Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận thiết lập chính sách tiền tệ mục tiêu và chiến lược

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.12 KB, 30 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CHƯƠNG 16
THIẾT LẬP CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ:
MỤC TIÊU VÀ CHIẾN LƯỢC

GIẢNG VIÊN: PGS.TS NGUYỄN KHẮC QUỐC BẢO
NHÓM 3 THỰC HIỆN:
- Trần Thị Diễm Châu
- Nguyễn Việt Hùng
- Vũ Viết Minh

TÓM LƯỢC


Vai trò của Neo Danh nghĩa

Vấn đề thiếu nhất quán theo
thời gian

Những mục tiêu khác của
chính sách tiền tệ

Bình ổn giá cả có nên là mục
tiêu cơ bản của chính sách
tiền tệ?

Nhiệm vụ phân cấp và nhiệm
vụ kép?


Nhiệm vụ nào tốt hơn?

Mục tiêu lạm phát?

- Một neo danh nghĩa, một biến danh nghĩa có thể như tỷ lệ lạm phát, cung
tiền, mà gắn chặt mức giá xuống để đạt được sự ổn định giá cả
- Sử dụng các neo danh nghĩa có thể hạn chế các vấn đề không thống nhất
thời gian
- Có thể có những cám dỗ thực hiện hành động nào đó để có được những lợi
ích trong ngắn hạn nhưng sẽ gây ra tác động xấu về lâu dài.
- Ví dụ thực hành chính sách tiền tệ mở rộng để giảm tỷ lệ thất nghiệp trong
ngắn hạn do áp lực chính trị
- Trong dài hạn sự tăng lên của mức giá (lạm phát) và mức lương sẽ không
có nghĩa làm sản lượng bình quân cao hơn.
- Vì vậy chúng ta cần phải hành vi quy tắc Một neo danh nghĩa là như một
quy tắc hành vi, nó có thể giúp ngăn chặn các vấn đề thời gian không nhất
quán trong chính sách tiền tệ bằng cách chứng minh một ràng buộc dự kiến
về chính sách chủ
1. Việc làm cao và ổn định sản lượng
- Mục tiêu của tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, không đầy đủ việc làm bởi vì nền
kinh tế luôn tồn tại thất nghiệp tạm thời và thất nghiệp cơ cấu mà chính sách
tiền tệ không thể gỡ bỏ được.
2. Tăng trưởng kinh tế
- Lãi suất đủ thấp để khuyến khích đầu tư
3. Tính ổn định của thị trường tài chính (một mục tiêu quan trọng gần đây)
4. Ổn định lãi suất
- Sự biến động lãi suất làm cho kế hoạch tương lai khó khăn hơn và tạo ra
không chắc chắn lớn cho các tổ chức tài chính
5. Tính ổn định trong thị trường ngoại hối
- Lạm phát có ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh quốc tế và đặc biệt là

trong nền kinh tế mở nhỏ.
- Mặc dù mục tiêu ổn định giá cả phù hợp với các mục tiêu khác trong dài
hạn, nhưng trong ngắn chạy nó thường mâu thuẫn với mục tiêu ổn định sản
lượng và ổn định lãi suất.
- Ví dụ khi nền kinh tế được mở rộng và tỷ lệ thất nghiệp giảm, nền kinh tế
có thể trở nên quá nóng, dẫn đến sự gia tăng lạm phát.
- Để theo đuổi mục tiêu ổn định giá cả, một ngân hàng trung ương sẽ ngăn
chặn lượng nhiệt này bằng cách tăng lãi suất, một hành động mà ban đầu sẽ
gây ra giảm và làm tăng sự bất ổn định lãi suất
- Hệ thống Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) sử dụng nhiệm vụ phân
cấp: đặt mục tiêu ổn định giá đầu tiên, ngay sau khi đạt được mục tiêu này,
sẽ tiếp tục theo đuổi các mục tiêu khác (như việc làm cao, tăng trưởng bền
vững, không lạm phát, …)
- Nhiệm vụ kép nhằm mục đích để đạt được đồng thời hai mục tiêu: ổn định
giá cả và việc làm tối đa (ổn định đầu ra). FED thuộc về thể loại này, bởi vì
đây là sứ mệnh của FED theo định nghĩa pháp luật.
Một trong hai loại nhiệm vụ đều có thể được chấp nhận miễn là nó hoạt
động để thực hiện mục tiêu chính là bình ổn giá cả trong dài hạn, không phải
trong ngắn hạn. Trong ngắn hạn, mục tiêu ổn định giá cả thường xuyên mâu
thuẫn với mục tiêu mức sản lượng cao và mục tiêu ổn định của lãi suất
- Mục tiêu lạm phát là một chế độ chính sách tiền tệ, trong đó ngân hàng
trung ương thông báo rộng rãi ra công chúng về tỷ lệ lạm phát mục tiêu rõ


ràng trong trung hạn.
Các yếu tố của mục tiêu lạm
- Công bố ra công chúng mục tiêu lạm phát định lượng trong trung hạn;
phát?
- Cam kết thể chế nhằm ổn định giá cả như một mục tiêu chủ yếu của chính
sách tiền tệ;

- Chiến lược thông tin, bao gồm nhiều biến số (không chỉ là tổng cung tiền)
được sử dụng cho việc thiết lập công cụ chính sách tiền tệ;
- Tăng tính minh bạch của chiến lược chính sách tiền tệ thông qua việc thông
báo với công chúng và thị trường về kế hoạch, mục tiêu của các nhà hoạch
định chính sách; và
- Tăng trách nhiệm giải trình của các ngân hàng trung ương về việc làm thế
nào để đạt được mục tiêu lạm phát đã đề ra.
Ưu điểm của mục tiêu lạm - Hướng các cuộc tranh luận chính trị về cái mà ngân hàng trung ương có thể
thực hiện trong tdài hạn, là kiểm soát lạm phát, chứ không phải vào cái mà
phát
nó không thể làm, là thúc đấy tăng trưởng kinh tế mãi mãi và tăng số lượng
việc làm.
- Dễ dàng được hiểu bởi công chúng
- Giảm khả năng hoạch định chính sách rơi vào cái bẫy nhất quán theo thời
gian
- Nhấn mạnh tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các ngân hàng
trung ương
Bất lợi và những tranh cải
- Chậm trễ trong việc phát ra tín hiệu: do độ trễ dài trong việc phát huy
ảnh hưởng của chính sách tiền tệ nên kết quả lạm phát chỉ bộc lộ sau một độ
trễ khá dài.
- Quá cứng nhắc: Không phải là một vấn đề trong thực tế. Các nhà hoạch
định chính sách tiền tệ có rất nhiều chính sách thích hợp.
- Có khả năng làm gia tăng sự biến động của Sản lượng: Trong thực tế
ngân hàng trung ương theo đuổi mục tiêu lạm phát cũng lo ngại về biến
động sản lượng.
- Làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế: Trong dài hạn, một khi mức lạm
phát thấp đã đạt được, sản lượng và việc làm sẽ trở lại ở mức ít nhất như
trước đây.
Nhìn chung về chính sách

- Hoa Kỳ đã đạt được kết quả kinh tế vĩ mô xuất sắc (bao gồm lạm phát thấp
tiền dự trữ FED
và sự ổn định) cho đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu mà
không cần sử dụng một neo danh nghĩa công khai kiểu như mục tiêu lạm
phát.
- Chiến lược này liên quan tới việc sử dụng một neo danh nghĩa ngầm định,
chứ không phải công khai, dưới dạng mối quan tâm của FED.
- Bởi vì chính sách tiền tệ có độ trễ dài, nó cần phải được nhìn xa trông rộng
và chủ động phòng ngừa.
- Chính sách tiền tệ cần phải hành động trước khi sức ép lạm phát xuất hiện
trong nền kinh tế khá lâu
- Mục tiêu là ngăn chặn sự bùng nổ của lạm phát.
- Chế độ chính sách của Fed, tốt nhất nên gọi nó là chính sách “Cứ làm đi”,
khác với mục tiêu lạm phát ở chỗ nó không có một neo danh nghĩa chính
thức và ít minh bạch hơn rất nhiều trong chiến lược cho chính sách tiền tệ
của mình
Ưu điểm Phương pháp tiếp
- Sử dụng nhiều nguồn thông tin để quyết định phương án tốt nhất cho chính
cận “Cứ làm đi” của FED
sách tiền tệ.


- Thành công rõ ràng của nó
- Hành vi nhìn xa trông rộng và việc nhấn mạnh vào sự ổn định giá cả cũng
góp phần cản trở chính sách tiền tệ mở rộng quá mức, quá đó giảm nhẹ vấn
đề nhất quán theo thời gian
Nhược điểm Phương pháp
- Thiếu minh bạch. Tính bất định cao này dẫn tới những biến động mạnh
tiếp cận “Cứ làm đi” của
không cần thiết trên thị trường tài chính.

FED
- Thiếu trách nhiệm. Không có các tiêu chuẩn xác định trước để đánh giá
hiệu quả hoạt động của Fed
- Sự phụ thuộc nặng nề vào sở thích, kỹ năng và niềm tin của các cá nhân
được giao trách nhiệm trong ngân hàng trung ương
- mâu thuẫn với với các nguyên tắc dân chủ
Những bài học cho chiến lược 1. Phát triển trong lĩnh vực tài chính có tác động lớn hơn về hoạt động kinh
chính sách tiền tệ từ cuộc
tế hơn đã được thực hiện trước đó
khủng hoảng tài chính toàn
2. Các số không thấp hơn ràng buộc về lãi suất có thể là một vấn đề nghiêm
cầu là gì?
trọng
- Chính sách tiền tệ không thuận tiện đã được cần thiết. Tác động của chính
sách này vào nền kinh tế là không chắc chắn nhiều hơn
3. Các chi phí dọn dẹp sau một cuộc khủng hoảng tài chính là rất cao
- Suy thoái sâu và phục hồi chậm từ cuộc khủng hoảng: có thể mất đến một
thập kỷ. nợ Chính phủ có thể dẫn mặc định về nợ chính phủ (đặc biệt là một
vấn đề đối với khu vực đồng Euro)
4. Giá và ổn định đầu ra không đảm bảo sự ổn định tài chính
- Sự biến động thấp của lạm phát và sản lượng biến động có thể ru ngủ
người tham gia thị trường vào suy nghĩ ít rủi ro đã có mặt trong hệ thống
kinh tế hơn là thực sự là trường hợp, dẫn họ chấp nhận rủi ro quá mức, giúp
thúc đẩy khủng hoảng tài chính toàn cầu
Tài sản giá bong bóng?

Giá bong bóng: tăng rõ rệt ở giá tài sản đó khởi hành từ các giá trị cơ bản mà
cuối cùng nổ tung.
Hai loại bong bóng giá tài sản
1. Bong bóng tín dụng định hướng (trường hợp quan trọng nhất: cuộc khủng

hoảng tài chính dưới chuẩn)
- Khi một sự bùng nổ tín dụng bắt đầu, nó có thể tạo ra một bong bóng giá
tài sản, bởi vì các khoản tín dụng dễ dàng hơn có thể được sử dụng để mua
các tài sản đặc biệt và do đó làm tăng giá của họ. (Điều này có thể dẫn đến
cho vay nhiều hơn -> giá cao hơn và vv.
2. Bong bóng hướng bởi sự thịnh vượng bất hợp lý
- Định hướng bởi những kỳ vọng lạc quan thái quá (như công nghệ điều
khiển bong bóng giá tài sản). Tuy nhiên nó không được tài trợ bởi đòn bẩy
như cuộc khủng hoảng tài chính dưới chuẩn và do đó nó không phải là có
hại cho nền kinh tế, bởi vì các công nghệ điều khiển giá tài sản bong bóng
không có một ảnh hưởng lớn trên bảng cân đối của các tổ chức tài chính.

Ngân hàng nên ứng phó với
hiện tượng bong bóng như
thế nào?

- Sự đồng thuận chung là ngân hàng trung ương không thể ứng phó với bong
bóng, chủ yếu là vì bong bóng là gần như không thể xác định
- Lập luận mạnh mẽ về không đáp ứng với bong bóng do thái quá vô lý
- Theo một số nhà kinh tế chính sách tiền tệ không nên được sử dụng để
chích bong bóng nhưng tập trung vào việc làm sạch sau đó (gọi là học thuyết


Greenspan). Các vị trí đối lập đã được mô tả như là dựa vào bong bóng giá
tài sản. Cuộc tranh luận về những gì để làm gì về bong bóng giá tài sản đã
được dán nhãn "lean vs clean" cuộc tranh luận.
- Bong bóng là dễ dàng hơn để xác định khi nào giá và tín dụng tài sản đang
gia tăng nhanh chóng cùng một lúc
Chính sách vĩ mô là gì?


- Chính sách điều tiết phản hưởng đến những gì đang xảy ra các thị trường
tín dụng
- Quy định tài chính và giám sát hoặc là do các ngân hàng trung ương hoặc
giữa cơ quan chính phủ khác với các yếu tố thông thường của một hệ thống
quản lý và giám sát bảo đảm an toàn hoạt động tốt, có thể ngăn ngừa nguy
cơ dùng quá mức có thể gây ra một sự bùng nổ tín dụng, mà lần lượt dẫn đến
bong bóng.
- ECB: "chính sách vĩ mô nhằm duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính nói
chung thông qua chứa rủi ro hệ thống, rủi ro có hệ thống có thể được định
nghĩa như là rủi ro mà nếu được vật chất hóa, có khả năng làm bất ổn tài
chính trở nên quá phổ biến rằng các chức năng của tài chính. hệ thống bị suy
yếu để mở rộng tăng trưởng và phúc lợi vật chất"

Chính sách tiền tệ là gì?

- Để các chính sách tiền tệ dễ dàng có thể thúc đẩy sự bất ổn tài chính
- Lãi suất thấp có thể khuyến khích rủi ro quá mức là những gì đã được gọi
là "chấp nhận rủi ro kênh của chính sách tiền tệ"
- Lãi suất thấp có thể làm tăng ưu đãi cho các nhà quản lý tài sản trong các
tổ chức tài chính để tìm kiếm lợi suất cao hơn và do đó làm tăng nguy cơ.
Lãi suất thấp cũng có thể làm tăng nhu cầu đối với tài sản, nâng cao giá của
họ và dẫn đến một bong bóng. Vì vậy, không phải là nó tốt hơn để sử dụng
chính sách vĩ mô?
- Chính sách vĩ mô là phải chịu áp lực chính trị hơn chính sách tiền tệ vì nó
ảnh hưởng đến dòng dưới cùng của các tổ chức tài chính trực tiếp hơn. tổ
chức tài chính thường rất giỏi trong việc tìm kiếm sơ hở để tránh quy định
và giám sát quá vĩ mô có thể không có hiệu quả chính sách tiền tệ phải được
sử dụng để thay thế.
những bài học quan trọng cuối cùng từ cuộc khủng hoảng này là gì?
Bài học quan trọng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu là các ngân hàng

trung ương và các nhà quản lý khác không nên có thái độ tự do kinh doanh
và để cho tín dụng bong bóng hướng tiếp tục mà không có phản ứng gì.

Các tiêu chí để lựa chọn các
công cụ chính sách là gì?

- Năng quan sát và năng đo lường
- Kiểm soát
Một ngân hàng trung ương có thể không hoàn toàn kiểm soát những khối tập
hợp tiền tệ. Nó có thể kiểm soát lãi suất danh nghĩa ngắn hạn, nhưng không
thể trực tiếp kiểm soát lãi suất thực ngắn hạn.
- Hiệu quả có thể dự đoán về mục tiêu
Theo nhiều nghiên cứu, liên kết giữa lãi suất và mục tiêu chính sách tiền tệ
như lạm phát là thắt chặt hơn mối liên hệ giữa tiền tệ và lạm phát. Vì lý do
này, các ngân hàng trung ương trên toàn thế giới hiện nay thường sử dụng lãi
suất ngắn hạn là công cụ chính sách của họ


BÀI DỊCH
Lựa chọn đúng chính sách tiền tệ là rất quan trọng đối với sự thịnh vượng của nền kinh
tế. chính sách tiền tệ nới lỏng quá mức dẫn đến lạm phát cao, làm giảm tính hiệu quả của nền
kinh tế và cản trở tăng trưởng kinh tế. Chính sách tiền tệ quá chặt có thể sản sinh các cuộc suy
thoái nghiêm trọng, trong đó sản lượng giảm và thất nghiệp tăng. Nó cũng có thể dẫn đến tình
trạng giảm phát, rớt giá , như đã xảy ra ở Hoa Kỳ trong cuộc Đại suy thoái và ở Nhật Bản gần
đây. Như chúng ta đã thấy trong chương trước, giảm phát có thể là tổn hại đặc biệt cho nền
kinh tế, vì nó thúc đẩy sự ổn định tài chính và có thể làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng
tài chính.
Bây giờ chúng ta hiểu các công cụ mà các ngân hàng trung ương như Cục Dự trữ liên
bang (FED) sử dụng để thực hiện chính sách tiền tệ, chúng ta có thể xem xét cách các ngân
hàng trung ương nên thực hiện chính sách tiền tệ. Để khám phá chủ đề này, chúng tôi bắt đầu

bằng cách nhìn vào các mục tiêu chính sách tiền tệ và sau đó kiểm tra một trong những chiến
lược quan trọng nhất đối với việc thực hiện các chính sách kiện tiền tệ, lạm phát mục tiêu. Sau
đó chúng tôi thảo luận về chiến thuật, đó là, sự lựa chọn và thiết lập các công cụ chính sách
tiền tệ. Sau khi xem xét các chiến lược và chiến thuật, chúng ta có thể đánh giá thực thi chính
sách tiền tệ của Fed trong quá khứ, với hy vọng rằng nó sẽ chỉ ra chính sách tiền tệ trong
tương lai ở đâu.
1. MỤC TIÊU BÌNH ỔN GIÁ VÀ NEO DANH NGHĨA

Trong vài thập kỷ qua, hoạch định chính sách trên toàn thế giới ngày càng nhận thức rõ các chi
phí xã hội và kinh tế của lạm phát và quan tâm nhiều hơn với việc duy trì một mức giá ổn định
như một mục tiêu của chính sách kinh tế. Thật vậy, sự ổn định giá cả, mà ngân hàng trung
ương xác định lạm phát thấp và ổn định, ngày càng được xem như là mục tiêu quan trọng nhất
của chính sách tiền tệ. Ổn định giá cả là mong muốn bởi vì mức tăng giá (lạm phát) tạo ra sự
không chắc chắn trong nền kinh tế, và sự không chắc chắn có thể cản trở tăng trưởng kinh tế.
Ví dụ, khi mức độ tổng thể của giá đang thay đổi, các thông tin được truyền đạt bởi giá cả của
các hàng hóa và dịch vụ là khó để giải thích, làm phức tạp việc ra quyết định cho người tiêu
dùng, doanh nghiệp và chính phủ, do đó dẫn đến một hệ thống tài chính kém hiệu quả.
Không chỉ làm các cuộc điều tra dư luận cho thấy công chúng là ghét với lạm phát, bằng
chứng cũng cho thấy rằng lạm phát dẫn đến làm giảm tăng trưởng kinh tế. Các ví dụ điển hình
nhất về giá cả không ổn định là lạm phát phi mã (siêu lạm phát), chẳng hạn như Argen- tina,
Brazil, Nga, và Zimbabwe đã có kinh nghiệm trong thời gian qua. Siêu lạm phát đã được
chứng minh là rất có hại cho sự hoạt động của kinh tế.
Lạm phát cũng làm cho nó khó khăn để lập kế hoạch cho tương lai. Ví dụ, nó có nhiều
khó khăn để quyết định số tiền để dành để cung cấp cho giáo dục đại học của một đứa trẻ
trong một môi trường lạm phát. Hơn nữa, lạm phát có thể làm căng thẳng cơ cấu xã hội của


một quốc gia: Xung đột có thể dẫn đến, bởi vì mỗi nhóm trong xã hội có thể cạnh tranh với các
nhóm khác để đảm bảo rằng thu nhập của mình trong điều kiện giá cả liên tục tăng


a. Vai trò của Neo Danh nghĩa

Bởi vì sự ổn định giá cả là yếu tố quan trọng đối với sức khỏe lâu dài của nền kinh tế,
một yếu tố trọng tâm trong chính sách tiền tệ thành công là việc sử dụng của một neo danh
nghĩa, một biến danh nghĩa có thể như tỷ lệ lạm phát, cung tiền, mà gắn chặt mức giá xuống để
đạt được sự ổn định giá cả. Việc tuân thủ một neo danh nghĩa là giữ các biến danh nghĩa trong
một phạm vi hẹp thúc đẩy sự ổn định giá bằng cách trực tiếp thúc đẩy kỳ vọng lạm phát thấp
và ổn định. Một lý do tế nhị hơn đối với tầm quan trọng một neo danh nghĩa là nó có thể hạn
chế các vấn đề thời sự không thống nhất, trong đó chính sách tiền tệ được thực hiện trên một
tùy ý, ngày qua ngày cơ sở dẫn đến kết quả dài hạn kém
b. Vấn đề thiếu nhất quan theo thời gian

Vấn đề thiếu nhất quan theo thời gian là một cái gì đó chúng ta đối diện với cuộc sống
hằng ngày đang diễn ra. Chúng ta thường có một kế hoạch mà chúng ta biết sẽ tạo ra một thu
nhập tốt trong thời gian dài, nhưng khi ngày mai đến, chúng ta không thể giúp chính mình và
chúng tôi thất hứa với kế hoạch của chúng ta bởi vì làm như vậy có lợi nhuận ngắn hạn. Ví dụ,
chúng ta có giải pháp cho một năm mới để có một chế độ ăn uống, nhưng ngay sau đó, chúng
tôi không thể cưỡng lại có việc ăn một miếng băng đường đá kem và sau đó một miếng nữa,
và sau đó một miếng nữa và trọng lượng bắt đầu tăng trở lại. Nói cách khác, chúng ta thấy
mình không thể để luôn tuân theo một kế hoạch tốt theo thời gian; các kế hoạch tốt được cho
là thiếu nhất quán theo thời gian và sẽ sớm bị bỏ rơi.
Người hoạch định chính sách tiền tệ cũng phải đối mặt với các vấn đề thiếu thống nhất
theo thời gian. Họ luôn luôn bị cám dỗ để theo đuổi một chính sách tiền tệ mở rộng hơn các
doanh nghiệp mở rộng hoặc những người mong đợi vì một chính sách như vậy sẽ thúc đẩy sản
lượng kinh tế (hoặc tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn) trong ngắn hạn. Các chính sách tốt nhất, không
phải là để theo đuổi chính sách mở rộng, bởi vì các quyết định về tiền lương và giá cả phản
ánh kỳ vọng của người lao động và doanh nghiệp về chính sách; khi họ nhìn thấy một ngân
hàng trung ương theo đuổi chính sách mở rộng, công nhân và các công ty sẽ tăng sự mong đợi
của họ về lạm phát, tiền lương và giá cả lên. Việc tăng lương và giá cả sẽ dẫn đến lạm phát cao
hơn, nhưng sẽ không dẫn đến sản lượng cao hơn trung bình. (Chúng tôi xem xét vấn đề này

nhiều hơn trong chương 24)
Một ngân hàng trung ương sẽ có kiểm soát lạm phát tốt hơn trong thời gian dài nếu
NHTW không cố gắng để mọi người ngạc nhiên với chính sách bất ngờ nới lỏng, nhưng thay
vì giữ lạm phát trong tầm kiểm soát. Tuy nhiên, ngay cả khi ngân hàng trung ương công nhận
rằng chính sách tùy ý sẽ dẫn đến một kết quả tồi tệ (lạm phát cao mà không có lợi nhuận trong
đầu ra), nó vẫn có thể không có khả năng để theo đuổi những chính sách tốt hơn trong kiểm


soát lạm phát, vì các chính trị gia có khả năng đẩy áp lực cho các ngân hàng trung ương để cố
gắng tăng sản lượng với chính sách tiền tệ quá nới lỏng.
Một đầu mối để làm sao chúng ta phải đối phó với các vấn đề thiếu nhất quan theo thời
gian xuất phát từ cách nuôi dạy con. Các bậc cha mẹ biết rằng nhượng bộ cho một đứa trẻ để
anh ta tự phát triển, hành động sẽ tạo ra một đứa trẻ rất hư hỏng. Tuy nhiên, khi một đứa trẻ
ném phẫn nộ, nhiều phụ huynh cho anh ta những thứ mà anh ấy có thể câm miệng. Bởi vì cha
mẹ không ấn định "không cho không" vào kế hoạch của họ, đứa trẻ hy vọng rằng đứa trẻ sẽ có
được những gì mình muốn, nếu anh ta cư xử tồi tệ. Vì vậy anh sẽ ném cơn giận dữ hơn và hơn
nữa. sách nuôi dạy con cái đề nghị một giải pháp cho các vấn đề thiếu nhất quán theo thời gian
(mặc dù họ không gọi nó mà): Phụ huynh nên thiết lập quy tắc hành vi cho con và ấn định cho
chúng
Neo danh nghĩa như là một quy tắc hành vi. Cũng giống như quy tắc giúp ngăn chặn các
vấn đề thiếu nhất quán theo thời gian trong nuôi dạy con cái bằng cách giúp người trưởng
thành chống lại việc theo đuổi các chính sách tùy ý nhượng bộ, một neo danh nghĩa có thể
giúp ngăn ngừa các vấn đề thiếu nhất quan theo thời gian trong chính sách tiền tệ bằng cách
đưa ta một sự kiềm chế được mong đợi cho chính sách tùy ý.
2. NHỮNG MỤC TIÊU KHÁC CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ (Other goal of

monetary policy)
Mặc dù sự ổn định giá cả là mục tiêu chính của hầu hết các ngân hàng trung ương, năm
mục tiêu khác liên tục được đề cập bởi các quan chức ngân hàng trung ương khi họ thảo luận
về các mục tiêu của chính sách tiền tệ: (1) việc làm cao và ổn định sản lượng, (2) tăng trưởng

kinh tế, (3) sự ổn định của thị trường tài chính, (4) sự ổn định lãi suất, và (5) ổn định trong thị
trường ngoại hối.
a. Việc làm cao và ổn định sản lượng
Việc làm cao là một mục tiêu thích đáng vì hai lý do chính: (1) cao thay thế tình hình-thất
nghiệp gây ra nhiều đau khổ của con người; và (2) khi tỷ lệ thất nghiệp cao, nền kinh tế có cả
người lao động nhàn rỗi và các nguồn lực nhàn rỗi (nhà máy đóng cửa và các thiết bị không sử
dụng), kết quả là một mất mát của sản lượng (GDP thấp hơn).
Mặc dù rõ ràng là việc làm cao là mong muốn, làm thế nào cao, nó nên cao như thế nào
được? Tại thời điểm những gì chúng ta có thể nói rằng nền kinh tế là việc làm đầy đủ? Lúc
đầu, có thể nói rằng việc làm đầy đủ là điểm mà tại đó không có công nhân được mất việc có
nghĩa là, khi tỷ lệ thất nghiệp là số không. Nhưng định nghĩa này đã bỏ qua thực tế là một số
thất nghiệp, gọi là thất nghiệp ma sát, trong đó bao gồm các tìm kiếm của người lao động và
các công ty để tìm đối ứng phù hợp, có lợi cho nền kinh tế. Ví dụ, một công nhân quyết định
tìm kiếm một công việc tốt hơn có thể bị thất nghiệp một thời gian trong thời gian tìm kiếm
việc làm. Công nhân thường quyết định rời bỏ công việc tạm thời để theo đuổi các hoạt động
khác (nuôi một gia đình, du lịch, trở lại trường học), và khi họ quyết định làm việc lại, họ có
thể mất một thời gian để họ tìm được công việc đúng.


Một lý do khác mà tỷ lệ thất nghiệp không phải là số không khi nền kinh tế đang ở đầy
đủ việc làm là thất nghiệp cơ cấu, không phù hợp giữa yêu cầu công việc và kỹ năng sẵn sàng
của lao động địa phương. Rõ ràng, loại này thất nghiệp là không mong muốn. nó là một cái gì
đó mà chính sách tiền tệ khó có thể làm gì.
Mục tiêu việc làm cao không phải là một mức thất nghiệp ở số không, nhưng một mức
độ lớn hơn không, tương ứng với mức toàn dụng mà ở đó nhu cầu về lao động bằng việc cung
cấp lao động. Mức này được gọi là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Mặc dù định nghĩa này có vẻ hợp lý và tốt đẹp, nhưng nó để lại những vấn đề mà chưa
được trả lời: tỷ lệ thất nghiệp nào phù hợp với mức toàn dụng? Trong một số trường hợp, nó là
rõ ràng rằng tỷ lệ thất nghiệp quá cao. Tỷ lệ thất nghiệp vượt quá 20% trong thời kỳ Đại suy
thoái. Mặc khác trong năm 1960, nhà hoạch định chính sách cho rằng một mục tiêu hợp lý là

4%, một mức mà có lẽ quá thấp, bởi vì nó đã dẫn đến lạm phát gia tăng. Theo ước tính hiện
nay của tỷ lệ thất nhiệp tự nhiên nằm trong khoảng giữa 4.1% và 6%, nhưng ngay cả các con
số này cũng không chắc chắn và gây tranh cãi. Có thể, ví dụ, chính phủ đưa ra các chính sách
thích hợp, chẳng hạn như việc cung cấp các thông tin tốt hơn về tuyển dụng việc làm hoặc các
chương trình đào tạo nghề, có thể làm giảm tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên.
Mục tiêu việc làm cao có thể được nghĩ theo một cách khác. Bởi vì mức độ thất nghiệp
được gắn với mức độ hoạt động kinh tế trong nền kinh tế, một mức độ sản lượng cụ thể được
phát sinh tại các tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, mà tự nhiên đủ được gọi là tỷ lệ đầu ra tự nhiên
nhưng thường được gọi tắt là sản lượng tiềm năng.
Đang cố gắng để đạt được mục đích của việc làm cao như vậy, có nghĩa là các ngân hàng
trung ương nên cố gắng để di chuyển các mức sản lượng đối với tỷ lệ sản lượng tự nhiên. Nói
cách khác, họ nên cố gắng ổn định mức sản lượng ở khoảng tỷ lệ tự nhiên của nó.
b.

Tăng trưởng kinh tế

Mục tiêu tăng trưởng kinh tế ổn định có liên quan chặt chẽ với mục tiêu việc làm cao vì
các doanh nghiệp có nhiều khả năng để đầu tư thiết bị máy móc để tăng năng suất lao động và
tăng trưởng kinh tế khi tỷ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại, nếu tỷ lệ thất nghiệp cao và các nhà
máy đang nhàn rỗi, nó không trả tiền cho một công ty để đầu tư vào các nhà máy và thiết bị bổ
sung. Mặc dù hai mục tiêu có liên quan chặt chẽ, chính sách có thể được đặc biệt nhằm thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách trực tiếp khuyến khích doanh nghiệp đầu tư hoặc bằng cách
khuyến khích người dân tiết kiệm, cung cấp thêm vốn cho các doanh nghiệp để đầu tư. Trong
thực tế, phương pháp này là lý do nêu ra các chính sách kinh tế phía cung, được dự định để
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách cung cấp các ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp đầu tư
vào cơ sở vật chất và trang thiết bị cho người nộp thuế để tiết kiệm hơn. Trong lĩnh vực, người
ta cũng thấy có nhiều cuộc tranh luận sôi nổi về vai trò của chính sách tiền tệ.
c.

Tính ổn định của thị trường tài chính


Theo phân tích trong chương 9 cho thấy, cuộc khủng hoảng tài chính có thể can thiệp vào
khả năng của các thị trường tài chính cho kênh dẫn vốn để tạo ra những cơ hội đầu tư và qua


đó làm giảm quy mô hoạt động kinh tế. Chương trình khuyến khích của một hệ thống tài chính
ổn định hơn, tránh cuộc khủng hoảng tài chính, là một mục tiêu quan trọng đối với một ngân
hàng trung ương. Thật vậy, như chúng ta đã thấy trong Chương 13, Hệ thống dự trữ liên bang
đã được thành lâp để đối phó với sự hoảng loạn ngân hàng năm 1907 và thúc đẩy sự ổn định
tài chính.
d.

Ổn định lãi suất

Ồn định lãi suất là cần thiết vì sự biến động của lãi suất có thể tạo ra thiếu chắc chắn
trong nền kinh tế và làm cho nó khó khăn hơn để lập kế hoạch cho tương lai. Biến động tỷ giá
có ảnh hưởng đến người tiêu dùng sẵn sàng mua nhà, ví dụ, Biến động lãi suất gây ra khó khăn
cho người tiêu dùng để quyết định khi mua một ngôi nhà và cho các công ty xây dựng kế
hoạch bao nhiêu ngôi nhà để xây dựng. Một ngân hàng trung ương cũng có thể giảm chuyển
động lên lãi suất cho những lý do chúng tôi đã thảo luận trong Chương 13: Xu hướng gia tăng
trong tỷ lệ lãi suất làm cho mọi người ghét ngân hàng trung ương và dẫn đến nhu cầu mà
quyền lực của NHTW bị cắt giảm.
Sự ổn định của thị trường tài chính cũng được nuôi dưỡng sự ổn định lãi suất, bởi vì biến
động của lãi suất tạo ra không chắc chắn rất lớn cho các tổ chức tài chính. Việc tăng lãi suất sẽ
phát sinh vốn lỗ lớn trong trái phiếu dài hạn, cầm cố, thiệt hại có thể gây ra sự thất bại của các
tổ chức tài chính. Trong những năm gần đây, biến động của lãi suất đã là một vấn đề đặc biệt
nghiêm trọng đối với tiết kiệm và cho vay và ngân hàng tiết kiệm lẫn nhau, nhiều trong số đó
đã gặp rắc rối về tài chính trong những năm 1980 và đầu những năm 1990.
e.


Tính ổn định trong thị trường ngoại hối

Với tầm quan trọng ngày càng tăng của thương mại quốc tế cho nền kinh tế của Hoa Kỳ,
giá trị của đồng USD so với các đồng tiền khác đã trở thành một chính xem xét cho Fed.
Một sự gia tăng trong giá trị của đồng đô la làm cho ngành công nghiệp Mỹ giảm sức
cạnh tranh với những người nước ngoài, và giảm giá trị của đồng đô la kích thích lạm phát tại
Hoa Kỳ. Ngoài ra, việc ngăn ngừa những thay đổi lớn trong giá trị của đồng đô la làm cho nó
dễ dàng hơn cho các doanh nghiệp và cá nhân mua, bán hàng hoá ở nước ngoài để lập kế
hoạch trước. Ổn định phong trào cực đoan trong các giá trị của đồng USD trong thị trường
ngoại hối là như vậy, một mục tiêu quan trọng của chính sách tiền tệ. Ở các nước khác mà phụ
thuộc nhiều vào thương mại nước ngoài, ổn định thị trường ngoại hối có tầm quan trọng lớn
hơn.
3.

BÌNH ỔN GIÁ CÓ NÊN LÀ MỤC TIÊU CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

Về lâu dài, không có mâu thuẫn tồn tại giữa các mục tiêu ổn định giá cả và các mục tiêu
khác được đề cập trước đó. Các tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên không hạ thấp do lạm phát cao, vì
thế lạm phát cao không thể phát sinh ra tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn hoặc việc làm nhiều hơn về
lâu dài. Nói cách khác, không có thỏa hiệp dài hạn giữa lạm phát và việc làm. Về lâu dài, ổn
định giá cả thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cũng như sự ổn định tài chính và lãi suất. Mặc dù sự
ổn định giá cả phù hợp với các mục tiêu khác trong thời gian dài, trong sự ổn định giá cả ngắn


hạn thường mâu thuẫn với mục tiêu ổn định sản lượng và ổn định lãi suất. Ví dụ, khi nền kinh
tế đang nới lỏng và tỷ lệ thất nghiệp đang giảm, nền kinh tế trở nên quá nóng, dẫn đến sự gia
tăng lạm phát. Để theo đuổi mục tiêu ổn định giá cả, một ngân hàng trung ương sẽ ngăn chặn
lượng nhiệt này bằng cách tăng lãi suất, một hành động mà ban đầu sẽ gây ra giảm và làm tăng
sự bất ổn định lãi suất. Làm thế nào một ngân hàng trung ương nên giải quyết cuộc xung đột
này giữa các mục tiêu?

a.

Thứ cấp so với nhiệm vụ kép

Bởi vì giá cả ổn định là rất quan trọng đối với sức khỏe lâu dài của nền kinh tế, nhiều
quốc gia đã quyết định rằng sự ổn định giá nên là chính, mục tiêu dài hạn cho các ngân hàng
trung ương. Ví dụ, Hiệp ước Maastricht, mà tạo ra của Ngân hàng Trung ương châu Âu, nói,
"Mục tiêu chính của hệ thống châu Âu của Ngân hàng Trung ương [ESCB] sẽ được duy trì ổn
định giá cả. Không ảnh hưởng đến mục tiêu ổn định giá cả, các ESCB trách nhiệm hỗ trợ các
chính sách kinh tế nói chung trong cộng đồng ", trong đó bao gồm các mục tiêu như" một mức
độ việc làm cao "và" tăng trưởng bền vững và không lạm phát. Nhiệm vụ của loại hình này,
đặt mục tiêu ổn định giá đầu tiên, và sau đó nói rằng miễn là nó là đạt được, các mục tiêu khác
có thể theo đuổi được, được biết đến như là nhiệm vụ thứ bậc. Đây là hành vi của các ngân
hàng trung ương như Ngân hàng Anh, Ngân hàng của Canada, và Ngân hàng Dự trữ New
Zealand, cũng như Ngân hàng Trung ương châu Âu.
Ngược lại, pháp luật xác định sứ mệnh của Fed nói, "Các Hội đồng Thống đốc Cục Dự
trữ Liên bang và Ủy Federal Open Market phải duy trì tăng trưởng dài hạn của tiền tệ và tín
dụng với sự những tiềm năng lâu dài của nền kinh tế để thúc đẩy hiệu quả các mục tiêu của
việc làm tối đa, giá cả ổn định và lãi suất dài hạn vừa phải. "Bởi vì, như chúng ta đã học ở
Chương 5, lãi suất dài hạn sẽ rất cao nếu lạm phát cao, tuyên bố này trong thực tế là một
nhiệm vụ kép để đạt được hai mục tiêu đồng đẳng với nhau: sự ổn định giá cả và việc tối đa
(ổn định đầu ra).
Là nó tốt hơn cho một nền kinh tế hoạt động theo nhiệm vụ phân cấp hoặc uỷ quyền kép?
b.

Giá ổn định như mục tiêu chính, dài hạn của chính sách tiền tệ

Bởi vì không có sự mâu thuẫn tồn tại giữa việc đạt được sự ổn định giá trong dài hạn và
tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, hai loại nhiệm vụ không phải là rất khác nhau, nếu việc làm tối đa
được định nghĩa là tỷ lệ tự nhiên của việc làm. Tuy nhiên, trong thực tế, một sự khác biệt đáng

kể giữa hai nhiệm vụ này có thể tồn tại, bởi vì công chúng và các chính trị gia có thể tin rằng
một nhiệm vụ cấp bậc đặt trọng tâm quá nhiều vào việc kiểm soát lạm phát và không đủ về ổn
định đầu ra.
Bởi vì tỷ lệ lạm phát thấp và ổn định thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mảng ngân trung tâm
đã nhận ra rằng sự ổn định giá cả phải là mục tiêu chính, dài hạn của chính sách tiền tệ. Tuy
nhiên, vì những biến động đầu ra cũng phải là một mối quan tâm của chính sách tiền tệ, mục
tiêu ổn định giá cả nên được xem là mục tiêu chính chỉ trong thời gian dài. Những nỗ lực để


giữ lạm phát ở mức tương tự trong thời gian ngắn, không có vấn đề gì, có thể sẽ dẫn đến biến
động sản lượng quá mức.
Miễn là ổn định giá cả là mục tiêu lâu dài, nhưng không phải ngắn hạn, các ngân hàng
trung ương có thể tập trung vào việc giảm biến động sản lượng bằng cách cho phép lạm phát
để đi chệch khỏi mục tiêu dài hạn trong thời gian ngắn và, do đó, có thể hoạt động dưới một
kép uỷ quyền. Tuy nhiên, nếu một nhiệm vụ kép dẫn một ngân hàng trung ương theo đuổi
chính sách mở rộng ngắn hạn làm tăng sản lượng và việc làm mà không lo lắng về những hậu
quả lâu dài đối với lạm phát, vấn đề thiếu nhất quán theo thời gian có thể tái phát. Những lo
ngại rằng một nhiệm vụ kép có thể dẫn đến chính sách mở rộng quá mức là một lý do chính tại
sao các ngân hàng trung ương thường có lợi cho nhiệm vụ phân cấp trong đó việc theo đuổi ổn
định là mục tiêu ưu tiên. Nhiệm vụ phân cấp cũng có thể là một vấn đề nếu họ dẫn đến một
ngân hàng trung ương hành xử như những gì Thống đốc Ngân hàng Anh, Mervyn King, đã gọi
là "lạm phát" nghĩa là một ngân hàng trung ương mà chỉ tập trung vào kiểm soát lạm phát,
ngay cả trong ngắn hạn, và do cam kết chính sách dẫn đến biến động sản lượng lớn. Sự lựa
chọn của các loại mục tiêu nào là tốt hơn cho một ngân hàng trung ương phụ thuộc vào sự tinh
tế khi nó hoạt động như thế nào trong thực tế. Một trong hai loại nhiệm vụ là chấp nhận miễn
là nó hoạt động để thực hiện mục tiêu chính ổn định giá cả trong thời gian, nhưng phải trong
ngắn hạn
4.

LẠM PHÁT MỤC TIÊU


Việc thừa nhận sự ổn định giá cả là mục tiêu dài hạn chủ yếu của chính sách tiền tệ và
giá trị của một neo danh nghĩa để đạt được mục tiêu này dẫn đến một khái niệm chiến lược
chính sách tiền tệ có tên gọi là lạm phát mục tiêu. Mục tiêu lạm phát liên quán đến một số
yếu tố:
(1) công bố ra công chúng mục tiêu lạm phát định lượng trong trung hạn;
(2) cam kết về mặt thể chế đối với sự ổn định giá cả như một mục tiêu dài hạn chủ yếu của
chính sách tiền tệ, cũng như cam kết đạt được lạm phát mục tiêu;
(3) chiến lược thông tin, bao gồm nhiều biến số (không chỉ có tổng cung tiền) được sử
dụng trong quá trình hoạch định chính sách tiền tệ;
(4) tăng tính minh bạch của chiến lược chính sách tiền tệ thông qua việc thông báo với
công chúng và thị trường về kế hoạch, mục tiêu của các nhà hoạch định chính sách; và
(5) tăng trách nhiệm giải trình của các ngân hàng trung ương về việc làm thế nào để đạt
được mục tiêu lạm phát đã đề ra.
New Zealand là quốc gia đầu tiên chính thức áp dụng mục tiêu lạm phát vào năm 1990,
tiếp theo là Canada vào năm 1991, Vương quốc Anh vào năm 1992, Thụy Điển và Phần Lan
vào năm 1993, và Úc và Tây Ban Nha vào năm 1994. Các nước Israel, Chile và Brazil, trong
khoảng thời gian đó, cũng đã áp dụng hình thức mục tiêu lạm phát.
Mục tiêu lạm phát ở New Zealand, Canada và Vương quốc Anh


Tại New Zealand: Mục tiêu lạm phát là một phần trong chính sách cải cách chung về vai
trò của chính phủ trong nền kinh tế, nghị viên New Zealand đã thông qua đạo luật mới về
ngân hàng dự trữ New Zealand vào năm 1989, có hiệu lực từ ngày 01/ 02/1990. Ngoài việc
tăng tính độc lập của ngân hàng trung ương, chuyển nó từ chỗ ít nhất độc lập nhất thành ngân
hàng trung ương độc lập nhất trong các nước phát triển, đạo luật cũng trao cho Ngân hàng Dự
trữ mục tiêu duy nhất là sự ổn định giá cả. Nó yêu cầu Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc
Ngân hàng Dự trữ phải thương lượng với nhau và công bố Hiệp định về mục tiêu chính sách,
nó qui định các mục tiêu mà dựa vào đó người ta sẽ thực hiện đánh giá thành tựu của chính
sách tiền tệ, nó cụ thể hóa khoảng biến thiên bằng số cho chỉ tiêu lạm phát và thời hạn để đạt

được. Một thuộc tính khác thường của pháp luật New Zealand là Thống đốc Ngân hàng Dự trữ
có trách nhiệm cao đối với sự thành công của chính sách tiền tệ, nếu không đạt được các mục
tiêu đặt ra trong Hiệp định về mục tiêu chính sách, thống đốc sẽ bị sa thải.
Hiệp định mục tiêu chính sách đầu tiên được Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân
hàng Dự trữ ký vào ngày 02/3/1990, yêu cầu Ngân hàng dự trữ đạt tỷ lệ lạm phát hàng năm
trong khoảng 3-5%. Hiệp định tiếp theo giảm tỷ lệ xuống còn trong khoảng 0-2%, đến cuối
năm 1996 đổi lại thành khoảng từ 0-3% và sau đó là khoảng từ 1-3% vào năm 2002. Kết quả
của chính sách thắt chặt tiền tệ, tỷ lệ lạm phát đã được cắt giảm từ mức trên 5% xuống dưới
2% vào cuối năm 1992, nhưng phải trả giá bằng một cuộc suy thoái sâu và tỷ lệ thất nghiệp
tăng mạnh. Sau đó, lạm phát nhìn chung nằm trong phạm vi mục tiêu, ngoại trừ thời gian ngắn
vào các năm 1995, 2000, và 2008, khi nó vượt quá phạm vi của một khoảng rất nhỏ. (Theo
Luật Ngân hàng dự trữ, thống đốc có thể bị sa thải, nhưng sau các cuộc tranh luận của quốc
hội, thống đốc vẫn được giữ lại chức vụ). Kể từ năm 1992, tốc độ tăng trưởng của New
Zealand nhìn chung cao, trong đó có một số năm vượt quá 5%, và tỷ lệ thất nghiệp giảm đáng
kể.
Canada Ngày 26/02/1991, một bản công bố chung của Bộ trưởng Tài chính và Thống
đốc Ngân hàng Trung ương Canada chính thức đưa ra mục tiêu lạm phát. Giá trị khoảng mục
tiêu là 2-4% vào cuối năm 1992, 1,5-3,5% vào tháng 6/1994, và 1-3% vào tháng năm 1996.
Sau khi Chính phủ lên nắm quyền vào cuối năm 1993, khoảng mục tiêu đã được ấn định là 1-3
% từ tháng 12/1995 đến tháng 12/1998 và sau đó được duy trì ở mức này. Lạm phát ở Canada
đã giảm đáng kể từ khi áp dụng mục tiêu lạm phát, từ trên 5% trong năm 1991 xuống 0% vào
năm 1995, và dao động trong khoảng 2% thời gian sau đó. Nhưng cũng giống như trường hợp
của New Zealand, việc cắt giảm này không phải trả giá: Tỷ lệ thất nghiệp tăng vọt lên trên
10% từ năm 1991 đến năm 1994, nhưng sau đó đã giảm mạnh.
United Kingdom Tháng 10/1992, Anh Quốc đã thông qua mục tiêu lạm phát như một
neo danh nghĩa, và Ngân hàng Trung ương Anh đã bắt đầu viết một “Báo cáo lạm phát”, một
báo cáo định kỳ hàng quý về tiến độ đạt được mục tiêu này. Khoảng giá trị mục tiêu lạm phát
bước đầu được qui định ở mức 1-4% cho tới cuộc bầu cử tiếp theo (diễn ra sớm nhất vào mùa
xuân 1997), với mục đích ổn định tỷ lệ lạm phát ở nửa dưới của phạm vi nêu trên (dưới 2,5%).
Trong tháng 5/1997, mục tiêu lạm phát được qui định ở mức 2,5% và Ngân hàng Trung ương



Anh đã được trao quyền qui định lãi suất, qua đó trao cho nó vai trò độc lập hơn trong chính
sách tiền tệ.
Trước khi áp dụng mục tiêu lạm phát, lạm phát tại Anh đã giảm từ mức đỉnh 9% vào đầu
năm 1991 xuống 4% tại thời điểm áp dụng mục tiêu. Đến quý 3/1994, nó ở mức trong phạm vi
dự định là 2,2%. Sau đó, lạm phát tăng nhẹ trên mức 2,5% vào cuối năm 1995, nhưng sau đó
nó lại giảm và ổn định gần với mục tiêu kể từ đó, trừ giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2011.
Trong tháng 12/2003, mục tiêu đã được thay đổi một phạm vi nhỏ về mức 2,0%. Trong lúc đó,
nền kinh tế ở Anh tăng trưởng mạnh cho đến năm 2008, làm tỷ lệ thất nghiệp giảm đáng kể.

BIỂU ĐỒ 1

Tỷ lệ lạm phát và lạm phát mục tiêucủa New Zealand, Canada, và Anh Quốc,
giai đoạn 1980-2008

(a) New Zealand; (b) Canada; (c) United Kingdom

Ưu điểm của lạm phát mục tiêu
Do mục tiêu lạm phát bằng số liệu rõ ràng làm tăng trách nhiệm giải trình của ngân hàng
trung ương, nên nó cũng có khả năng làm giảm khả năng ngân hàng trung ương sẽ rơi vào cái
bẫy nhất quán theo thời gian, cố gắng tìm cách tăng sản lượng và việc làm trong ngắn hạn
thông qua việc theo đuổi chính sách tiền tệ mở rộng quá mức.


Một ưu điểm quan trọng của mục tiêu lạm phát là nó có thể hướng các cuộc tranh luận
chính trị về cái mà ngân hàng trung ương có thể thực hiện trong tdài hạn, là kiểm soát lạm
phát, chứ không phải vào cái mà nó không thể làm, là thúc đấy tăng trưởng kinh tế mãi mãi và
tăng số lượng việc làm thông qua chính sách tiền tệ mở rộng.
Như vậy mục tiêu lạm phát có khả năng làm giảm sức ép chính trị lên các ngân hàng

trung ương nhằm buộc họ theo đuổi chính sách tiền tệ gây ra lạm phát và qua đó làm giảm khả
năng hoạch định chính sách nhất quán theo thời gian.
Mục tiêu lạm phát có lợi thế là nó dễ dàng được hiểu bởi công chúng và do đó nó rất
minh bạch. Thật vậy, các chế độ mục tiêu lạm phát cũng rất chú ý đến việc làm cho chính sách
trỏ nên minh bạch và thường xuyên có mối quan hệ với công chúng. Các Ngân hàng trung
ương có mục tiêu lạm phát thường xuyên liên lạc với chính phủ, đôi khi theo quy định của luật
phát, đối khi là để đáp lại các yêu cầu, và các quan chức của họ tận dụng mọi cơ hội để phát
biểu trước công chúng về chiến lược chính sách tiền tệ của mình. Mặc dù các kỹ thuật này
thường được sử dụng tại các nước không áp dụng mục tiêu lạm phát, ngân hàng trung ương có
áp dụng mục tiêu lạm phát còn đi xa hơn: họ không những tham gia vào các chiến dịch thông
tin rộng rãi cho công chúng, bao gồm cả việc phân phát các tờ quảng cáo, mà còn xuất bản các
tài liệu tương tự như Báo cáo lạm phát của Ngân hàng Trung ương Anh. Việc công bố các tài
liệu này là đặc biệt đáng chú ý, bởi vì khác với những báo cáo nhạt nẽo, chúng sử dụng nhiều
đồ thị, hình họa, và các yếu tố thiết kế bắt mắt khác để thu hút sự quan tâm của công chúng.
Các kênh thông tin trên đây được sử dụng bởi các Ngân hàng trung ương ở các nước có
mục tiêu lạm phát sử dụng để giải thích cho công chúng, người tham gia thị trường tài chính,
và các chính trị gia về những vấn đề sau:
(1) Mục tiêu và giới hạn của chính sách tiền tệ, kể cả mặt hợp lý cho mục tiêu lạm phát;
(2) Các giá trị bằng số của mục tiêu lạm phát và cách xác định chúng;
(3) Cách đạt được mục tiêu lạm phát trong hoàn cảnh kinh tế hiện tại; và
(4) Các yếu tố dẫn đến sai lệch so với mục tiêu.
Những thông tin này góp phần cải thiện công tác kế hoạch hóa của khu vực tư nhân
thông qua việc cắt giảm sự không chắc chắn về chính sách tiền tệ, lãi suất và lạm phát; Chúng
khuyến khích công chúng tranh luận về chính sách tiền tệ,giúp họ hiểu biết hơn về những gì
mà một ngân hàng trung ương có thể và không thể đạt được; và chúng cũng góp phần làm rõ
trách nhiệm của các ngân hàng trung ương và các chính trị gia trong quá trình thực thi chính
sách tiền tệ.
Một thuộc tính năng quan trọng khác của chế độ mục tiêu lạm phát là xu thế làm tăng
trách nhiệm của các ngân hàng trung ương. Quả thực, minh bạch và thông tin luôn đi liền với
trách nhiệm ngày càng tăng. Ví dụ rõ ràng nhất là ở New Zealand, nơi mà chính phủ có quyền

sa thải Thống đốc Ngân hàng Dự trữ nếu mục tiêu lạm phát bị vi phạm, dù chỉ trong một quý.
Ở các nước có mục tiêu lạm phát, trách nhiệm của ngân hàng trung ương ít được đưa vào luật


như vậy. Tuy nhiên, sự minh bạch của chính sách gắn với mục tiêu lạm phát có xu hướng làm
cho các ngân hàng trung ương có trách nhiệm cao hơn đối với công chúng và chính phủ.
Thành công vững chắc trong việc thực thi chính sách tiền tệ, được thể hiện bằng cách so sánh
với một mục tiêu lạm phát được xác định từ trước có thể là một công cụ tốt để tạo ra sự ủng hộ
của dân chúng đối với sự độc lập của ngân hàng trung ương và các chính sách của mình. Việc
tạo lập sự ủng hộ của dân chúng và trách nhiệm của ngân hàng vẫn xảy ra ngay cả khi không
có một đạo luật qui định, sự đánh giá thành tựu và trừng phạt.
Thành tựu của chế độ mục tiêu lạm phát khá tốt. Các nước theo đuổi mục tiêu lạm phát
có vẻ như đã cắt giảm được đáng kể cả tỷ lệ lạm phát và kỳ vọng về lạm phát, nhiều hơn hẳn
trường hợp các nước không theo mục tiêu lạm phát. Hơn nữa, một khi đã giảm, lạm phát ở các
nước này tiếp tục ổn định ở nức thấp. Sau một thời kỳ giảm phát, tỷ lệ lạm phát ở các nước
theo mục tiêu lạm phát không hề tăng trở lại lên trong giai đoạn mở rộng chu kỳ tiếp theo của
nền kinh tế.
Nhược điểm của mục tiêu lạm phát
Các nhà phê bình về mục tiêu lạm phát đã nêu ra bốn nhược điểm của chiến lược chính
sách tiền tệ này:
- Chậm trễ trong việc phát ra tín hiệu: Lạm phát không dễ dàng bị các cơ quan có
chức trách tiền tệ kiểm soát. Hơn nữa, do độ trễ dài trong việc phát huy ảnh hưởng của chính
sách tiền tệ nên kết quả lạm phát chỉ bộc lộ sau một độ trễ khá dài. Vì vậy, mục tiêu lạm phát
không thể phát ra tín hiệu ngay lập tức cho cả công chúng và thị trường về thực trạng của
chính sách tiền tệ.
- Quá cứng nhắc: Một số nhà kinh tế phê phán mục tiêu lạm phát bởi vì họ tin rằng nó
tạo ra một quy tắc cứng nhắc cho các nhà hoạch định chính sách tiền tệ và hạn chế khả năng
phản ứng của họ trong các tình huống bất ngờ. Tuy nhiên, các chiến lược chính sách hữu ích
trông “giống quy tắc” ở chỗ chúng gắn vơi hành vi nhìn xa trông rộng để hạn chế các nhà
hoạch định chính sách thực thi một cách có hệ thống các chính sách đem lại những hậu quả

không mong muốn trong lâu dài. Những chính sách như vậy tránh được vấn đề nhất quán theo
thời gian và tốt nhất chúng ta nên coi nó như là "quyền tùy nghi bị ràng buộc."
Thật vậy, mục tiêu lạm phát có thể được mô tả chính xác theo cách này. Mục tiêu lạm
phát, được thực hiện trong thực tế, rất xa sự cứng nhắc mà còn được mô tả cực tốt là “mục tiêu
lạm phát linh hoạt”.
Thứ nhất, mục tiêu lạm phát không đưa ra các chỉ dẫn đơn giản và cơ học về cách ngân
hàng trung ương nên thực hiện chính sách tiền tệ như thế nào. Thay vào đó, nó đòi hỏi các
ngân hàng trung ương sử dụng tất cả các thông tin hiện có để quyết định xem biện pháp chính
sách nào là thích hợp để đạt được mục tiêu lạm phát. Không giống như các quy tắc chính sách
đơn giản, mục tiêu lạm phát không bao giờ yêu cầu các ngân hàng trung ương chỉ tập trung
vào một biến số duy nhất.
Thứ hai, mục tiêu lạm phát, như trong quá trình thực hiện, có chứa một mức độ tùy nghi


đáng kể của chính sách. Như chúng ta đã thấy, mục tiêu lạm phát đã được sửa đổi tùy thuộc
vào hoàn cảnh kinh tế. Hơn nữa, các ngân hàng trung ương theo đuổi chế độ mục tiêu lạm phát
luôn có quyền tùy nghi hành động rộng rãi trong việc phản ứng đối với sự tăng trưởng và biến
động của sản lượng thông qua nhiều cơ chế khác nhau.
Có khả năng làm gia tăng sự biến động của Sản lượng Một luận điểm phê phán quan
trọng đối với mục tiêu lạm phát là chỉ tập trung riêng vào lạm phát có thể dẫn đến chính sách
tiền tệ quá chặt khi lạm phát cao hơn mục tiêu và do vậy có thể làm cho biến động sản lượng
mạnh hơn. Tuy nhiên, mục tiêu lạm phát không chỉ yêu cầu tập trung duy nhất vào lạm phát,
trong thực tế kinh nghiệm cho thấy rằng những nước có mục tiêu lạm phát quan tâm khá nhiều
về những biến động của sản lượng. Tất cả những nước có mục tiêu lạm phát đều đặt mục tiêu
lạm phát của họ lớn hơn 0. Ví dụ, hiện nay New Zealand, Canada, Anh Quốc và Thụy Điển
thiết lập các trung điểm cho mục tiêu lạm phát ở mức 2%, trong khi Australia thiết lập trung
điểm ở mức 2,5%.
Quyết định của những nước có mục tiêu lạm phát lựa chọn mục tiêu lạm phát ở mức lớn
hơn 0 phản ánh mối lo ngại của các nhà hoạch định chính sách tiền tệ về việc lạm phát quá
thấp có thể có tác động tiêu cực đến hoạt động kinh tế thực tế. Người ta đặc biệt lo sợ sự giảm

phát (tỷ lệ lạm phát âm hay mức giá giảm) do nón có thể gây ra sự bất ổn tài chính và sự thụ
hẹp kinh tế nghiêm trọng. Sự giảm phát tại Nhật Bản trong những năm gần đây là yếu tố quan
trọng làm suy yếu hệ thống tài chính và nền kinh tế của Nhật Bản. Tỷ lệ lạm phát mục tiêu lớn
hơn 0 làm cho thời kỳ giảm phát ít có khả năng xảy ra hơn. Điều này giải thích lý do tại sao
một số nhà kinh tế cả trong và ngoài nước Nhật đều kêu gọi Ngân hàng Nhật áp dụng mục
tiêu lạm phát ở mức 2% hoặc cao hơn.
Mục tiêu lạm phát cũng không bỏ qua các mục tiêu ổn định truyền thống. Ngân hàng
trung ương ở các nước có mục tiêu lạm phát tiếp tục bày tỏ quan ngại về những biến động
trong sản lượng và việc làm, và khả năng thích ứng của các mục tiêu ổn định ngắn hạn được
cài đặt ở một mức độ nào đó vào chế độ mục tiêu lạm phát. Tất cả các nước có mục tiêu lạm
phát đã sẵn sàng tối thiểu hóa mức suy giảm sản lượng bằng cách từ từ hạ thấp mục tiêu lạm
phát trung hạn để hướng tới mục tiêu dạ hạn.
Làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế: Một mối quan ngại phổ biến khác về mục tiêu
lạm phát là nó có thể dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp trong sản lượng và việc làm. Mặc dù
việc cắt giảm lạm phát được kết hợp với sản lượng ở dưới mức bình thường trong các giai
đoạn giảm phát của độ mục tiêu lạm phát, song một khi mức lạm phát thấp đã đạt được, sản
lượng và việc làm sẽ trở lại ở mức ít nhất như trước đây. Một kết luận mang tính thận trọng là
khi mức lạm phát thấp đã đạt được, mục tiêu lạm phát không gây hại cho nền kinh tế thực tế.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ sau khi cắt giảm lạm phát ở nhiều nước áp dụng mục
tiêu lạm phát (như New Zealand), người ta có thể nhận định rằng ngoài việc kiểm soát lạm
phát, mục tiêu lạm phát còn thúc đẩy tăng trưởng của nền kinh tế thực tế.
5.

CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG


Hoa Kỳ đã đạt được kết quả kinh tế vĩ mô xuất sắc (bao gồm lạm phát thấp và sự ổn
định) cho đến khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu mà không cần sử dụng một neo
danh nghĩa công khai kiểu như mục tiêu lạm phát. Mặc dù Cục Dự trữ Liên bang không nêu ra
một chiến lược rõ ràng, song một chiến lược ổn định cho việc thực thi chính sách tiền tệ rõ

ràng đang tồn tại. Chiến lược này liên quan tới việc sử dụng một neo danh nghĩa ngầm định,
chứ không phải công khai, dưới dạng mối quan tâm của Cục dự trữ liên bang tới việc kiểm
soát lạm phát trong dài hạn. Ngoài ra, nó liên quan đến hành vi nhìn xa trông rộng, trong đó có
sự giám sát thận trọng đối với các dấu hiệu lạm phát tương lai bằng cách sử dụng rất nhiều
thông tin khác nhau, cũng như định kỳ tiến hành các “chiến dịch mạnh mẽ” của chính sách
tiền tệ để chống lại nguy cơ lạm phát.
Như Milton Friedman đã nhấn mạnh, ảnh hưởng của chính sách tiền tệ có độ trễ dài. Ở
các nước công nghiệp phát triển có lịch sử của lạm phát thấp, quá trình lạm phát dường như có
sức ỳ lớn: ví dụ, các ước tính từ mô hình kinh tế lượng vĩ mô lớn cho nền kinh tế Mỹ chỉ ra
rằng chính sách tiền tệ cần hơn một năm để tác động đến sản lượng và hơn hai năm để tạo ra
tác động đáng kể đến lạm phát. Đối với các nước đã trải qua thời kỳ lạm phát biến động mạnh,
và do đó có giá cả linh hoạt hơn, thì độ trễ này có thể ngắn hơn.
Sự hiện diện của độ trễ dài có nghĩa rằng chính sách tiền tệ không thể chờ đợi cho tới khi
lạm phát đã trở nên nguy hiểm. Nếu các ngân hàng trung ương chờ đợi cho đến khi các tín
hiệu của lạm phát xuất hiện, thì đã quá muộn để duy trì ổn định giá cả, hoặc ít nhất là phải rất
mạnh tay trong việc thắt chặt chính sách tiền tệ, bởi vì kỳ vọng lạm phát đã được đưa vào quá
trình xác định giá cả và tiền lương, tạo ra động thái lạm phát sẽ khó có thể dừng lại. Lạm phát
trở nên khó kiểm soát hơn nhiều một khi nó đã trở nên sôi sục, bởi vì kỳ vọng lạm phát cao
hơn đã ăn sâu vào trong các loại hợp đồng dài hạn và thỏa thuận giá cả.
Do vậy, để ngăn chặn sự bùng nổ của lạm phát, chính sách tiền tệ cần phải được nhìn xa
trông rộng và chủ động phòng ngừa. Nghĩa là, tùy thuộc vào độ trễ của chính sách tiền tệ đối
với lạm phát, chính sách tiền tệ cần phải hành động trước khi sức ép lạm phát xuất hiện trong
nền kinh tế khá lâu. Ví dụ, chúng ta giả sử chính sách tiền tệ phải mất khoảng hai năm để phát
huy tác dụng đáng kể đối với lạm phát. Trong trường hợp này, ngay cả khi hiện tại mức lạm
phát thấp, nhưng nhà hoạch định chính sách tin rằng lạm phát sẽ tăng lên trong hai năm tiếp
theo nếu không có thay đổi trong chính sách tiền tệ, thì họ phải thắt chặt ngay chính sách tiền
tệ để ngăn ngừa sự bùng nổ của lạm phát.
Dưới thời Alan Greenspan và Ben Bernanke, Cục Dự trữ Liên bang đã thành công trong
việc theo đuổi một chính sách tiền tệ đi trước một bước. Ví dụ, Fed tăng lãi suất giai đoạn
1994-1995 trước khi sự gia tăng lạm phát xuất hiện. Kết quả là, lạm phát những không tăng,

mà còn giảm nhẹ. Như đã thảo luận ở phần phụ lục, Fed cũng đã tiến hành các “chiến dịch
mạnh mẽ” để chống lại suy thoái kinh tế. Ví dụ, Fed bắt đầu nới lỏng chính sách tiền tệ trong
tháng 9/2007 vào lúc cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt đầu diễn ra, mặc dù thời điểm
đó nền kinh tế đang phát triển mạnh mẽ và lạm phát tăng cao. (Tuy nhiên, trong trường hợp
này, chính sách đi trước một bước của Fed là không đủ để đưa nền kinh tế vượt qua cú sốc lớn


đến từ sự gián đoạn tiêu cực của thị trường tài chính).
Chiến lược đi trước một bước này của chính sách tiền tệ rõ ràng cũng là một thuộc tính
của chế độ mục tiêu lạm phát, bởi vì các công cụ chính sách tiền tệ được điều chỉnh để tính
đến độ trễ dài trong ảnh hưởng của chúng đối với mục tiêu lạm phát tương lai. Tuy nhiên, chế
độ chính sách của Fed, tốt nhất nên gọi nó là chính sách “Cứ làm đi”, khác với mục tiêu lạm
phát ở chỗ nó không có một neo danh nghĩa chính thức và ít minh bạch hơn rất nhiều trong
chiến lược cho chính sách tiền tệ của mình.
Ưu điểm Phương pháp tiếp cận “Cứ làm đi” của FED
Phương pháp tiếp cận “Cứ làm đi” của FED, trong đó có một số yếu tố chính của mục
tiêu lạm phát, cũng có nhiều ưu điểm tương tự. Cũng như chiến lược mục tiêu lạm phát, các
ngân hàng trung ương sử dụng nhiều nguồn thông tin để quyết định phương án tốt nhất cho
chính sách tiền tệ. Hành vi nhìn xa trông rộng của Fed và việc nhấn mạnh vào sự ổn định giá
cả cũng góp phần cản trở chính sách tiền tệ mở rộng quá mức, quá đó giảm nhẹ vấn đề nhất
quán theo thời gian.
Một ưu điểm quan trọng khác cho chiến lược “Cứ làm đi” của FED là thành công rõ ràng
của nó. Cục dự trữ liên bang đã cắt giảm được lạm phát tại Mỹ từ mức hai con số năm 1980
xuống mức khoảng gần 3% trong suốt 30 năm, điều này là phù hợp với mục tiêu ổn định giá
cả. Cũng trong thời gian này, kinh tế đã tăng trưởng rất tốt, tăng bình quân khoảng 3% so với
cùng kỳ, tốc độ tăng trưởng tương đối ổn định cho đến khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu tác động khó khăn đến nền kinh tế. Dĩ nhiên, kết quả hoạt động của nền kinh tế Mỹ đến
nay làm cho các nước công nghiệp khác phải ghen tị.
Nhược điểm Phương pháp tiếp cận “Cứ làm đi” của FED
Nếu chiến lược “Cứ làm đi” đã rất thành công ở Hoa Kỳ, tại sao Hoa Kỳ cần xem xét các

chiến lược khác cho chính sách tiền tệ? Câu trả lời là chiến lược “Cứ làm đi” có một vài nhược
điểm mà có thể làm cho nó vận hành kém hơn trong tương lai.
Một nhược điểm của chiến lược này là thiếu tính minh bạch. Cách tiếp cận kín kẽ của
Fed về các dự định của mình làm nảy sinh một trò chơi dự đoán liên tục về việc Fed sẽ làm gì
trong tương lai. Tính bất định cao này dẫn tới những biến động mạnh không cần thiết trên thị
trường tài chính và tạo ra sự nghi ngờ của các nhà sản xuất và công chúng nói chung về đường
hướng tương lai của lạm phát và sản lượng. Ngoài ra, thực trạng hoạch định chính sách không
minh bạch làm cho người ta khó quy trách nhiệm cho Cục dự trữ liên bang trước Quốc hội và
công chúng nói chung: Fed không phải chịu trách nhiệm nếu không có các tiêu chuẩn xác định
trước để đánh giá hiệu quả hoạt động của nó. Mức trách nhiệm thấp có thể làm cho ngân hàng
trung ương có nhiều khả năng vấp phải vấn đề nhất quán theo thời gian hơn và theo đuổi các
mục tiêu ngắn hạn với cái giá phải trả là mục tiêu dài hạn.
Có lẽ vấn đề nghiêm trọng nhất của phương pháp tiếp cận “Cứ làm đi” là sự phụ thuộc
nặng nề vào sở thích, kỹ năng và niềm tin của các cá nhân được giao trách nhiệm trong ngân
hàng trung ương. Trong những năm gần đây ở Hoa Kỳ, Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Alan


Greenspan và Ben Bernanke và các quan chức Fed khác đã nhấn mạnh chính sách nhìn xa
trông rộng và kiểm soát lạm phát, và họ đã thành công. Uy tín và sự tín nhiệm của Fed đối với
công chúng cũng tăng lên tương ứng. Nhưng một ngày nào đó trong tương lai ban lãnh đạo
của Fed sẽ được thay đổi và không có đảm bảo rằng ban lãnh đạo mới sẽ cam kết thực hiện
phương pháp tiếp cận như cũ. Cũng không có bất cứ sự đảm bảo nào rằng mối quan hệ công
tác tương đối tốt đẹp hiện nay giữa Fed và ngành hành pháp và lập pháp sẽ tiếp diễn. Trong
môi trường kinh tế hoặc chính trị khác, Fed có thể phải đối mặt với sức ép mạnh mẽ và phải
thực hiện chính sách mở rộng, qua đó làm tăng khả năng là vấn đề nhất quán theo thời gian trở
nên nghiêm trọng hơn. Trước đây, sau thời kỳ thành công với lạm phát thấp, Cục Dự trữ Liên
bang đã chuyển sang thực thi chính sách tiền tệ gây lạm phát - năm 1970 là một ví dụ - và khi
không có một neo danh nghĩa công khai, điều này chắc chắn sẽ lại xảy ra.
Nhược điểm khác của phương pháp tiếp cận “Cứ làm đi” là nó có một số mâu thuẫn với
nguyên tắc dân chủ. Như đã trình bày trong Chương 13, có những lý do tốt đẹp – đáng chú ý là

sự biệt lập với các sức ép chính trị ngắn hạn – để ngân hàng trung ương có một mức độ độc lập
nào đó, như Cục Dự trữ Liên bang hiện tại, và bằng chứng nhìn chung ủng hộ sự độc lập của
ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, các lập luận kinh tế thực tiễn cho sự độc lập của ngân hàng
trung ương không đồng hành dễ dàng với quan điểm cho rằng chính sách của chính phủ cần
được thực hiện một cách dân chủ, chứ không phải bởi một nhóm thượng đẳng nào đó.
Ngược lại, mục tiêu lạm phát có thể làm cho mô hình thể chế để thực thi chính sách tiền
tệ nhất quán hơn với các nguyên tắc dân chủ và tránh được một số vấn đề nêu trên. Mô hình
mục tiêu lạm phát nâng cao trách nhiệm của ngân hàng trung ương đối với các quan chức dân
cử, là những người được trao cho một số trách nhiệm nhật định đối với việc quy định mục tiêu
cho chính sách tiền tệ và sau đó giám sát các kết quả kinh tế. Tuy nhiên, trong chế độ mục tiêu
lạm phát, ngân hàng trung ương có quyền kiểm soát hoàn toàn các quyết định tác nghiệp, do
đó nó có thể chịu trách nhiệm về việc việc đạt được những mục tiêu được giao.
Chiến lược của Fed cho chính sách tiền tệ có thể dịch chuyển nhiều hơn theo hướng mục
tiêu lạm phát trong tương lai, đặc biệt kể từ khi Chủ tịch Ben Bernanke là một người ủng hộ
chế độ mục tiêu lạm phát.
6.

BÀI HỌC VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH
TOÀN CẦU

Chúng ta đã thảo luận về các sự kiện xảy ra trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu ở các chương trước. Chúng đưa ra 4 bài học cho các nhà kinh tế và chính sách về cách
hoạt động của nền kinh tế.
1. Sự phát triển của hoạt động tài chính đã có tác động lớn lao tới nền kinh tế hơn trước
kia. Mặc dù trước cuộc khủng hoảng, những nhà kinh tế và chính sách thường công nhận rằng
những rào cản tài chính có thể đống vai trò quan trọng trong biến động của chu kỳ kinh doanh,
như trong chương 9, khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm nổi bật những tác động bất lợi của
việc đổ vỡ tài chính trong hoạt động kinh tế có thể tồi tệ hơn so với dự kiến ban đầu



2. ZLB trong lãi suất có thể là vấn đề cực kì nghiêm trọng. Như chúng ta đã thấy trong
chương 15, ZLB trong lãi suất đã buộc Cục dự trữ liên bang phải sử dụng công cụ tiền tệ bất
thường, không chỉ trong cuộc khủng hoảng mà còn trong suốt giai đoạn 2003-2006. Mặc dù ta
đã thấy những công cụ bất thường này có thể giúp kích thích nền kinh tế, nó có thể phức tạp
hơn công cụ thong thường và ảnh hưởng của nó tới nền kinh tế không rõ ràng lắm. Do đó hiệu
quả của chúng có thể đat được khó khăn hơn.
3. Chi phí dọn dẹp sau khủng hoảng tài chính rất cao. Trong chương 9, kủng hoàng tài
chính theo sau nó là cuộc suy thoái sâu. Nhưng ngoài ra, sự phục hồi sau khủng hoảng là rất
chậm chạp. Carmen Teinhart của viẹn kinh tế quốc tế Petersen và Vicent Reinhart của Viện tổ
chức kinh doanh Mỹ đã nghiên cứu thấy rằng tăng trưởng kinh tế thấp hơn đáng kể trong 1
thập kỷ sau khủng hoảng tài chính và tỉ lệ thất nghiệp thấp liên tục trong cả thập kỷ sau khi
khủng hoảng nổ ra. Thêm nữa, khủng hoảng tài chính làm nợ của chính phủ tăng mạnh và dẫn
tới khả năng không trả được nợ. Đây là nỗi sợ hãi của Châu Âu đối với hậu quả của cuộc
khủng hoảng
4. Giá và sản lượng đầu ra ổn định không đảm bảo cho sự ổn định của ngành tài chính.
Trước cuộc khủng hoàng tài chính gần nhất, quan điểm chung của giới học thuật và ngân hàng
trung ương là đạt được giá cả và sản lượng đầu ra ổn định sẽ thúc đẩy ổn định tài chính. Tuy
nhiên thành công của NHTW trong việc ổn định làm phát và làm giảm biến động của chu kỳ
kinh doanh trước 2007(được gọi là Great Moderation- sự điều tiết vĩ đại) đã không thể bảo vệ
nền kinh tế khỏi sự bất ổn tài chính. Quả thực nó thậm chí còn thúc đẩy khủng hoảng do sự
biến động thấp của lạm phát và sản lượng đầu ra đã ru ngủ thị trường. Những bên tham gia có
suy nghĩ rằng rủi ro sẽ ít hơn là nó đang thực sự diễn ra, khiến họ chấp nhận 1 mức độ rủi ro
quá mức dẫn tới thúc đẩy khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Những tác động nào cho chúng ta bài học trong chiến lược điều hành chính sách tiền tệ?
Trước tiên chúng ta phải nhìn nhận những bai học có thể tác động đến suy nghĩ chúng ta về
lạm phát mục tiêu như thế nào và sau đó làm thế nào NHTW nên ứng phó với bong bóng giá
tài sản
TÁC ĐỘNG CỦA LẠM PHÁT MỤC TIÊU
Ở phần trên, chúng ta đã nêu ra những luận cứ về lạm phát mục tiêu và không cso bài
học nào ở trên mâu thuẫn với lập luận này. Mặc dù hỗ trợ cho những chiến lược lạm phát mục

tiêu không bị suy giảm bởi bài học từ khủng hoảng tài chính, chúng đã đưa ra quan điểm lạm
phát mục tiêu cần phải linh hoạt hơn và điều chỉnh một vài phương diện. Trước tiên, chúng ta
xem xét những gì bài học này có thể lý giải cho những cấp độ của lạm phát mục tiêu
Các cấp độ của lạm phát mục tiêu Khi những thảo luận ở trên cho thấy, NHTW thường
đưa ra mức lạm phát mục tiêu đâu đó quanh mức 2%. Tính đúng đắn của vấn đề ZLB đưa ra
câu hỏi liệu mức này có quá thấp. Một bài báo gây tranh cãi của IMF(gồm những nhà nghiên
cứu và kinh tế gia trưởng) đã gợi ý lạm phát mục tiêu có thể tăng từ 2 lên 4%. Họ lập luận
rằng dự báo kỳ vọng lạm phát có thể bám vào mức mục tiêu này, bằng cách hạ lãi suất danh


nghĩa xuống 0, lãi suất thực ir= i – πe có thể giảm tới mức thấp nhất là -4% (= 0-4%), hơn -2%
với mức lạm phát mục tiêu 2%. Chính sách tiền tệ thong thường bao gồm chính sách lãi suất
danh nghĩa có thể được mở rộng khi lãi suất giảm xuống 0 có thể đi kèm với lạm phát mục tiêu
thấp hơn. Một cách khác để nói rõ điều này là ZLB trên lãi suát chính sách sẽ ít ràng buộc hơn
với một mục tiêu lạm phát cao hơn.
Mặc dù lập luận này chỉ là lý thuyết và làm tăng lợi ích của lạm phát mục tiêu, chúng ta
cũng phải nhìn thấy chi phí của nó. Lợi ích của lạm phát mục tiêu cộng dồn cao hơn chỉ khi
ZLB xảy ra. Mặc dù đây là vấn đề chủ chốt trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nó
không diễn ra thường xuyên, Nếu vấn đề ZLB hiếm gặp, thì lợi ích của lạm phát mục tiêu cao
không lớn vì nó không thường xuyên có sẵn. Tuy nhiên, chi phí của lạm phát cao trong kỳ làm
méo mó hoạt động sản xuất của nền kinh tế, như được đề cập từ trước đang xảy ra. Như vậy,
mặc dù chi phí có thể không lớn trong bất cứ năm nào, nó cũng thêm vào và có thể lớn hơn lợi
ích liên tục của lạm phát mục tiêu cao khi ZLB xảy ra.
Một vấn đề khác với lạm phát mục tiêu cao là lịch sử của lạm phát chỉ ra rằng khó để ổn
định mức lạm phát ở mức 4% hơn là 2%. Một khi lạm phát bắt đầu và tăng tới mức này, công
chúng sẽ nhiều khả năng tin rằng giá sẽ ổn định trong mục tiêu ngắn hạn đáng tin cậy của
NHTW, sau đó câu hỏi sẽ nảy ra, nếu mức 4% là tốt thì tại sao không phải là 6%, 8% hay hơn
nữa.Đó là những gì xảy ra trong những năm 1960 khi 2 kinh tế gia đạt giải Nobel P.S và R.S
của MIT lập luận rằng những nhà chính sách nên sẵn sang chịu đựng 1 mức lạm phát cao
trong khoảng 4-5%. Nhưng khi lạm phát tăng tới mức đó, giới cầm quyền có thể không kiềm

chế được trong giới hạn mà tiếp tục tăng lên hai con số vào đầu những năm 1980. Đưa lạm
phát quay lại trong suốt thời kì Volcker là rất tốn kém. Không ngân hàng nào muốn trải qua
chu kỳ đó 1 lần nữa, và đó là lý do tại sao NHTW tỏ ra không thân thiện với những đề xuất
của IMF
Tính linh hoạt của lạm phát mục tiêu Chúng ta đã thấy lạm phát mục tiêu sẽ diễn ra tốt
hơn khi được mô tả như là “lạm phát mục tiêu linh hoạt”. Tuy nhiên trước cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu, sự linh hoạt này cho phép sai lệch ngăn hạn của lạm phát so với lạm phát
mục tiêu để thúc đẩy sản lượng đầu ra ổn định và giá cả. Hai bài học từ khủng hoảng rằng sự
bất ổn định tài chính có thể tàn phá nền kinh tế và giá cả cũng như sản lượng đầu ra ổn định
không bảo đảm cho sự ổn định của tài chính. Chúng dẫn tới nhận định rằng NHTWW cần phải
chú ý hơn nữa tới sự ổn định tài chính, không chỉ thiết kế chính sách cho lạm phát mục tiêu mà
còn phải có khung chính sách tiền tệ rõ rang, chẳng hạn như phương pháp “hãy cứ làm” của
Cục dự trữ. Đặc biệt quan trọng trong vấn đề này là NHTW làm thế nào khi bong bóng giá tài
sản xảy ra, chúng ta sẽ thảo luận ngay dưới đây
NHTW ĐỐI PHÓ VỚI BONG BÓNG GIÁ TÀI SẢN NHƯ THẾ NÀO?
Qua hàng thế kỉ, chủ đề định kỳ của những nhà kinh tế học là bong bóng giá tài sản.
Những tuyên bố tăng giá tài sản xuất phát từ giá trị cơ bản cuối cùng cũng nổ ra. Câu chuyện
của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ở chương 9 đã chỉ ra rằng chi phí khi bong bóng nổ
ra sẽ là bao nhiêu. Bong bóng vỡ trong thị trường nhà kéo cả hệ thống tài chính đi xuống, tiếp


đó cả nền kinh tế suy thoái, tăng thất nghiệp, phá vỡ các cộng đồng và trực tiếp buộc các gia
đình phải rời khỏi nhà của họ vì bị tịch thu. Chi phí cao của bong bóng giá tài sản làm dấy lên
câu hỏi sau: NHTW nên làm gì với chúng? Bởi vi giá tài sản là nhân tố trung tâm trong chính
sách tiền tệ tác động tới nền kinh tế (cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ trong chương 25),
chính sách tiền tệ đương nhiên cần phải phản ánh giá tài sản để tạo ra kết quả tốt xét về mặt
lạm phát và sản lượng đầu ra. Do đó, vấn đề của chính sách tiền tệ không phản ảnh tất cả vào
sự biến động của giá tài sản mà phản ánh ở 1 mức độ cao hơn vào ổn định lạm phát và việc
làm. 1 cách khác để xác định vấn đề chính sách tiền tệ nên cố gắng ngược dòng hay làm chậm
sự tăng trưởng của bong bóng giá tài sản tiềm năng để làm giảm thiệt hại cho nền kinh tế khi

bong bóng nổ ra. Ngoài ra, thay vì phản ứng trực tiếp lên bong bóng giá tài sản, giới chức
trách có nên chỉ phản ứng khi giá tài sản giảm sau khi bong bóng vỡ, để ổn định cả sản lượng
và lạm phát? Vị trí đối lập được mô tả như kiến thức chống lại bong bóng giá tài sản so với
việc dọn dẹp sau khi bong bóng vỡ, và cũng dấy lên tranh luận là làm thế nào để bong bong
giá tài sản được dán nhãn tranh luận “ nghèo nàn hay sạch sẽ”
HỌC THUYẾT GREENSPAN: Tại sao NHTWW không nên cố gắng chích bong bóng
mà nên dọn dẹp sau khi bong bóng vỡ Theo Alan Greenspan, Cục dự trữ liên bang nên chọn
vai trò không làm xì bong bóng. Đây được biết đến là “học thuyết Greenspan”. Học thuyết này
dựa trên 5 lập luận sau:
1. Bong bóng tài sản gần như không có khả năng nhận diện, Nếu NHTW hoặc chính phủ
biết rằng bong bóng đang được tạo ra, tại sao không cho thị trường biết? Nếu có thì sau đó
bong bóng sẽ không tăng lên nữa, vì thị trường sẽ biết giá đang vượt ra khỏi giới hạn thông
thường. Trừ khi NHTW hoặc chính phủ thông minh hơn thị trường, một tình huống ít xảy ra
đã đưa ra hiểu biết đặc biệt về tài năng của các nhà đầu tư, họ sẽ không thể nhận diện bong
bóng kiểu này đang diễn ra, Một lập luận mạnh mẽ tồn tại không phả ánh hết được những
bong bóng nghi ngờ
2. Mặc dù một vài phân tích kinh tế chỉ ra rằng tăng lãi suất có thể hạ bớt sự tăng giá tài
sản, tăng lãi suất có thể không hiệu quả trong việc kiềm chế bong bóng vì thị trường mong đợ
lợi suất hoàn trả cao từ việc mua tài sản bong bóng.Hơn nữa, tăng lãi suát thường đã thấy sẽ
gây bong bóng nghiêm trọng hơn, do đó làm tăng thiệt hại trong nền kinh tế.. Có 1 cách khác
để diễn đạt rằng bong bóng tới từ hành vi thông thường và thật thiếu thựctees để mong đợi
những công cụ tiền tệ thông thường sẽ có hiệu quả trong điều kiện bất thường
3. Chính sách tiền tệ muốn làm xì bong bóng có thể gây tác hại vào nền kinh tế tổng hợp.
Nếu lãi suất tăng đang kể để ngăn chặn bong bóng, nền kinh tế sẽ đình trệ, mọi người sẽ mất
vieejc và lạm phát sẽ giảm dới mức kì vọng. Quả thực, như lập luận 2 và 3 ở trên, tăng lãi suất
cần thiết để làm xì bong bóng có thể quá cao để hoàn thành mà lại có chi phí tốt cho nhân công
và nên kinh tế. Điều này không chỉ nói chính sách tiền tệ không nên phản ánh vào giá tài sản.
Mức giá tài sản tác động tới tổng cầu (thảo luận ở chương 25) vì vậy ảnh hưởng tới sự phát
triển của nền kinh tế. Chính sách tiền tệ có thể dẫn tới sự biến động trong giá tài sản ở phạm vi
ảnh hưởng tới lạm phát và hoạt động kinh tế



5. Chỉ cần nhà chính sách đáp ứng lại 1 cách kịp thời, bằng chính sách nới lỏng tiền tệ
mạnh mẽ sau khi vỡ bong bóng tài sản, hiệu ứng tiêu cực của quá trình bong bóng vỡ có thể
kiểm soát được. Thật vậy, Fed của Greenspan đã hành động theo đúng cách này sau khi thị
trường chứng khoán năm 1987 sụp đổ và sự tan vỡ của bong bóng công nghệ cao vào năm
2000. Chính sách nới lỏng mạnh mẽ sau khi vỡ bong bóng thị trường chứng khoán vào năm
1987 và 2000 đã rất thành công. Nền kinh tế đã không nhập khẩu vào thêm 1 cuộc suy thoái
sau khi thị trường chứng khoán đổ vỡ năm 1987, cũng như suy thoái kinh tế nhẹ nhàng xảy ra
khi bong bóng công nghệ nổ năm 2000.
Hai dạng của bong bóng giá tài sản Để hiểu phản ứng của thuyết Greenspan, chúng ta
phải xem xét sự khác nhau giữ các loại bong bóng để từ đó có cách phản ứng khác nhau. Bong
bóng giá tài sản có 2 loại: một được thổi phòng bởi tín dụng và 1 được thổi phòng do kỳ vọng
quá mức (Alan Greenspan gọi đó là “ sự hưng phấn phi lý”
Bong bóng do tín dụng Khi 1 sự bùng nổ tín dụng bắt đầu, nó có thể kéo theo bong bóng
giá tài sản. Tín dụng quá dễ dàng có thể thường để mua các loại tài sản đặc biệt và làm tăng
giá nó. Giá trị tài sản tăng dần dần sẽ dẫn tới khuyến khích mua các loại tài sản này vì nó làm
tăng giá trị tài sản thế chấp, làm việc đi vay trở nên dễ dàng hơn hay nó làm tăng giá trị vốn tại
các tổ chức tài chính, từ đó làm tăng thêm khả năng cho vay. Việc cho vay tài sản dạng này lại
làm tăng thêm nhu cầu và dẫn tới tăng giá. Vòng tròn phản hồi này làm các khoản tín dụng
bùng nổ kéo theo giá cả, như đổ thêm dầu vào lửa, đẩy giá tài sản cao hơn và tạo ra bong bóng
tăng giá cao hơn giá trị thật của nó.
Bong bóng do tín dụng đặc biệt nguy hiểm, như cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu gần
đây đã chứng minh. Khi giá tài sản quay trở lại mặt đất, bong bóng vỡ thì tài sản thế chấp sẽ
dẫn tới dự đảo lộn trong vòng phản hồi khiến các khoản vay trở thành nợ xấu, người cho vay
cắt giảm cung tín dụng, nhu cầu tài sản thhấp hơn nữa và giá bắt đầu rơi tự do. Đó là động cơ
chính trong thị trường nhà đất suốt thời kì khủng hoảng. Bong bóng do tín dụng được dẫn dắt
bởi sự bùng nổ trong cho vay dưới chuẩn, giá nhà tăng cao hơn giá trị thật, nhưng khi giá
giảm, tín dụng bị teo lại và giá đã giảm mạnh.
Tổn thất do các khoản cho vay dưới chuẩn và chứng khoán đã làm xói mòn bảng cân đối

kế toán của các tổ chức tài chính, tín dụng suy giảm (nợ giảm), chi tiêu kinh doanh và hộ gia
đình lao dốc trong hoạt động kinh tế. Như chúng ta thấy trong suốt cuộc khủng hoảng, sự hợp
tác giữa giá nhà đất và sức khỏe của các tổ chức tài chính thường được tiếp nối bở sự đổ vỡ
trong bóng bóng giá nhà đe dọa toàn bộ tổ chức hệ thống tài chính và gây hậu quả nghiêm
trong cho nền kinh tế.
Bong bóng do sự hưng phấn phi lý Bong bóng được hình thành do kỳ vọng vượt mức
nhưng không liên quan tới tín dụng bùng nổ, đặt ra ít nhiều rủi ro với hệ thống tài chính. Ví
dụ, bong bóng tại thị trường công nghệ những năm cuối 1900 mô tả ở chương bảy không bị
thổi phòng bởi tín dụng, sự đổ vỡ của nó không kéo theo sự suy giảm đáng kể trong bảng cân
đối của các tổ chức tài chính. Sự đổ vỡ đó cũng dường như không có tác động lớn tới nền kinh
tế, và cuộc suy thoái tiếp theo sau nó là khá nhẹ nhàng. Bong bóng do hưng phấn phi lý ít


nguyên hiểm hơn nếu so sánh với tín dụng bùng nổ.
Trường hợp cho thiên hướng chống lại dọn dẹp. Khủng hoàng gần đây đã chứng minh
rằng bong bóng do tín dụng không chỉ làm chi phí dọn dẹp đắt đỏ mà hơn nữa, nó còn xảy ra
nếu giá và sản lượng đầu ra ổn định trong thời kỳ dẫn đến nó. Quả thực chúng ta đã thấy giá và
sản lượng đầu ra ổn đingj có thể hoàng toàn có thể khuyến khích bong bóng do tín dụng vì nó
dẫn dắt thị trường đánh giá thấp các rủi ro trong nền kinh tế. Khủng hoảng tài chính toàn cầu
đã cung cấp 1 trường hợp đủ mạnh cho thiên hướng chống lại nguy cơ bong bóng hơn là dọn
dẹp nó sau này.
Tuy nhiên, sự khác biệt giữa 2 lại bong bóng là bong bóng do tín dụng làm mất nhiều chi
phí hơn, điều đó cho thấy tranh luận lean hay clean có thể không hợp lý. Thay vì dựa vào thiên
hướng chống lại bong bóng giá tài sản tiềm năng bao gồm cả do tín dụng lẫn phấn khích phi
lý, trường hợp này rất mạnh để chống lại tín dụng bùng nổ mà sẽ kéo theo bong bóng do tín
dụng gây ra nhưng không bao gồm bong bóng giá tài sản do phấn khích phi lý. Thêm nữa, thật
dễ để nhận diện sự bùng nổ tín dụng hơn là bong bóng tài sản. Khi bong bóng tài sản tăng
nhanh thì cùng thời điểm đó tín dụng cũng đang bùng phát, có khả năng tuyệt vời rằng giá tài
sản đang bị lệch đi khỏi giá trị thật, vì tiêu chuẩn tín dụng lỏng lẻo làm giá cả tăng cao. Trong
trường hợp đó, NHTW hoặc các quan chức chính phủ có khả năng tuyệt vời để nhận ra bom

đang được tạo ra, đó là trường hợp tưhcj sự diễn ra trong suốt bong bóng thị trường nhà ở Mỹ
vì những nhà chức trách có thong tin rằng người cho vay đang làm tiêu chuẩn thấp đi và mở
rọng tín dụng trong thị trường tài sản thế chấp tăng lên với lãi suát cao khác thường
Trường hợp thiên hướng chống lại bong bóng do tín dụng dường như rất mạnh nhưng
chính sách nào là có hiệu quả nhất để kiềm chế nó?
Chính sách vĩ mô Đầu tiên, nguyên tắc chính quan trọng nhất để thiết kế chính sách hiệu
quả chống lại tín dụng bùng nổ là kiềm chế rủi ro quá mức. Chỉ khi chấp nhận rủi ro ở mức
cao thì bom tín dụng mới có khả năng phát triển, nhứng tiêu chuẩn thận trọng hợp thức sẽ hạn
chế được bom tín dụng. Chính sách điều tiết ảnh hưởng tới thị trường tín dụng một cách tổng
thể được goi sự điều tiết vĩ mô, đó được xem như công cụ đúng đắn để đối phó được bong
bóng do tài chính.
Điều tiết tài chính và giám sát được thực hiện bởi NHTW hoặc các cơ quan chính phủ,
với những yếu tố thông thường có chức năng tốt bảo đảm an toàn và hệ thống giám sát như mô
tả ở chương 11 có thể chống lại việc chấp nhận rủi ro quá mức. Điều này tạo ra bom tín dụng
gây nên bong bóng tài sản. Những yếu tố đó bao gồm minh bạch thong tin và nguồn vốn yêu
cầu, hành động khắc phục nhanh chóng. Giám sát chặt chẽ các quy trình quản lý rủi ro của tổ
chức tài chính cũng như thực thi tuân thủ quy định. Một cách tổng quát hơn thì quy định nên
tật trung vào ngăn chặn quay vòng đòn bẩy. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đã chứng
minh, giá tài sản tăng đi kèm với bom tín dụng dẫn tới vốn dự phòng cao hơn, hỗ trợ cho
người cho vay trong bối cảnh vốn yêu cầu không đổi, dẫn tới giá tài sản tăng. Như vậy khi
bong bóng vỡ, giá trị vốn giảm chóng mặt làm cắt giảm nhu cầu cho vay. Vốn yêu cầu bị đảo
ngược, nghĩa là điều chỉnh tăng trong suốt quá trình bùng nổ tín dụng và giảm khi bong bóng


×