Tải bản đầy đủ (.doc) (51 trang)

Chính sách đối ngoại đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.29 KB, 51 trang )

A.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm
vào khủng hoảng "toàn diện và nghiêm trọng", cuối cùng đi đến sụp đổ trên
một bộ phận lớn đã làm thay đổi cơ bản quan hệ chính trị thế giới. Bên cạnh
đó cuộc cách mạng khoa học-công nghệ hiện đại đã và đang tác động đến tất
cả các quốc gia dân tộc với mức độ khác nhau. Chủ nghĩa tư bản sử dụng
những thành tựu của cách mạng khoa học - công nghệ nên thích nghi và tiếp
tục phát triển. Các quốc gia trong cộng đồng thế giới đều điều chỉnh chính
sách đối ngoại để phù hợp với tình hình mới.
Trong bối cảnh quốc tế như vậy, quan hệ quốc tế dường như đã chuyển
từ đối đầu sang đối thoại, thế hai cực bị phá vỡ, từ đó làm nảy sinh xu hướng
đa dạng hoá, đa phương hoá trong tiến trình toàn cầu hoá, phát triển và phụ
thuộc lẫn nhau. Toàn cầu hoá về kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ
quốc tế, được ưu tiên phát triển và trở thành vấn đề chính trong quan hệ quốc
tế hiện nay. Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và
ASEAN là khu vực phát triển kinh tế năng động với tốc độ cao, chính trị
tương đối ổn định, đang trở thành trung tâm kinh tế. Tiến hành đổi mới toàn
diện đất nước bắt đầu từ năm 1986, Việt Nam đã thu được nhiều thắng lợi. Là
một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của Đảng, đường lối và chính sách
đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã cho phép khai thác có
hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
chống chiến lược "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch, hòng phá hoại
thành quả cách mạng Việt Nam bảo vệ vững chắc tổ quốc và đưa cách mạng
Việt Nam tiếp tục tiến lên.
Những biến đổi to lớn trong nước và thế giới trong những năm (19801990) đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi Đảng và Nhà nước Việt
Nam phải đưa ra những giải pháp ngang tầm với những biến đổi đó. Bằng sự
1




nhạy cảm chính trị, kinh nghiệm, lãnh đạo cách mạng, Đảng đề ra đường lối
đổi mới đất nước và tiến hành tự đổi mới để hội nhập với cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc, hợp tác và phát triển. Trên cơ sở đổi
mới chính sách đối nội đã hình thành và phát triển chính sách đối ngoại mới
giàu sức hấp dẫn đã tranh thủ được các dân tộc trong cộng đồng thế giới hợp
tác với Việt Nam.
Chính sách đối ngoại đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam trong một
thế giới mới đầy biến động đã đáp ứng được những yêu cầu xây dựng và phát
triển đất nước. Nó đã sáng tạo những hình thức đối ngoại mới phù hợp với
xu thế thời đại. Nên đã thu được những thành tựu to lớn. Những thành tựu đối
ngoại đã góp phần quan trọng phá thế bao vây, cô lập về chính trị, dỡ bỏ cấm
vận về kinh tế, đưa Việt Nam hoà nhập với khu vực và thế giới, khẳng định vị
trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, khẳng định tư duy chính trị nhạy bén, sâu sắc,
giàu kinh nghiệm trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới
từ năm 1986 đến nay, đổi mới tư duy đối ngoại, đường lối đối ngoại đổi mới
được công bố tại diễn đàn Đại hội VII, Đại hội VIII, Đại hội IX , Đại hội X,
Đại hội XI đã khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo, nhạy bén trong việc hoạch
định và thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng. Chính sách đối ngoại của
Đảng thời kỳ hiện nay thể hiện bản sắc, truyền thống ngoại giao Việt Nam
trong lịch sử và được nâng lên tầm cao mới vì vậy tôi chọn đề tài :“Chính
sách đối ngoại đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở Việt Nam
hiện nay” nhằm làm rõ những quyết sách đúng đắn sáng tạo của Đảng sau
gần 20 năm đổi mới, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cập nhật những vấn đề lý
luận đặt ra hiện nay. Hy vọng dưới nhãn quan của mới của thế hệ trẻ, sẽ đánh
giá một cách hệ thống nhất về tầm quan trọng chính sách đối ngoại mới của
việt Nam.


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2


Chính sách đối ngoại của Đảng trong thời kỳ đổi mới hiện nay trở thành
chủ đề hấp dẫn nhiều giới nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy nhiên cho đến
nay những công trình chuyên khảo, luận văn về vấn đề này hầu như chưa có.
Hiện tại có một số bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng - Nhà
nước, Bộ ngoại giao, Cục đối ngoại, Bộ quốc phòng, Viện quan hệ quốc tế đề
cập đến vấn đề này gồm những bài sau đây:
1. “Nền ngoại giao đổi mới” của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong bài trả
lời phỏng vấn Báo quan hệ quốc tế đầu xuân năm 1994.
2. “ Những vấn đề cơ bản của chính sách đối ngoại của nước Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa việt Nam ” và “ Việt Nam trên đường triển khai chính sách
đối ngoại theo định hướng mới” của nguyên Phó Thủ tướng Nguyễn Mạnh
Cầm 1995.
3. “Một số vấn đề quốc tế của Đại hội Đảng VIII của nguyên Phó Thủ
tướng Vũ Khoan, đăng trên tạp chí Quốc tế, 1997.
4. “Chính sách đa dạng hóa” của Nguyễn Ngọc Trường đăng trên tuần
báo quốc tế, 2006.
Các bài nói và bài viết đã thể hiện một cách sâu sắc và đầy đủ về tư
tưởng và những vấn đề cơ bản của chính sách đối ngoại Việt Nam mới.
Bên cạnh đó các cuốn sách viết về chính sách đối ngoại Việt Nam mới
như:
1. “Chính sách của Mỹ và Trung Quốc với Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay” của Viện Quan hệ quốc tế 1995-1996.
2. “Lịch sử thế giới và việc chúng ta muốn làm bạn với tất cả các nước”
của Nguyễn Quốc Hùng, Viện nghiên cứu lịch sử Đảng, tháng 5/2001.
3. “Bối cảnh quốc tế và quá trình hội nhập của Việt Nam hiện nay”
Nguyễn Ngọc Tường, 2006.

4. Chính sách đối ngoại đổi mới ở Việt Nam (1986 – 2010) của PGS.TS
Phạm Quang Minh.

3


….Cũng đã thể hiện một cách đầy đủ và rõ ràng quan điểm, nội dung cơ
sở của những vấn đề liên quan đến chính sách đối ngoại Việt Nam mới của
Đảng và Nhà nước đề ra.
Ngoài ra cũng có khá nhiều đề tài, công trình nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học, nghiên cứu sinh và sinh viên về chính sách đối ngoại thể hiện đầy
đủ nội dung, chương trình cụ thể của của chính sách. Tuy vậy hầu hết vẫn
chưa có một đề tài nào ngiên cứu một cách đầy đủ và toàn diện về tầm quan
trọng và vai trò của chính sách đối ngoại đối với công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu:
Đề tài trên cơ sở làm rõ những vấn đề cơ bản của Chính sách đối ngoại
Việt Nam để nêu bật nên vai trò và tầm quan trọng của nó đối với sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc; qua đó rút ra những đề xuất, giải pháp riêng có
nhằm góp phần nâng cao chất lượng thực hiện chính sách đối ngoại việt Nam
mới hiện nay.
Nhiệm vụ:
Để đạt được mục tiêu trên đề tài cần làm rõ những nhiệm vụ sau:
- Khái quát những vấn đề cơ bản khái niệm và cơ sở hình thành nên
đường lối, chính sách đối ngoại Việt Nam mới.
- Làm rõ tầm quan trọng và vai trò to lớn của việc thực hiện chính sách
đối ngoại với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt

động của chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn mới.

4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài kkhông đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện chính sách đối ngoại
của Việt Nam nhưng dựa trên những cơ sơ hình thành và phát triển, nội dung
cũng như những thành, hạn chế của chính sách để nêu bật nên tầm quan trọng
4


và vai trò to lớn của việc thực hiện chính sách đối ngoại đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc ở Việt Nam hiện nay.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và những nguyên lý cơ bản nhất của khoa học chính trị
nghiên cứu về việc thực hiện chính sách quốc gia của các nước trên thế giới
và những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt nam về
việc hoạch định, xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách quốc gia hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu:
Được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin
đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp chung như:
- Phương pháp logic-lịch sử
- Phương pháp phân tích-tổng hợp
- Phương pháp phân tích tài liệu
- Phương pháp so sánh.

6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Khi thực hiện đề tài, tác giả đã cố gắng vạch ra một cách nhìn mới đối

với việc thực hiện chính sách đối ngoại với sự tác động của nó tới sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Nhưng giá trị thực tiễn mà cũng là cái mới của đề tài mang lại ở đây là:
trong xu thế phát triển của thời đại, cũng như những biến động khó lường của
tình hình quốc tế cũng như những yêu cầu phát triển của đất nước và sự tranh
chấp các khu vực ảnh hưởng của các nước trên thế giới. Yêu cầu đặt ra cho
Việt Nam là phải ứng xử như thế nào cho phù hợp để bảo vệ lợi ích của mình
mà không gây ra mâu thuẫn, đảm bảo cho sự phát triển. Đồng thời nhắc nhở
thế hệ trẻ phải biết phát huy năng lực sáng tạo và khả năng học hỏi để góp
phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn hiện nay.
5


7. Kết cấu đề tài
Bài tiểu luận không tính phần mở đầu, phần kết thúc danh mục tham
khảo thì gồm ba chương.

Chương 1: Những vấn đề cơ bản của chính sách đối ngoại đổi mới ở
Việt Nam.

Chương 2: Tầm quan trọng và những đóng góp của việc thực hiện
chính sách đối ngoại đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
hiện nay.

Chương 3: Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng thực
hiện chính sách đối ngoại mới của Việt Nam.

6



B. NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI
NGOẠI ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
1.1. Nguyên nhân hình thành chính
sách đối ngoại đổi mới.
Trong thế kỷ 21 tiếp tục chứng kiến
nhiều biến đổi phức tạp và khó lường.
Toàn cầu hoá tiếp tục phát triển sâu rộng
và tác động tới tất cả các nước. Các quốc
gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích
cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Hoà

Chính sách đối ngoại Việt Nam- chủ động
hội nhập

bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế
lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát
triển. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân
tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xẩy
ra ở nhiều nơi với tính chất và hình thức ngày càng đa dạng và phức tạp.
Thế kỷ 21 đang mở ra những cơ hội to lớn nhưng cũng chưa đựng rất
nhiều thách thức. Sau gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước,
thế và lực của nước ta đã lớn mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế rất lớn là
tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hoà bình, sự hợp tác,
liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để
Việt Nam phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực. Tuy nhiên,
chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn. Bốn nguy cơ
mà Đảng ta đã từng chỉ rõ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII năm 1996
là tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới,
chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, diễn biến hoà


7


bình do các thế lực thù địch gây ra đến nay vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp,
đan xen và tác động lẫn nhau.
Trong quá trình phát triển đó, đã có rất nhiều các chủ trương, đường lối
thể hiện tập trung trí tuệ và sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng và nhân dân ta,
thể hiện ý chí và sức mạnh với khát vọng vươn lên của cả dân tộc. Những
thành tựu mà chúng ta đạt được trong sự nghiệp đổi mới từ 1986 đến nay đã thể
hiện một cách sâu sắc và thấm nhuần những tư tưởng và chủ trương của Đảng
vào thực tiễn cuộc sống. Đó chính hệ thống chính sách thực hiện nhiệm vụ xây
dựng và bảo vệ tổ quốc, đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước.
Chính sách đối ngoại chính là một bộ phận trong những bộ phận hợp
thành của hệ thống chính sách của Đảng và Nhà nước. Xuất phát từ yêu cầu
khách quan của lịch sử, của sự vận động và biến đổi ngày càng sâu sắc của tình
hình thế giới cũng như nhiệm vụ đặt ra cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam,
Đảng và Nhà nước ta đã đề ra chủ trương, chính sách đối ngoại phù hợp với
từng thời kỳ phát triển nhằm tiếp thu và thích ứng một cách nhanh nhất với
khoa học, công nghệ tiên tiên tiến, mở rộng giao lưu hợp tác với tất cả các
nước, tập trung sức mạnh và các nguồn lực từ bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân
tộc với sức mạnh thời đại nhằm tạo ra thế và lực, xây dựng hoàn thiện cơ sở vật
chất, kỹ thuật cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện thắng lợi
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Chính sách và hoạt động đối ngoại là tất yếu khách quan trong quan hệ
quốc gia với quốc tế. Nó ra đời và phát triển cùng với quốc gia, là cơ sở cho
hoạt động ngoại giao của các quốc gia. Chính sách đối ngoại được thực thi khi
một quốc gia là một đơn vị trong hệ thống quốc tế, có quan hệ với các chủ thể
bên ngoài thể hiện qua hợp tác và đấu tranh trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính
trị, an ninh, văn hóa - xã hội.

Chính sách đối ngoại là một nội dung của quan hệ chính trị quốc tế, thể
hiện thông qua chính sách của một quốc gia, bao gồm các chủ trương, biện
pháp và các quyết định thực hiện trong quan hệ với các quốc gia hoặc các chủ
8


thể quan hệ quốc tế khác, nhằm mục đích thực hiện lợi ích quốc gia được xác
định trong từng giai đoạn lịch sử.
Nhìn một cách tổng quát, các thành tựu đạt được đó có một nguyên nhân
quan trọng trong việc cải thiện mạnh mẽ chất lượng của công tác hoạch định
và tổ chức thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước, mà trong đó việc nhìn
nhận lại vai trò của của Nhà nước trong nền kinh tế cũng như các lĩnh vực
khác đã đóng một vai trò quan trọng và được thể hiện trong toàn bộ hệ thống
chính sách của Việt Nam. Vai trò đó thể hiện qua các nội dung chủ yếu sau:
- Đảm bảo sự ổn định về chính trị, xã hội và đảm bảo an ninh quốc
phòng.
- Đảm bảo các định hướng chính sách, dặc biệt là các chính sách kinh tế
vĩ mô và các chính sách thúc đẩy phát triển nên kinh tế, xã hội: chính sách đối
ngoại, chính sách dân tộc, giáo dục, y tế…
- Xây dựng các khuôn khổ pháp lý, hệ thống luật.
- Xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội, chống diễn biến hòa
bình, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường.
Nằm trong hệ thống chính sách quốc gia đó, chính sách đối ngoại Việt
Nam là sự cụ thể hóa những quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng
Cộng sản Việt Nam về đối ngoại nhằm tạo ra hành lang pháp lý, hệ thống các
khuôn khổ và tiêu chí thực hiện để mang lại hiệu quả lớn nhất đảm bảo thực
hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong thời kỳ mới.
Do yêu cầu khách quan của lịch sử, cuộc cách mạng khoa học- công
nghệ phát triển mạnh mẽ, quá trình toàn cầu hóa đang phát triển như vũ bão
lôi cuốn tất cả các quốc gia vào vòng xoáy của nó; Việt Nam cũng không

ngoại lệ, muốn đất nước phát triển vững mạnh và bên vững thì yêu cầu mở
rộng giao lưu, hợp tác quốc tế sẽ mang lại những hiệu quả thiết thực cho quá
trình tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Giúp tiếp thu nhanh khoa học
công nghệ, tri thức, nền kinh tế thị trường, phong cách và kinh nghiệm quản

9


lý. Điều đó tác động mạnh mẽ đến quá trình hoạch định và tổ chức thực hiện
cũng như đổi mới việc thực hiện chính sách đối ngoại ở Việt Nam hiện nay.
1.2. Quá trình phát triển của hoạt động đối ngoại mới của Việt Nam
Phát huy những truyền thống tốt đẹp trong đối ngoại Việt Nam của dân
tộc ta trong thời đại Hồ Chí Minh là: Hòa hiếu, hữu nghị, hợp tác, nhân ái,
văn minh, đường lối đối ngoại đổi mới của Việt Nam trong gần 1/4 thế kỷ qua
đã đạt những thành tựu to lớn, góp phần trực tiếp vào thắng lợi của công cuộc
đổi mới ở Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Ba chiến công lớn trong lịch sử dân tộc thế kỷ XX do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo là: Thứ nhất, giành chính quyền về tay nhân dân lao động
bằng cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do Đảng tổ chức và lãnh đạo duy
nhất trong lịch sử thế giới thế kỷ XX, mở đầu trào lưu phi thực dân hóa trên
thế giới năm 1945. Thứ hai, đánh thắng nhiều thế lực xâm lược hùng mạnh,
đánh đổ chủ nghĩa thực dân cũ, đánh sập một bước quan trọng chủ nghĩa thực
dân mới, được thế giới thừa nhận như chiến sĩ tiên phong trên mặt trận chống
đế quốc, làm cho thế kỷ XX là thế kỷ thắng lợi của các dân tộc bị áp bức
giành toàn thắng trong cách mạng giải phóng dân tộc. Thứ ba, kịp thời phát
hiện, đề ra và thực hiện thắng lợi một bước quan trọng đường lối đổi mới, giữ
vững định hướng, giữ vững ổn định kinh tế xã hội đi vào thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đây là điểm tựa tạo niềm tin cho toàn dân tộc
vào Đảng trong hành trang quý báu để vững bước đi vào thế kỷ XXI.

Với thế giới, đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh là rõ ràng, nhất quán, trước sau như một. Việt Nam là một
bộ phận của thế giới. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế
giới. Chủ trương trước sau như một của đối ngoại Việt Nam là hòa bình, hợp
tác, hữu nghị và cùng có lợi. Việt Nam chủ trương trong quan hệ với các
nước, các dân tộc phải bảo đảm độc lập, tự chủ, kiên quyết bảo vệ lợi ích dân
tộc chân chính, đồng thời kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ
10


nghĩa quốc tế vô sản. Nhiệm vụ của đối ngoại Việt Nam là giữ vững môi
trường hòa bình ở trong nước, khu vực và trên toàn thế giới. Đường lối đối
ngoại của Việt Nam phải trực tiếp góp phần vào đẩy mạnh phát triển kinh tế,
xã hội, thực hiện nhiệm vụ trung tâm là công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, cụ thể là làm cho thực lực đất nước vững mạnh đủ
sức đề kháng trước mỗi mưu toan xâm lược của các thế lực thù địch. Đồng
thời, đường lối đối ngoại Việt Nam khẳng định nhiệm vụ phải góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì mục tiêu chung của loài người
cho ba cuộc giải phóng lớn: Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải
phóng con người. Sức mạnh của dân tộc Việt Nam, sức mạnh của đối ngoại
Việt Nam là thực lực, là tinh thần độc lập tự chủ, tự cường. Sức mạnh của
Việt Nam là chính nghĩa và quan hệ với các nước trong sáng, thủy chung giúp
đỡ lẫn nhau hợp tác cùng có lợi. Lịch sử dân tộc Việt Nam trên hành trình
dựng nước và giữ nước đã kiểm chứng một bài học sáng giá là không “nhất
biên đảo”, nghĩa là không dựa vào một bên để chống lại một bên.
Từ khi thành lập, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, rất quan tâm
đến công tác đối ngoại, coi đối ngoại là sự tiếp tục của đối nội. Tư tưởng đối
ngoại của Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rõ khi trả lời nhà
báo Mỹ Mây-si tháng 9-1947: Đường lối đối ngoại của Việt Nam là “làm bạn
với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Lịch sử hiện đại

của Việt Nam đã khẳng định điều này. Là bạn với tất cả các nước, không tìm chỗ
dựa là tư tưởng nhất quán trong chủ trương đối ngoại của Việt Nam.
Tại Việt Nam sự bao vây, chống phá của các thế lực thù địch đối với Việt
Nam từ nữa cuối thập kỷ 70 tạo nên tình trạng căng thẳng, mất ổn định trong
khu vực và gây khó khăn, cản trở cho sự phát triển của các mạng Việt Nam, là
một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội
nghiêm trọng ở nước ta. Vì vậy, vấn đề giải tỏa tình trạng đối đầu, thù địch,
phá thế bị bao vây, cấm vận, tiến tới bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp
tác với các nước, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung xây dựng kinh
11


tế là nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với nước ta. Ở trong nước, do hậu quả
nặng nề của chiến tranh và các khuyết điểm chủ quan khác, nền kinh tế Việt
Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng, Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới là một trong những thách thức
lớn đối với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế đặt
ra gay gắt để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nước ta với các quốc gia
khác, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực trong nước; còn phải tranh thủ
các nguồn lực bên ngoài, trong đó hợp tác kinh tế với các nước và tham gia vào
cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thời kỳ đổi mới của Đảng ta được đánh dấu bởi các mốc lớn như sau:
- Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI) tháng 5-1988 là mốc
khởi đầu của quá trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối ngoại của
Đảng ta. Nghị quyết nhận định rằng, tình trạng kinh tế yếu kém, tình thế bị
bao vây về kinh tế và cô lập về chính trị sẽ thành nguy cơ lớn đối với an ninh
và độc lập dân tộc. Từ đó, đề ra nhiệm vụ ra sức tranh thủ các nước anh em,
bè bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới, phân hóa hàng ngũ đối phương, làm
thất bại âm mưu cô lập ta về kinh tế và chính trị; chủ động chuyển cuộc đấu
tranh từ trạng thái đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa

bình; ra sức lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật và xu thế
quốc tế hóa cao của kinh tế thế giới, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong
phân công lao động quốc tế.
- Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), Hội nghị Trung ương 7 (tháng
8-1989) và Hội nghị Trung ương 8 (tháng 3-1990) của khóa VI với "các
nguyên tắc cơ bản cần được quán triệt trong quá trình đổi mới" và các nghị
quyết "Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong
nước và quốc tế hiện nay", "Tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại
của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta" đã tập trung đánh
giá tình hình thế giới liên quan đến những biến động xảy ra ở Liên Xô và các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đề ra các quyết sách đối phó với những tác
12


động phức tạp từ diễn biến của tình hình thế giới đối với nước ta và công cuộc
đổi mới ở Việt Nam.
- Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) đã ra Nghị quyết
chuyên đề về công tác đối ngoại. Nghị quyết xác định rõ nhiệm vụ công tác
đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại, các phương châm xử lý các
vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ trương mở rộng, đa phương hóa, đa dạng
hóa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cả về chính trị, kinh tế, văn
hóa..., trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và các nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn
và phát huy những truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc... Nghị
quyết Trung ương 3, khóa VII là văn kiện đánh dấu sự hình thành đường lối
đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.
- Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) và
Đại hội VIII (tháng 6-1996) của Đảng ta đã chính thức khẳng định đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với

tinh thần "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển".
- Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) khẳng định Đảng và Nhà nước ta
tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại đó với một tinh thần mạnh
mẽ hơn và một tâm thế chủ động hơn bằng tuyên bố "Việt Nam sẵn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa
bình, độc lập và phát triển".
- Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong đó đề cập nhiều nội
dung hết sức quan trọng về đối ngoại, đặc biệt là ba vấn đề: về các mâu thuẫn
của thế giới hiện nay; về lợi ích của Việt Nam; về đối tượng, đối tác. Cần
nhấn mạnh vấn đề cốt lõi trong mọi hoạt động đối ngoại là phải tìm cách thực
hiện tối đa lợi ích của đất nước. Do đó, việc nhận thức thật rõ lợi ích của đất
13


nước ta, dân tộc ta là điều vô cùng quan trọng. Hội nghị Trung ương 8, khóa
IX đã khẳng định một lần nữa: "độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục
tiêu cơ bản của cách mạng và cũng là lợi ích căn bản của quốc gia", "kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ
quốc". Hội nghị cũng đã nhấn mạnh cách nhìn biện chứng về đối tượng, đối
tác: "trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một
số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta", làm cơ sở
mở rộng và phát triển các mối quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh với các chủ
thể quan hệ quốc tế.
- Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) đã khẳng định: “Thực hiện nhất
quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển;
chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc

tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác
quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và
khu vực”.

14


Chương 2: TẦM QUAN TRỌNG VÀ NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA VIỆC
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC XÂY
DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM HIỆN NAY
Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam,
giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên theo con
đường xã hội chủ nghĩa. Quá trình cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đồng thời đóng góp to lớn vào phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc, và phong
trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, phát triển và tiến bộ xã hội.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Việt Nam đã trở thành một bộ
phận khăng khít của cách mạng thế giới. Lịch sử dân tộc ta từ khi có Đảng đã
minh chứng hùng hồn một thực tế: với tư cách là một chính đảng tiền phong,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn làm tròn nghĩa vụ trước dân tộc, đối với
đất nước và với phong trào cách mạng thế giới, thực hiện trách nhiệm cao cả
trước dân tộc và cộng đồng quốc tế.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng đã và đang lãnh đạo công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước, xây dựng nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”, chủ động hội nhập quốc tế và nâng cao vị thế
của đất nước.
2.1. Thực hiện chính sách đối ngoại là yêu cầu cấp thiết đối với sự
nghiêp đổi mới xây dựng đất nước.
2.1.1. Yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.

Trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay đã đang mở ra những cơ hội to lớn
nhưng cũng chưa đựng rất nhiều thách thức cho đất nước ta hiện nay. Sau 25
năm tiến hành công cuộc Đổi mới đất nước, thế và lực của nước ta đã lớn
mạnh lên nhiều. Chúng ta có lợi thế rất lớn là tình hình chính trị - xã hội cơ
bản ổn định. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu
thế tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy nội lực
và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực.
15


Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất lớn.
Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ rõ tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VIII năm 1996 là tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực
và trên thế giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan
liêu, diễn biến hoà bình do các thế lực thù địch gây ra đến nay vẫn tồn tại và
diễn biến phức tạp, đan xen và tác động lẫn nhau.
Nhằm phát huy những thành tựu to lớn đã đạt được trong hơn hai thập kỷ
tiến hành công cuộc Đổi mới và vươn tới mục tiêu xây dựng một nước Việt
Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng và
Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự
chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội
nhập quốc tế với phương châm “Việt Nam sẵn sàng là bạn và là đối tác tin
cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển”.
Chính sách đối ngoại là một trong những chính sách lớn của Đảng và
nhà nước ta. Đây là yếu tố, là điều kiện tiên quyết để đưa đất nước hòa nhập
cùng với sự phát triển của thế giới. Chính sách đối ngoại là sự tiếp nối chính
sách đối nội, là bộ phận quan trọng trong đường lối chính trị và chính sách
của mọi quốc gia, dân tộc.
Trên cơ sở những điều này nên trong thời gian qua công tác đối ngoại

luôn được ưu tiên. Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, chính
sách đối ngoại mở rộng, đa phương hóa các quan hệ quốc tế. Trong nghị
quyết Đại hội X Đảng ta cũng nêu lên: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại hiện
nay là giữ vững môi trường hòa bình và tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi
cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, CNH-HĐH đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu
tranh chung của nhân dân thế giới, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội”.
16


Thực tế sau hơn 20 năm đổi mới nước ta đã và đang có những bước tiến
vượt trội. Với một chế độ chính trị ổn định, những lợi thế về nguồn tài nguyên
hiện có cùng với việc hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới đã
mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội mới. Cụ thể hiện nay Việt Nam đã đặt quan
hệ ngoại giao với khoảng 168 nước trong tổng số hơn 200 nước trên thế giới.
Chúng ta đã tham gia và phát huy được hiệu quả của khu vực mậu dịch tự do
ASEAN, ký hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, gia nhập vào tổ chức
thương mại thế giới WTO. Việt Nam cũng còn là thành viên tích cực của tổ
chức APEC. Sau 12 năm gia nhập APEC Việt Nam đã thu được nhiều kết quả
lớn đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường quan hệ với
nhiều nước trong khu vực. Năm 2006 đánh dấu một mốc rất quan trọng: Việt
Nam là chủ nhà chủ trì hội nghị APEC. ..
Năm 2010 cũng là năm mà chúng ta diễn ra nhiều sự kiện lớn, quan
trọng là tổ chức Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, 120 năm ngày sinh
chủ tịch Hồ Chí Minh và đây cũng là năm Việt Nam chính thức đảm nhận
cương vị chủ tịch luân phiên của ASEAN (từ tháng 1 đến tháng 12/2010)…
Nhờ thực hiện hoạt động đối ngoại có hiệu quả nên trong thời gian vừa qua
chúng ta không những tận dụng được nguồn ngoại lực mà còn phát huy được

nguồn nội lực, nâng uy tín của Việt Nam trên trường Quốc tế.
Tuy nhiên chúng ta cũng đang đứng trước nhiều thách thức: Còn chậm
đổi mới trong quá trình tiến hành CNH - HĐH, cơ sở hạ tầng xuống cấp, cơ
sở vật chất kỹ thuật còn nghèo nàn lạc hậu chưa đáp ứng được ngày càng cao
của nhiều hoạt động kinh tế vì thế chưa thu hút được nhiều các nhà đầu tư,.
Chúng ra còn chậm đổi mới tư duy trên một số vấn đề quốc tế và đối ngoại.
Nhiều chính sách và luật chưa nhất quán đồng bộ, chưa được thực thi từ trên
xuống dưới, thủ tục hành chính các cấp còn rườm rà, trình độ lao động thấp,
quản lý nhà nước còn nhiều yếu kém, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân
nhỏ bé. Những thách thức này theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chủ yếu là
do sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất nước với yêu cầu hội nhập. Vì
17


thế - Theo Thủ tướng-nhiệm vụ của công tác đối ngoại trong thời gian tới là
cần đẩy nhanh hơn nữa việc tăng cường hợp tác giữa các nước trong khu vực
và trên thế giới trên tất cả các lĩnh vực với phương châm: “Việt Nam sẵn sàng
là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. Mặt khác Đảng và Nhà nước
cũng không ngừng nâng cao đội ngũ hoạt động trong ngành đối ngoại bởi đây
là những con người đại diện cho văn minh, trí tuệ và vẻ đẹp của đất nước.
Việc đưa các chính sách đầu tư và cơ chế thông thoáng mở cửa là điều kiện
tiên quyết trong quá trình thu hút các nhà đầu tư. Hoạt động kinh tế đối ngoại
cần có sự tham mưu của nhiều cơ quan nghiên cứu và các nhà khoa học.
Ngoài ra cần phát huy cao hơn nữa tính chủ động, tích cực, sáng tạo của mọi
thành phần kinh tế trong hội nhập kinh tế quốc tế. Từng doanh nghiệp phải
khẩn trương đổi mới từ tư duy đến phong cách quản lý, đổi mới thiết bị công
nghệ, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư, giảm chi phí để tăng cường sức
cạnh tranh, phát triển thị trường mới, sản phẩm mới và thương hiệu mới.
Đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam hợp tác liên doanh với

các doanh nghiệp nước ngoài và mạnh dạn đầu tư ra nước ngoài.
Những nỗ lực này của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của
mình đối với bạn bè ở khu vực và quốc tế, góp phần vào sự nghiệp chung của
nhân dân thế giới vì hòa bình, ổn định và phát triển.
2.1.2. Yêu cầu phát huy nhân tố nội lực của đất nước.
Việt Nam là một quốc gia có bề dày lịch sử và nên văn hóa lâu đời. Trải
qua quá trình đấu tranh gian khổ để bảo vệ và xây dựng tổ quốc đã tạo nên
một dân tộc hùng cường với sức mạnh của lòng yêu nước và tinh thần đoàn
kết sâu sắc. Dân số đông trên 85 triệu người (2010), thị trường tiêu thụ lớn
cùng với một vị trí địa- chính trị chiến lược và hết sức quan trọng của khu
vực và thế giới đã tạo nên một tiềm năng phát triển hết sức to lớn của Việt
Nam, đó cũng là tiềm lực quan trọng để Việt Nam vươn ra thế giới.

18


Về văn hóa: Với lịch sử hàng ngàn năm, Việt Nam có trên bảy nghìn di
tích (trong đó khoảng 2.500 di tích được nhà nước xếp hạng bảo vệ) lịch sử,
văn hoá, dấu ấn của quá trình dựng nước và giữ nước, như đền Hùng, Cổ Loa,
Văn Miếu... Đặc biệt quần thể di tích cố đô Huế, phố cổ Hội An và khu đền
tháp Mỹ Sơn đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới. Hàng
nghìn đền, chùa, nhà thờ, các công trình xây dựng, các tác phẩm nghệ thuật văn hoá khác nằm rải rác ở khắp các địa phương trong cả nước.
Về lãnh thổ: lãnh thổ Việt Nam bao gồm ¾ là đồi núi nhưng chủ yếu là
đồi núi thấp, hai đồng bằng lớn, nhiều song ngòi và có bờ biển dài. Hai đồng
bằng lớn là vựa lúa lớn nhất của Việt Nam, có giá trị sản xuất hàng hóa rất
lớn, đặc biệt là lúa gạo.
Việt Nam có 3.260km bờ biển, nếu có dịp đi dọc theo bờ biển Việt Nam
du khách sẽ được đắm mình trong làn nước xanh của những bãi biển đẹp như;
Trà Cổ, Sầm Sơn, Lăng Cô, Non Nước, Nha Trang, Mũi Né, Vũng Tàu, Hà
Tiên... Có nơi núi ăn lan ra biển tạo nên một vẻ đẹp kỳ vĩ như: Vịnh Hạ Long,

đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới.
Việt Nam có nhiều hải cảng lớn như: Hải Phòng, Đà Nẵng, Quy Nhơn,
Cam Ranh, Vũng Tàu, Sài Gòn,...
Giữa vùng biển Việt Nam còn có hệ thống đảo và quần đảo gồm hàng
ngàn đảo lớn nhỏ nằm rải rác từ Bắc đến Nam, trong đó có hai quần đảo lớn
là Hoàng Sa và Trường Sa. Vùng biển rất quan trọng và có giá trị rất lớn về
khai thác, nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản, đồng thời tiềm năng dầu khí, du
lịch, và là tuyến giao thông liên vận lớn, quan trọng.
Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng: than (trữ lượng dự
báo khoảng trên 6 tỉ tấn); dầu khí (ước trữ lượng dầu mỏ khoảng 3-4 tỷ thùng
và khí đốt khoảng 50-70 tỷ mét khối); U-ra-ni (trữ lượng dự báo khoảng 200300 nghìn tấn, hàm lượng U3O8trung bình là 0,1%); kim loại đen (sắt, măng
gan, titan); kim loại màu (nhôm, đồng, vàng, thiếc, chì...); khoáng sản phi kim
loại (apatit, pyrit...).
19


Với tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo như thế, mặc dù còn
nhiều khó khăn trong việc khai thác, những năm gần đây ngành Du lịch Việt
Nam cũng đã thu hút hàng triệu khách du lịch trong và ngoài nước, góp phần
đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Hơn thế, bằng tiềm năng và sản phẩm du
lịch của mình, ngành Du lịch đang tạo điều kiện tốt cho bè bạn khắp năm
châu ngày càng hiểu biết và yêu mến đất nước Việt Nam.
Sức mạnh nội sinh của đất nước, cùng với truyền thống yêu nước, niềm
tự hào dân tộc và sức mạnh của khối đại doàn kết các dân tộc Việt Nam đang
đứng trước những vận hội lớn để tiến hành hội nhập quốc tế. hợp tác đa
phương trên nhiều lĩnh vực nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng và
bảo vệ tổ quốc hiện nay.
2.2. Vai trò của việc thực hiện chính sách đối ngoại mới với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam hiện nay.
Hoạt động đối ngoại đã có những đóng góp to lớn trong công cuộc phát

triển đất nước thông qua việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định. Bằng
những việc làm trực tiếp, cụ thể, hoạt động đối ngoại đã phục vụ cho việc
hoạch định chính sách kinh tế, đặc biệt là công tác nghiên cứu, tham mưu,
thông tin, vận động viện trợ, thu hút đầu tư, mở rộng các thị trường buôn bán,
lao động, du lịch; tham gia giải quyết vướng mắc trong quan hệ kinh tế giữa
Việt Nam với các nước khác. Đến nay, trong 9 tháng đầu năm 2011, ước tính
các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giải ngân được 8,2 tỷ USD, tăng 2%
so với cùng kỳ năm 2010.
Hoạt động ngoại giao đa phương có bước trưởng thành vượt bậc kết
hợp chặt chẽ với các mối quan hệ song phương, góp phần nâng cao hơn nữa
vai trò và uy tín của Việt Nam tại các tổ chức quốc tế như: Liên hợp quốc,
Phong trào Không liên kết, ASEAN, ASEM, Cộng đồng các nước có sử dụng
tiếng Pháp..; tạo điều kiện cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại, phát
triển kinh tế - xã hội; nâng cao vị thế và hình ảnh của Việt Nam trên trường

20


quốc tế; đồng thời đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới
bảo vệ hòa bình, bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài ngày càng được coi
trọng. Về nhận thức, Đảng ta khẳng định rõ cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam. Gần đây,
Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác đối với người Việt Nam ở
nước ngoài đã được ban hành. Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách cụ
thể theo hướng xóa bỏ ngăn cách giữa người Việt ở nước ngoài và người Việt
ở trong nước; tạo điều kiện cho bà con hướng về cội nguồn và tham gia đóng
góp xây dựng đất nước; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân Việt Nam ở
nước ngoài, cũng như hỗ trợ kiều bào hội nhập với nước sở tại.
Ngày nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với 180 trong 193 quốc gia

thành viên Liên hợp quốc; có quan hệ thương mại với gần 230 quốc gia và
vùng lãnh thổ; là thành viên tích cực của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế.
Chúng ta đã có 98 cơ quan đại diện tại các quốc gia và vùng lãnh thổ khắp 5
châu lục trên thế giới. Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử ngoại giao dân tộc,
chúng ta đã đảm nhiệm thành công cương vị ủy viên không thường trực Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và Chủ tịch ASEAN năm
2010. Thế và lực của đất nước ngày càng vững mạnh; vai trò và vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao hơn bao giờ hết. Về vai trò của
ngành ngoại giao, Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá tại Hội nghị
Ngoại giao 27: “Những thành công và thắng lợi to lớn của công cuộc Đổi mới
là kết quả phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân ta, trong đó có sự đóng góp rất
quan trọng của các thế hệ cán bộ, Đảng viên, công chức ngành ngoại giao với
tư cách là cơ quan tham mưu và lực lượng tác chiến trực tiếp trên mặt trận đối
ngoại. Ngành ngoại giao đã góp phần to lớn vào thành tựu chung của công
cuộc Đổi mới” . Ghi nhận và đánh giá cao những đóng góp đó, Đảng và Nhà
nước ta đã trao tặng ngành ngoại giao những phần thưởng cao quý nhất: Huân
chương Sao vàng (năm 1995) và Huân chương Hồ Chí Minh (năm 2010).
21


Đại hội Đảng lần thứ XI đề ra định hướng đối ngoại “chủ động, tích cực
hội nhập quốc tế”. Bước phát triển mới, đầy quyết tâm của Đảng và Nhà nước
đã đặt lên vai ngành ngoại giao những nhiệm vụ mới hết sức nặng nề nhưng
cũng vô cùng vẻ vang. Chúng ta không còn thụ động lựa chọn lĩnh vực hội
nhập. Thế và lực mới của đất nước đã cho phép chúng ta bước những bước
mạnh mẽ, dứt khoát hơn trên con đường hội nhập quốc tế một cách toàn diện
trên cơ sở thực hiện nhất quán đường lối độc lập tự chủ với quyết tâm đóng
vai trò lớn hơn trong khu vực và trên thế giới. Với tinh thần đó, những nội
hàm mới của đường lối đối ngoại của Đại hội Đảng lần thứ XI như “chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế”, “xây dựng cộng đồng ASEAN”, “là thành viên có

trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, “triển khai đồng bộ, toàn diện các hoạt
động đối ngoại”… đã và đang từng ngày, từng giờ được Ngoại giao Việt Nam
đưa vào cuộc sống.
Tuy nhiên, hơn bao giờ hết, Ngoại giao Việt Nam cũng nhận thức rõ những
cơ hội và thách thức đan xen trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực đang
có nhiều chuyển biến nhanh chóng, phức tạp và nhiều khi rất khó lường. Nhận
diện, nắm bắt cơ hội và hóa giải thách thức, trong hơn một năm qua, toàn ngành
đã chủ động, tích cực đẩy mạnh nền ngoại giao toàn diện và giành được nhiều
thành tựu quan trọng trên tất cả các trụ cột ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh
tế, ngoại giao văn hóa và công tác người Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ nhất, nền ngoại giao toàn diện, chủ động, tích cực được ưu tiên
thúc đẩy qua việc triển khai nhiều hoạt động đối ngoại quan trọng, sôi động
trên tất cả các lĩnh vực, từ song phương đến đa phương, trải rộng trên nhiều
địa bàn, trong đó hướng ưu tiên là các nước láng giềng, khu vực và các đối tác
lớn theo phương châm làm sâu sắc thêm quan hệ giữa Việt Nam và các nước.
Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Thủ tướng
Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng và Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng đã
triển khai một loạt các chuyến thăm cấp cao tới các nước, từ các nước khu
vực Châu á -Thái Bình Dương như Trung Quốc, Nga, các nước ASEAN, Nhật
22


Bản, Hàn Quốc, ấn Độ cho đến các bạn bè, đối tác ở Châu Mỹ La -tinh như
Cu -ba; đồng thời chúng ta cũng đón các Nguyên thủ, người đứng đầu Chính
phủ của rất nhiều nước bạn bè, đối tác đến thăm Việt Nam.
Thứ hai, ngoại giao đã phối hợp chặt chẽ với các ngành quốc phòng -an
ninh, tuyên truyền -tư tưởng và các lực lượng đối ngoại khác tạo thành một
khối vững chắc trên mặt trận bảo vệ chủ quyền biển đảo. Trong bối cảnh năm
2011 và 2012 tình hình Biển Đông có rất nhiều diễn biến không thuận lợi,
ngoại giao đã tham mưu cho Lãnh đạo Đảng và Nhà nước và trực tiếp xử lý

thỏa đáng các vấn đề phức tạp nảy sinh, góp phần bảo vệ vững chắc chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích an ninh và phát triển của đất nước.
Thứ ba, ngoại giao đã phát huy những đóng góp chủ động và tích cực
của Việt Nam trong việc xây dựng Cộng đồng ASEAN, thúc đẩy đoàn kết và
hợp tác nội khối, phát huy vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu
vực đang định hình. Trong năm 2012, Việt Nam luôn phối hợp chặt chẽ với
Cam -pu-chia trong việc thúc đẩy triển khai Kế hoạch tổng thể về kết nối
ASEAN nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước trong khu vực,
tăng cường hợp tác nội khối. Lần đầu tiên sau 17 năm gia nhập ASEAN, Việt
Nam đã đề cử Tổng thư ký ASEAN cho nhiệm kỳ 2013-2018. Chúng ta cũng
nỗ lực thúc đẩy các hoạt động hội nhập quốc tế toàn diện trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, quốc phòng -an ninh, văn hóa -xã hội..., ở mọi cấp độ tiểu
vùng, khu vực, liên khu vực và quốc tế.
Thứ tư, ngoại giao kinh tế ngày càng khẳng định vai trò là một trụ cột
quan trọng của nền ngoại giao toàn diện. Trong thời gian qua, ngoại giao kinh
tế đã nâng cao chất lượng công tác thông tin, dự báo và tham mưu cho Chính
phủ trong điều hành kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, duy trì ổn định và bảo
đảm an sinh xã hội, và tái cấu trúc nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng
trưởng và thực hiện 3 khâu đột phá chiến lược. Đồng thời, ngoại giao đã tranh
thủ tối đa hợp tác quốc tế và các nguồn lực bên ngoài để phục vụ phát triển và
khắc phục những khó khăn kinh tế -xã hội trong nước; tích cực hỗ trợ các Bộ,
23


ngành, địa phương, doanh nghiệp xúc tiến xuất khẩu, đầu tư, du lịch, ODA,
phối hợp với các ngành xử lý các tranh chấp kinh tế - thương mại quốc tế.
Thứ năm, ngoại giao văn hóa đã góp phần nâng cao vị thế, phát huy
“sức mạnh mềm” của đất nước, qua đó thắt chặt hơn nữa quan hệ của ta với
các đối tác và tăng cường sự hiểu biết của thế giới về Việt Nam. Trong năm
qua, ngoại giao văn hóa đã giành được nhiều thành quả đáng phấn khởi.

Chúng ta đã vận động thành công UNESCO công nhận nhiều di sản của Việt
Nam như thành Nhà Hồ, hát xoan, mộc bản Kinh Phật chùa Vĩnh Nghiêm…
là di sản văn hóa thế giới. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ
công dân cũng được triển khai kịp thời, hiệu quả, góp phần bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, ngư dân, lao động ta. Nghị quyết 36 của Bộ
Chính trị tiếp tục được thể chế hóa, tạo thuận lợi cho kiều bào ta ổn định cuộc
sống, phát triển và hướng về quê hương đất nước.
Thấm nhuần lời dạy của Bác rằng, “cán bộ là cái gốc của mọi công
việc”, ngành ngoại giao rất coi trọng việc đào tạo đội ngũ cán bộ ngoại giao
chuyên nghiệp, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành tuyệt đối với Tổ
quốc và lợi ích quốc gia dân tộc, đồng thời có chuyên môn tốt, giỏi ngoại ngữ
và có trình độ ngang tầm khu vực và dần tiệm cận trình độ quốc tế. Theo chỉ
đạo và hướng dẫn của Trung ương, ngành ngoại giao đã tổ chức quán triệt đến
toàn bộ Đảng viên, công chức, viên chức và đang nghiêm túc triển khai Nghị
quyết Trung ương 4 khóa XI về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay. Hướng tới dịp kỷ niệm 67 năm thành lập ngành, Bộ Ngoại giao đã
lấy năm 2012 là “Năm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ để triển khai ngoại
giao toàn diện và hội nhập quốc tế”.
Tiếp nối truyền thống vẻ vang của các thế hệ đi trước trong suốt lịch sử
67 năm trưởng thành và phát triển, nhận thức rõ những nhiệm vụ nặng nề
nhưng rất vẻ vang mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, ngành ngoại
giao quyết tâm lập thêm nhiều thành tích xuất sắc hơn nữa, góp phần xứng

24


đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
viết tiếp những trang sử hào hùng của nền ngoại giao Việt Nam hiện đại.
2.2.1. Việc thực hiện chính sách đối ngoại là thể hiện trách nhiệm và
sứ mệnh của Đảng và Nhà nước đối với dân tộc và cộng đồng quốc tế

Việt Nam đang hội tụ các điều kiện để đến năm 2020 trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, vai trò và uy tín của Việt Nam ngày càng
được nâng cao trong khu vực và trên trường quốc tế. Thành tựu của hơn 25
năm đổi mới càng chứng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng trên đất nước Việt
Nam, và do đó tiếp tục khẳng định thực tế là: trong quá trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam và bằng những thành tựu cụ thể, Đảng Cộng sản Việt Nam
vẫn luôn nỗ lực hết mình thực hiện nghĩa vụ trước dân tộc và giai cấp, ở trong
nước và trên thế giới.
Một là, luôn xuất phát từ lợi ích quốc gia trong quan hệ đối ngoại,
Đảng , Nhà nước ta đã thể hiện tính trách nhiệm của mình trước dân tộc.
Hai là, kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích dân tộc và chủ nghĩa quốc tế vô
sản trong sáng, Đảng ta đã thể hiện tính trách nhiệm cao trước sự nghiệp cách
mạng thế giới vì các mục tiêu cao cả của nhân loại hướng tới hòa bình, phát
triển, công bằng và tiến bộ xã hội.
1. Tính trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trước dân tộc
Khi một chính đảng cầm quyền thông qua và thực hiện thành công một
chính sách đối nội và đối ngoại vì quyền lợi của dân tộc, chính đảng đó đã thể
hiện tinh thần trách nhiệm của mình đối với quốc gia dân tộc. Đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển do Đảng ta đề ra thể hiện
rõ tính trách nhiệm của Đảng với dân tộc, bởi vì đường lối đó cho thấy Đảng
luôn đại diện cho quyền lợi dân tộc, hành động vì quyền lợi dân tộc, và luôn
gắn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc.
Trong lịch sử đấu tranh của dân tộc ta, chính với tinh thần độc lập, tự
chủ, Đảng ta đã nắm bắt đúng thời cơ lãnh đạo nhân dân đứng lên làm Cách
mạng Tháng Tám thành công. Chính đường lối độc lập, tự chủ mà nhân dân ta
25


×