnh từ phía bắc
có thể góp phần với tín phong đông bắc, kết hợp với dải hội tụ nhiệt đới và địa hình,
gây ra những đợt mưa lũ rất lớn ở ven biển Miền Trung.
Mùa gió mùa đông bắc ảnh hưởng đến miền Bắc có thể được phân chia
thành 3 thời kỳ chính như sau:
Thời kỳ đầu đông: Từ tháng IX đến tháng XI. Trong thời kỳ này, các đợt không
khí lạnh tràn xuống miền Bắc nước ta di chuyển chủ yếu theo hướng Bắc – Nam và
chịu sự biến tính khi đi qua lục địa Trung Quốc. Mặc dù nhiệt độ của nó đã tăng lên
khá nhiều so với ban đầu, nhưng khi đến nước ta nó vẫn giữ được đặc tính cực đới
lạnh. Do quá trình biến tính khi đi qua lục địa khối không khí trở nên rất khô, tạo thành
một mùa khô hanh đặc trưng ở Bắc Bộ trong thời kỳ này.
Ở trên cao thường xuất hiện lớp nghịch nhiệt dày do chuyển động đi xuống của
đới gió tây trên cao. Điều này khiến lượng hơi ẩm vốn đã rất ít của khối không khí cực
đới khô khống chế ở tầng thấp không thể chuyển động lên cao ngăn cản quá trình tạo
mây. Do đó, thời tiết Bắc Bộ trong thời kỳ này đặc trưng là quang mây, ban ngày có
nắng, nhiệt độ có thể lên khá cao, nhưng về ban đêm, mặt đất phát xạ sóng dài rất
mạnh làm nhiệt độ giảm đi nhanh chóng và đạt trị số khá thấp. Vì vậy biên độ nhiệt
7

7

7


ngày đêm ở Bắc Bộ trong thời kỳ này là lớn nhất, thường đạt trên 10 0C, thậm chí có
khi đến 14 – 150C và hơn nữa. Cũng do sự lạnh đi về ban đêm nên trong thời kỳ này

thường xuất hiện những lớp sương mù vào buổi sáng gọi là sương mù bức xạ và chỉ
tồn tại cho đến khi nắng lên, ở các vùng núi đôi khi xuất hiện sương muối rất có hại
cho vật nuôi và cây trồng.
Vào tháng IX và X, ở khu vực Bắc Bộ khi mặt đệm còn tương đối nóng, không
khí lạnh tràn về có thể gây ra những xáo trộn nhiệt, ẩm rất mạnh mẽ khiến các dòng
khí ẩm chuyển động đối lưu lên cao và giải phóng năng lượng lớn, do đó có thể cho
mưa rào và dông, đôi khi kèm theo tố lốc, mưa đá.
Thời kỳ chính đông: Từ tháng XII đến tháng II năm sau. Thời kỳ này còn gọi là
thời kỳ chính đông, là những tháng rét nhất trong năm và cũng là thời kỳ có nhiều đợt
gió mùa mạnh nhất trong năm. Vào thời kỳ này ở các vĩ độ trung bình dòng xiết gió
tây trên cao phát triển rất mạnh. Không khí lạnh tràn về di chuyển theo hướng Đông
bắc - Tây nam bị biến tính qua biển nên lượng ẩm tăng lên rõ rệt. Sự lạnh đi của bề
mặt trong giai đoạn này khiến cho nhiệt độ lớp không khí tiếp giáp cũng giảm đi
nhiều, độ ẩm nhanh chóng đạt trạng thái bão hoà. Và cũng tạo nên một lớp nghịch
nhiệt ở tầng thấp tồn tại sát bề mặt đất, không khí không chuyển động lên cao và hình
thành màn mây tầng (St) dày đặc ở rất thấp gây ra các đợt mưa nhỏ, mưa phùn ổn định
trên toàn miền Bắc. Biên độ dao động nhiệt ngày đêm rất thấp, nên thời kỳ này cũng là
thời kỳ rét nhất trong năm. Ở Bắc Bộ vào tháng XII, không khí lạnh tràn về vẫn còn là
những đợt không khí hanh khô và các đợt rét đậm, rét hại đầu mùa cũng thường xuất
hiện vào thượng tuần tháng này.
Thời kỳ cuối đông: Từ tháng III đến tháng V, thời kỳ này còn gọi là thời kỳ
chuyển tiếp, mưa nhiều. Áp thấp phía tây bắt đầu phát triển và mở rộng về phía đông
nam gây nên những đợt nóng sớm. Bề mặt đất bị đốt nóng, nhiệt độ tăng và ở mức khá
cao.
Khi lưỡi áp cao lạnh lục địa di chuyển xuống phía nam sẽ nén rãnh thấp nối với
vùng áp thấp phía tây gây ra hiện tượng nắng to, nhiệt độ ban đầu tăng cao, nóng nực
thường thấy trước khi không khí lạnh tràn về. Sau đó khi nó đầy nên cho mưa rào và
kèm theo dông, có thể xảy ra tố, lốc và mưa đá.
Vào tháng III, là thời kỳ chuyển tiếp của gió mùa do đó khi không khí lạnh tràn
về có thể vẫn xuất hiện những đợt mưa nhỏ, mưa phùn và rét, đồng thời những cơn

dông đầu mùa sớm nhất cũng thấy xuất hiện trong tháng này khi có không khí lạnh
tràn về.

8

8

8


Mùa gió mùa đông bắc ảnh hưởng đến miền Bắc có thể được phân chia thành 3
thời kỳ chính như sau:
Thời kỳ đầu đông: Từ tháng IX đến tháng XI. Trong thời kỳ này, các đợt không
khí lạnh tràn xuống miền Bắc nước ta di chuyển chủ yếu theo hướng Bắc – Nam và
chịu sự biến tính khi đi qua lục địa Trung Quốc. Mặc dù nhiệt độ của nó đã tăng lên
khá nhiều so với ban đầu, nhưng khi đến nước ta nó vẫn giữ được đặc tính cực đới
lạnh. Do quá trình biến tính khi đi qua lục địa khối không khí trở nên rất khô, tạo thành
một mùa khô hanh đặc trưng ở Bắc Bộ trong thời kỳ này.
Ở trên cao thường xuất hiện lớp nghịch nhiệt dày do chuyển động đi xuống của
đới gió tây trên cao. Điều này khiến lượng hơi ẩm vốn đã rất ít của khối không khí cực
đới khô khống chế ở tầng thấp không thể chuyển động lên cao ngăn cản quá trình tạo
mây. Do đó, thời tiết Bắc Bộ trong thời kỳ này đặc trưng là quang mây, ban ngày có
nắng, nhiệt độ có thể lên khá cao, nhưng về ban đêm, mặt đất phát xạ sóng dài rất
mạnh làm nhiệt độ giảm đi nhanh chóng và đạt trị số khá thấp. Vì vậy biên độ nhiệt
ngày đêm ở Bắc Bộ trong thời kỳ này là lớn nhất, thường đạt trên 100C, thậm chí có
khi đến 14 – 150C và hơn nữa. Cũng do sự lạnh đi về ban đêm nên trong thời kỳ này
thường xuất hiện những lớp sương mù vào buổi sáng gọi là sương mù bức xạ và chỉ
tồn tại cho đến khi nắng lên, ở các vùng núi đôi khi xuất hiện sương muối rất có hại
cho vật nuôi và cây trồng.
Vào tháng IX và X, ở khu vực Bắc Bộ khi mặt đệm còn tương đối nóng, không

khí lạnh tràn về có thể gây ra những xáo trộn nhiệt, ẩm rất mạnh mẽ khiến các dòng
khí ẩm chuyển động đối lưu lên cao và giải phóng năng lượng lớn, do đó có thể cho
mưa rào và dông, đôi khi kèm theo tố lốc, mưa đá.
Thời kỳ chính đông: Từ tháng XII đến tháng II năm sau. Thời kỳ này còn gọi là
thời kỳ chính đông, là những tháng rét nhất trong năm và cũng là thời kỳ có nhiều đợt
gió mùa mạnh nhất trong năm. Vào thời kỳ này ở các vĩ độ trung bình dòng xiết gió
tây trên cao phát triển rất mạnh. Không khí lạnh tràn về di chuyển theo hướng Đông
bắc - Tây nam bị biến tính qua biển nên lượng ẩm tăng lên rõ rệt. Sự lạnh đi của bề
mặt trong giai đoạn này khiến cho nhiệt độ lớp không khí tiếp giáp cũng giảm đi
nhiều, độ ẩm nhanh chóng đạt trạng thái bão hoà. Và cũng tạo nên một lớp nghịch
nhiệt ở tầng thấp tồn tại sát bề mặt đất, không khí không chuyển động lên cao và hình
thành màn mây tầng (St) dày đặc ở rất thấp gây ra các đợt mưa nhỏ, mưa phùn ổn định
trên toàn miền Bắc. Biên độ dao động nhiệt ngày đêm rất thấp, nên thời kỳ này cũng là
thời kỳ rét nhất trong năm. Ở Bắc Bộ vào tháng XII, không khí lạnh tràn về vẫn còn là
những đợt không khí hanh khô và các đợt rét đậm, rét hại đầu mùa cũng thường xuất
hiện vào thượng tuần tháng này.
9
9

9


Thời kỳ cuối đông: Từ tháng III đến tháng V, thời kỳ này còn gọi là thời kỳ
chuyển tiếp, mưa nhiều. Áp thấp phía tây bắt đầu phát triển và mở rộng về phía đông
nam gây nên những đợt nóng sớm. Bề mặt đất bị đốt nóng, nhiệt độ tăng và ở mức khá
cao.
Khi lưỡi áp cao lạnh lục địa di chuyển xuống phía nam sẽ nén rãnh thấp nối với
vùng áp thấp phía tây gây ra hiện tượng nắng to, nhiệt độ ban đầu tăng cao, nóng nực
thường thấy trước khi không khí lạnh tràn về. Sau đó khi nó đầy nên cho mưa rào và
kèm theo dông, có thể xảy ra tố, lốc và mưa đá.

Vào tháng III, là thời kỳ chuyển tiếp của gió mùa do đó khi không khí lạnh tràn
về có thể vẫn xuất hiện những đợt mưa nhỏ, mưa phùn và rét, đồng thời những cơn
dông đầu mùa sớm nhất cũng thấy xuất hiện trong tháng này khi có không khí lạnh
tràn về.
1.3: Một Số Nghiên Cứu Trong Và Ngoài Nước
1.3.1 :Ngoài Nước:
Do tác động mạnh mẽ của không khí lạnh xâm nhập vào Việt Nam gây ra
những biến đổi thời tiết mạnh mẽ, là một trong những đặc trưng khí hậu điển hình cho
khu vực Châu Á. Do đó đã có nhiều những công trình nghiên cứu của nước ngoài về
về những vấn đề liên quan đến không khí lạnh đang được nhiều tác giả quan tâm.
Một trong những tác giả đề cập đến yếu tố gió mùa với gió mùa mùa đông là một
trong những đặc trưng của không khí lạnh với nghiên cứu của (Hann-1908, Shick1953, Khromov-1957, Kaoetal-1962,…), những tác giả đã có những định nghĩa, những
cơ sở thay đổi về hướng gió giữa mùa đông và mùa hè. Sau đó là Ramage(1971) bổ
sung và được nhiều nhà khí tượng thừa nhận.
Khi phân tích ảnh hưởng về “Tác động của ElNino đến gió mùa Đông Á” Tác giả
Sunzhaobo có đề cập đến ảnh hưởng của năm xảy ra hiện tượng Elnino, với số lượng các
đợt xâm nhập lạnh của hệ thống gió mùa ở khu vực Đông Á, trong đó có Việt Nam.
Kattenberg và cộng sự đã kết luận rằng: xu thế ấm lên sẽ làm tăng những hiện
tượng liên quan đến nhiệt độ tối cao trong thời kỳ mùa hè và làm giảm hiện tượng liên
quan đến nhiệt độ tối thấp trong mùa đông. Tuy nhiên, có sự khác nhau đối với từng
khu vực.
Zhai và Pan (2003) đã nghiên cứu sự biến đổi về tần suất của những hiện tượng
nhiệt độ cực trị ở Trung Quốc, dựa trên số liệu nghiên cứu bề mặt của 200 trăm trạm
quan trắc trong thời kỳ 1951-1999, kết quả cho thấy tần số của những ngày và đêm ấm
tăng lên và tần số của những ngày đêm lạnh giảm đi.
10

10

1

0


1.3.2 Trong Nước:
Không khí lạnh là một trong những hiện tượng thời tiết nguy hiểm ảnh hưởng
đến Việt Nam đặc biệt là vào thời kỳ mùa đông. Do vậy việc nghiên cứu hoạt động của
không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam là yếu tố cần thiết được nhiều tác giả đề cập
đến.
Trong cuốn hướng dẫn nghiệp vụ dự báo (Trung tâm quốc gia dự báo khí tượng
thủy văn). Tác giả Trần Gia Khánh, (1998) đã phân tích nhiều đến cơ chế gió mùa ảnh
hưởng đến thời tiết Việt Nam. Tác giả đã sử dụng phương pháp synop để phân tích
hình thế synop cụ thể của từng loại gió trong đó có gió mùa Đông Bắc và đưa ra hệ
quả thời tiết.
Còn theo tác giả Nguyễn Vũ Thi, ở Việt Nam mỗi năm trung bình có khoảng trên
30 đợt không khí lạnh, front lạnh ảnh hưởng tới Việt Nam theo hai hướng chủ yếu là
Bắc Nam hoặc lệch Đông. Trong đó nhiều đợt chỉ ảnh hưởng đến Bắc Bộ, Bắc Trung
Bộ ít khi xuống được vĩ độ thấp hơn. Không khí lạnh ảnh hưởng đến Việt Nam hầu
như quanh năm trừ tháng 7, tháng 8. Còn suốt từ tháng 9 đến tháng 6 năm sau là thời
gian các đợt không khí lạnh từ phía Bắc lục địa Châu Á di chuyển xuống đến các khu
vực, lãnh thổ nước ta.
Cùng với những nghiên cứu về không khí lạnh thì trong cuốn Khí tượng synop
của Trần Công Minh (nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội) và Khí tượng synop của
PGS.TS Phạm Vũ Anh và PGS.TS Nguyễn Viết Lành đã đi sâu tìm hiểu về nguồn gốc
của khối không khí, những trung tâm khí áp, hướng di chuyển của khối không khí và
bản chất biến tính của từng khối khí theo từng giai đoạn, chủ yếu vào thời kỳ mùa
đông. Các tác giả đi sâu phân tích các hình thế khí áp, từ mặt đất đến các tầng trên cao
để từ đó nhận biết được các dấu hiệu của sự xâm nhập lạnh vào Việt Nam.
Hơn nữa, nghiên cứu về xu thế biến đổi của nhiệt độ trung bình trên một số trạm
đăc trưng của Việt Nam, tác giả Nguyễn Viết Lành (2007) cho rằng: nhiệt độ trên các
vùng tăng một cách khá rõ rệt trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 2. Nguyên nhân là

do áp cao Hoa Đông hoạt động mạnh và lệch đông hơn đã mang tới lãnh thổ không khí
ẩm và ấm hơn. Đồng thời, ở các mực trên cao, áp cao Thái Bình Dương mạnh và lấn
về phía tây hơn đã tạo điều kiện cho lớp nghịch nhiệt nén hình thành, góp phần làm
tăng nhiệt độ trong thời kì này.
Trong nghiên cứu về “Dao động và biến đổi của hiện tượng rét đậm, rét hại”, Tác
giả Vũ Thanh Hằng, Phạm Thị Lê Hằng, Phan Văn Tân cho rằng sự biến đổi của các
yếu tố và hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan diễn ra rất mạnh mẽ trên quy mô khu
vực cũng như trên quy mô toàn cầu. Nghiên cứu cho thấy trong những năm gần đây
11

11

1
1


giá trị nhiệt độ trung bình đã tăng lên từ thế kỷ 19, tuy nhiên sư tăng lên của giá trị cực
trị là khác nhau cho từng khu vực.
Cùng với nghiên cứu về nhiệt độ cực trị ở Việt Nam thì tác giả Hồ Thị Minh Hà
và Phan Văn Tân cho rằng “xu thế và mức độ biến đổi của nhiệt độ cực trị ở Việt Nam
trong giai đoạn từ 1961- 2007” có sự biến động rõ rệt. Nhiệt độ cực tiểu của Việt Nam
tăng lên trung bình gần 0.90C/1 thập kỷ. Sự tăng lên của nhiệt độ cực trị là nguyên
nhân dẫn tới giảm số đợt rét đậm ở Việt Nam.
Hơn nữa, nghiên cứu về xu thế biến đổi của nhiệt độ trung bình trên một số trạm
đăc trưng của Việt Nam, tác giả Nguyễn Viết Lành (2007) cho rằng: nhiệt độ trên các
vùng tăng một cách khá rõ rệt trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 2. Nguyên nhân là
do áp cao Hoa Đông hoạt động mạnh và lệch đông hơn đã mang tới lãnh thổ không khí
ẩm và ấm hơn. Đồng thời, ở các mực trên cao, áp cao Thái Bình Dương mạnh và lấn
về phía tây hơn đã tạo điều kiện cho lớp nghịch nhiệt nén hình thành, góp phần làm
tăng nhiệt độ trong thời kì này.

Hay khi phân tích tác động của ENSO đến thời tiết, khí hậu, môi trường và kinh
tế xã hội ở Việt Nam. Nguyễn Đức Ngữ cho rằng: Trong những năm ENSO, số front
lạnh ảnh hưởng đến nước ta đều ít hơn bình thường. Tỷ lệ giữa tổng chuẩn sai dương
và tổng chuẩn sai âm của tần số front lạnh qua Hà Nội của các tháng trong năm chỉ
bằng 70%. Thời gian kết thúc hoạt động của không khí lạnh ở Việt Nam sớm hơn bình
thường.

12

12

1
2


CHƯƠNG 2: SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.Cơ sở Số liệu
Trong bài khóa luận này sử dụng số liệu thống kê các đợt xâm nhập lạnh có ảnh
hưởng đến Việt Nam từ năm 1995 đến năm 2015 trong tư liệu của Trung tâm dự báo
Khí tượng Thủy văn Trung ương và các bản đồ hình thế để nghiên cứu.
Số liệu gồm: số đợt không khí lạnh xâm nhập được thống kê qua từng năm và
hiện tượng thời tiết đặc trưng ở các obs 1h,7h,13h,19h. Số đợt KKL xâm nhập có
cường độ mạnh, yếu, trung bình. Đối với bản đồ hình thế lấy số liệu trên bản đồ mặt
đất, mực 850mb, 700mb, 500mb, 200mb..ở các obs 7h, hoặc 19h.
2.1.1

Phương pháp nghiên cứu
Trong bài khóa luận này sử dụng một số phương pháp sau:

a) Phương pháp phân tích xu thế:

Dựa vào đường xu thế và phương trình biểu diễn xu thế biến đổi tuyến tính theo
thời gian trong thời kỳ 1993-2012, y = a0 + a1.t, trong đó y là giá trị số đợt KKL xâm
nhập trung bình trong các tháng mùa đông, a0 và a1 là các hệ số hồi quy, t là thời gian
(năm). Hệ số a1 dương hay âm phản ánh xu thế tăng hay giảm theo thời gian của số
đợt KKL ảnh hưởng đến Việt Nam trong từng năm. Trị số tuyệt đối của a1 biểu thị
mức độ tăng (giảm); trị số này càng lớn mức độ tăng (giảm) càng lớn.
b) Phương pháp thống kê toán học: để tìm tần suất, tần số, tính toán, phân
tích những đặc trưng của một số yếu tố khí tượng và khí hậu.
c) Phương pháp phân tích synop: để phân tích bản đồ từ bề mặt đến các trường độ cao
địa thế vị, để tìm các hình thế thời tiết ảnh hưởng đến khu vực và các diễn biến thời
tiết.
2.1.2 .Thống kê số đợt KKL từ năm 1995-2015
Theo số liệu thống kê trung bình hàng năm, nước ta có trung bình khoảng 28-30
đợt không khí lạnh xâm nhập. Những đợt không khí lạnh xâm nhập yếu chỉ ảnh hưởng
đến vùng núi phía bắc hoặc Bắc Bộ. Những đợt không khí lạnh xâm nhập mạnh có khi
tràn xuống cả Trung Bộ; đôi khi xuống đến cả Nam Bộ, làm nhiệt độ trung bình ngày
giảm hơn 100C trong 24 giờ.
Ta có thể nhận thấy, không khí lạnh xâm nhập xuống nước ta hầu như quanh
năm, nhưng chủ yếu vào những tháng chính của mùa đông, trung bình mỗi năm là 2830 đợt. Có những năm thì xảy ra rất nhiều đợt xâm nhập cuả KKL, như năm 1995 (36
13

13

1
3


đợt), năm 2011 (38 đợt). Còn có năm KKL xảy ra rất ít như năm 1999 (23 đợt). Hầu
hết các đợt KKL xảy ra năm 2011 đều vào 3 tháng là 1;3 và 12, chiếm gần 58% tổng
số đợt KKL. Tương tự như năm 2009 và 2010, trong tháng 2 năm 2011 các đợt KKL

xâm nhập ít hơn hẳn và cũng chỉ xuất hiện 2 đợt, ít hơn so với trung bình 20 năm là
khoảng 2 đợt. Đặc biệt trong 2 tháng 1 và 3 xuất hiện nhiều đợt KKL liên tiếp, đây là
tần xuất suất hiện nhiều, hiếm gặp trong vòng 20 năm trở lại đây
KKL xâm nhập vào Việt Nam chủ yếu là vào những tháng mùa đông, chiếm
70,4% trong tổng số đợt xảy ra trong năm. Trong đó tháng 1 là tháng xuất hiện nhiều
nhất là 105 đợt trên tổng số 592 đợt, chiếm 17,7%. Sau đó đến tháng 12 là 91 đợt,
chiếm 15.4%. Tháng 2; 3; 4 số đợt xảy ra xấp xỉ bằng nhau là trên 70 đợt chiếm
khoảng 12% trên tổng số đợt. Trong năm 1996 và năm 2011 là năm có số đợt xâm
nhập nhiều nhất trong tháng 1 là 9 đợt nhiều gần gấp 2 lần so với trị số trung bình
thống kê trong 20 năm. Ngược lại trong năm 1999 và năm 2002 số đợt xảy ra trong
tháng 1 lại rất ít chỉ có 2 đến 3 đợt ít hơn so với trung bình của 20 năm là 2 đến 3 đợt.
Trong năm 1999 tuy không xảy ra nhiều đợt KKL nhưng những đợt có cường độ mạnh
chiếm hơn nửa so với tổng số đợt xảy ra trong năm; 13 đợt trên tổng số 23 đợt chiếm
56.5%.
Tháng 7 không có đợt xâm nhập lạnh nào, tháng 8 có 3 đợt. Còn theo số liệu
thống kê thu thập được trong vòng 40 năm trở lại đây (1961 -2000) chỉ có 2 đợt không
khí lạnh xảy ra vào tháng VII và 6 đợt xảy ra vào tháng VIII đều là những đợt yếu, chỉ
ảnh hưởng đến một phần phía Bắc của Bắc Bộ.
Trong đó tháng xảy ra nhiều nhất là tháng 1 với trung bình 5.25 đợt tiếp sau là
tháng 12 sau đó giảm dần, tháng 6 và tháng 8 chỉ đạt xấp xỉ 0.2 đợt.
Trong tháng 5 trong 20 năm có 4 năm xảy ra 4 đợt KKL xâm nhập nhưng cũng
có năm không có đợt nào. Một trong những năm xảy ra nhiều đợt KKL xâm nhập là
năm 2011 được đưa ra phân tích cụ thể trong phần sau.
Trong tháng 10 và tháng 12 của năm 2010 đều xảy ra số đợt KKL xâm nhập
nhiều hơn so với giá trị TBNN. Tháng 10 là 5 đợt còn tháng 12 là 7 đợt. Nhiều hơn 2
đến 3 đợt.
Như vậy, theo số liệu thống kê tần số không khí lạnh xâm nhập trung bình trong
một tháng khoảng 2.47 đợt. Số đợt lớn hơn giá trị trung bình xảy ra từ tháng 9 đến
tháng 4, chủ yếu là vào thời kì mùa đông. Có những năm trong tháng 7 có rất nhiều
đợt KKL xâm nhập nhưng có năm lại không có đợt không khí lạnh xâm nhập nào

(tháng 2 năm 2007). Ngược lại trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 9 có nhiều năm
trong một tháng không có đợt không khí lạnh xâm nhập nào (tháng 7), nhưng cũng có
14

14

1
4


năm có đến 3;4 đợt tháng 5; tháng 9 (xảy ra vào những tháng giao mùa). Do đó sự xâm
nhập không khí lạnh xuống Việt Nam trong những năm gần đây có những biến động
lớn theo thời gian.
Nguyên nhân chính của những đợt xâm nhập lạnh đến nước ta trong mùa đông là
từ áp cao Siberi. Đây là một trung tâm quan trọng hoạt động trong mùa đông ở khu
vực Âu- Á. Khí áp trung tâm của áp cao này có thể lên tới 1080mb, cao hơn trị số
trung bình nhiều năm khoảng 45mb.
Theo thống kê tần suất và cường độ không khí lạnh xuống Việt Nam theo từng
tháng trong 20 năm từ năm 1993-2012 thì: từ tháng 1 đến tháng 2 số đợt suất hiện hiện
tượng xâm nhập của không khí lạnh giảm và cường độ suất hiện của những đợt không
khí lạnh mạnh cũng giảm đáng kể. Đồng thời trong thời gian từ tháng 1 đến tháng 2
trung tâm áp cao lạnh cũng dịch dần sang phía đông và di chuyển lệch đông bị biến
tính dần qua đường biển ẩm làm cho không khí ấm và ẩm lên nhiều làm cho nhiệt độ
và độ ẩm trong tháng 2 sẽ cao hơn tháng 1. Và theo bản đồ trường HGT và đường
dòng trung bình tháng 2 của bản đồ TBNN trên các mực trên cao cho thấy từ tháng 1

Hình 2. 1. Xu thế biến đổi số đợt KKL trong thời kỳ 1995 đến 2015
Từ hình 2.1 ta thấy: số đợt KKL có xu thế giảm chậm, khoảng 0.1 đợt/1 thập kỷ.
Trong đó, số đợt KKL có xu hướng tăng dần trong tháng 1, 3, 4, 11, 12, còn trong các
tháng 10, 2, 5 lại có xu thế giảm dần.


15

15

1
5


Điều đó chứng tỏ càng về những năm trở lại đây thì trung tâm áp cao Siberi càng
lệch dần sang phía đông

Hình 2. 2. Xu thế biến đổi số đợt KKL tháng 10 trong thời kỳ 1995 đến 2015
Từ hình 2.2 thấy KKL trong tháng 10 có xu hướng giảm số đơt xâm nhập từ năm
1995 đến 1999. Và có xu thế tăng mạnh từ năm 1995 đến 2011 .Từ năm 2011 trở đi lại
có xu thế giảm dần

Hình 2. 3. Xu thế biến đổi số đợt KKL tháng 11 trong thời kỳ 1995 đến 2015
Từ hình 2.3 ta thấy số đợt KKL trong tháng 11 có xu thế giảm dần từ 1995 đến
2001 .Và co xu thế tăng mạnh từ 2001 đến 2009 và bắt đầu có xu hướng giảm dần
trong những năm gần đây

16

16

1
6



Hình 2. 4. Xu thế biến đổi số đợt KKL tháng 12 trong thời kỳ 1995 đến 2015
Từ hình 2.4 ta thấy số đợt KKL trong tháng 12 ó xu thế giảm dần từ 1995 đến
năm 1999 . Tăng mạnh từ năm 1999 đến năm 2005(7 đợt/1 tháng) .Giam dần từ 2005
đến 2009 và có xu thế gia tăng vào những năm gần đây
1. Kết quả nghiên cứu
Xu thế biến đổi của áp cao Siberia
Dựa trên chuỗi số liệu PMSL,
cường độ của áp cao Siberia đã được
thiết lập trong thời gian từ 1961- 2009.
Nó được xác định là giá trị PMSL trung
0
bình trong vùng 70- 120 E và 400
60 N, vùng hình chữ
nhật bao phủ trung tâm của xoáy
Hình 1 Bản đồ PMSL trong mùa đông thời kỳ
nghịch, nơi có áp suất trung tâm lớn
1961-2000
hơn 1028mb (hình 1). Có thể thấy rằng,
Phân tích bản đồ khí áp mực nước biển trung bình cho thấy, áp cao Siberia hoạt
động gần như quanh năm, trừ các tháng chính hè (các tháng 6, 7 và 8). Vì thế, xu thế
biến đổi cường độ của áp cao này sẽ được phân tích từ tháng 9 đến tháng 5 năm sau.
Khi đó, các tháng 9, 10 và 11 được gọi là các tháng đầu đông; các tháng 12, 1 và 2 là
các tháng chính đông; còn các tháng 3, 4 và 5 được gọi là các tháng cuối đông.
Có thể nhận thấy, xu thế biến đổi cường độ của áp cao Siberia trong các tháng
đầu và cuối đông ở các thời kỳ đều giống nhau. Cụ thể, trong thời kỳ 1961-2009,
cường độ tại trung tâm của áp cao Siberia có xu thế tăng nhẹ. Xu thế tăng nhanh hơn
xảy ra trong thời kỳ 1961-1990, song xu thế giảm nhẹ lại xảy ra trong thời kỳ 1991-

17


17

1
7


2009 (hình 2 và 3). Xu thế tăng mạnh nhất xảy ra trong tháng 9 và tháng 5 song lại
giảm ít hơn trong thời kỳ 1991-2009.

18

18

1
8


Trong các tháng chính đông, cường độ của áp cao Siberia có xu thế biến đổi
ngược lại so với các tháng đầu và cuối đông. Xu thế gần như không đổi hoặc giảm
nhẹ trong thời kỳ

19

19

1
9


Như vậy, cường độ của áp cao Siberia trong các đầu đông và các tháng cuối đông

có xu thế biến đổi ngược với các tháng chính đông. Trong các tháng chính đông, xu
thế tăng hoặc giảm xảy ra chậm hơn trong các tháng đầu và cuối đông.
Mối quan hệ giữa cao Siberia và nhiệt độ trên khu vực Bắc Bộ Việt Nam
Có thể nói, cường độ của áp cao Siberia thay đổi sẽ làm ảnh hưởng đáng kể đến
nhiệt độ trung bình và cực tiểu trong ngày cũng như trong tháng trên khu vực Bắc Bộ
Việt Nam. Chính vì vậy, mối quan hệ giữa áp cao Siberia với Ttb và Tm trên từng
vùng của Bắc Bộ đã được phân tích dựa trên bản đồ tương quan trong các tháng mùa
đông. Tuy nhiên, trong khuôn khổ bài báo này, chúng tôi chỉ đưa ra ở đây một số bản
đồ trong các tháng đặc trưng.

20

20

2
0


Với nhiệt độ trung bình
Trong các tháng mùa đông, áp cao Siberia đều có hệ số tương quan (HSTQ) âm
với Ttb, đặc biệt, HSTQ lớn nhất ≥ 0.6 thường xảy ra trong các tháng 2, 4, 11 và 12
(hình 3 và 4). Chứng tỏ rằng, áp cao Siberia càng mạnh thì nhiệt độ trên khu vực Bắc
Bộ Việt Nam sẽ càng thấp và ngược lại.

Hình 3 Bản đồ tương quan giữa trường PMSL với Ttb vùng núi phía Bắc
21


Ở tất cả các vùng, trong các tháng đầu và cuối đông (tháng 11, 12, tháng 3 và 4),
vùng có HSTQ âm có xu hướng lệch sang phía đông nam và phía đông Trung Quốc.

0
0
Cụ thể, vùng có HSTQ cao nằm trong phạm vi từ 20-35 N, 130-150 E (trong các
0
0
tháng đầu đông) và 20-35 N, 115-135 E (trong các tháng cuối đông). Kết quả này
tương đối phù hợp với quy luật dịch chuyển cũng như cường độ của áp cao Siberia
trong mùa đông. Thật vậy, trong các tháng đầu đông, do rãnh Đông Á chưa sâu, nên
không khí lạnh có ảnh hưởng lệch sang phía đông. Song khi rãnh Đông Á lấn sâu hơn
trong các tháng chính và cuối đông, thì không khí lạnh vừa ảnh hưởng dịch xuống phía
nam vừa lệch sang phía đông nhưng ít hơn. Vùng có HSTQ cao trong các tháng chính
đông (tháng 1 và 2) cũng tương tự như trong các cuối đông nhưng lệch hơn sang phía
0
0
tây (20-35 N, 110-130 E). Tuy nhiên, trong tháng 1, khi cường độ của áp cao này
mạnh nhất thì HSTQ lại đạt giá trị nhỏ nhất, với giá trị lớn nhất bằng -0.4. Điều này có
thể giải thích rằng, ngoài áp cao Siberia thì năng lượng bức xạ mặt trời trong thời gian
này cũng ảnh hưởng không nhỏ đến nhiệt độ trung bình trên các vùng. Hơn nữa, trong
tháng 1, áp cao Hoa Đông - một trung tâm áp cao nằm ở phía đông của Trung Quốc
[1] hoạt động mạnh và lệch đông hơn [2] đã mang tới lãnh thổ không khí ẩm và ấm
hơn nên có thể sẽ làm giảm ảnh hưởng của áp cao Siberia tới khu vực.

22


Hình 4 Bản đồ tương quan giữa trường PMSL với Ttb vùng Đồng bằng Bắc Bộ Bảng
1. Bảng HSTQ giữa PMSL trung bình vùng (*) với Ttb vùng
trên khu vực Bắc Bộ
Vùng 1 (200 - 350N và 1100 – 1300E) (*)
Các vùng

Tây Bắc Bộ
Đông Bắc Bộ

I

II

III

IV

-0.31 -0.47 -0.45 -0.56
-0.40 -0.22

+

V

IX

-

-

-0.60 -0.20 -0.17

X

XI


XII

-0.32 -0.52 -0.48
-

-0.58 -0.26

Đồng bằng Bắc Bộ -0.38 -0.51 -0.38 -0.53 -0.16 -0.30 -0.21 -0.58 -0.55
Vùng 2 (200 - 350N và 1300 – 1500E) (*)
Tây Bắc Bộ
Đông Bắc Bộ

0.36 -0.13 -0.11 -0.10
0.23

+

Đồng bằng Bắc Bộ 0.16

-

+

-

0.13

-

+


0.28

-

-

+

+

0.33

-

0.23

-0.14

0.31

-

-0.13 -0.03 -0.11

PMSL trung bình trên hai vùng có HSTQ cao trong các tháng chính và cuối đông
0
0
0
0

0
0
0
(20 – 35 N và 110 – 130 E) và trong các tháng đầu đông (20 – 35 N và 130 –
0
150 E) đã được được sử để tính tương quan với Ttb vùng trong thời kỳ 1961-2007.
Kết quả cho thấy, từ tháng 1 đến tháng 4, Ttb trên các vùng có tương quan khá cao với
0
0
0
0
PMSL trung bình trên vùng (20 – 35 N và 110 – 130 E), đặc biệt, trong tháng 11
và tháng 4 với HSTQ lên tới ≈ -0.6. So với các vùng B1 và B3, HSTQ trong các tháng
1, 4 và 11 trên vùng B2 có giá trị lớn nhất, nhưng lại có giá trị nhỏ nhất trong các
0
tháng còn lại. Ngược lại, HSTQ của Ttb vùng với PMSL trung bình trên vùng (20 –
0
0
0
35 N và 110 – 130 E) có giá trị rất thấp, thậm chí trong tháng 1 và 11, HSTQ còn có
giá trị dương. Điều này có thể giải thích rằng, không khí lạnh bị biến tính trở thành
khối không khí ấm và ẩm khi dịch chuyển ra vùng biển nhiệt đới. Do đó, khi khối
không khí này ảnh hưởng có thể làm nhiệt độ trên khu vực Bắc Bộ tăng lên (bảng 1).
Với nhiệt độ cực tiểu
Có thể nói, chế độ nhiệt trên khu vực Bắc Bộ Việt Nam trong mùa đông chịu ảnh
hưởng của rất nhiều hệ thống thời tiết như áp cao Hoa Đông, áp cao Thanh Tạng, áp
cao Thái Bình Dương,…, song áp cao Siberia vẫn là một trong những hệ thống mạnh
nhất tác động lên miền Bắc Việt Nam, đặc biệt trong các tháng chính đông. Chính vì
thế, cường độ mạnh lên hay yếu đi của áp cao này sẽ ảnh hưởng lớn đến nhiệt độ cực
tiểu tháng trên mỗi vùng. Mối quan hệ giữa trường PMSL với nhiệt độ cực tiểu trung

bình tháng trên từng vùng cũng được phân tích tương tự như với nhiệt độ trung bình
23


tháng. Tuy nhiên, do kết quả phân tích đối với nhiệt độ cực tiểu trung bình tháng cũng
tương tự như đối với nhiệt độ trung bình tháng, nên chúng tôi chỉ đưa ra ở đây 4 bản
đồ tương quan của 4 tháng đặc trưng (các tháng 11, 1, 2 và 4). Kết quả phân tích cho
thấy, khu vực có HSTQ cao trong các tháng cũng gần trùng với những khu vực có
HSTQ cao như phân tích đổi với nhiệt độ trung bình tháng đã chỉ ra ở phần trên. Mặc
dù vậy, HSTQ giữa trường PMSL và Tm trên các vùng thường không cao, cao nhất
cũng chỉ ≥ 0,4, riêng trên vùng Đông Bắc và Đồng bằng Bắc Bộ có HSTQ trong tháng
2 và tháng 11 lại khá cao, lên tới -0,6 (hình 5).

24


Hình 5 Bản đồ tương quan giữa trường PMSL với Tm tại các vùng trên Bắc Bộ
So với các vùng trên khu vực thì HSTQ trên vùng Tây Bắc có giá trị nhỏ nhất.
25


×