Tải bản đầy đủ (.docx) (125 trang)

Ứng dụng chế phẩm Fito – Biomix – RR xử lý phụ phẩm nông nghiệp thành phân hữu sử dụng canh tác rau nhằm giảm thiểu hàm lượng NO3– xã Lão Hộ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.31 MB, 125 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

KHOA MÔI TRƯỜNG
-----------------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
“Ứng

dụng chế phẩm Fito – Biomix – RR xử lý phụ

phẩm nông nghiệp thành phân hữu cơ sử dụng trong
canh tác rau nhằm giảm thiểu hàm lượng NO3– tại
xã Lão Hộ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang”

Người thực hiện

: THÂN THỊ TUYỀN

Lớp

:MTB

Khóa

:57

Chuyên ngành

: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG


Giáo viên hướng dẫn

: TS. NGUYỄN ĐÌNH THI

Hà Nội – 2015


HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

KHOA MÔI TRƯỜNG
-----------------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
“Ứng

dụng chế phẩm Fito – Biomix – RR xử lý phụ

phẩm nông nghiệp thành phân hữu cơ sử dụng trong
canh tác rau nhằm giảm thiểu hàm lượng NO3– tại
xã Lão Hộ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang

Người thực hiện

: THÂN THỊ TUYỀN

Lớp

:MTB


Khóa

:57

Chuyên ngành

: KHOA HỌC MÔI TRƯỜNG

Giáo viên hướng dẫn : TS. NGUYỄN ĐÌNH THI
Địa điểm thực tập

2

: xã Lão Hộ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang

2
2


Hà Nội – 2016

3

3
3


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Đình Thi đã tận tình
giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận này.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Môi Trường đã
truyền đạt những kiến thức học tập quý báu trong quá trình tôi học tập tại
trường. Đó là những nền tảng giúp tôi hoàn thành bài luận này và phục vụ cho
hành trang sau này.
Chân thành cảm ơn UBND xã Lão Hộ đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi
trong quá trình thực hiện khóa luận này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và những người thân đã
nhiệt tình ủng hộ, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài và hoàn
thành khóa luận tốt nghiệp.
Do điều kiện về thời gian và trình độ chuyên môn cò nhiều hạn chế,
khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự giúp đỡ,
đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo cùng toàn thể các bạn đọc để bài khóa
luận của tôi được hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 8 tháng 1 năm 2016
Người thực hiện

Thân Thị Tuyền

4

4


5

5


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu thực sự của cá nhân tôi,
được thực hiện dựa trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết, kiến thức chuyên ngành,
nghiên cứu khảo sát tình hình thực tiễn và dưới sự hướng dẫn khoa học của
TS. Nguyễn Đình Thi.
Các số liệu, kết quả nêu trong khóa luận là trung thực, khách quan và
chưa được công bố trong các công trình khác.
Người thực hiện

Thân Thị Tuyền

6

6


MỤC LỤC

7

7


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
FAO

: Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc
(Food and Agriculture Organization of the United
Nations)

VSV

CFU
CT
NSLT
NSTT
ĐC

: Vi sinh vật
: Số đơn vị hình thành khuẩn lạc (Colony Forming Units)
: Công thức
: Năng suất lý thuyết
: Năng suất thực thu
: Đối chứng

CV
LSD5%
Cs

: Sai số thí nghiệm
: Sai khác có ý nghĩa nhỏ nhất khi so sánh ở mức 5%
: Cộng sự

TCVN
PHC
BNN&PTNT
TCHQ
KH & CN
HTX
USDA
NĐ/CP
TTCN–


: Tiêu chuẩn Việt Nam
: Phân hữu cơ
: Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
: Tổng cục Hải quan
: Khoa học và công nghệ
: Hợp tác xã
: Bộ nông nghiệp Hoa Kỳ
: Nghị định/Chính phủ
: Tiểu thủ công nghiệp – Xây dựng cơ bản

XDCB
TMDV

: Thương mại dịch vụ

BVTV

: Bảo vệ thực vật

8

8


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số bảng

9


Tên bảng

Trang

9


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ
Số hình

10

Tên hình

Trang

10


MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Trong xã hội hiện đại, quá trình sản xuất rau ứng dụng nhiều kỹ thuật
tiến bộ như: sử dụng nhiều phân bón, chất kích thích sinh trưởng, thuốc bảo
vệ thực vật không những gây ô nhiễm môi trường canh tác mà còn làm rau bị
nhiễm bẩn, làm tăng hàm lượng nitrat trong rau ảnh hưởng nghiêm trọng đến
sức khỏe người sử dụng (Phan Thị Thu Hằng, 2008). Do đó, hiện nay vấn đề
được chú ý và quan tâm nhiều là vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó có rau
xanh. Với xu hướng này, nền nông nghiệp Việt Nam đưa ra giải pháp là sản
xuất rau theo hướng an toàn để cải thiện môi trường đất, nước và chất lượng
rau. Có thể hiểu quá trình sản xuất rau đều ứng dụng những gì có nguồn gốc

hữu cơ sinh học thân thiện với môi trường mà cụ thể là sử dụng phân hữu cơ.
Phân hữu cơ được sản xuất tương đối đơn giản, tận dụng nguyên liệu là
rơm rạ, bèo và những phụ phẩm nông nghiệp khác, góp phần làm giảm ô
nhiễm môi trường, tiết kiệm chi phí cho người dân, tăng năng suất chất lượng
cây trồng. Phân hữu cơ đã được ứng dụng và đạt những thành tựu đáng kể
trên cây bắp lai (Chabot và cs, 1996), đậu nành (Molla và cs,2001), đậu Hà
Lan (Kurma và cs, 2001), lúa mạch (Belimov và cs, 1995), cải ăn lá (Antoun
cs, 1998) cho năng suất cao không kém phân hóa học, giảm hàm lượng nitrat
(NO3-) trong rau.
Với những lí do đó, chúng tôi tiến hành triển khai nghiên cứu đề tài: “
Ứng dụng chế phẩm Fito – Biomix – R xử lý phụ phẩm nông nghiệp thành
phân hữu cơ sử dụng trong canh tác rau nhằm giảm thiểu hàm lượng NO 3tại xã Lão Hộ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang năm 2015”
Mục đích nghiên cứu
- Đưa ra được quy trình xử lý rơm rạ thành phân hữu cơ từ chế phẩm
Fitto – Biomix – RR tại xã Lão Hộ.
- Xác định quy trình kỹ thuật trong canh tác rau ứng dụng phân hữu cơ
xử lý từ phụ phẩm nông nghiệp nhằm giảm thiểu hàm lượng NO 3- đối với một
loại rau ăn lá tại xã Lão Hộ.
11

11


- Xác định hàm lượng NO3- trong một loại rau ăn lá ở các mức sử dụng
phân bón khác nhau tại địa bàn nghiên cứu.
- Đề xuất giải pháp phù hợp nhằm giảm thiểu hàm lượng NO 3- trong rau
ăn lá.
Yêu cầu nghiên cứu
- Phân tích được cơ hội và thách thức về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã
hội trong canh tác rau xanh ở xã Lão Hộ, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.

- Đánh giá được hiệu quả của chế phẩm sinh học Fito – Biomix – RR
trong xử lý phế phụ phẩm nông nghiệp.
- Đánh giá được vai trò của phân hữu cơ trong việc giảm thiểu hàm
lượng NO3− trong rau xanh.
- Các số liệu thu thập được phải xác thực.

12

12


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Sơ lược về cây rau
1.1.1. Vai trò của rau trong đời sống con người
1.1.1.1. Về mặt dinh dưỡng
- Rau là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể con người.
Theo tính toán của các nhà dinh dưỡng học thuộc Viện dinh dưỡng
Quốc Gia (2010) thì nhu cầu tiêu thụ rau bình quân hàng ngày của mỗi người
trên thế giới cần khoảng 250-300g/ngày/người tức 90-110kg/người/năm. Rau
cung cấp cho cơ thể con người các chất dinh dưỡng quan trọng như các loại
vitamin, muối khoáng, axit hữu cơ, các hợp chất thơm, cũng như protein, lipit,
chất xơ, vv...Trong rau xanh hàm lượng nước chiếm 85-95%, chỉ có 5-15% là
chất khô. Trong chất khô lượng cacbon rất cao (cải bắp 60%, dưa chuột 7475%, cà chua 75-78%, dưa hấu 92%).
- Rau là nguồn cung cấp vitamin phong phú và rẻ tiền: Rau có chứa các
loại vitamin A (tiền vitamin A), B1, B2, C, E và PP,... Trong khẩu phần ăn của
nhân dân ta, rau cung cấp khoảng 95 - 99% nguồn vitamin A, 60-70% nguồn
vitamin B (B1, B2, B6, B12) và gần 100% nguồn vitamin C (Viện dinh dưỡng
Quốc gia, 2010).
- Rau là nguồn cung cấp chất khoáng cho cơ thể: Rau chứa các chất

khoáng chủ yếu như Ca, P, Fe, là thành phần cấu tạo của xương và máu.
Những chất khoáng có tác dụng trung hòa độ chua do dạ dày tiết ra khi tiêu
hóa các loại thức ăn như thịt, các loại ngũ cốc (Tạ Thu Cúc, 2005).
- Rau là nguồn cung cấp các dinh dưỡng khác: Rau cung cấp cho cơ thể các
axit hữu cơ, các hợp chất thơm, các vi lượng, các xellulo (chất xơ) giúp cơ thể tiêu
hoá thức ăn dễ dàng, phòng ngừa các bệnh về tim mạch áp huyết cao. Ngoài ra
nhiều loại rau còn chứa các kháng sinh thực vật như Linunen, Carvon, Pinen ở cần
tây, allixin ở tỏi, hành có tác dụng như một dược liệu đối với cơ thể. Bởi vậy nhu
cầu ăn rau ngày càng cao ở tất cả mọi người (Tạ Thu Cúc, 2005).
13

13


1.1.1.2. Về mặt kinh tế
- Rau là một mặt hàng xuất khẩu giá trị và có ý nghĩa chiến lược. Rau là
cây trồng đem lại nhiều lợi nhuận góp phần phát triển kinh tế quốc dân đáng
kể, ngoài ra rau còn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị cao. Trong những năm
gần đây thị trường xuất khẩu rau được mở rộng, năm 2012 tổng kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam 805 ngàn USD (Tổng cục thống kê, 2013).Các loại
rau chính xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là dưa chuột, cà chua, cà rốt,
hành, ngô rau, đậu rau, ớt cay, nấm... trong đó dưa chuột và cà chua có nhiều
triển vọng và chúng có thị trường xuất khẩu tương đối ổn định.
- Rau là nguyên liệu của ngành công nghiệp thực phẩm.Những loại rau
được sử dụng trong công nghiệp chế biến xuất khẩu dưới dạng tươi, muối,
làm tương, sấy khô, xay bột... công nghệ đồ hộp (dưa chuột, cà chua, ngô rau,
măng tây, nấm...), công nghiệp bánh kẹo (bí xanh, cà rốt, khoai tây, cà
chua...), công nghiệp sản xuất nước giải khát (cà chua, cà rốt...), công nghiệp
chế biến thuốc dược liệu (tỏi, hành, rau gia vị), làm hương liệu (hạt mùi, ớt,
tiêu...) (Tạ Thu Cúc, 2005).

- Rau là nguồn thức ăn cho gia súc. Với chăn nuôi gia súc, gia cầm, rau
giữ vai trò khá quan trọng: 1 đầu lợn tiêu thụ 1 ngày 2-3kg rau, trong đó có
50 - 60% loại rau dùng cho người: rau muống, bắp cải, su hào, dền, mồng
tơi, rau ngót, rau đậu, lang. Trung bình 9kg rau xanh thì cho một đơn vị
thức ăn và 100g đạm tiêu hóa được. Rau thường chiếm 1/3 - 1/2 trong
tổng số đơn vị thức ăn giành cho chăn nuôi, vậy muốn đưa chăn nuôi lên
ngành sản xuất chính phải tính toán vấn đề sản xuất rau và các loại rau có
giá trị dinh dưỡng cao.
1.1.1.3. Về giá trị làm thuốc
Một số loại rau còn được sử dụng để làm thuốc, được truyền miệng từ
đời này qua đời khác, đặc biệt cây tỏi được xem là dược liệu quý trong nền y
học cổ truyền của nhiều nước như Ai Cập, Trung Quốc, Việt Nam... Dùng
nhánh tỏi để chữa bệnh huyết áp cao và bệnh thấp khớp. Một số loại rau có
tính trừ sâu như xà lách, một số loại rau lại có giá trị cho giá trị thẩm mỹ như
ớt đỏ, dưa leo, cà chua, mướp đắng...(Tạ Thu Cúc, 2005)
14
14


1.1.2. Tình hình sản xuất rau trên thế giới
Theo FAO (2012), tổng diện tích trồng rau trên thế giới là 19 triệu ha,
tập trung chủ yếu ở khu vực Châu Á với 15,1 triệu ha, chiếm gần 80% tổng
diện tích trồng rau trên thế giới, một số khu vực như Châu Đại Dương, Châu
Mỹ chiếm tỷ lệ thấp so với tổng diện tích trồng. Tình hình sản xuất rau trên
thế giới được thể hiện qua bảng 1.1.
Bảng 1.1: Tình hình sản xuất rau trên thế giới giai đoạn 2010 - 2012
Năm

2010


2011

STT

DT
SL
DT
Khu vực
(tr.ha)
(tr.tấn)
(tr.ha)
1
Thế giới
18,9
261,19
18,8
2
Châu Á
14,9
225,37
15,1
3
Châu Mỹ
0,61
7,10
0,54
4
Châu Âu
0,68
10,97

0,69
5
Châu Phi
2,7
17,18
2,5
Châu Đại
6
0,036
0,57
0,037
Dương
Ghi chú: DT là diện tích; SL là sản lượng; tr. Là triệu.

2012
SL
(tr.tấn)
265,52
228,16
7,27
11,71
17,83
0,56

DT
SL
(tr.ha)
(tr.tấn)
19,0
269,85

15,1
231,96
0,56
7,54
0,68
11,49
2,5
18,29
0,038

0,58

(Nguồn: FAO,2012)

Theo FAO (2012) trong số 10 nước dẫn đầu về diện tích trồng rau trong
khu vực Châu Á, Việt Nam đứng thứ 4 với diện tích 0,68 triệu ha, đứng sau
Nigeria (0,75 triệu ha), Ấn Độ (2,10 triệu ha) và đứng thứ nhất là Trung Quốc
(9,71 triệu ha).
Bảng 1.2: Tình hình sản xuất rau ở khu vực Châu Á
giai đoạn2010 - 2012.
Năm
STT
1
2
3
4
5
6
7


Khu
vực
Châu Á
Đông Nam Á
Nam Á
Tây Á
Đông Á
Trung Á
Việt Nam

2010
DT
(tr.ha)
14,9
1,92
3,03
0,14
9,78
0,07
0,64

2011

SL
(tr.tấn)
225,37
19,25
40,63
1,94
162,01

1,54
7,39

DT
(tr.ha)
15,1
1,97
2,80
0,15
10,06
0,069
0,67

2012

SL
(tr.tấn)
228,16
19,43
37,34
2,16
167,55
1,68
7,40

DT
(tr.ha)
15,1
2,02
2,83

0,15
10,07
0,071
0,68

SL
(tr.tấn)
231,96
20,71
38,18
2,24
169,07
1,76
7,80

Ghi chú: DT là diện tích; SL là sản lượng; tr. Là triệu tấn

( Nguồn: FAO, 2013)
15

Khu vực Đông Á có diện tích trồng rau lớn nhất tại Châu Á với 10,07
15


triệu ha, chiếm 67% tổng diện tích toàn khu vực. Việt Nam với diện tích trồng
0,68 triệu ha, chỉ chiếm 0,05% so với khu vực.
1.1.3. Tình hình sản xuất rau trong nước
Việt Nam có vị trí địa lý trải dài qua nhiều vĩ độ, khí hậu nhiệt đới gió
mùa và có một số vùng tiểu khí hậu đặc biệt như Sa Pa, Tam Đảo, Đà Lạt…,
có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho sản xuất rau. Việt Nam có thể trồng

được trên 120 loại rau có nguồn gốc nhiệt đới, á nhiệt đới, ôn đới và cùng với
các tiến bộ KHCN các loại rau trái vụ được sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng và phục vụ chế biến xuất khẩu.
Theo ước tính của Tổng cục Thống kê (2014), diện tích gieo trồng rau
trên cả nước đạt 873 nghìn ha, năng suất bình quân đạt xấp xỉ 175 tạ/ha, sản
lượng ước đạt 15,3 triệu tấn; so với năm trước diện tích tăng 25,8 nghìn ha
(tương đương 3%); năng suất tăng 2,3 tạ/ha (1,3%), sản lượng tăng gần 650
nghìn tấn (4,4%) so với năm 2013. Nhà nước ta đã có các giải pháp chính
sách hỗ trợ người trồng rau sản xuất theo hướng VietGAP, nhằm đáp ứng nhu
cầu của thị trưởng cả về số lượng và chất lượng.
Bảng 1.2 thể hiện được diện tích và sản lượng rau các loại của các vùng
sinh thái của Việt Nam. Trong đó, Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng
sông Hồng là 2 vùng có diện tích sản xuất không lớn nhưng sản lượng thu
được đứng đầutrong các năm. Nhìn chung, diện tích và sản lượng rau của các
vùng đều tăng lên theo năm. Một số vùng tuy giảm diện tích trồng nhưng lại
cho sản lượng cao, điều này có thể kết luận do người dân đã áp dụng các biện
pháp kỹ thuật tiên tiến trong sản xuất rau và có sự hỗ trợ của nhà nước.

16

16


Bảng 1.2: Diện tích và sản lượng rau của một số vùng sinh thái nước ta
giai đoạn 2013 - 2014
Các vùng sinh thái
Đồng bằng sông Hồng
Trung du và miền núi phía
Bắc
Bắc Trung Bộ

Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu
Long

2013
DT (tr.ha)

SL (tr.tấn)

2014
DT (tr.ha)

0,17
1,23

3,39
1,52

0,18
1,26

SL
(tr.tấn)
3,70
1,57

0,72
0,61

1,71
0,66
0,24

0,99
0,94
2,29
0,97
4,29

0,089
0,064
0,1
0,059
0,25

1,02
0,99
2,44
1,0
4,43

Ghi chú: DT là diện tích; SL là sản lượng; Tr. là triệu

(Nguồn: Tổng cục thống kê, 2015)
1.1.4. Tình hình tiêu thụ rau trên thế giới và ở nước ta
1.1.4.1. Tình hình tiêu thụ rau trên thế giới
Kim ngạch xuất khẩu rau trong những năm vừa qua không ổn định.
Nguyên nhân do nguồn hàng cung cấp chưa thường xuyên, chủ yếu theo mùa
vụ tự nhiên, hàng hóa có chất lượng thấp, không đồng đều, nhiều lô hàng

chưa đáp ứng được yêu cầu vệ sinh an toàn thực phẩm...
Trên thế giới có một vài thị trường triển vọng như:
-Thị trường Đài Loan: đây là một thị trường tiềm năng với thị hiếu
tương đối đa dạng và không đòi hỏi quá cao về chất lượng và đang được
đánh giá là thị trường có nhiều thuận lợi với các mặt hàng chủ yếu như cải
bắp, dưa chuột, cà chua,… Hiện nay, Đài Loan là thị trường trung gian
cho rất nhiều loại sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường
châu Âu, Mỹ và Đông Á.
- Tại thị trường châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hồng Kông, theo sự báo
của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), do tác động của các yếu tố như sự thay
đổi cơ cấu dân số, thị hiếu tiêu dùng và thu nhập dân cư...tiêu thụ nhiều loại
rau sẽ tăng mạnh, đặc biệt là các loại rau ăn lá.
Bảng 1.3: Giá trị nhập khẩu rau trên thế giới năm 2011 (triệu USD)
17

17


Loại hàng

Thế giới

Rau tươi
Rau sấy
Rau giấm
Rau bảo quản
Rauđông lạnh
Rau sơ chế
Rau nghiền
Tổng cộng


2623
1791
1719
6348
5384
541
100
18505

Á
554
480
238
1319
1002
172
7
3772

Mỹ
328
409
489
1,193
942
50
10
3422


Âu
1711
823
944
3521
3245
310
78
10634

Phi

Đại

25
36
14
162
46
4
5
293

Dương
4,4
43,2
33,1
153,3
148,7
4,4

0,5
387,6

(Nguồn: FAO, 2012)
1.1.4.2. Tình hình tiêu thụ rau ở Việt Nam
Theo thống kê của Bộ NN & PTTN (2014), tổng giá trị xuất khẩu rau
quả cả nước 5 tháng đầu năm 2014 đạt khoảng 533,7 triệu USD, tăng 44,3%
so với cùng kỳ năm 2013. Trong đó tháng 5/2014 là tháng có giá trị xuất khẩu
rau quả lớn nhất, đạt 132,4 triệu USD, tương đương tăng 47,7% so với tháng
trước đó.

Hình 1.1: Biểu đồ phản ánh giá trị xuất khẩu rau
của Việt Nam 5 tháng đầu năm 2014 (triệu USD).
Nguồn: Bộ NN & PTNT, TCHQ, 2014
Theo Bộ NN &PTNT (2014) Trung Quốc vẫn là quốc gia đứng đầu
trong top 10 nước nhập khẩu rau quả lớn từ Việt Nam với kim ngạch nhập
18

18


khẩu 159,6 triệu USD tương đương tăng 59,33% so với cùng kỳ năm 2013.
Tuy nhiên Hà Lan lại là thị trường có tỷ trọng tăng trưởng cao nhất trong top
10, tương đương tăng 90,04% so với năm 2013.
Theo báo cáo về: “Tình hình sản xuất, tiêu thụ rau những tháng đầu
năm năm 2015 của Bộ Công Thương” cho biết kim ngạch xuất khẩu rau quả
trong 5 năm qua tăng trưởng ở mức cao, bình quân 26,5% mỗi năm, từ 439
triệu USD trong năm 2009 lên gần 1,1 tỷ USD vào năm 2013. Báo cáo cũng
cho biết, 3 tháng đầu năm 2015, xuất khẩu rau quả đạt kim ngạch 368 triệu
USD, tăng 26% so với cùng kỳ năm 2014. Rau quả Việt Nam đã được xuất

khẩu đi trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trong đó 10 thị trường xuất khẩu
chính là Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Nga, Đài Loan, Hàn Quốc…
Như vậy nguồn sản xuất rau của nước ta không chỉ cung ứng, đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước, mà còn xuất khẩu sang các nước khác nhằm
phát triển kinh tế, tăng thu nhập cho nông dân.
1.2. Thực trạng phát sinh rơm rạ trên thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Khái niệm, nguồn gốc, thành phần, phân loại phụ phẩm nông
nghiệp
1.2.1.1. Khái niệm phụ phẩm nông nghiệp
Phế phụ phẩm nông nghiệp là những sản phẩm phụ thu được từ cây
trồng sau khi thu hoạch như: Rơm rạ, thân ngô, thân lạc, ngọn mía, bã mía, cỏ
khô, bã sắn, các loại lá rau…
Đây là loại phế thải có khả năng phân hủy sinh học do nó chứa thành
phần hữu cơ, vi sinh vật có thể phân hủy sử dụng làm dinh dưỡng trong qua
trình sinh trưởng và phát triển của mình. Các chất thải có khả năng phân hủy
sih học tốt như cỏ dại, lá cây…các chất có khả năng phân hủy sinh học kém
như rơm rạ, thân cây…
1.2.1.2. Nguồn gốc phụ phẩm nông nghiệp
Phế phẩm nông nghiệp phát sinh từ nhiều nguồn gốc khác nhau như:
quá trình trồng trọt, thu hoạch nông sản, quá trình sử dụng phân bón, sử dụng
19
19


thuốc bảo vệ thực vật, sử dụng thuốc kích thích sinh trưởng thực vật…Trong
quá trình trồng trọt, phế phụ phẩm đồng ruộng chính là tàn dư thực vật. Bên
cạnh đó việc sử dụng phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật trong chăm sóc
để giúp cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt đã để lại chai lọ, bao bì bừa bãi
trên đồng ruộng.
Nguồn thải chính của phế phụ phẩm nông nghiệp phát sinh trong quá

trình thu hoạch nông sản là rơm rạ, thân ngô, thân lạc, đậu tương…Theo số
liệu thống kê tại Việt Nam, 70% dân số làm nông nghiệp và lúa là cây trồng
chính, do vậy lượng rơm rạ sau thu hoạch rất lớn, ước khoảng gần 46 triệu
tấn/năm (Tổng cục thống kê, 2011).
1.2.1.3. Thành phần phụ phẩm nông nghiệp
Phụ phẩm nông nghiệp chủ yếu là phế thải hữu cơ có thành phần rất
phong phú và đa dạng, chúng thuộc hai nhóm hợp chất chính là: nhóm hợp
chất hữu cơ chứa cacbon gồm Xenluloza, Hemixenluloza, Lignin…và các
hợp chất hữu cơ chứa nitơ gồm có Protein và Kitin. Các hợp chất hữu cơ này
không bất biến mà luôn chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác dưới tác
dụng của nhiều yếu tố khác nhau tạo thành một vong tuần hoàn khép kín
trong tự nhiên (Nguyễn Xuân Thành và cộng sự, 2011).
1.2.2. Thực trạng phát sinh rơm rạ trên thế giới và ở Việt nam
1.2.2.1. Thực trạng phát sinh rơm rạ trên thế giới
Theo ước tính của Tổ chức Nông lương thế giới (FAO), mỗi năm có
khoảng 3 tỷ tấn phế thải nông nghiệp phát sinh trên phạm vi toàn thế giới
trong đó các phế thải từ cây lúa chiếm một sản lượng lớn nhất tới 863 triệu
tấn. Phế thải từ lúa mì và ngô tương ứng là 754 và 591 triệu tấn (Cục thông
tin KH & CN Quốc gia, 2010).
Ở Mỹ bang California là nơi sản xuất lúa gạo lớn nhất của nước Mỹ,
trong đó 95% lúa được trồng ở thung lũng Sacramento. Với khoảng 500.000
mẫu đất trồng lúa, hàng năm khu vực này sinh ra trên 1 triệu tấn rơm rạ. sau
20

20


khi thu hoạch, rơm rạ thường được đốt ngoài đồng sau đó được cày trộn với
đất trồng. Tuy nhiên, do vấn đề môi trường, năm 1991 nước Mỹ đã ra một đạo
luật hạn chế đốt rơm rạ, buộc các nhà trồng lúa phải dần giảm diện tích đốt

rơm theo lịch trình (Cục thông tin KH & CN Quốc gia, 2010).
Ở Trung Quốc là một nước nông nghiệp lớn, Trung Quốc có nguồn rơm
rạ dồi dào. Rơm rạ chiếm phần lớn nguồn năng lượng sinh khối của Trung
Quốc, tới 72,2%. Hiện tại đốt cháy rơm trực tiếp chủ yếu được sử dụng trong
sản xuất năng lượng sinh khối ở Trung Quốc, việc này dẫn tới một số vấn đề
rắc rối. Một mặt, ở một số vùng thiếu rơm rạ sẽ dẫn tới việc đốn một số lượng
lớn gỗ để bù vào số lượng rơm thiếu, làm gây ra những tổn thất nặng nề cho
môi trường sinh thái địa phương. Mặt khác, ở những vùng trù phú, nơi có đủ
năng lượng thương mại, thì rơm bị loại bỏ, thậm chí được đốt trên đồng, làm
phí nguồn nhiên liên này và gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy, ngày càng có sự
chú trọng tới việc tận dụng rơm với hiệu suất và mức độ hợp lý cao ở Trung
Quốc. Lúa là một trong những cây trồng chính ở miền Trung và Nam Trung
Quốc, hàng năm có 230 triệu tấn rơm lúa được sản sinh ra (Cục thông tin
KH&CN Quốc gia, 2010).
Tại Nhật Bản, rơm rạ hiện được sử dụng và tiêu hủy theo theo các cách
sau: để cày xới lại vào đất trên đồng ruộng 61,5%, làm thức ăn cho động vật
11,6%, làm phân xanh 10,1%, lợp mái cho chuồng nuôi gia súc 6,5%, vật liệu
che phủ trên ruộng 4%, đồ thủ công từ rơm 1,3%, các loại khác 0,3%, đốt
cháy 4,6%. Chỉ có 4,6% tỷ lệ tiêu hủy thông qua đốt cháy hiện tại, là có thể sử
dụng làm nguồn năng lượng. Cách chính để phân hủy rơm rạ ở Nhật vẫn là
bón lại cho ruộng đồng (Cục thông tin KH&CN Quốc gia, 2010).
Tại Thái Lan, hàng năm có từ 8 – 14 tiệu tấn chất thải rơm rạ được đốt
ngoài đồng sau khi thu hoạch lúa, gây ô nhiễm môi trường. Việc đầu tư cho
các phương pháp tận dụng rơm rạ tỏ ra tốn kém và hiệu quả không cao nên
phương pháp phổ biến nhất là đốt ngay tại ruộng để chuẩn bị cho canh tác vụ
sau. Việc đốt rơm rạ lộ thiên phổ biến nhất ở các vùng thuộc miền Trung nước
này. Tỷ lệ rơm rạ còn dư lại sau khi sử dụng (thường bị đốt lộ thiên sau khi
thu hoạch) ở Thái Lan là từ 20 – 40% tổng lượng rơm rạ từ sản xuất lúa (Cục
21
21



thông tin KH&CN Quốc gia, 2010).
1.2.2.2. Thực trạng phát sinh rơm rạ tại Việt nam
Với đặc điểm của một nước nông nghiệp,hằng năm lượng phế thải trong
quá trình sản xuất nông nghiệp là rất lớn. Hiện nay, một phần nhỏ rơm rạ
được sử dụng làm phân bón sinh học, còn lại chủ yếu là đốt bỏ ngay trên đồng
ruộng gây ra lãng phí và ảnh hưởng tới môi trường.
Theo thống kê của Tổ chức phát triển Hà Lan, mỗi năm Việt Nam sản
xuất ra xấp xỉ 40 triệu tấn sinh khối từ phụ phẩm lúa gạo, bao gồm 32 triệu
tấn rơm rạ và 8 triệu tấn trấu.Tuy có nguồn sinh khối dồi dào, nhưng thiếu sự
quan tâm, do đó trong những năm gần đây, sau mỗi vụ thu hoạch lúa, tại các
đô thị lớn diễn ra cảnh khói bay mịt mù từ những cánh đồng ven đó (Cục
thông tin KH&CN Quốc gia, 2010).
Theo ý kiến của người dân việc đốt rơm rạ lấy tro bón ruộng sẽ bổ sung
dinh dưỡng cho đất. Nhưng thực tế, việc đó không cải thiện tình trạng đất mà
còn ảnh hưởng tới môi trường và tài nguyên đất tại nơi đốt. Nó khiến cho đất
tại vị trí đốt bị nóng, ảnh hưởng tới sinh vật trong đất, một số thành phần cơ
giới của đất bị thay đổi khiến cho đất bị trai lì. Nguồn dinh dưỡng bị mất dần,
năng suất cây trồng giảm.
Bên cạnh đó, khói tỏa ra từ những nơi đốt ảnh hưởng tới sức khỏe
người dân trong khu vực và những vùng phụ cận. Không khí ngột ngạt, gây ra
hiện tượng khó thở. Không chỉ có như vậy,việc đốt rơm rạ còn ảnh hưởng tới
con người và phương tiện tham gia giao thông trên đường. Trên một số tuyến
đường quốc lộ, đường liên huyện, liên xã…bà con nông dân chất rơm rạ
thành đống để đốt. Lượng bụi khói làm giảm tầm nhìn của người tham gia
giao thông và gây ra nhiều vụ tai nạn thương tâm.
Năm 2010, theo khảo sát tại 3 tỉnh Thái Bình,Quảng Bình và Cần Thơ
cho thấy: Ở Cần Thơ 86% lượng rơm rạ bị đốt bỏ, chỉ có 12% là được vùi
xuống đất làm phân. Trong khi đó, tại Thái Bình, hiện tượng đốt rơm rạ chiếm

36%. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, không còn một hộ gia đình nào sử dụng
rơm rạ hay trấu trong việc đun nấu (Nguyễn Đỗ Tưởng và cs, 2013).
22

Do đó, việc tìm ra biện pháp kiểm soát hay sản xuất các sản phẩm hữu
22


ích từ phế phụ phẩm nông nghiệp là điều cấp thiết trong tình hình hiện nay.
1.3. Hiện trạng công tác quản lý và xử lý rơm rạ trên thế giới và ở Việt
Nam
Việc quản lý rơm rạ có ý nghĩa lớn tới việc bảo vệ môi trường, tận dụng
được giá trị vật chất và năng lượng một cách hiệu quả. Nhiều nước như Mỹ đã
ban hành Luật hạn chế đốt rơm rạ, điều này đặt ra yêu cầu đối với những
người trồng lúa là phải tìm ra các phương pháp thay thế thân thiện với môi
trường để xử lý và tận dụng rơm rạ. Mặt khác, nhiều công trình nghiên cứu và
kinh nghiệm thực tiễn cho thấy nếu không xử lý hết các phế thải rơm rạ trên
cánh đồng, và để sót lại trên đất với số lượng lớn có khả năng làm giảm sản
lượng cây trồng, tăng các bệnh ở lá và suy thoái độ màu mỡ của đất. Những
nước thu hoạch bằng cơ giới hóa như đồng bằng sông Cửu Long của Việt
Nam, Thái Lan, Trung Quốc và Bắc Ấn Độ, rơm được rải đều trên ruộng và
đốt ngay sau khi thu hoạch xong, vì vậy tỷ lệ đất mất S, P và K thấp. Tại
Indonesia và Philippines, rơm được phun thành đống từ máy phụt và đốt tại
chỗ nên tất cả các chất dinh dưỡng đều không được trả lại cho đất. Tại đồng
bằng sông Cửu Long diễn ra tương tự tại các vùng trồng nấm rơm. Kết quả là
lâu ngày đất bị thiếu các chất như K, Si, Ca, Mg…(Cục thông tin KH&CN
Quốc gia, 2010).
Những sử dụng tiềm năng nhất của rơm rạ có thể xếp theo nhóm như sử
dụng năng lượng, chế tạo và xây dựng, giảm ô nhiễm môi trường hay chăn
nuôi gia súc. Tuy có nhiều tiềm năng, nhưng cho đến nay việc khai thác sử

dụng rơm rạ vẫn còn rất hạn chế. Các nguyên nhân chủ yếu liên quan là: 1)
các trở ngại về vấn đề kỹ thuật; 2) tính khả thi về kinh tế, nhất là liên quan
đến các vấn đề thu hoạch, vận chuyển và bảo quản.
- Đốt: Rơm rạ sau khi thu hoạch được để lại trên ruộng khô. Sau đó
người dân sẽ thu thành đống và đốt. Đốt rơm rạ tại ruộng gây ô nhiễm không
khí nghiêm trọng, làm phát thải một lượng lớn khí thải độc hại, góp phần biến
đổi khí hậu toàn cầu. Đốt 1 ha rơm rạ có trung bình 7 tấn sẽ phát thải 9,1 tấn
khí CO2, 789 kg khí CO, 398 kg các chất hữu cơ độc hại và 12 kg tro bụi.
23
23


Lượng khí thải không những gây ô nhiễm ở nông thôn mà lan ra cả thành thị
ở những nơi dưới gió. Nó làm che chắn tầm nhìn, tăng tai nạn giao thông và
đặc biệt các bệnh về hô hấp tăng lên (Nguyễn Phước Tuyên, 2013).
- Cày vùi trực tiếp vào đất trên đồng ruộng. Sau khi thu hoạch, phế phụ
phẩm được để lại trên ruộng. Khi người dân cày đất sẽ cày úp rơm rạ xuống
phía dưới. Nhờ hoạt động của vi sinh vật, rơm rạ sẽ phân hủy để thành các
chất hữu cơ dễ sử dụng cho cây trồng.
- Vứt bỏ bừa bãi ngoài đồng ruộng và xuống mương máng. Phế phụ
phẩm được bỏ lại trên đồng ruộng hoặc vứt xuống mương máng làm tắc
nghẽn dòng chảy gây mùi hôi thối gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Các phương pháp tận dụng cổ truyền:
Theo các dữ liệu thu thập được, các phương pháp sử dụng sản phẩm
phụ rơm rạ theo truyền thống chủ yếu bao gồm sử dụng để làm củi đốt, vật
liệu xây dựng, nuôi gia súc và trồng nấm.
- Lợp nhà: Ở nông thôn, trước đây người dân hay sử dụng rơm rạ cũng
như lau sậy hay các loại vật liệu tương tự để làm các tấm lợp mái nhà nhẹ và
không thấm nước. Loại rơm được sử dụng cho mục đích này thường được
trồng riêng và thu hoạch bằng tay hoặc bằng máy gặt bó (Cục thông tin

KH&CN Quốc gia, 2010).
- Làm mũ, dép, xăng đan, bện dây thừng: Người ta có thể tạo ra nhiều
kiểu mũ được bện từ rơm rạ. Tại Anh, vài trăm năm trước đây, các mũ bện từ
rơm rạ đã rất phổ biến. Người Nhật, Triều Tiên có truyền thống sử dụng rơm
rạ để làm dép, xăng đan, đồ thủ công mỹ nghệ. Tại một số nơi thuộc Đức như
vùng Black Forest và Hunruck, người ta thường đi dép rơm trong nhà hoặc tại
lễ hội (Cục thông tin KH&CN Quốc gia, 2010).
Tại nhiều nơi trên thế giới, rơm rạ cho đến nay vẫn được sử dụng để
làm đệm giường nằm cho con người và làm ổ cho một số loại vật nuôi như
trâu bò. Bên cạnh đó, rơm rạ cũng còn được sử dụng để làm ổ cho các loại
động vật nhỏ, tuy vậy việc làm này thường hay dẫn đến gây thương tổn cho
24

24


các con vật ở miệng, mũi và mắt do những sợi rơm rất sắc dễ cứa.
- Làm thức ăn cho động vật: Rơm rạ có thể được sử dụng như một
thành phần thức ăn thô nuôi gia súc để đảm bảo một lượng năng lượng trong
thời gian ngắn. Rơm rạ có một hàm lượng năng lượng và dinh dưỡng có thể
tiêu hóa được. Lượng nhiệt được sinh ra trong ruột của các con vật ăn cỏ, vì
vậy việc tiêu hóa rơm rạ có thể hữu ích trong việc duy trì nhiệt độ cơ thể trong
thời tiết mùa đông lạnh. Do mối nguy hiểm của sự co sát mạnh và hàm lượng
dinh dưỡng thấp, nên việc sử dụng rơm rạ làm thức ăn chỉ nên giới hạn ở một
phần của chế độ ăn cho gia súc (Cục thông tin KH&CN Quốc gia, 2010).
- Trồng nấm: Việc trồng các loại nấm ăn được bằng các phụ phẩm nông
nghiệp như rơm rạ là một quá trình có giá trị gia tăng nhằm chuyển hóa loại
nguyên liệu này từ chỗ được coi là phế thải thành thức ăn cho người. Trồng
nấm được coi là một trong những phương pháp sinh học tận dụng nguồn rơm
rạ có hiệu quả nhất bởi nguồn đầu mẩu rơm rạ có thể dùng quay vong lại

được. Các kết quả nghiên cứu cho thấy việc trồng nấm bằng rơm rạ kết hợp
với hạt bông mang lại hiệu quả chuyển hóa sinh học cao nhất, đạt 12,82%
(được xác định bằng tỷ lệ phần trăm chuyển hóa chất nền thành thân cây nấm
trên cơ sở trọng lượng khô). Hàm lượng protein trong nấm đạt từ 26,3 –
36,7%. Trồng nấm là một trong những phương pháp thay thế để giảm nhẹ các
vấn đề ô nhiễm môi trường liên quan đến các phương pháp xử lý hiện nay
như đốt ngoài trời hay cho cày xới với đất. Trồng nấm trên nền rơm rạ còn
mang lại những biện pháp khuyến khích kinh tế đối với nghề nông, coi nguồn
phế thải như một nguồn nguyên liệu có giá trị và có thể phát triển các cơ sở
kinh doanh sử dụng chúng để sản xuất các loại nấm giàu chất dinh dưỡng
(Cục thông tin KH&CN Quốc gia, 2010).
Rơm rạ còn có thể tận dụng trong nhiều lĩnh vực ứng dụng khác nhau
ví dụ như trong ngành hóa chất rơm rạ được sử dụng làm nguyên liệu thô sản
xuất các sản phẩm hóa chất. Trong lĩnh vực công nhiệp và xây dựng, rơm rạ
có thể tận dụng cho một loạt các ứng dụng như làm các vật liệu xây dựng như
tấm lợp nhà, cách nhiệt, panen tường hay làm giấy…
25

25


×