Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Thành phần hóa học của nấm cổ linh chi (Ganoderma australe

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 69 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Hiện nay nấm được công nhận là một giới riêng biệt, khác biệt hẳn với thực
vật hay động vật, chúng đã tách ra và xuất hiện xấp xỉ hơn một tỷ năm trước [5],
tạo thành một giới riêng biệt trên hành tinh chúng ta. Và giới nấm ngày càng có ý
nghĩa to lớn trong nền kinh tế quốc dân, trong khoa học cũng như trong vòng tuần
hoàn vật chất.
Nấm phân bố trên toàn thế giới và phát triển ở nhiều dạng môi trường sống
khác nhau, kể cả sa mạc. Đa phần nấm sống ở trên cạn, nhưng một số loài lại chỉ
tìm thấy ở môi trường nước. Dựa theo sự theo tỉ lệ giữa số loài nấm với số loài
thực vật ở trong cùng một môi trường, người ta ước tính giới Nấm có khoảng 1,5
triệu loài [9]. Tuy nhiên mới có khoảng 70.000 loài nấm đã được các nhà phân
loại học phát hiện và miêu tả.
Nấm đã được sử dụng trong dân gian từ hàng ngàn năm nay và một có ý
nghĩa rất quan trọng trong đời sống con người. Chúng là nguồn thực phẩm giàu
chất dinh dưỡng (Termitomyces albuminosus, Macrocybe gegantea), là nguồn
thức ăn quý được nhân dân ưa chuộng, chứa nhiều protein, các chất khoáng và
vitamin (A, B, C, D, E...) [17].
Nhiều loài nấm được ứng dụng trong công nghiệp dược phẩm, là nguồn
nguyên liệu để điều chế các hoạt chất điều trị bệnh như: Laricifomes officinalis là
nguyên liệu để chiết aragicin dùng trong chữa bệnh lao [7,13], hoặc dùng làm
thuốc nhuận tràng hay chất thay thế cho quinine [13]. Những loại nấm như nấm
múa, nấm hương , nấm linh chi... đã được tập trung nghiên cứu bởi khả năng
chống ung thư, chống virus và tăng cường hệ miễn dịch của chúng.
Từ hơn 2000 năm trước, Linh chi đã được sử dụng trong dân gian như một
loại thuốc quý chỉ vua chúa mới được sử dụng. Hiện nay các nhà khoa học đã
phát hiện thêm nhiều loài linh chi có những đặc tính quý, rất tốt cho phòng và
chữa bệnh. Các chế phẩm từ nấm linh chi (Ganoderma) được dùng để hỗ trợ điều
trị nhiều bệnh như bệnh gan, tiết niệu, tim mạch, ung thư, AIDS [1, 2, 4, 10].




2
Trong dịch chiết methanol, hexane, ethyl acetate từ các quả thể của Ganoderma
lucidum có các hoạt chất như có hoạt tính kháng virus. Chúng có tác dụng kìm
hãm sự sinh trưởng và phát triển của virus HIV [10]. Các hoạt chất từ Ganoderma
applanatum có hiệu lực chống khối u cao [2], chúng được sử dụng trong điều trị
ung thư: ung thư phổi, ung thư vú, ung thư dạ dày [1]. Các dẫn xuất adenosine có
trong G.capense và G. amboinense có tác dụng giảm đau, giãn cơ, ức chế kết dính
tiền tiểu cầu [3].
Việt Nam nằm ở trung tâm Đông Nam Á hằng năm có lượng mưa và nhiệt
độ trung bình tương đối cao. Với khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng, ẩm đã tạo cho
rừng Việt nam có một hệ động, thực vật đa dạng và phong phú.
Nghệ An là tỉnh có vườn Quốc gia Pù Mát, khu bảo tồn thiên nhiên Pù
Huống và khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt. Đây là những vùng được đánh giá là
có tính đa dạng sinh học rất cao, tại đây có chứa đựng nguồn lợi rất lớn về đa
dạng sinh học, trong đó có nguồn lợi lớn về nấm và có thể sử dụng chúng làm
nguyên liệu tốt cho các ngành công nghiệp thực phẩm, dược phẩm…
Tuy nhiên, cho đến nay nghiên cứu về nấm ở Việt Nam nói chung và Nghệ
An nói riêng vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ, chưa nhận được sự quan tâm
đúng mức của các nhà khoa học. Do vậy, việc nghiên cứu về nấm ở Nghệ An là
một yêu cầu bức thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, góp phần quan
trọng trong việc tìm hiểu nguồn tài nguyên thiên nhiên, về giá trị kinh tế và tầm
quan trọng của nguồn dược liệu thiên nhiên của nước ta nói chung và tỉnh Nghệ
An nói riêng. Vì lý do đó chúng tôi đã chọn đề tài: “Nghiên cứu thành phần hóa
học của nấm cổ linh chi (Ganoderma australe (Fr.) Pat.) ở Nghệ An ”.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là dịch chiết từ loài nấm cổ linh chi
(Ganoderma australe (Fr.) Pat.) thuộc họ Nấm Linh chi (Ganoderma) ở Nghệ
An.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn bao gồm:


2
Trong dịch chiết methanol, hexane, ethyl acetate từ các quả thể của Ganoderma
lucidum có các hoạt chất như có hoạt tính kháng virus. Chúng có tác dụng kìm
hãm sự sinh trưởng và phát triển của virus HIV [10]. Các hoạt chất từ Ganoderma
applanatum có hiệu lực chống khối u cao [2], chúng được sử dụng trong điều trị
ung thư: ung thư phổi, ung thư vú, ung thư dạ dày [1]. Các dẫn xuất adenosine có
trong G.capense và G. amboinense có tác dụng giảm đau, giãn cơ, ức chế kết dính
tiền tiểu cầu [3].
Việt Nam nằm ở trung tâm Đông Nam Á hằng năm có lượng mưa và nhiệt
độ trung bình tương đối cao. Với khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng, ẩm đã tạo cho
rừng Việt nam có một hệ động, thực vật đa dạng và phong phú.
Nghệ An là tỉnh có vườn Quốc gia Pù Mát, khu bảo tồn thiên nhiên Pù
Huống và khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hoạt. Đây là những vùng được đánh giá là
có tính đa dạng sinh học rất cao, tại đây có chứa đựng nguồn lợi rất lớn về đa
dạng sinh học, trong đó có nguồn lợi lớn về nấm và có thể sử dụng chúng làm
nguyên liệu tốt cho các ngành công nghiệp thực phẩm, dược phẩm…
Tuy nhiên, cho đến nay nghiên cứu về nấm ở Việt Nam nói chung và Nghệ
An nói riêng vẫn còn là một vấn đề khá mới mẻ, chưa nhận được sự quan tâm
đúng mức của các nhà khoa học. Do vậy, việc nghiên cứu về nấm ở Nghệ An là
một yêu cầu bức thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, góp phần quan
trọng trong việc tìm hiểu nguồn tài nguyên thiên nhiên, về giá trị kinh tế và tầm
quan trọng của nguồn dược liệu thiên nhiên của nước ta nói chung và tỉnh Nghệ
An nói riêng. Vì lý do đó chúng tôi đã chọn đề tài: “Nghiên cứu thành phần hóa
học của nấm cổ linh chi (Ganoderma australe (Fr.) Pat.) ở Nghệ An ”.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là dịch chiết từ loài nấm cổ linh chi

(Ganoderma australe (Fr.) Pat.) thuộc họ Nấm Linh chi (Ganoderma) ở Nghệ
An.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn bao gồm:


4

CHƯƠNG I.
TỔNG QUAN

1.1.

Chi Ganoderma (Linh chi)

1.1.1. Đặc điểm hình thái cơ bản và phân loại nấm Linh chi
Linh chi đã được sử dụng trong dân gian từ rất lâu, nhưng theo cách hiểu dân
gian thì Linh chi chỉ là một loại nấm có lớp vỏ cuống màu đỏ, nâu đỏ, hoặc nâu
đen, bóng, không có lông, phủ suốt lên mặt tán nấm. Mũ nấm có màu đỏ hoặc đỏ
hồng. Nhưng đó chỉ là một loài nấm trong họ nấm Linh chi - Ganodermataceae.
Lịch sử nghiên cứu nấm Linh chi đã trải qua hơn 200 năm với nhiều biến
đổi và ngày càng thu được những kết quả khoa học có giá trị hơn. Lần đầu tiên
W. Curtis (1871) đã phát hiện và đặt tên cho l à n ấ m L i n h c h i . Một trăm
năm sau, Karsten mới xác lập chi Ganoderma và những nghiên cứu về hệ
thống học, phân loại học nhóm nấm này mới thực sự phát triển. Từ khi xác lập
thành một chi riêng, là Ganoderma Karst.(1881) đến nay nhóm nấm quý họ linh
chi đã có 386 tên loài được ghi nhận trên toàn thế giới, trong đó 221 loài được các
nhà khoa học công nhận, hơn 200 loài còn lại là các loài đồng nghĩa, các loài
được sắp xếp nhầm vào họ linh chi và gần 10 loài chưa xác định loại được. Riêng
loài G.lucidum đã có 40 thứ. Chúng phân bố khắp nơi trên thế giới, nhưng thường

mọc rộng rãi nhất tại các nơi có khí hậu nhiệt đới, môi trường sống của nấm
thường ở rừng kín xanh ẩm, độ cao từ vài chục mét đến 1500 m. [5], [16], [18].
Điểm đặc biệt chỉ có ở nhóm nấm này là màng bào tử đảm 2 lớp - một dấu
hiệu di truyền nổi bật, cho nên nhiều nhà khoa học đã đề nghị để ở bậc taxon cao
hơn và xếp chúng thành 1 họ độc lập: họ Linh chi (Ganodermataceae Donk). Theo
Donk (1993), phân họ Ganodermataceae thuộc:
- Giới nấm (Mycetalia).
- Ngành nấm đảm (Basimydiomycetes).
- Bộ nấm lỗ (Alphyllophorales).
- Họ Linh chi (Gannodermataceae Donk).


5
Năm 1971, Ainsworth G.C dựa vào đặc điểm hình thái q u ả thể, cấu trúc
bào tử đảm, đã đưa ra hệ thống phân loại một cách hoàn chỉnh. Cho đến nay hệ
thống phân loại này đã và đang được nhiều nhà khoa học trên thế giới sử dụng
[16], [17], [18].
Nấm Linh chi có đặc điểm chung của ngành là: được cấu tạo bởi các tế bào
có nhân thật, không có diệp lục, nhận thức ăn từ môi trường bên ngoài bằng cách
hấp thu từ giá thể (sống dị dưỡng) [18]. Ngoài ra còn có các đặc điểm riêng [16],
[17], [18], [22]:
+ Sợi nấm gồm nhiều đoạn ngăn cách với nhau bởi các vách ngang. Mỗi
đoạn được coi như một tế bào có một hay nhiều nhân. Trên các vách ngang đó có
lỗ nhỏ, từ đó chất nguyên sinh và cả nhân có thể đi qua.
+ Cuống quả thể biến dị lớn: Các loại đa niên thường không cuống còn các
loài có cuống thì rất phong phú: Từ loài có cuống rất ngắn (0,5cm), rất mảnh
(0,2cm) cho đến các loài dài cỡ hàng 5–10cm hoặc rất dài (20–25cm), to và
mập (đường kính có thể tới 3,3cm). Cuống nấm có thể phân nhánh hoặc không,
màu sắc thay đổi khác nhau tuỳ từng loài. Cuống thường đính bên, đôi khi đính
gần tâm do quá trình liên tán mà thành .

+ Mũ nấm: Dạng thận, gần tròn đôi khi xoè thành hình quạt hoặc ít
nhiều dị dạng. Trên mặt mũ có vân gợn đồng tâm và có tia rãnh phóng xạ.
Màu sắc từ vàng nâu, vàng cam, đỏ nâu, đỏ tím, nâu đen, nhẵn, bóng, láng như
vecni, sẫm màu dần khi già. Lớp vỏ láng phủ suốt trên mặt mũ và chạy dài
theo cuống nấm. Kích thước tán biến động từ 2–30cm, dày 0,8 – 2,5cm tuỳ từng
loại. Phần đính với cuống hoặc gồ lên hoặc lõm xuống.
+ Thịt nấm dày từ 0,4–1,8 cm màu vàng kem, nâu nhạt, trắng. Nấm mềm dai
khi tươi, khi khô chắc, cứng và nhẹ. Hệ sợi có đầu tận cùng phình hình chuỳ, màng
rất dày, đan kết vào nhau tạo thành lớp vỏ láng phủ trên mặt mũ.
+ Bào tầng là một lớp ống dày từ 0,2–1,7cm, gồm các ống nhỏ thẳng, miệng
tròn, trắng, vàng ánh xanh.
+ Đảm đơn bào mang 4 bào tử đảm hình trứng, trứng cụt.
+ Bào tử đảm có cấu trúc vỏ kép, màu vàng mật ong sáng, ở giữa tụ dạng


6
giọt dầu, kích thước (5 –6) x (8,8 – 12) µm. Vỏ bào tử khá dày cỡ 0,7 –12 µm,
có cấu trúc phức tạp: Màng ngoài trong suốt, màng trong sần sùi mụn cóc, gai
nhọn, gò trống.
Đặc biệt, dù hình thái bên ngoài của nấm biến đổi rất đa dạng, song về cấu
tạo của bào tử đảm thì có độ ổn định rất cao, dù là chủng nuôi trồng ở Nhật
Bản, Trung Quốc hay chủng Lim đà Lạt, Hà Bắc.
Các bào tử đảm đơn bào, trong điều kiện thuận lợi, nảy mầm tạo ra hệ sợi sơ
cấp rồi qua một loạt sự phát triển tạo tán nấm. Tán nấm hình thành bào tầng rồi
lại phát tán bào tử đảm tạo thành chu trình sống của nấm Linh chi. Chu trình
sống này tương tự như chu trình sống của những nấm đảm khác.

Hình 1.1 Chu trình phát triển của nhóm Nấm họ Linh chi
Nấm hoá gỗ, sống một năm hay lâu năm. Quả thể có mũ dạng thận, tròn
hoặc dạng quạt, dày, đường kính 3-10cm, cuống dài dính lệch, hình trụ tròn hay

dẹt, có khi phân nhánh, mặt trên mũ có những vòng đồng tâm, mép lượn sóng.
Bào tử hình bầu dục hoặc hình trứng, cụt đầu, màu gỉ sắt, có một mấu lồi và
nhiều gai nhọn.
Nấm Linh chi sinh sản chủ yếu bằng bào tử nằm ở mặt dưới của quả thể.
Phần có chức năng sinh dưỡng chính là hệ sợi của nấm mọc ẩn trong gỗ mục


7
hoặc đất. Hiện nay ở Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam, người ta đã chủ
động nghiên cứu trồng được nhiều loại nấm linh chi trên giá thể nhân tạo để
dùng làm thuốc.
Nấm Linh chi có thể mọc trên cây gỗ (thường là thuộc bộ đậu Fabales)
sống hay đã chết. Quả thể gặp rộ vào mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 11), có thể
mọc trên thân cây, quanh gốc cây hoặc từ các rễ cây, thích hợp với bóng rợp, ánh
sáng khuyếch tán nhẹ với nhiệt độ ôn hoà. Nên ở các vùng núi đồi cao trên
1000m so với mực nước biển, thường có các chủng thích hợp nhiệt độ thấp từ
21 - 260 như các vùng ở Tam Đảo, Pù Mát, Thừa Thiên Huế, Trường Sơn...
nước ta.
Các loài Nấm Linh chi được phát hiện ở Việt Nam khá sớm. Dựa theo màu
sắc mũ nấm, Lý Thời Trân (1590) phân biệt thành sáu loại Linh Chi với tên gọi
tương ứng: Linh chi trắng (Bạch chi hay Ngọc chi), Linh chi vàng (Hoàng chi hay
Kim chi), Linh chi xanh (Thanh chi hay Long chi), Linh chi đỏ (Xích chi hay
hồng chi), Linh chi tím (Tử chi), Linh chi đen (Hắc chi hay huyền chi).
Các nhà Thực vật học, Y- Dược học kế tục Tuệ Tĩnh đã phát hiện được 26
loài thuộc chi Ganoderma [18]:
1. Ganoderma amboinense (Lam & Fr.) Pat.
2. G. annulare (Fn) Gilbn.
3. G. applanatum (Pers) Pat.
4. G. australe Pat.
5. G. balabacense Murr.

6. G. boninense Pat.
7. G. capense (L.Loyd) Pat.
8. G. cochlear (Bl & Nees) Bress.
9. G. fulvelum Bres.
10. G. guinanense Zhao et Zhang.
11. G. hainanense Zhao, Xu & Zhang.
12.G. koningsberg Li (L.Loyd), Teng.
13.G. lobattum (Schow) Atk.


8
14. G. lucidum (Leyss. ex. Fr) Karst.
15. G. mastoporum (Mont) Pat.
16.G. ochrolacctum (Mont) Pat.
17.G. orflavum (L. Loyd) Teng.
18.G. philipii (Bress. et Henn). Bres.
19.G. virulosum Pat. et Har.
20.G. sasile Murr.
21.G. sichuanense Zhao & Zhang.
22.G. sinense Zhao, Xu & Zhang.
23. G. subtornatum Murr.
24.G. toantum (Pers) Pat.
25.G. tropicum (Jungh) Bres.
26.G. tsugae.
Theo những nghiên cứu của Trần Văn Mão, Trịnh Tam Kiệt, đàm
Nhận, Phạm Quang Thu, Lê Xuân Thám ... đã phát hiện được 46 loài Linh chi ở
lãnh thổ nước ta, trong đó có 4 loài chuẩn và 4 chủng [5], [15], [18].
Theo thống kê của tổ chức lương thực thế giới (FAO) thì G. lobatum đã
được sử dụng làm thuốc tại Trung Quốc. G.lobatum đã được phát hiện tại
Cộng hoà Sec, tại quần đảo Sky ở Arizona [31], [36]. Ở Việt Nam G.lobatum đã

phát hiện được ở rừng thuộc địa phận tỉnh Ninh Bình.
Với những giá trị ngày càng được khẳng định, loài chuẩn nấm Linh chi màu
đỏ – Hồng chi , xích chi, đơn chi…là 1 trong vài ba loài nấm được nghiên
cứu kỹ lưỡng nhất, được nuôi trồng cho sản lượng ngày càng lớn, kể cả các
nước Âu - Mỹ.


3
- Chiết chọn lọc với các dung môi thích hợp để thu được hỗn hợp các hợp
chất từ các dịch chiết của quả thể nấm Cổ Linh chi .
- Phân lập và xác định cấu trúc một số hợp chất.


10

Hình 1.5. Ganoderma tsugae

Hình 1.6. Ganoderma appalanatum
1.1.2. Thành phần hóa học:
Tổng kết từ những nghiên cứu trước đây, thành phần hoá học của loài
Ganoderma lucidum và một số loài khác trong chi Ganoderma có thành phần
chính như sau [5], [16], [18]:
- Nước 12 - 13%, lignin 13 - 14%.
- Hợp chất nitơ: 1,6 - 2,1%.


11
- Hợp chất phenol 0,08 - 0,1%.
- Chất béo: 1,9 - 2%.
- Hợp chất steroid 0,11 - 0,16%.

- Chất khử: 4,0 - 5,0%.
- Xenluloz ơ: 54 - 56%.
Ngoài ra nấm còn chứa các nguyên tố vô cơ: Ag, Br, Ca, Fe, K, Na, Mg,
Mn, Sn, Zn, Bi. Cùng với những tiến bộ các khoa học kỹ thuật và bằng các
phương pháp hiện đại: Phổ hồng ngoại (IR), phổ tử ngoại (UV), Sắc ký khí Khối phổ liên hợp, phổ cộng hưởng từ hạt nhân,...và đặc biệt là kỹ thuật sắc ký
lỏng cao áp (HPLC) và phổ kế plasma (ICP) từ những năm 1980 đến nay, người
ta đã xác định chính xác rất nhiều thành phần hoá học trong nấm Linh chi. Cho
đến nay theo thống kê của một số tác giả thì đã phát hiện và chứng minh cấu trúc
hoá học của hàng trăm chất có trong G. lucidum.
Theo các tác giả Gao Y.H và Kim H.W...trong quả thể của nấm Linh chi
có polysacarid, acid amin, hợp chất steroid, saponin, protein, alcaloid, dầu béo…
ngoài ra còn có thành phần flavonoid. Một nhóm chất rất phổ biến, thường gặp
trong các loài nấm Linh Chi là terpenoid. [34], [35]. Các báo cáo cho thấy, các
dẫn chất bậc hai có hoạt tính sinh học chủ yếu thuộc hai nhóm: triterpenoid và
polysaccarit.
1.1.2.1. Lanostanoit tritecpenoit
Lanostanoit là kiểu cấu trúc thường gặp nhất khi phân tích thành phần hóa
học của các loài Ganoderma.
Trong nhiều năm qua các nghiên cứu tập trung chủ yếu vào Ganoderma
lucidum [22-23], nổi tiếng tại Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và khu vực Đông
Á khác, nơi mà các thảo dược được sử dụng để điều trị các bệnh như ung thư,
viêm gan, viêm phế quản mãn tính, hen suyễn, bệnh trĩ và triệu chứng của mệt
mỏi 24. Bên cạnh đó cung cấp một số lượng lớn các hợp chất, ngày nay vẫn tiếp
tục cô lập các chất chuyển hóa có hoạt tính dược lý mới đã được công bố gần đây
25-26

. Có khoảng 130 tritecpenoit loại lanostanoit oxy hóa cao đã được phân lập từ

sợi nấm và bào tử của G. Lucidum.



12
Từ những kết quả thu được khi phân tích thành phần của G.lucidum, trong
những năm gần đây các nhà khoa học đã tập trung nhiều loài nấm khác trong họ
này như: G. tsugae, G.applanatum, G. australae…
Các triterpennoit được phân lập từ các bộ phận khác nhau của G. lucidum là:
Trong các lanostanoid phân lập được từ loài này ta thấy số lượng các axit
ganoderic chiếm một lượng lớn. Dựa theo các nhóm chức khác nhau (như độ lớn
của các nhóm thế - hydroxyl oxo, acetoxyl,), đặc biệt là ở các nhóm thế ở vị trí C3, C-7, C-15 và C-22 thường quan sát thấy ở những bộ khung), kiểu mạch, cấu
trúc bộ khung mà các axit ganoderic được chia thành 3 loại chính:
22

R4

COOH

R3

R3

COOH

O

COOH

R3

O


R4

15

R

7

3

R2

R1

R1

R2

R2
R1

I

II

III

Hình 1.7. Các kiểu cấu trúc lanostanoit cơ bản
Năm 1982, từ dịch chiết clorofom của quả thể G.lucidum, Kubota và cộng sự
đã phân lập được hai hợp chất mới là axit ganoderic A (1), B (2).

20

O

O

O
15

9

1

3

12
11

10
5

8

OH
OH

6

O


O

COOH

H

14

7

H

COOH

H

(1) Ganoderic acid A

H
HO

O
H

OH

(2) Ganoderic acid B

Nghiên cứu này mở đầu cho việc tìm ra những dẫn xuất lanosterol mới trong
họ nấm này. Có khoảng 130 tritecpenoit loại lanostanoit oxy hóa cao đã được

phân lập từ sợi nấm và bào tử chủ yếu là của G. lucidum và các G. aplanatum,
trong các axit là ganoderic C, D, E, F, H, I, J, Md, Me, Mf, N, OP, Q, R, ST, U,
V, W, X, Y , Z; axit ganoderenic A, B, C, D; axit ganolucidic A, B, C, E; axit
lucidenic A, B, C, D, E, F; ganoderiol A, B, C, D, E, F, G, H, I; ganoderol A, B,


13
ganodermatriol, ganodermanontriol; hợp chất B8, B9, C5, C6; metyl ganoderat M,
N, O; metyl lucidenat H, I J, K, L, M, epoxyganoderiol A, B, C; ganoderal A và
B, axit ganoderma Ja, JB, P1, P2, R, T-N, T-O, T-Q, trong số các hợp chất khác [
20-21].
Năm 1983, Toth và cộng sự phân lập từ quả thể thu được 6 lanostanoid là
axit ganoderic T (3), V (4), W (5), X (6).
OAc

COOH

COOH

OAc

OAc

O

AcO

OH

(3) Ganoderic acid T


(4) Ganoderic acid V
COOH
COOH

OAc
OAc

AcO

HO

OH

(5) Ganoderic acid W
(6) ) Ganoderic acid X
Năm 1997, Wang.F.S và cộng sự đã tách được một ganolacton mới là 7βhydroxy-3,11,15-trioxo-lanosta-8-en-24 20s lacton (7) và 3 chất đã biết, trong
đó có ganodermatriol (8).
O

OH

O

CH2OH

O

OH
Me


O
OH

O

(7)

O

H

(8) Ganodermatriol


14
Năm 1999, Gonzales và cộng sự báo cáo phân lập được ganodermadiol (9),
ganodermenonol (10), axit ganoderic DM (11), lucidadiol (12) và lucidal (13).
CH2OH

CH2OH

HO
H

O

H

(9) Ganodermannontriol


H

(10) Ganodermennonol
O

O

O

CH2OH

H3C

OH

HO

O

H

(11) Ganoderic acid DM

(12) Lucidadiol
H3C

HO

CHO


O

(13) Lucidal
Năm 2000, một báo cáo của Min và cộng sự cho biết đã tách được 6 axit
ganoderic (loại tritecpenoit lanostan) oxy hóa cao, được gọi là axit ganoderic γ
(14), δ (15), ε (16), ζ (17), η (18) và θ (19) phân lập từ các bào tử G.lucidum [30].


15
H3C

H3C

COOH

CH3

CH3
O

OH

O

CH3

CH3

CH3


OH
O

O

HO

CH3

(14) Ganoderic γ

(15) Ganoderic δ

H3C

H3C

COOH

COOH

CH3

CH3
O

OH

O


CH3

CH3

OH

CH3

CH3

CH3
HO

CH3

O
HO

OH

(16) Ganoderic ε
HO

CH3

(17) Ganoderic ζ

H3C


H3C

COOH

OH

CH3

O

OH

COOH

CH3

O

CH3

CH3

OH

CH3

CH3

CH3
HO


O

O
H3C

CH3

CH3

OH
HO

OH
H3C

OH

OH
H3C

CH3

H3C

CH3

OH

CH3


CH3

H3C

COOH

O
H3C

CH3

O

(18) Ganoderic η

CH3

(19) Ganoderic θ

Các hợp chất khác là axit lucidenic A (20) và metyl lucidenat F (21) phân
lập từ bào tử của G.lucidum bởi Tian-Shung Wu và các cộng sự (2001) [28].
O

O

H3C

H3C
OH


CH3
O

O

CH3

CH3

CH3
HO

CH3

O

OH
H3C

CH3

(20) Lucidenic acid A

OCH 3

CH3

O


O

O
H3C

CH3

(21) Metyl lucidenat F

Các axit 20(21)-dehydrolucidenic A (22), metyl 20(21)-dehydrolucidenat A
(23) và axit 20-hydroxilucidenic D2 (24), F (25), E2 (26), N (27), P (28) phân lập
từ bào tử nấm G.lucidum bởi Toshihiro Akihisa và các cộng sự (2005) [27].


4

CHƯƠNG I.
TỔNG QUAN

1.1.

Chi Ganoderma (Linh chi)

1.1.1. Đặc điểm hình thái cơ bản và phân loại nấm Linh chi
Linh chi đã được sử dụng trong dân gian từ rất lâu, nhưng theo cách hiểu dân
gian thì Linh chi chỉ là một loại nấm có lớp vỏ cuống màu đỏ, nâu đỏ, hoặc nâu
đen, bóng, không có lông, phủ suốt lên mặt tán nấm. Mũ nấm có màu đỏ hoặc đỏ
hồng. Nhưng đó chỉ là một loài nấm trong họ nấm Linh chi - Ganodermataceae.
Lịch sử nghiên cứu nấm Linh chi đã trải qua hơn 200 năm với nhiều biến
đổi và ngày càng thu được những kết quả khoa học có giá trị hơn. Lần đầu tiên

W. Curtis (1871) đã phát hiện và đặt tên cho l à n ấ m L i n h c h i . Một trăm
năm sau, Karsten mới xác lập chi Ganoderma và những nghiên cứu về hệ
thống học, phân loại học nhóm nấm này mới thực sự phát triển. Từ khi xác lập
thành một chi riêng, là Ganoderma Karst.(1881) đến nay nhóm nấm quý họ linh
chi đã có 386 tên loài được ghi nhận trên toàn thế giới, trong đó 221 loài được các
nhà khoa học công nhận, hơn 200 loài còn lại là các loài đồng nghĩa, các loài
được sắp xếp nhầm vào họ linh chi và gần 10 loài chưa xác định loại được. Riêng
loài G.lucidum đã có 40 thứ. Chúng phân bố khắp nơi trên thế giới, nhưng thường
mọc rộng rãi nhất tại các nơi có khí hậu nhiệt đới, môi trường sống của nấm
thường ở rừng kín xanh ẩm, độ cao từ vài chục mét đến 1500 m. [5], [16], [18].
Điểm đặc biệt chỉ có ở nhóm nấm này là màng bào tử đảm 2 lớp - một dấu
hiệu di truyền nổi bật, cho nên nhiều nhà khoa học đã đề nghị để ở bậc taxon cao
hơn và xếp chúng thành 1 họ độc lập: họ Linh chi (Ganodermataceae Donk). Theo
Donk (1993), phân họ Ganodermataceae thuộc:
- Giới nấm (Mycetalia).
- Ngành nấm đảm (Basimydiomycetes).
- Bộ nấm lỗ (Alphyllophorales).
- Họ Linh chi (Gannodermataceae Donk).


17
Ba tritecpenoit loại lanostan với một nhóm andehit gọi là lucialdehit A (29),
B (30) và C (31) phân lập từ quả thể bởi Giang-Cao Jing và các cộng sự [29].
H3C

CHO

H3C

CH3


CHO

CH3
CH3

CH3

CH3

CH3

CH3

CH3

HO

O
H3C

CH3

O
H3C

(29) Lucialdehit A

CH3


(30) Lucialdehit B
H 3C

CHO

CH 3
CH 3
CH 3

CH 3
HO

O
H 3C

CH 3

(31) Lucialdehit C
Năm 2011, nhóm của H.Moreno phân lập được Lucidumol B (32), nhóm của
Lee phân lập được methyl 7β, 15α-isopropylidenedioxy-3,11,23-trioxo-5α-lanost8-en-26oat (33).
OH
OH

O

COONa
O

O


HO

(32) Lucidumol B

O

O

(33)

Từ loài nấm G. concinna, Antonio G. Gonzalez và cộng sự phân lập 5αlanosta-7,9(11),24-trien-3β-hidroxi-26-al (34), 5α-lanosta-7,9(11),24-trien-15α26-dihidroxi-3-on (35), và 8α,9α-epoxi-4,4,14α-trimetyl-3,7,11,15,20-pentoxit5α-pregnan (36) [7].


18
H3C

COH

H3C

CH3

CH2COH

CH3
CH3

CH3

CH3


CH3
CH3

CH3

HO

OH

O
H3C

CH3

H3C

CH3

(34)

(35)
O

CH3

CH3
O
CH3


O
CH3

O

O

O
H3C

CH3

(36)
Từ quả thể của loài Hoàng chi (G. Golossum), Peter Kleinwachter và cộng
sự phân lập sáu tritecpenoit mới, colosolacton B (37), C (38), D (39), E (40), F
(41) và G (42) [31].
CH3

CH3
H3C

O

O

H3C

O

O


O

O

O

O
HO

H

(37) Colosolacton B

O
H
H3C CH
3

(38) Colosolacton C

O


19
CH3

CH3

O


O

O

O

HO

O

O

CH3

OH
CH3

H
CH3

O

O

O

CH3

O


O

O

CH3

CH3

(39) Colosolacton D

(40) Colosolacton E
CH3
CH3

O

O

HO

O

O
OH
CH3
O

CH3


O

O

OH
CH3

O

O

CH3

O

CH3

O

O
CH3

(41) Colosolacton F

(42) Colosolacton G

Từ quả thể của G.applanatum, S.H.Lee và cộng sự (2006), đã tách được 8
chất, trong đó có hai chất là 7β-hydroxy-3,11,15,23-tetraoxolanosta-8,20E(22)dien-26-oic axit methyl este (43) và axit

7β,20,23ξ-trihydroxy-3,11,15-


trioxolanosta-8-en-26-oic (44).
OH

O

O

COOCH3

O

OH

O
O

OH

(43)

O
O

OH

(44)

COOH



20
Năm 2008, Riham Salah El Dine và cộng sự tách được 4 lanostan triterpen
mới từ quả thể của loài nấm G.colossum ở Việt Nam là colossolactone V (45),
colossolactone VI (46), colossolactone VII (47), and colossolacton VIII (48).
OCOCH3

OCOCH3

COOH

CH3OCO

COOH

CH3OCO

CH3OCO

H3COCO

HO

HO

H

(45) Colossolactone V

H


(46) Colossolactone VI
O

O
O

O
H

H

OH

CH3OCO
OCOCH3

CH3OCO
HO

H

H

O

O

(47) Colossolactone VII


(48) Colossolactone VIII

Năm 2010, nhóm của C.F.Wang đã phân lập được 3 triterpenoit mới chứa 4
vòng không giống với lanostan triterpenoit, 8 lanostan triterpenoit mới trong đó
có: một pentanorlanostan là ganosineniol A (49), ganosinensic acid B (50),
ganosineniol B (51), ganosinoside A (52), ganoderiol J (53), ganosinensine (54).
O

H
H

O

H

H

OMe

OH

H

OH

O

(49) Ganosineniol A

H


O

H

OH

H O

OH

O

(50) Ganosinensic acid B

COOH


21
OH
O
HO
HO

OH

OOC

OH
O


OH
O

OH

HO

(51) Ganosineniol B

(52) Ganosinoside A
OH
OH

H

HO

OH

O

O

O

(53) Ganoderiol J

(54) Ganosinensine


Từ loài nấm G. tsugae, Chun-Nan Lin và các cộng sự đã phân lập hai
lanostenoit mới, axit 3α-axetoxy-5α-lanosta-8,24-dien-21-oic (55) và axit 3-oxo5α-lanosta-8,24-dien-21-oic (56) [32].
CH3
HOOC

CH3

HOOC

CH3

CH2

CH3
CH3

CH3

CH3

CH3
CH3

AcO

OH
CH3

AcO
H3C


CH3

H3C

(55)

CH3

(56)

Trong cùng loại nấm, Kim-Hong Gan và cộng sự tách ra một lanostenoit
mới dạng của este glucosit, axit 3α-axetoxy-5α-lanosta-8,24-dien-21-oic este βD-glucosit (57) [33].


5
Năm 1971, Ainsworth G.C dựa vào đặc điểm hình thái q u ả thể, cấu trúc
bào tử đảm, đã đưa ra hệ thống phân loại một cách hoàn chỉnh. Cho đến nay hệ
thống phân loại này đã và đang được nhiều nhà khoa học trên thế giới sử dụng
[16], [17], [18].
Nấm Linh chi có đặc điểm chung của ngành là: được cấu tạo bởi các tế bào
có nhân thật, không có diệp lục, nhận thức ăn từ môi trường bên ngoài bằng cách
hấp thu từ giá thể (sống dị dưỡng) [18]. Ngoài ra còn có các đặc điểm riêng [16],
[17], [18], [22]:
+ Sợi nấm gồm nhiều đoạn ngăn cách với nhau bởi các vách ngang. Mỗi
đoạn được coi như một tế bào có một hay nhiều nhân. Trên các vách ngang đó có
lỗ nhỏ, từ đó chất nguyên sinh và cả nhân có thể đi qua.
+ Cuống quả thể biến dị lớn: Các loại đa niên thường không cuống còn các
loài có cuống thì rất phong phú: Từ loài có cuống rất ngắn (0,5cm), rất mảnh
(0,2cm) cho đến các loài dài cỡ hàng 5–10cm hoặc rất dài (20–25cm), to và

mập (đường kính có thể tới 3,3cm). Cuống nấm có thể phân nhánh hoặc không,
màu sắc thay đổi khác nhau tuỳ từng loài. Cuống thường đính bên, đôi khi đính
gần tâm do quá trình liên tán mà thành .
+ Mũ nấm: Dạng thận, gần tròn đôi khi xoè thành hình quạt hoặc ít
nhiều dị dạng. Trên mặt mũ có vân gợn đồng tâm và có tia rãnh phóng xạ.
Màu sắc từ vàng nâu, vàng cam, đỏ nâu, đỏ tím, nâu đen, nhẵn, bóng, láng như
vecni, sẫm màu dần khi già. Lớp vỏ láng phủ suốt trên mặt mũ và chạy dài
theo cuống nấm. Kích thước tán biến động từ 2–30cm, dày 0,8 – 2,5cm tuỳ từng
loại. Phần đính với cuống hoặc gồ lên hoặc lõm xuống.
+ Thịt nấm dày từ 0,4–1,8 cm màu vàng kem, nâu nhạt, trắng. Nấm mềm dai
khi tươi, khi khô chắc, cứng và nhẹ. Hệ sợi có đầu tận cùng phình hình chuỳ, màng
rất dày, đan kết vào nhau tạo thành lớp vỏ láng phủ trên mặt mũ.
+ Bào tầng là một lớp ống dày từ 0,2–1,7cm, gồm các ống nhỏ thẳng, miệng
tròn, trắng, vàng ánh xanh.
+ Đảm đơn bào mang 4 bào tử đảm hình trứng, trứng cụt.
+ Bào tử đảm có cấu trúc vỏ kép, màu vàng mật ong sáng, ở giữa tụ dạng


23

O

O

HO

(62) Peroxide ergosteril
Các ergosterol tìm thấy rất nhiều trong một số loài nấm ăn được và được
chuyển thành vitamin D2 bởi các phản ứng quang hóa bằng cách sử dụng bức xạ
tia cực tím, cũng là nguyên liệu để tổng hợp phân tử sinh học quan tâm như hoá

chất nông nghiệp brassinoesterol, ecdyson và sterol oxy hóa cao [17].
Khi chiếu xạ với ánh sáng cực tím ergosterol tạo ra một preergocalciferol
thông qua việc mở vòng, và sau đó thông qua một phản ứng nhiệt được chuyển
thành vitamin D2 (ergocalciferol). Chỉ có 50% ergosterol được chuyển kể từ khi
chúng xảy ra photoreactions thứ cấp gây ra bởi sự kích thích của trien, đó là
những phản ứng ngược lại tạo vòng của lumisterol [6].
C9H17
C9H17


H
HO

Precalciferol


Ergosterol

CH3

Chuyển vị

C9H17

C9H17
CH3

H
HO


Luministerol
Vitamin D3
Ergcalciferol

Hình 1.8. Ergosterol chuyển đổi vitamin D2.


24
1.1.2.2.1. Nguồn gốc phát sinh của ergosterol
Các sterol là có nguồn gốc biogenetically của các axetyl (nguồn từ axetat)
thông qua mevalonat và squalene. Các ergosterol là chất tiền thân trực tiếp của
lanosterol, theo cách thức tương tự có nguồn gốc từ tritecpenoit. Sterol tham gia
vào các quá trình của sinh tổng hợp như metyl hóa của carbon 24, đề metyl
cacbon 4 và 14, như khử hóa và hiđro hóa [18-19].
OPO3H2
CH2OPO2H
Axetyl-CoA
Difosfat de farnesil (DFF)
(DFF)

Preescualen
NADPH
NADP

Escualen
Escualen epoxidas

O
2 - 3 - epoxiescualen
2 -3- oxidolanosteroeidasa


HO

HO
Lanosterol

Hình 1.9. Sinh tổng hợp của ergosterol

Ergosterol


25
1.1.2.3. Polysaccarit kháng u
Polysaccaride là nhóm chất tồn tại phổ biến trong nấm, chúng là những chất
chủ yếu cấu tạo nên thành tế bào của nấm. Từ quả thể, bào tử và sợi nấm, hoặc từ
dịch nước trong môi trường nuôi cấy của các loài Ganoderma có khoảng hơn 100
loại gồm hơn 200 polysaccharite đã được phân lập [20]. Qua kiểm tra hoạt tính
sinh học của các hợp chất này thấy chúng có hoạt tính chống ung thư và kháng u
rất mạnh. [16]
Hoạt tính của polysaccharide được tách ra từ quả thể, sợi, dịch nuôi cấy của
các loài Ganoderma chủ yếu đến từ các kiểu cấu trúc cơ bản của glucan là chuỗi
β-1-6 D-glycosyl và β-1-3 D-glucopyranan.
eu

C H 2O H
O

O

eu


CH2
O

O

OH

OH

OH

OH

OH

N

M

Hình 1.10. Hiển thị định hướng và vị trí của β-glucan liên kết khác nhau.
Cấu trúc cơ bản của β-1-3 D-glucopyranan gồm từ 1 đến 15 nhóm β-1-6
monoglucosyl trong mạch. [Mizuno 1991].
6

CH2OH
O

O


1

OHOH
3
6
6

CH 2OH
O
1

OH
OH
3

2

OH

3

6

OH

CH 2OH
O

O
OH


2

6

1
2

CH
O

O
OH
3

OH

1
2

OH

CH 2OH
O

O
OH 3

1
2


6

CH2OH
O
O
3

OH

*

1
2

OH

OH
N

m

Hình 1.11. kiểu cấu trúc cơ bản của glucan phân lập từ G.lucidum


×