Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

he thống đường ống làm hàng trên tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.41 KB, 6 trang )

Có bốn kiểu sau:
− Hệ thống đường ống trực tiếp ( Direct line system)
− Hệ thống đường ống vành đai ( Ring main system)
− Hệ thống đường ống hỗn hợp ( Combined system)
− Hệ thống đường ống tự chảy ( Free – flow system)

• Hệ thống đường ống trực tiếp ( Direct line system)
Các tàu dầu lắp đặt hệ thống đường ống trực tiếp sẽ có các khoang hàng
được chia thành từng hệ thống (hoặc nhóm).
Mỗi hệ thống đều có các bơm và đường ống phục vụ riêng. Các đường
ống riêng rẽ chạy từ bơm hàng dọc theo đáy tàu đến các két nằm trong hệ
thống bằng các ống nhánh ngắn.
Trên các tàu trọng tải khoảng 20 000 tấn thì đường kính của ống từ 10
đến 12 inches (25 -30 cm), còn trên các tàu dầu thô VLCC thì đường kính
ống vào khoảng 36 inches (91 cm).
Hệ thống đường ống trực tiếp có ưu điểm là đơn giản nhưng ngày nay
không còn phổ biến nhất là trên các tàu dầu thô vì kém linh hoạt so với hệ
thống đường ống khác.

Loại 3 bơm hàng

• Hệ thống đường ống vành đai/tuyến vòng chính (Ring
main system)
Hệ thống này được lắp đặt cho các tàu có tuyến ống chính nằm ở giữa
tàu. Mỗi một két có 2 đường ống hút:
- Một hút trực tiếp
- Một hút gián tiếp.


Đường hút trực tiếp cho các két mạn trái đều ở tuyến ống mạn trái và nối
đến máy bơm hàng mạn trái;


Đường hút gián tiếp cho các két mạn trái được nối vào tuyến ống mạn phải
và đi đến bơm hàng mạn phải.
Van chính được trang bị cho mỗi tuyến ống giữa các két, vì vậy cho phép
ngăn cách các két riêng biệt nếu cần thiết

Đối với loại tàu có 2 vách dọc chia két hàng thành các két mạn và két
trung tâm thì hệ thống đường ống vòng chính sẽ được lắp đặt chạy vòng
quanh tàu bên trong các két mạn nối thông với nhau từ phía này sang phía
kia ở các két mũi và lái như trong hình vẽ dưới. Mỗi một két mạn đều có
một đường hút nối vào tuyến ống chính đi qua két. Các két giữa có 2 đường
hút: một đường dẫn đến tuyến ống mạn trái và một đường dẫn đến tuyến ống
mạn phải. Có các van để tách riêng biệt giữa các két, đường kính tuyến ống
chính là 12 inches còn đường kính của các đường ống hút là 10 inches
Một trong những nhược điểm cơ bản của hệ thống đường ống vòng chính
là phải cung cấp số lượng ống và van nhiều hơn do đó tốn nhiều chi phí hơn
cho hệ thống đường ống. Thêm vào đó là dễ nhầm lẫn nhất là khi tàu xếp dỡ
nhiều loại hàng cùng lúc, tuy nhiên nó có ưu điểm là mang tính linh hoạt cao
so với hệ thống đường ống trực tiếp

• Hệ thống đường ống hỗn hợp ( Combined system)
Các tàu dầu hiện đại hệ thống đường ống thường thiết kế theo kiểu hỗn
hợp, kết hợp giữa tính linh hoạt của kiểu vành đai và tính đơn giản của kiểu
trực tiếp. Hầu hết các tàu chở dầu sản phẩm thường lắp hệ đường ống hỗn
hợp sao cho dễ tác nghiệp cùng một lúc nhiều loại hàng hoá.
Các khoang hàng được phân chia thành từng nhóm, các nhóm két hàng
nối với các máy bơm khác nhau theo từng đường ống riêng biệt, từ máy bơm
chạy dọc đáy các két hàng dẫn đến các khoang chỉ định trong nhóm bằng
những ống nhánh ngắn giống như ở hệ thống đường ống trực tiếp. Trên các
tàu cỡ trung các đường ống hàng này có đường kính từ 25 – 30 cm (10 đến
12inch); đối với các tàu VLCC thì đường kính lớn đến 91cm (36 inch).



(Hệ đường ống của hình trên là điển hình của một chiếc tàu dầu sản phẩm
gồm có 6 hầm giữa và 8 hầm mạn mỗi bên.)
Hầm số 2 giữa và hầm 5 giữa có dung tích gấp đôi các hầm giữa khác.
Ở đây có bốn hệ đường ống được đánh dấu bằng các màu khác nhau: đỏ,
xanh, vàng và lục chạy suốt chiều dài của tàu dưới đáy hầm.
Đường ống màu đỏ và màu lục được nối với nhau bằng 7 đường ống liên
thông (crossover line).
Đường ống màu xanh và màu vàng cũng được nối với nhau bằng 5
đường ống liên thông khác.
Cách sắp xếp trên sơ đồ cho thấy còn có 6 cặp van liên thông nối trực
tiếp giữa hai hệ đường ống màu xanh/vàng và đỏ/lục cho phép hàng hoá có
thể được chuyển từ hệ đường ống này sang hệ đường ống khác khi cần thiết.
Các phân đoạn trên các hệ đường ống có thể được ngăn cách bằng các van,
các van nằm trên đường ống chính gọi là các van chủ (master valve) và các
van nối giữa hai hệ đường ống, như vừa nói ở trên, gọi là van liên thông (
crossover valve).
Ngoài ra trong mỗi hầm hàng còn có một van đặt ngay miệng ống nhánh
trong hầm dùng để điều chỉnh hàng hoá trong những trường hợp phải điều
chỉnh chênh lệch mớn nước và ổn tính của tàu. Các van được điều khiển
bằng một trong hai cách, hoặc điều khiển tự động từ buồng điều khiển bơm
hoặc điều khiển bằng tay thông qua tay van đặt trên mặt boong gắn liền với
các van nối vào van nằm sâu trong khoang hàng.
Ở hầm hàng cuối cùng sát buồng bơm, bốn đường ống hàng chính xuyên
qua vách ngăn chạy vào buồng bơm và nối vào các máy bơm hàng. Khi dỡ
hàng, các đường ống dỡ hàng được nối vào các máy bơm, thông qua đường
ống trên mặt boong nối vào đầu ống bốc dỡ (cargo manifold), từ đó hàng
hoá được bơm lên bờ. Khi cần, bằng cách sử dụng các van liên thông có thể



nối một hoặc nhiều bơm vào một đường ống dỡ hàng để tập trung dỡ hết
hàng tại một hầm hàng nào đó.
Tuy nhiên, cách bố trí tiện lợi nhất cho kiểu tàu chở nhiều loại sản phẩm
(chẳng hạn bốn loại) là mỗi máy bơm phụ trách một đường ống bơm một
loại dầu sản phẩm từ một số khoang nhất định, nhờ đó có thể bơm cùng một
lúc bốn loại hàng, làm tăng nhanh tốc độ dỡ hàng, giảm thời gian dỡ hàng tại
cảng. Dĩ nhiên là trên bờ phải đủ thiết bị để có thể tiếp nhận hàng với tốc độ
giao hàng nhanh như vậy.
Khi xuống hàng lên tàu, mặc dù có thể cho các loại hàng khác nhau chảy
qua đường ống buồng bơm, nhưng trong thực tiễn thường dùng đường ống
rót hàng trực tiếp. Trên hình ta thấy có 8 đường ống rót hàng trực tiếp nối
vào các đường ống đáy khoang, đó là do mỗi đường ống chính trên mặt
boong được nối với 2 đường ống nhận hàng trực tiếp: một nằm phía trước và
một nằm phía sau bộ đầu nối với ống bờ. Bằng đường ống rót hàng trực
tiếp, dầu sản phẩm đi từ manifold qua các đường ống trên mặt boong chảy
vào các đường ống dưới đáy khoang hàng mà không cần qua buồng bơm
nhờ đó có thể tránh rò rỉ dầu trong buồng bơm.

• Hệ thống đường ống tự chảy ( Free – flow system)
Hệ thống này thường được áp dụng trên các tàu chở dầu thô. Đường ống
trên tàu dầu thô ít phức tạp hơn trên tàu chở dầu sản phẩm, trên tàu dầu thô
số lượng hầm hàng ít hơn vì không cần phải chở hơn hai loại hàng hoá cùng
một lúc.
Hệ thống đường ống của nó cũng đơn giản hơn nhờ giảm số lượng đường
ống và lắp nhiều van cửa (sluice valve) giữa các vách ngăn. Các van cửa là
những tấm cửa lắp trên vách ngăn có thể nâng lên hạ xuống nhờ piston
thuỷ lực để cho dầu có thể chảy tự do từ khoang này sang khoang kia. Hai
đường ống hàng nằm sát dưới đáy khoang chủ yếu dùng cho việc “châm
đầy” (topping up) hàng ở giai đoạn cuối cùng của việc xếp hàng. Hai đường

ống này còn được dùng để “vét”(stripping) lượng hàng còn sót lại trong
khoang ở giai đoạn cuối cùng khi dỡ hàng.


Hình minh hoạ là sơ đồ bố trí đường ống trên một tàu dầu thô điển hình
có 4 vách ngăn ngang
Hai đường ống hàng dưới đáy được nối với bốn máy bơm hàng chính
thông qua các đoạn ống nối liên thông, trên mỗi ống đều có đặt van. Các
bơm hàng lại được nối vào đường ống hút chính nằm ở phía cuối hầm 4
giữa. Nhờ có mớn nước bình thường dìm lái, dầu chảy tự do về phía sau
thông qua các van cửa đã mở vì vậy được gọi là hệ thống tự chảy (Free –
flow system ), chính từ đường ống hút này mà hàng hoá được bơm và hút ra
ngoài cho đến khi hút cạn.
Dầu từ bốn máy bơm được đẩy lên trên theo đường ống dỡ hàng dọc theo
mặt boong đến manifold và đẩy ra khỏi tàu. Giống như trên tàu chở dầu sản
phẩm, trên mặt boong tàu chở dầu thô cũng có các đường ống xếp hàng trực
tiếp, hai trong số các đường ống đó được nối vào các đường ống đáy. Còn
các đường ống rót hàng trực tiếp khác thì được dẫn thẳng xuống khoang 1 và
3. Tại đây khi mở các van cửa ở vách ngăn, hàng có thể chảy từ khoang 1 và
khoang 3 qua các khoang khác.
Từ trên hình vẽ ta còn nhìn thấy phía bên trái có một đường ống chạy từ
phía trước về một bơm độc lập nằm ở phía trái của buồng bơm. Bơm này
dùng để phục vụ cho các khoang ballast cố định gồm có két ballast mũi,
ballast trước và khoang mạn số 3. Đường ống cùng với bơm ballast độc lập
này cho phép lấy hoặc bỏ balát đồng thời cùng một lúc khi dầu thô được bốc
lên tàu, nhờ đó đảm bảo không phát sinh ứng suất có hại có thể làm tàu biến
dạng khi bốc hàng.

● Hệ thống vét (Stripping system)
Chức năng chính của hệ thống vét là vận chuyển phần hàng hoá hoặc

ballast còn lại bên trong các hầm hàng sau khi các bơm chính đã bơm ra
phần lớn. Chức năng thứ 2 không kém phần quan trọng là vận chuyển, hút
khô các két và nước rửa két còn đọng lại ở đáy khi tiến hành rửa két.


Hệ thống vét có thể gồm một hoặc hai đường ống phục vụ cho tất cả các
khoang hàng. Thông thường thì hệ thống vét tách biệt khỏi hệ thống đường
hút chính nhưng cũng có thể nối sang hệ thống đường hút chính này nhờ các
van và vì vậy cũng có thể sử dụng máy bơm vét và đường ống vét để xúc rửa
đường ống chính. Từ bơm vét, dầu sẽ được chuyển lên bờ thông qua đường
ống dỡ hàng chính, còn dầu cặn thì được nối vào đường ống đi đến các két
lắng (slop tanks). Tuy nhiên trong một số trường hợp hệ thống vét bị loại bỏ
và các bơm vét của tàu buộc phải sử dụng đường ống chính .Làm như vậy
đồng nghĩa với vịêc kéo dài thời gian thực hiện công việc bơm vét hầm
Trên các tàu nhỏ, đường ống vét thường có đường kính khoảng15cm
(6inches), còn trên các tàu lớn thì đường kính là 30 cm (12 inches). Nói
chung bơm vét thường là loại máy bơm piston (bơm thể tích ) lai bằng hơi
nước hay là bơm bánh răng lai bằng motơ điện, cũng có thể là bơm trục vít
hoặc bơm phụt (thiết bị hút theo - eductor). Trên một số tàu, các bơm phun
tia đôi khi được sử dụng để hỗ trợ trong quá trình vét trong hầm hàng tạo sự
làm việc nhanh và độ tin cậy cao. Chúng hạn chế hiện tượng ăn mòn làm vỡ
đối với các bơm vét hàng do các cặn cơ học, bùn có thể được hút ở trạng thái
nguyên dạng vào các van và các cánh bơm.



×