Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Nghiên cứu thành phần bọ trĩ hại lạc và thiên địch của chúng, đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của loài frankliniella intosa trybom và biện pháp phòng trừ ở nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.48 KB, 47 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC
------

Khoá luận tốt nghiệp
Đề tài :
Vai trò của người phụ nữ
trong gia đình đô thị hiện nay
(Qua khảo sát tại quận hai bà trưng, thành phố Hà Nội)
Ngành : 100210

Giáo viên hướng dẫn : Th.S Lê Phú
Sinh viên thực hiện : Bùi thị Hồng Vân

Hà Nội, 11 - 2002


LỜI CẢM ƠN

Gia đình là sự phản ánh đời sống tinh thần của xã hội trong đó các
thành viên cùng lao động, học tập, yêu thương, bình đẳng và dân chủ,
quan tâm, chăm sóc nhau cùng tiến bộ. Chính vì vậy, nhiệm vụ của người
phụ nữ rất nặng nề với vị trí và vai trò đặc biệt của mình trong gia đình.
Đề tài “Vai trò của người phụ nữ trong gia đình đô thị hiện nay ” một
mặt đưa ra những công việc mà người phụ nữ phải làm trong gia đình và
tham gia hoạt động xã hội, mặt khác thông qua đó để thấy được những
vất vả mà họ phải gánh chịu.
Trong thời gian nghiên cứu, đề tài không thể tránh khỏi những
thiếu sót nên tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của thầy cô giáo
và các bạn đồng nghiệp.


Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy giáo Lê Văn Phú.
Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa và các bạn bè đã
giúp tôi hoàn thành khoá luận.
Xin chân thành cảm ơn.

2


MỤC LỤC

III1-

LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN 1
Lý do chọn đề tài
Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa lý luận
Ý nghĩa thực tiễn
Mục tiêu nghiên cứu
Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
Giả thuyết nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Các khái niệm
Về vai trò
Về gia đình

Đô thị
Khung lý thuyết
PHẦN II - NỘI DUNG
Vài nét về địa bàn nghiên cứu
Nội dung và kết quả nghiên cứu
Người phụ nữ vẫn giữ vai trò chính trong việc nội

4
4
4
6
6
7
8
9
9
9
9
9
10
10
11
13
13
14
16
17
18
18
19

21

2-

trợ, chăm sóc con cái
Người phụ nữ đã có thể tham gia bàn bạc, quyết

31

1.
2.
2.12.23.
4.
4.14.24.35.
6.
6.16.277.17.27.3
8-

định các việc chi tiêu trong gia đình cùng người
3-

chồng.
Người phụ nữ ngày càng có xu hướng tích cực

37

tham gia các hoạt động bên ngoài xã hội để nâng
III12-

cao vai trò của mình

Kết luận và khuyến nghị
Kết luận
Khuyến nghị
TÀI LIỆU THAM KHẢO

46
46
48
50

3


PHẦN I - MỞ ĐẦU
1- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI .
Gia đình là một tế bào của xã hội. Một gia đình hạnh phúc, ấm no
sẽ là nền tảng tốt cho sự phát triển của toàn xã hội. Có thể nói trong gia
đình thì người phụ nữ luôn có một vai trò quan trọng. Từ việc nội trợ,
chăm lo giáo dục con cái… tất cả đều cần đến bàn tay của người phụ
nữ. Ngày xưa vai trò của người phụ nữ chỉ là nội trợ, nuôi dạy con cái
mà không tham gia vào các hoạt động xã hội bởi đã có người chồng là
“trụ cột gia đình” lo. Còn ngày nay khi mà đất nước trong thời kỳ công
nghiệp hoá và hiện đại hoá thì họ đã được khuyến khích tham gia vào
các lĩnh vực của đời sống xã hội. Người phụ nữ ngày nay không chỉ lo
nội trợ, giáo dục con cái mà còn lao động sản xuất, có mặt trong các
hoạt động xã hội. Chính vì vậy mà vai trò của người phụ nữ ngày càng
được nâng cao cả ở trong gia đình và bên ngoài xã hội. Họ không chỉ
tham gia các hoạt động của xã hội để ngày càng trở nên bình đẳng với
nam giới không ngừng nâng cao vị thế xã hội của mình.
Trong thời kỳ đất nước chiến tranh có biết bao cô gái thanh niên

xung phong đã hi sinh khi tuổi đời còn rất trẻ, và còn biết bao người vợ
mất chồng, những bà mẹ mất con… Nhắc lại quá khứ để chúng ta thấy
rằng người phụ nữ có vai trò quan trọng trong đời sống như thế đó. Họ
sẵn sàng hy sinh tuổi trẻ, chịu đựng nỗi đau mất chồng, mất con vì tự
do của dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy mà phụ nữ Việt Nam đã được
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao : “Non sông gấm vóc Việt Nam,
do phụ nữ, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp rực rỡ” (1)
và “nhân dân ta rất biết ơn các bà mẹ ở cả hai miền Nam - Bắc đã hy
sinh đẻ và nuôi dạy những thế hệ anh hùng của nước ta” (2) . Trong kháng
chiến chống Mỹ, Người đã phong tặng phụ nữ Việt Nam tám chữ vàng
“Phụ nữ Việt Nam dũng cảm, đảmđang, chống Mỹ, cứu nước”. Tuyên
(1)

(2) (3)

Gia đình và người phụ nữ.
4


ngôn độc lập mở ra một kỷ nguyên mới cho toàn dân tộc Việt Nam, cho
phụ nữ Việt Nam. Sự nghiệp giải phóng phụ nữ đã bước sang một trong
mới với đầy triển vọng và thành tựu. “Lực lượng phụ nữ là một lực
lượng rất trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không tham gia
vào những cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thể thắng lợi
được”. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam được chính thức thành lập ngày
20 tháng 10 năm 1946, nối tiếp sự nghiệp củả các hội phụ nữ tiền thân
với nhiều tên gọi thích hợp của từng thời kỳ kể từ năm 1930.
Tiếp bước quá khứ, phụ nữ ngày nay đang từng bước thể hiện vai
trò của mình trong các lĩnh vực của đời sống. Nữ công nhân viên chức
nhà nước là lực lượng nòng cốt của phong trào phụ nữ Việt Nam. Họ có

mặt ở mọi ngành, trên mọi lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật, văn hoá
xã hội, chiếm 47% (3) lao động trong khu vực Nhà nước, chiếm 51,5% (3)
lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các ngành lao động
nữ chiếm số đông như giáo dục, y tế, thương mại, công nghiệp nhẹ… tỉ
lệ là khoảng 60 - 70% (3) . Một số lĩnh vực mới phát triển như du lịch,
dịch vụ, tài chính, ngân hàng… lao động nữ trên 50% (3) . Trongcác hoạt
động nghiên cứu khoa học, ngoại giao, quản lý Nhà nước, tỉ lệ nữ cũng
có chiều hướng tăng lên, chiếm khoảng 30% (3) . Phụ nữ nông dân chiếm
khoảng 70% lao động nữ cả nước, là lực lượng có vai trò đặc biệt quan
trọng trong sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Đa số đã
tiếp cận và thích nghi với cơ chế mới, biết ứng dụng khoa học kĩ thuật,
công nghệ mới trong sản xuất nông nghiệp và thực hiện chuyển dịch cơ
cấu kinh tế ở nông thôn. Những năm gần đây, một số nữ nông dân đã
trở thành nhà doanh nghiệp trong khu vực sản xuất nông nghiệp ở nông
thộ. Họ là những người đi đầu của phong trào nữ nông dân trong việc
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá nông nghiệp và xây dựng nông thôn
mới.

5


Đội ngũ trí thức tuy số lượng chữ lớn nhưng có vai trò rất quan
trọng và đang phát triển về số lượng. Tính đến cuối năm 1996 trong đội
ngũ nữ khoa học đã có 237 người được phong Giáo sự, Phó giáo sư, 28
tiến sĩ và 1026 PTS. Có 3 tập thể và 19 cá nhân dược nhận giải thưởng
Kovalevskaia. Trong đội ngũ sáng tạo văn hoá nghệ thuật, có một lực
lượng nhà văn, nhà thơ, nhà báo, hoạ sĩ, nhạc sĩ, diễn viên các loại hình
nghệ thuật… Nhiều tác phẩm của nữ được giải thưởng, nhiều nữ nghệ sĩ
đạt danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú.
Đặc biệt là trong các ngành dệt, may mặc thì phụ nữ làm chủ

doanh nghiệp chiếm tới 80% (3) đã đóng góp đáng kểvào việc tạo ra hàng
chục ngàn chỗ làm việc cho phụ nữ, tạo ra những sản phẩm có chất
lượng, đứng vững trên thị trường đang cạnh tranh gay gắt. Nhiều phụ
nữ đã đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong các cơ quan lãnh đạo
Đảng và Nhà nước. Số nữ Đại biểu Quốc hội khoá X (1997) chiếm tỉ lệ
30,13% (3) . Tất cả những điều này cho thấy rằng Đảng và Nhà nước ta đã
khuyến khích phụ nữ, có những chính sách để nâng cao vai trò của
người phụ nữ khi họ tham gia vào mọi hoạt động của xã hội.
Đề tài “Vai trò của người phụ nữ trong gia đình đô thị hiện nay ”
nhằm tìm hiểu vị trí, vài trò của người phụ nữ trong các công việc gia
đình hay các hoạt động bên ngoài xã hội, để từ đó có những biện pháp,
có những chính sách phù hợp cho người phụ nữ phát huy được phẩm
chất, tài năng của mình, góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, xã hội
bình đẳng văn minh.
Tác giả hy vọng đề tài này sẽ kịp thời đáp ứng nhu cầu nhận thức
về vai trò người phụ nữ trong sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại
hoá đất nước.
2- Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN.
2.1- Ý nghĩa lý luận.
6


“Vai trò của người phụ nữ trong gia đình đô thị hiện nay” là một
trong những vấn đề quan trọng của toàn xã hội. Người phụ nữ luôn
được ví như là “hậu phương vững chắc” cho người chồng, còn những
đứa con thì không thể thiếu được bàn tay chăm sóc của người mẹ.
Trước đây quan niệm “trọng nam khinh nữ” đã kìm hãm vai trò của
người phụ nữ. Họ luôn luôn phải chịu thiệt thòi về nhiều mặt trong cuộc
sống. Nhà nào cũng phải cố đẻ cho bằng được một cậu con trai mà
trước hết là để “Nối dõi tông đường”, sau là để trở thành trụ cột kinh tế

trong gia đình. Chính vì quan niệm ấy mà người phụ nữ trước đây chỉ
quanh quẩn với công việc bếp núc, hầu hạ chồng con. Đất nước bước
vào thời kỳ đổi mới, tầm quan trọng của người phụ nữ trong gia đình
cũng dần dần thay đổi. Họ vừa có thể làm tốt công việc nhà lại vừa
tham gia được các hoạt động bên ngoài xã hội.
Đề tài “Vai trò của người phụ nữ trong giađình đô thị hiện nay”
nhằm trình bày một phương thức tiếp cận dựa trên cơ sở triển khai, vận
dụng các khái niệm vai trò, gia đình, giới để góp phần làm sáng tỏ việc
nghiên cứu vai trò của họ trong bối cảnh xã hội đang có sự chuyển đổi
từ nền kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhiều thành
phần, định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2- Ý nghĩa thực tiễn.
Cùng với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước thì
vai trò của người phụ nữ trong gia đình cũng có những chuyển biến rõ
rệt. Nếu như trước đây người phụ nữ chỉ có biết nội trợ, nuôi dạy con
cái, hầu hạ chồng thì ngày nay phụ nữ đã tích cực tham gia vào các hoạt
động của xã hội. Nghiên cứu “Vai trò của người phụ nữ trong gia đình
đô thị hiện nay” nhằm góp phần hiểu rõ thực trạng, vị trí, vai trò của họ
trong quá trình biến đổi xã hội. Cũng từ đó đề tài đưa ra những chính
sách phù hợp nhằm nâng cao vai trò và vị trí của người phụ nữ trong
gia đình và ngoài xã hội.
7


3. MUC TIÊU NGHIÊN CỨU .
-Tìm hiểu vai trò của người phụ nữ trong gia đình với những công
việc cụ thể như nội trợ, chi tiêu, chăm sóc chồng con.
-Tìm hiểu sự phân công giữa vợ và chồng trong các công việc
chung của gia đình.
-Sự tham gia của người phụ nữ vào các hoạt động xã hội để nâng

cao vị trí, vai trò của mình.
4. ĐỐI TƯỢNG, KHÁCH THỂ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
4.1- Đối tượng nghiên cứu.
Vai trò của người phụ nữ trong gia đình đô thị hiện nay.
4.2- Khách thể nghiên cứu.
Những người phụ nữ và các thành viên trong gia đình.
4.3- Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu các hộ gia đình một cách ngẫu nhiên thuộc quận Hai
Bà Trưng, thành phố Hà Nội.
5. GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU.
-Người phụ nữ vẫn giữ vai trò chính trong các công việc nội trợ,
chăm sóc con cái.
-Người phụ nữ đã có thể tham gia bàn bạc và quyết định việc chi
tiêu trong gia đình cùng người chồng.
-Phụ nữ ngày càng có xu hướng tích cực tham gia các hoạt động
xã hội để nâng cao vai trò của mình.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .
6.1- Phương pháp luận.
6.1.1- Lý thuyết về xã hội hoá.
8


Các nhà khoa học đều thống nhất tại một điệm : Xã hội hoá là một
quá trình, có nghĩa là xã hội hoá có bắt đầu, có diễn biến và có kết thúc.
Nhà xã hội học người Mĩ Neil Smelser đã viết : “Xã hội hoá là
quá trình mà trong đó cá nhân học cách thức hành động tương ứng với
vai trò của mình”.
Còn Fichter (nhà xã hội học người Mĩ) lại cho rằng : “Xã hội hoá
là một quá trình tương tác giữa người này với người khác, kết quả là
một sự chấp nhận những khuôn mẫu hành động và thích nghi với những

khuôn mẫu hành động đó”.
Nhà khoa học người Nga G. Andreeva cho rằng : “Xã hội hoá là
quá trình hai mặt. Một mặt cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội bằng
cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ thống các quan hệ xã
hội. Mặt khác cá nhân tái sản xuất một cách chủ động hệ thống các mối
quan hệ xã hội thông qua chính việc họ tham gia vào các hoạt động xã
hội và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội”.
Ở đây, trong đề tài này người phụ nữ hoà nhập trong các môi
trường xã hội hoá. Họ không những hoàn thiện mình mà còn góp phần
xây dựng các chuẩn mực, giá trị trong gia đình và ngoài xã hội.
6.1.2- Quan điểm về giới.
Quan điểm giới khẳng định và đánh giá cao vai trò của người phụ
nữ. Quan điểm này cho rằng để đạt đến bình đẳng nam nữ cần thay đổi
cơ chế phân công lao động hiện đang quá nhấn mạnh đến mức khác biệt
về giống giữa phụ nữ và nam giới.
Vào những năm 1970 người ta đã tìm cách đưa các vấn đề của phụ
nữ vào các chính sách phát triển nhưng nhìn chung, các nhà nghiên cứu
cũng như các nhà làm chính sách đã không thấy hết được vai trò kinh tế
to lớn của phụ nữ. Nhà kinh tế người Đan Mạch là Ester Boserup với
cuốn “Vai trò của người phụ nữ trong phát triển kinh tế” (1970) được
9


coi là người đầu tiên đặt lại vấn đề về cách nhìn nhận vai trò của người
phụ nữ. Điểm hạn chế của cách tiếp cận này là coi phụ nữ như một
nhóm đặc thù và những giải pháp được đưa ra cũng là những giải pháp
đặc thù.
Trong đề tài này quan điểm tiếp cận giới đòi hỏi việc thu nhập các
chỉ số, chỉ báo về mặt định lượng và định tính của nam nữ, cùng với số
liệu tình hình chung hai giới. Từ đó sẽ có căn cứ khoa học để phân tích,

so sánh, đánh giá cụ thể, chính xác tình hình nam nữ, chỉ rõ nguyên
nhân của thực trạng, phương hướng và biện pháp cụ thể để tạo ra sự
tiến bộ cho hai người trong quá trình phát triển của một quốc gia, một
xã hội.
6.1.3- Quá trình đô thị hoá
Các nhà khoa học thuộc nhiều bộ môn đã nghiên cứu quá trình đô
thị hoá và đưa ra không ít định nghĩa cùng với những đánh giá về quy
mô, tầm quan trọng và dự báo tương lại của quá trình này. Trong số đó
có một định nghĩa về quá trình đô thị hoá khá phổ biến và đã từng được
biết đến trong một thời gian dài. Cơ sở của nó là cách tiếp cận nhân
khẩu học và địa lý kinh tế. Theo định nghĩa này, quá trình đô thị hoá
chính là “sự di cư từ nông thôn vào thành thị, là sự tập trung ngày càng
nhiều dân cư sống trong những vùng lãnh thổ địa lý hạn chế được gọi là
các đô thị”. Đó cũng là quá trình gia tăng tỉ lệ dân cư đô thị trong tổng
số dân của một quốc gia. Dấu hiệu này nhiều khi được xem là dấu hiệu
duy nhất để đánh giá trình độ đô thị hoá của một quốc gia hay một khu
vực. Để bổ sung, còn có thêm các chỉ báo về số lượng, kiểu loại, quy
mô của mạng lưới các đô thị hiện có.
Trong đề tài “Vai trò của người phụ nữ trong gia đình đô thị hiện
nay” thì các gia đình được phỏng vấn đa số là gia đình hạt nhân. Điều
này phù hợp với xu thế mới khi mà các gia đình tự có xu hướng tách rời
gia đình cha mẹ đẻ tạo lập một cuộc sống riêng. Đó chính là những biến
10


đổi về chất lượng trong đời sống đô thị và quá trình đô thị hoá. Và như
vậy cùng với quá trình đô thị hoá này thì vai trò của người phụ nữ trong
gia đình cũng dần dần biến đổi cho phù hợp với công cuộc đổi mới của
đất nước.
Chính họ sẽ là những người phụ nữ hiện đại “Giỏi việc nước, đảm

việc nhà”, tự nâng cao vai trò, vị trí của mình không chỉ trong gia dình
mà cả ngoài xã hội.
6.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể.
Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi : Triển khai nghiên cứu
100 hộ gia đình ngẫu nhiên thuộc quận Hai Bà Trưng, Hà Nội nhằm thu
thập thông tin theo yêu cầu và mục đích của cuộc nghiên cứu .
Phương pháp phỏng vấn sâu : Tiến hành phỏng vấn 5 người phụ
nữ để tìm hiểu sâu hơn về những vấn đề, khía cạnh mà ta thấy cần thiết
trong cuộc nghiên cứu.
Phương pháp quan sát : Kết hợp với các phương pháp khác, trong
quá trình nghiên cứu tại địa phương ta có thể quan sát được thái độ, cử
chỉ, lời nói, hành động của các khách thể mà ta thấy cần thiết cho cuộc
nghiên cứu này.
Phương pháp phân tích tài liệu : Dựa vào các tạp chí, những bài
báo, khoá luận, số liệu… để giúp cho ta phân tích, đánh giá được vai trò
của người phụ nữ trong gia đình đô thị hiện nay.
7. CÁC KHÁI NIỆM.
7.1- Khái niệm về vai trò
Theo ý nghĩa chung nhất thì “Vai trò là một tập hợp các mong đợi,
các quyền và những nghĩa vụ được gán cho một địa vị cụ thể mà địa vị
là một sự xác định vị trí xã hội trong mộ cơ cấu xã hội”.

11


Nhà xã hội học người Mĩ là Broom cho rẳng “Vai trò là cái mà cá
nhân phải làm” tức là nó xác định các hành vi của con người được xem
là phù hợp hay không phù hợp với một địa vị mà người ta chiếm giữ.
Có hai loại vai trò là vai trò hình thức và vai trò cá nhân. Vai trò
hình thức là vai trò xã hội do quyền lực của vị thế xã hội tạo ra. Mô

hình hành vi của vị thế chỉ giới hạn ở phạm vi quyền lực của vị thế đó.
Vai trò cá nhân là vai trò xã hội do uy tín cá nhân tạo ra. Uy tín cá
nhân phụ thuộc vào năng lực hành vi xã hội của mỗi cá nhân nó chứa
đựng những tri thức, kỹ năng lao động, đạo đức, tình cảm, sự đoàn kết
thương yêu lẫn nhau.
7.2- Khái niệm về gia đình.
Anguste Comte (nhà Xã hội học người Pháp) coi gia đình là một
nhóm xã hội cơ bản và quan trọng nhất mang tính lịch sử trong quá
trình tiến triển của xã hội.
Karl Marx (nhà xã hội học người Đức) cho rằng gia đình là mối
liên hệ, thông qua đó và nhờ đó mà thực hiện việc tái sản xuất con
người và cơ cấu của việc tái sản xuất con người.
Hai nhà xã hội học người Mĩ là Burgess và Locke cho rằng “Gia
đình là một nhóm người đoàn kết với nhau bằng những mối liên hệ hôn
nhân, huyết thống hoặc nhận con nuôi tạo thành một hộ đơn giản tác
động lẫn nhau trong vai trò tương ứng của họ, là người chồng, người
mẹ, người vợ, anh em và chị em tạo ra một nền văn hoá chung”.
Tác giả người Liên Xô Khar chep lại nói “Gia đình là một hệ
thống cụ thể lịch sử của các quan hệ qua lại giữa vợ chòng, cha mẹ, con
cái, là một nhóm xã hội nhỏ mà các thành viên gắn bó với nhau bởi các
quan hệ anh em thân thuộc, bởi cộng đồng sinh hoạt, trách nhiệm, đạo
đức và sự cần thiết xã hội của nó được ấn định bởi nhu cầu của xã hội
trong việc tái tạo dân số về tinh thần và sức khoẻ”.
12


Một số nhà khoa học nghiên cứu về gia đình ở Việt Nam cho
rằng : “Gia đình là một thiết chế xã hội (xét trên quan điểm có sự thừa
nhận, phê chuẩn của xã hội đối với các quan hệ hôn nhân gia đình)
đồng thời cũng là một nhóm nhỏ xã hội, có sự tổ chức nhất định về mặt

lịch sử, các thành viên của nhóm gia đình liên hệ với nhau bởi trách
nhiệm qua lại về đạo đức.
Gia đình : Là khái niệm được sử dụng để chỉ một nhóm xã hội
hoàn thành trên cơ sở các quan hệ hôn nhân (quan hệ tính giao vào quan
hệ tình cảm) và quan hệ huyết thống nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó
(cha mẹ, con cái, ông bà, họ hàng nội ngoại). Gia đình có thể hiểu như
một đơn vị xã hội vi mô, nó chịu sự chi phối của xã hội song có tính ổn
đinh, độc lập tương đối. Nó có quy luật phát triển riêng với tư cách là
một thiết chế xã hội đặc thù. Những thành viên gia đình được gắn bó
với nhau về trách nhiệm và quyền lợi kinh tế, văn hoá, tình cảm một
cách hợp pháp, được nhà nước thừa nhận và bảo vệ.
Các khái niệm về gia đình rất đa dạng, dưới góc độ xã hội học gia
đình có thể được hiểu như sau : Gia đình là một cộng đồng được thiết
chế hoá và hình thành trên cơ sở hôn nhân, trách nhiệm pháp luật và
đạo đức giữa vợ chòng con cái và các thành viên ruột thịt cùng chung
sống với nhau trong khoảng thời gian không hạn định.
7.3. Khái niệm đô thị.
Đô thị là một điểm dân cư hiện đại, là nơi tập trung những dân cư
có những hoạt động phi nông nghiệp (chiếm 80%), thực hiện các chức
năng sản xuất công nghiệp, giao thông vận tải, dịch vụ, là nơi tập trung
chức năng quản lý hành chính của một địa phương. Đó còn là trung tâm
chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học của một vùng lĩnh thổ nhất định.

13


8. KHUNG LÝ THUYẾT

Biến đổi tình hình kinh tế - chính trị - xã hội


Cộng đồng

Giađình

Vai trò của người phụ nữ

Hoạt động xã hội

Chăm sóc, nuôi dạy
con cái

14

Nội trợ


PHẦN II - NỘI DUNG
I. VÀI NÉT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
Hà Nội là thủ đô của cả nước, với vị trí là trung tâm văn hoá,
chính trị xã hội. Hà Nội là nơi tập trung các cơ quan đầu não của Trung
ương Đảng, Nhà nước, các đoàn thể xã hội, các đại sứ quán của trên
150 nước, các tổ chức quốc tế…
Hiện nay Hà Nội có 7 quận nội thành : Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng,
Ba Đình, Đống Đa, Thanh Xuân, Tây Hồ, Cầu Giấy; có 4 huyện ngoại
thành : Gia Lâm, Thanh Trì, Đông Anh, Sóc Sơn chia thành các quận
trung tâm, các quận ven và thị trấn trung tâm huyện. Mật độ dân số
trung bình toàn tp là 2835 người/km 2 .
*Nguồn lao động : Mật độ số dân thành thị ở Hà Nội đứng thứ hai
sau thành phố Hồ Chí Minh. Số dân thành thị chiếm gần 60% dân số
toàn thành phó. Lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật lớn mạnh nhất

nước, nơi đây tập trung các cơ quan khoa học đầu ngành với trên 200
viện khoa học, gần 600 trung tâm nghiên cứu và thực nghiệm quốc gia,
có 26 trường đại học và 5 trường cao đẳng với trên 8000 cán bộ giảng
dạy nghiên cứu, mỗi năm đào tạo cho đất nước khoảng gần một vạn cán
bộ có trình độ đại học.
*Kinh tế : Trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kinh tế tập
trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường Hà Nội có tốc độ tăng trưởng
kinh tế liên tục và đều đặn trong thời kỳ từ năm 1991 đến nay. Trong
những năm gần đây, Hà Nội được ưu tiên và tập trung đầu tư trên tất cả
mọi lĩnh vực cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Với chính sách đô thị hoá, mở
rộng Hà Nội gắn với sự phát triển công nghiệp mở mang các ngành dịch
vụ, xây dựng các cơ sở hạ tầng.
Sự tăng trưởng kinh tế Hà Nội trong những năm gần đây đạt ở
mức độ cao so với cả nước. Thời kỳ 1991 - 1996 GDP tăng bình quân
15


11,7%, GDP bình quân đầu người là 680 USD/năm. Giá trị sản lượng
công nghiệp tăng 14,2% năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tích cực, tỷ trọng công nghiệp tăng lên 32%, nông nghiệp còn 5,1% và
dịch vụ thương mại du lịch tăng 6,9%.
Quận Hai Bà Trưng là một trong những quận tập trung nhiều
người di cư từ nông thôn ra thành phố. Diện tích của Quận là 12,8km 2 ,
dân số 306,2 nghìn người, mật độ 23921 người/km 2 .Hiện nay quận có
nhiều công trình mới xây dựng đã và đang hình thành trên trục đường
Giải phóng (quốc lộ 1). Một “làng” đại học phía Nam thành phố đã hình
thành bên cạnh Bộ Giáo dục và đào tạo như các trường Đại học Bách
Khoa, Đại học Xây dựng, Đại học Kinh tế quốc dân…
II. NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .
Lịch sử dân tộc Việt Nam ghi nhận từ thời xa xưa, vai trò của giới

phụ nữ Việt Nam trong trách nhiệm công dân và trách nhiệm người mẹ
như một hình tượng ghi đậm dấu ấn được lưu truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác, một hình tượng thiêng liêng, hình tượng được tôn thờ.
Trong chiến tranh rất nhiều phụ nữ đã tham gia chiến đấu, hy sinh tuổi
trẻ và sức lực vì sự độc lập của dân tộc. Khó có thể kể hết những vất
vả, gian khổ mà họ phải chịu trong bom lửa đạn, thậm chí những vết
thương còn hằn trên người họ khi trái gió trở trời. Sự hy sinh của người
phụ nữ là vô cùng to lớn. Chẳng thế mà đã có rất nhiều bà mẹ Việt Nam
được phong tặng danh hiệu “Bà mẹ Việt Nam anh hùng” vì những đóng
góp cho Tổ quốc.
Ngày nay phụ nữ chiếm 58% (4) dân số và trên 50% (4) lao động của
đất nước. Trên diễn đàn chính trị như Quốc hội số đại biểu nữ chiếm
26,22%. Trong nhiều ngành như nông nghiệp, giáo dục, y tế, công
nghiệp nhẹ, tài chính… phụ nữ cũng luôn chiếm ưu thế từ 50% (4) đến
75% (4) . Đội ngũ trí thức và lao động kỹ thuật nữ ngày càng tăng lên, họ
(4)

Tạp chí Tư tưởng văn hoá tháng 4/2002.
16


đang có mặt ở nhiều vị trí chính trị, kinh tế trọng yếu của đất nước. Đây
là một bước tiến đáng kể về bình đẳng giới, về tạo quyền năng cho phụ
nữ trong xã hội. Phụ nữ đã thực sự đóng góp sức mình vào công cuộc
xây dựng và phát triển đất nước.
Trong gia đình vai trò của người phụ nữ lại càng quan trọng hơn
bao giờ hết. Phần lớn nhận thức xã hội đều ý thức được vị trí quan
trọng của người phụ nữ trong gia đình với thiên chức của người vợ,
người mẹ, người quản lý nuôi dưỡng xã hội nhỏ bé nhưng quan trọng
bậc nhất là gia đình, điều hoà sự hoà nhập của gia đình mình với cộng

đồng xã hội. Cho dù hiện nay người phụ nữ có thể đảm đương nhiều
trọng trách ngoài xã hội, có thể điều hành nàh máy, công ty lớn hay
lãnh đạo những tổ chức xã hội chính trị, có trình độ học vấn cao như
tiến sĩ, thạc sĩ, đảm đưởng cả trách nhiệm làm kinh tế cho gia đình thì
họ vẫn cần biết tề gia nội trợ, biết nuôi dạy con cái chăm ngoan, biết lo
cho chồng, lo cho sức khoẻ của mình, chăm chút nhan sắc để làm đẹp
cho chồng con, cho xã hội. Có thể thấy vai trò của người phụ nữ trong
mỗi gia đình là vô cùng quan trọng và cần thiết. Họ đang ngày càng
khẳng định vị trí của mình trong xã hội và vai trò làm vợ, làm mẹ của
mình trong gia đình.
Qua khảo sát các hộ gia đình ngẫu nhiên ở tại quận Hai Bà Trưng,
Hà Nội về “Vai trò của người phụ nữ trong gia đình đô thị hiện nay”
chúng tôi thu được những kết quả như sau :
1. Người phụ nữ vẫn giữ vai trò chính trong việc nội trợ, chăm
sóc con cái.
Công việc gia đình được đề cập ở đây là một số công việc căn bản
của mỗi gia đình nhằm hướng vào nuôi dưỡng và chăm sóc các thành
viên trong gia đình. Công việc này thường được thực hiện chủ yếu
trong phạm vi gia đình và thường do người phụ nữ hoặc những người
không giữ vai trò quan trọng đóng góp kinh tế cho gia đình thực hiện.
17


Từ xưa đến nay người ta vẫn thường gọi các việc nội trợ gia đình là
những việc vặt. Mặc dù được đánh giá thấp nhưng qua khảo sát đời
sống của các hộ gia đình ta thấy vai trò của công việc gia đình là vô
cùng quan trọng và đó là một khối lượng lớn các công việc, tiêu tốn
nhiều thời gian và sức lực của người thực hiện.
Bảng 1 - Người giữ vai trò nội trợ chính trong gia đình.
Người nội trợ chính


Số người

Tỷ lệ %

Vợ

70

70,0

Chồng

2

2,0

Cả hai

15

15,0

Người khác

13

13,0

Tổng


100

100

Nhìn vào bảng số liệu này ta thấy rằng trong gia đình người làm
nội trợ chính là người vợ với tỉ lệ 70,0%, trong khi đó người chồng chỉ
có 2,0%, cả vợ và chồng là 15,0%, còn người khác là 13,0%. Điều này
cho thấy cho dù là gia đình truyền thống hay gia đình hiện đại thì người
phụ nữ vẫn luôn đóng một vai trò quan trọng trong việc nội trợ và
dường như việc nấu ăn, giặt giũ là chỉ dành cho người vợ mà thôi. Con
số 70,0% cho ta thấy người phụ nữ luôn có bổn phận phải chăm lo cho
gia đình, hầu hạ chồng con từ cái ăn, cái mặc. Việc nội trợ của người
phụ nữ tưởng chừng như đơn giản nhưng thực ra là mất rất nhiều công
sức. Nào là mua bán thực phẩm, nấu ăn, giặt giũ, dọn dẹp nhà cửa… đã
chiếm một lượng thời gian đáng kể. Muốn cho chồng, con được ngon
miệng thì người vợ phải biết được chồng hay con mình thích ăn món ăn
nào nhất và quan trọng hơn cả là người vợ phải biết nấu ăn ngon thì
mới làm cho bữa cơm hấp dẫn. Hay như muốn cho chồng, cho con luôn
luôn được mạnh khoẻ thì nhà cửa lúc nào cũng phải ngăn nắp, gọn
18


gàng, sạch sẽ. Các công việc này tưởng là không có gì quan trọng
nhưng thực ra lại rất cần thiết cho mỗi người phụ nữ trong mỗi gia
đình. Chính vì vậy mà hầu như gia đình nào người nội trợ chính luôn là
người vợ.
2% là con số người chồng giữ vai trò nội trợ chính trong gia đình.
Có thể thấy răng tỉ lệ này là quá khiêm tốn. Sở dĩ người chồng không
quan tâm tới việc nội trợ đó là vì họ nghĩ rằng công việc này là của

người vợ, còn vai trò chính của họ là gánh vác kinh tế. Từ xưa người
đàn ông luôn được coi là trụ cột trong gia đình nên họ chỉ lo kiếm tiền
nuôi vợ con và việc nội trợ thì đã có bàn tay người phụ nữ. Vì lẽ đó mà
trong 100 người phụ nữ thì đã có tới 83 người trả lời rằng người chồng
là trụ cột kinh tế trong gia đình. Qua đây ta có thể thấy quan niệm
người chông lo kinh tế, người vợ lo chăm sóc gia đình và nội trợ là
quan niệm có trong xã hội truyền thống nhưng vẫn còn hiển hiện trong
cuộc sống ngày nay.
Số người trả lời cả hai vợ chồng đều giữ vai trò nội trợ trong gia
đình là 15%. Con số này không phải là lớn nhưng thực sự là một điều
đáng quan tâm trong mỗi gia đình hiện nay. Sự nghiệp đất nước đang
từng ngày tác động tới mỗi gia đình, người đàn ông trong mỗi gia đình
cũng đã chia sẻ, gánh vác việc nội trợ cho người vợ để người vợ ngoài
việc nội trợ có thêm thời gian hoạt động xã hội. Có thể thấy rằng đa số
các cặp vợ chồng trẻ hiện nay luôn giúp đỡ lẫn nhau trong việc nội trợ.
Qua phỏng vấn sâu, chị Quỳnh (25 tuổi, nhân viên văn phòng) cho
biết : “Hai vợ chồng đều đi làm cơ quan nên khi nào chi về muộn thì
đã có anh ấy làm giúp một số việc như đi chợ, dọn dẹp nhà cửa. Tuy là
việc nhỏ nhưng chị cảm thấy rất vui, thoải mái khi anh ấy cũng biết
gánh vác cùng vợ việc nhà. Chị cho rằng đây chính là sự bình đẳng
trong gia đình”.

19


Còn lại là 13% người khác giư vai trò giúp việc nội trợ trong gia
đình. Người khác ở đây ta có thể hiểu là ông hay bà, hoặc là con cái,
hoặc là người giúp việc. Nếu là trong gia đình ba thế hệ (gồm có ông
bà, cha mẹ, con cái) thì chuyện người bà hay con cái làm nội trợ khi bố
mẹ đi làm là phổ biến bởi người già ít khi chịu ngồi yên. Còn con cái

ngoài giờ học cũng có thể giúp bà nấu nướng, quét dọn. Nều là gia đình
khá giả thì thuê người làm để họ đỡ đần việc nhà khi mà cả hai vợ
chồng đều không có thời gian cho chợ búa cơm nước. Hiện nay việc
thuê người giúp việc là rất phổ biến trong các gia đình. Người giúp việc
chủ yếu từ nông thôn nên quan hệ giữa chủ và người làm cũng có nhiều
bất cập. Chính vì vậy mà công việc nội trợ dù thế nào đi chăng nữa vẫn
rất cần bàn tay của người phụ nữ.
Việc nội trợ trong mỗi gia đình là khác nhau nhưng nhìn chung
công việc tưởng như đơn giản này lại chiếm khá nhiều thời gian, đặc
biệt là đối với các gia đình khó khăn về kinh tế. Bảng số liệu dưới đây
cho thấy.

20


Biểu 2 - Thời gian làm nội trợ trong ngày của người phụ nữ.
Số người ~%
100người
~100%
75

50

35
%
4%

25
6%


0-2 h

2-4h

4-6h

Thời gian

Như vậy thời gian làm nội trợ từ 0 - 2 tiếng tỉ lệ là 53%, trên 2 - 4
tiếng là 41%, còn trên 4 - 6 tiếng là 6%. 53% phụ nữ cho rằng từ 0 - 2
tiếng vừa đủ để làm nội trợ, đủ để có một bữa cơm ngon. Nhưng qua
điều tra nghiên cứu cho thấy trường hợp này chỉ xảy ra đối với các gia
đình có điều kiện kinh tế. Họ có thể mua sắmđầy đủ các dụng cụ gia
đình như máy giặt, nồi cơm điện, máy hút bụi,… Chính vì vậy những
người phụ nữ trong những gia đình này cảm thấy đỡ vất vả trong công
việc nội trợ. Còn với những gia đình khó khăn hơn thì công việc nội trợ
chiếm thời gian khá nhiều, trên 4 - 6 tiếng, và có 6% người vợ phải làm
việc vất vả từ chợ búa, cơm nước, giặt giũ, dọn dẹp nhà cửa… Đây là
một tỉ lệ nhỏ nhưng không vì thế mà không đáng quan tâm bởi lẽ phải
làm việc nhiều thì người phụ nữ càng ít có cơ hội tham gia lao động sản
xuất, vui chơi giải trí… Và như thế họ chỉ suốt ngày quanh quẩn với
bếp núc, dọn dẹp mà thiếu đi sự hoà nhập với cuộc sống bên ngoài xã
hội. Chính vì vậy họ sẽ phải phụ thuộc rất nhiều vào người chồng,
không có tiếng nói riêng của chính mình.
21


Có 41% cho rằng thời gian làm nội trợ trong ngày là trên

2- 4


tiếng. Đây là tỉ lệ không cao nhưng cũng không nhỏ nên có thể coi đó là
thời gian phù hợp để làm các công việc nhà. Đó cũng là thời gian đủ
cho mỗi người phụ nữ vừa đảm đương công việc xã hội, vừa lo toan đến
việc nàh. Họ biết dung hoà giữa việc cơ quan với công việc gia đình để
đảm bảo cho mỗi thành viên trong tổ ấm của mình luôn cảm thấy thoải
mái.
Tuy công việc nội trợ luôn gắn với vai trò người phụ nữ nhưng
trong gia đình hiện nay, người chồng đã biết giúp đỡ người vợ những
công việc vặt để cho người vợ cảm thấy được sẻ chia.
Bảng 3 - Người chồng có giúp đỡ vợ trong việc nội trợ
Mức độ
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Không bao giờ
Tổng

Số người
23
49
28
100

Tỷ lệ %
23,0
49,0
28,0
100

Như vậy người chồng thường xuyên giúp đỡ người vợ trong việc

nội trợ với tỉ lệ là 23%, thỉnh thoảng là 49%, còn không bao giờ là
28%. Qua con số này ta thấy số người chồng không bao giờ giúp đỡ
người vợ trong việc nội trợ cao hơn số người chồng thường xuyên giúp
đỡ vợ. Đây có thể coi là một nỗi buồn cho những người vợ không bao
giờ nhận được sự chia sẻ của người chồng trong công việc nội trợ. Và
như vậy vốn vất vả người phụ nữ sẽ càng vất vả hơn khi phải vừa lo
công việc ngoài xã hội, vừa lo công việc gia đình mà không có sự trợ
giúp của người chồng. Tuy nhiên với tỉ lệ 23% người chồng thường
xuyên giúp đỡ vợ con trong việc nội trợ là con số đáng quan tâm. Đây
thực sự là những người đàn ông biết chia sẻ với người vợ công việc gia
đình. Việc người chồng thường xuyên giúp đỡ vợ làm nội trợ nằm trong
đa số các gia đỉnh trẻ hiện nay. Các gia đình này nhận thức được đã là
một gia đình thì hai vợ chồng nên chia sẻ với nhau mọi công việc,
22


không phân biệt việc này của phụ nữ, việc kia của nam giới. Có như
vậy trong gia đình mới có sự bình đẳng giữa vợ và chồng. Còn lại 49%
số người chồng thỉnh thoảng giúp đỡ vợ việc nội trợ. Số người này cần
được tiếp tục động viên, khuyến khích. Dẫu sao việc người chồng thỉnh
thoảng giúp đỡ vợ việc nội trợ cũng sẽ là nguồn động viên người vợ.
Trong điều kiện đất nước đang từng ngày đổi mới như hiện nay thì việc
người chồng giúp đỡ vợ nội trợ trong gia đình là điều rất cần được
khuyến khích và cần được phát huy, góp phần xây dựng sự bình đẳng
trong đời sống gia đình.
Bên cạnh việc giữ vai trò nội trợ chính trong gia đình thì người vợ
còn phải lo chăm sóc con cái, dạy dỗ chúng.
Bảng 4 - Việc chăm sóc, dạy dỗ con cái trong gia đình.
Chăm sóc con cái (ăn


Dạy dỗ con cái (dạy học

Người

uống, sinh hoạt, vui

cho con, họp phụ huynh

tham gia

chơi giải trí)
Số người
Tỉ lệ %
61
61,0
6
6,0
32
32,0
1
1,0

cho con)
Số người
Tỉ lệ %
42
42,0
19
19,0
37

37,0
2
2,0

Vợ
Chồng
Cả 2
Người
khác
Tổng

100

100,0

100

100,0

Nhìn vào bảng số liệu này ta thấy việc chăm sóc con cái (bao gồm
ăn uống, sinh hoạt, vui chơi giải trí) do người vợ đảm nhiệm chiếm tỉ lệ
là 61%, người chồng là 6%, cả hai vợ chồng cùng chăm sóc con là 32%
và chỉ có 1% tỉ lệ dành cho người khác. Rõ ràng là người phụ nữ cũng
có vai trò to lớn trong việc chăm sóc con cái (với 61%) và người chồng
chỉ có 6%. Điều này cũng thật dễ hiểu bởi người mẹ bao giờ cũng luôn
gần gũi, quan tâm, lo lắng cho đứa con, theo dõi từng bước trưởng
thành của chúng. Thiên chức của người phụ nữ là làm vợ, làm mẹ nên
họ hiểu được bổn phận của mình trong gia đình. Không những lo cho
23



chồng họ còn phải quan tâm tới con, lo cho chồng con cái ăn, cái mặc.
Người phụ nữ luôn có đức tính cẩn thận, chu đáo do đó việc chăm sóc
con cái rất cần tới bàn tay của họ. Ta có thể thấy được sư lo lắng của họ
khi con ốm hay niềm vui khi thấy con mình khoẻ mạnh. Họ lo cho con
từ cái ăn uống, sinh hoạt cho đến những hoạt động vui chơi giải trí nào
được con ưa thích…
Việc chăm sóc con cái của người phụ nữ trong gia đình vì thế có
vai trò rất lớn. Và cho dù ở xã hội truyền thống hay xã hội hiện đại thì
thiên chức này luôn được phát huy. Tuy vậy qua khảo sát tại quận Hai
Bà Treưng chúng tôi thấy rằng việc chăm sóc con cái giờ đây không
phải do người vợ đảm nhiệm mà ngày nay người chồng đã cùng tham
gia vào việc chăm sóc cho con. Tỉ lệ 32% cả vợ lẫn chồng quan tâm
chăm sóc con cái cho thấy người chồng đã có sự chuyển biến tích cực
khi cùng người vợ lo lắng cho đứa con về mọi mặ ăn uống, sinh hoạt,
vui chơi giải trí. Điều này cũng cho thấy người chồng đã nhận thức
được đây là công việc chung nên họ cũng đã xác định bổn phận chăm
sóc con cái.
Ngoài việc chăm sóc con thì người vợ cũng chiếm một tỉ lệ không
nhỏ trong việc dạy dỗ con cái với 42%, người chồng là 19%, cả hai vợ
chồng là 37% và người khác chiếm tỉ lệ rất nhỏ là 2%. Người phụ nữ
không những chu đáo mà còn tỉ mỉ, kiên nhẫn khi dạy dỗ con. Nghị
quyết 04/NQ-TW của Bộ chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đã xác định
: “Phụ nữ vừa là người lao động, người công dân, vừa là người mẹ,
người thầy đầu tiên của con người

(5)

. Người mẹ bao giờ cũng dạy cho


con ngay từ bước đi đầu tiên. Vai trò của họ trong việc dạy dỗ con cũng
không thể thiếu. Ở đây vai trò người chồng chiếm tỉ lệ 19% trong việc
dạy dỗ con. Tỉ lệ này nhỏ hơn so với tỉ lệ của người vợ, bởi trong gia
đình thì người cha l;uôn nghiêm khắc với con, còn người mẹ thì lại luôn
luôn gần gũi, dịu dàng. Tuy nhiên việc dạy dỗ con là một công việc rất
24


quan trọng, nên rất cần có sự phối hợp của cả bố lẫn mẹ. Con số 37% cả
hai vợ chồng cùng tham gia dạy dỗ con học là tỉ lệ chưa cao nên rất cần
được quan tâm. Việc giáo dục con cái trong gia đình hiện nay rất được
coi trọng và có vị trí đặc biệt cả ở nông thôn và thành thị. Nhân cách
của mỗi người được hình thành như thế nào chủ yếu là do giáo dục gia
đình. Chính vì vậy cả người chồng lẫn người vợ nên thường xuyên dạy
bảo cho con những điều tốt đẹp, là tấm gương sáng cho con noi theo bởi
lẽ trẻ em là tương lai của đất nước. Qua phỏng vấn sâu, chị Thúy (41
tuổi, bán hàng) cho biết “Gia đình chị có hai cháu. Cháu lớn học lớp
11, cháu nhỏ đang học lớp 4. Cả hai vợ chồng đều đi làm nhưng vẫn
phải quan tâm tới việc học của các cháu. Vợ chồng phân công mỗi
người kèm một đứa học, họp phụ huynh cũng thế. Nếu một trong hai
người bận thì người còn lại sẽ vất vả hơn ”. Như vậy có thể thấy rằng
việc dạy dỗ con cái là rất quan trọng trong xã hội hiện nay và đó là
công việc chung của cả vợ lẫn chồng.
Qua những nội dung phân tích trên đây ta thấy rằng cho dù ở xã
hội truyền thống hay xã hội hiện đại thì người phụ nữ vẫn luôn đóng
góp vai trò chính trong việc nội trợ, chăm sóc, dạy dỗ con cái. Những
công việc này tưởng như là đơn giản nhưng thực ra chiếm khá nhiều
thời gian và công sức. Tuy nhiên với sự chuyển đổi của đất nước hiện
nay thì người chồng cũng đã tích cực tham gia vào các công việc trong
gia đình, giúp đỡ cho người vợ một số việc. Người chồng thực hiện các

việc như nội trợ, chăm sóc, giáo dục con không còn là điều đáng ngạc
nhiên nữa, mà cả người vợ lẫn người chồng đều nhận thức được rằng đó
là các công việc chung và quan trọng, nhất là việc dạy dỗ giáo dục con.
2- Người phụ nữ đã có thể tham gia bàn bạc, quyết định các
việc chi tiêu trong gia đình cùng người chồng.
Trong gia đình có rất nhiều khoản chi tiêu khác nhau. Những chi
tiêu thường nhật cho sinh hoạt, ăn uống thường do người phụ nữ chủ
25


×