Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở việt nam trong điều kiện hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.85 KB, 50 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC
-1DANH MỤC BẢNG BIỂU - 3 DANH MỤC HÌNH VẼ
-4DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT - 5 LỜI MỞ ĐẦU - 6 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH THUẾ VÀ TUÂN
THỦ THUẾ - 8 1.1. Lý luận chung về quản lý hành chính thuế ......................................................................................- 8 1.2. Quản lý hành chính thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế................................- 11 1.2.1. Quan niệm về tính tuân thủ của người nộp thuế ........................................................................- 11 1.2.2. Các yếu tố tác động đến tính tuân thủ của NNT ..........................................................................- 15 1.2.3. Các phương pháp để đo lường mức độ tuân thủ của NNT .........................................................- 18 1.2.4. Phương thức quản lý thuế và mối quan hệ với tính tuân thủ của NNT ......................................- 20 1.3. Kinh nghiệm một số nước trong quản lý thuế nhằm việc nâng cao tính tuân thủ của NNT ..........- 23 1.3.1. Kinh nghiệm của Cơ quan thu nội địa Vương quốc Anh..............................................................- 23 1.3.2. Kinh nghiệm của Cục thu nội địa Singapore (IRAS).......................................................................- 25 -

QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH THUẾ VÀ TÍNH TUÂN THỦ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
- 28 2.1. Bối cảnh của quản lý hành chính thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ của người nộp thuế ...........- 28 2.1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam ...............................................................................................- 28 2.1.2. Công tác quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay.................................................................................- 30 2.2. Thực trạng tính tuân thủ của NNT trong quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay.................................- 35 -

* ƯỚC TÍNH CHO NĂM 2009
- 36 NGUỒN: TỔNG CỤC THUẾ, 2010 - 36 2.2.1. Tình hình đăng ký thuế .................................................................................................................- 37 2.2.2. Tình hình khai thuế và tính thuế...................................................................................................- 41 2.2.4. Tình hình nộp thuế........................................................................................................................- 48 2.3. Đánh giá các nhân tố tác động đến tính tuân thủ của NNT ở Việt Nam ........................................- 50 2.3.1. Hệ thống pháp luật thuế của Việt Nam........................................................................................- 50 2.3.2. Những nhân tố thuộc về người nộp thuế....................................................................................- 51 2.3.3. Nhân tố quản lý thuế ...................................................................................................................- 55 -

NHỮNG KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO TÍNH TUÂN THỦ CỦA NGƯỜI NỘP THUẾ
TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN ĐẠI HÓA QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH THUẾ Ở VIỆT NAM 69 3.1. Mục tiêu của hiện đại hóa quản lý hành chính thuế ở Việt Nam ..................................................- 69 3.2. Quan điểm và định hướng nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế trong tiến trình hiện
đại hóa quản lý hành chính thuế .........................................................................................................- 70 3.2.1. Quan điểm nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế.....................................................- 70 3.2.2 Định hướng nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế ....................................................- 71 3.2. Giải pháp nhằm nâng cao tính tuân thủ thuế của người nộp thuế trong điều kiện hiện đại hóa quản
lý hành chính thuế ...............................................................................................................................- 72 -


3.2.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật thuế theo hướng đơn giản, minh bạch,ít có sự sửa đổi
bổ sung bất thường................................................................................................................................- 72 3.2.2. Ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý thuế và cung cấp dịch vụ cho người nộp thuế ......- 74 3.2.3. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế.............................................................................- 75 3.2.4. Thực hiện nghiêm túc cưỡng chế thuế và thu nợ thuế...............................................................- 79 3.2.5. Tăng cường công tác tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế....................................................- 82 3.2.6. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá tính tuân thủ của NNT ......................................................- 83 -

KẾT LUẬN - 86 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

ERROR! BOOKMARK NOT DEFINED.


DANH MỤC BẢNG BIỂU


DANH MỤC HÌNH VẼ


Hình 1.1: Mối quan hệ giữa các bên trong quản lý thuế
-9Hình 1.2: Tác động theo chức năng của cơ quan quản lý thuế tới người nộp thuế
- 11 Hình 1.3: Mô hình quản lý tính tuân thủ của người nộp thuế
- 12 Hình 1.4: Các nhóm người nộp thuế - số người nộp thuế và các đặc tính đóng góp vào số thu
thuế
- 15 Hình 1.5: Đánh giá sự tuân thủ của người nộp thuế
- 22 Hình 2.1: Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của cơ quan Thuế
- 34 -


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong công cuộc cải cách hành chính nói chung và cải cách hành chính thuế nói riêng và
đặc biệt là quản lý thuế thu nhập cá nhân luôn là một vấn đề lôi cuốn nhiều sự quan tâm
của các nhà quản lý và nhà nghiên cứu. Đây là một loại thuế mang tính nhạy cảm cao, vì
nó liên quan trực tiếp đến mọi người dân và các tổ chức chi trả thu nhập, các cơ quan nhà
nước, các tổ chức xã hội, chính trị. Thuế thu nhập cá nhân được đánh giá là một loại thuế
mang tính công bằng cao khi được sử dụng để điều tiết thu nhập đảm bảo công bằng theo
khả năng trả thuế của người dân. Việc bao quát rộng và liên quan đến toàn xã hội, nên
công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân đã được nghiên cứu nhiều ở các nước phát triển,
các nước đang phát triển sử dụng thuế thu nhập cá nhân. Ở Việt Nam việc nghiên cứu quản
lý thuế thu nhập cá nhân cũng là vấn đề mới và đứng trên nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Song trên giác độ tuân thủ của người nộp thuế chưa được nghiên cứu một cách hoàn chỉnh,
chính vì lẽ đó ‘Quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt nam trong điều kiện hiện nay’
được chọn làm tiêu đề nghiên cứu của đề tài này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa những lý luận, tư tưởng về quản lý thuế thu nhập cá nhân trên

giác độ tuân thủ của người nộp thuế trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay;
- Nghiên cứu đánh giá thực trạng công tác triển khai Luật thuế thu nhập cá nhân ở
Việt Nam và công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân khi triển khai ở Việt Nam,
nhằm tìm ra những nguyên nhân hạn chế của những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng
đến công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam hiện nay;
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng của công tác quản lý thuế
thu nhập cá nhân ở Việt Nam, đề tài đã đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quản lý thuế thu nhập cá nhân, các nhân tố ảnh hưởng
công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân trên giác độ tuân thủ thuế của người nộp thuế.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để làm rõ đối tượng và nội dung của vấn đề nghiên cứu, đề tài được thực hiện dựa trên cơ
sở các phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp lịch sử, phương pháp tổng kết kinh
nghiệm để đánh giá công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.
5. Dự kiến những đóng góp của đề tài:
- Đề tài góp phần vào việc nghiên cứu, trao đổi, bổ sung để làm sáng tỏ một số
vấn đề lý luận về quản lý thuế thu nhập cá nhân trên giác độ tuân thủ thuế của
người nộp thuế.
- Đề tài góp phần cung cấp những thực trạng của công tác quản lý thuế thu nhập
cá nhân giác độ tuân thủ thuế của người nộp thuế ở Việt Nam trong thời gian
qua và đưa ra những kiến nghị mang tính trọng tâm nhằm nâng cao hiệu quả
công tác quản lý thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam.


Chương 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ HÀNH
CHÍNH THUẾ VÀ TUÂN THỦ THUẾ
1.1. Lý luận chung về quản lý hành chính thuế

Khi nói đến quản lý thì các nhà quản lý và các nhà nghiên cứu đều cho rằng đây là những
hoạt động có hướng đích của chủ thể quản lý đến đối tượng bị quản lý nhằm thực hiện
những mục tiêu đặt ra. Chính vì vậy, quản lý hành chính thuế cũng có chung là sự tác động
có hướng đích của chủ thể quản lý thuế đến người nộp thuế nhằm thực hiện những mục
tiêu nhất định. Tuy nhiên, quản lý thuế có tính chất là quản lý hành chính công được thể
chế hóa bằng luật pháp và với mục tiêu cuối cùng là đảm bảo thu thuế đủ thuế, đúng thời
hạn cho ngân sách nhà nước với chi phí hành thu thấp và đảm bảo nâng cao tính ttuân thủ
của người nộp thuế.


Như vậy, quản lý thuế đóng một vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện hệ thống thuế.
Quản lý thuế tốt không đơn giản chỉ là thu thuế cho ngân sách nhà nước, mà thu thuế
được thực hiện như thế nào – có nghĩa là, ảnh hưởng của việc thu thuế đến sự công bằng,
ảnh hưởng sự thực hiện cam kết quản lý kinh tế của nhà nước và ảnh hưởng đến phúc lợi
kinh tế - đây là những vấn đề rất quan trọng. Quản lý thuế chưa tốt là sự quản lý có thể thu
được phần lớn số thuế từ những khu vực dễ thu thuế, trong khi để thất thu từ những khu
vực khó thu thuế khác. Chính vì vậy, khi nói đến quản lý thuế là làm sao để thu hẹp sự

CƠ QUAN
QUẢN LÝ
HÀNH CHÍNH
THUẾ

NGƯỜI NỘP
THUẾ

BÊN THỨ BA
MÔI TRƯỜNG:

- Kinh tế - Xã hội

- Luật pháp
- Chính trị
- Văn hóa,...

khác biệt sự tuân thủ thuế của người nộp thuế - có nghĩa là, sự khác biệt giữa số thuế thực
tế thu được và số thuế đáng ra phải thu được theo luật – và sự khác biệt này như thế nào
giữa các bộ phận người nộp thuế. Trong hình 1, đã mô tả quản lý thuế, trong công tác quản
lý thuế có sự tham gia của: Cơ quan quản lý hành chính thuế, người nộp thuế và bên thứ
ba, cả ba lực lượng này được đặt trong một môi trường của một nền kinh tế mở.

Hình 1.1: Mối quan hệ giữa các bên trong quản lý thuế
-

Cơ quan quản lý thuế: Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan hoặc tổ chức được
phép của Nhà nước thực hiện quản lý thuế;
Người nộp thuế: Cá nhân và tổ chức chịu sự điều chỉnh của các luật thuế;
Bên thứ ba: Các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, các tổ chức và cá nhân
liên quan đến người nộp thuế (cả trong nước và ngoài nước).

Như vậy, để thiết lập quản lý hành chính thuế hiện đại có thể đạt được mục

tiêu hiệu quả và thực hiện quản lý hiệu quả và đáp ứng các yêu cầu của các
bên liên quan và các quy định của luật pháp cần phải có:
- Khuôn khổ pháp lý cho quản lý thuế;


- Tổ chức bộ máy quản lý thuế phù hợp;
- Khuôn khổ pháp luật về thuế đầy đủ, rõ ràng và minh bạch để thực
hiện và xác định rõ quyền và nghĩa vụ đóng thuế của người nộp
thuế;

- Ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý thuế.
Quản lý thuế luôn gắn với một quy trình trình quản lý thuế nhất định. Quy trình quản lý
thuế luôn gắn với quá trình nhà quản lý thuế (chủ thể quản lý) sử dụng các chức năng quản
lý tác động tới khách thể quản lý (đối tượng nộp thuế) nhằm đạt được các mục tiêu quản lý.
Các chức năng quản lý thuế bao gồm bốn nhóm cơ bản gắn với quy trình quản lý thuế bao
gồm: Nhóm chức năng hoạch định như ban hành chính sách, lập kế hoạch thuế, chuẩn bị
điều kiện thực hiện; Nhóm chức năng tổ chức như tổ chức bộ máy, tổ chức nhân sự, ra
quyết định, tổ chức hoạt động; nhóm chức năng chỉ đạo như hướng dẫn, phối hợp, điều
chỉnh quá trình thực hiện kế hoạch thuế; nhóm chức năng kiểm tra bao gồm đo lường, so
sánh, đánh giá, cưỡng chế thi hành, đúc rút kinh nghiệm, khen thưởng, chuẩn bị cho chu kỳ
quản lý tiếp theo.

Hình 1.2: Tác động theo chức năng của cơ quan quản lý thuế tới người
nộp thuế
Tóm lại, quản lý hành chính thuế nhằm làm cho sự tuân thủ thuế của người nộp thuế ngày
Chức năng
quản lý


quan
quản lý
thuế

1.
2.
3.
4.
5.

Đăng ký thuế

Kê khai, tính thuế
Ấn định thuế
Thu nộp
Thanh, kiểm kiểm tra

6. Cưỡng chế thi hành
7. Xử lý vi phạm

Người nộp thuế
Tuân thủ thuế ngày
càng cao

càng cao và tạo ra mức độ thỏa mãn ngày càng cao của người nộp thuế.

1.2. Quản lý hành chính thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ của người nộp
thuế
1.2.1. Quan niệm về tính tuân thủ của người nộp thuế
Mục tiêu chính của quản lý thuế là thu thuế và các khoản phải thu khác phù hợp với luật
pháp và vẫn đảm bảo củng cố được niềm tin của người nộp thuế (NNT) vào hệ thống thuế
và quản lý thuế. Mọi hành vi của NNT dù là sơ ý, không cẩn thận, hay hành vi cố tình trốn
thuế hoặc là sự yếu kém trong công tác quản lý thuế đều cho thấy việc không tuân thủ pháp
luật là không thể tránh khỏi. Do đó, cơ quan thuế cần có chiến lược và chương trình để


đảm bảo rằng việc không tuân thủ pháp luật về thuế được giảm tới mức tối thiểu. Tuy
nhiên, trước khi cơ quan ra quyết định thực hiện các chương trình hành động để nâng cao
tính tuân thủ của NNT thì cần phải hiểu thế nào là tính tuân thủ, những yếu tố ảnh hưởng
đến tình tuân thủ, những phương pháp nào để đo lường và đánh giá mức độ tuân thủ.
Theo quan niệm quốc tế, tính tuân thủ của NNT là việc NNT tự nguyên chấp hành và thực
hiện một cách đầy đủ, chính xác và kịp thời các qui định, thủ tục về thuế theo pháp luật.

Để có thể đo lường và đánh giá mức độ tuân thủ của NNT, mỗi quốc gia sử dụng các
phương pháp, cách thức tiếp cận khác nhau. Do đó việc phân loại tính tuân thủ của NNT
cũng được thực hiện theo các tiêu chí và mục đích riêng của từng nước. Cụ thể:
Theo quan điểm của Trung tâm nghiên cứu chính sách và quản lý thuế của Tổ chức Hợp
tác và phát triển kinh tế (OECD) thì tính tuân thủ của NNT được chia thành hai nhóm
chính đó là tuân thủ qui định hành chính và tuân thủ kỹ thuật. Tuân thủ qui định hành
chính là việc NNT tuân thủ các qui định hành chính về việc kê khai, nộp thuế đầy đủ và
đúng hạn. Còn tuân thủ kỹ thuật và việc NNT thực hiện tính toán và nộp thuế đúng hạn
theo qui định của luật thuế. Thông thường các qui định liên quan đến xác định hành vi tuân
thủ qui định hành chính thường được thể hiện khá rõ ràng trong các văn bản luật. Tuy
nhiên, việc xác định mức độ tuân thủ kỹ thuật lại khá phức tạp đối với nhiều cơ quan thuế
vì khi các luật thuế qui định không rõ ràng và dễ hiểu thì việc xác định chính xác số thuế
phải nộp sẽ gặp nhiều khó khăn.
Các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi NNT

Thái độ tuân thủ của NNT
Quyết tâm không tuân thủ

Chiến lược áp dụng
Áp dụng toàn bộ
các quyền lực theo luật

10
9
8

Doanh nghiệp Ngành
nghề

Không muốn tuân thủ,

nhưng sẽ tuân thủ nếu
cơ quan thuế quan tâm

Ngăn chặn thông
qua các biện pháp
phát hiện vi phạm

7
6
5

NNT
Xã hội học

Kinh tế

Tâm lý học

Cố gắng tuân thủ
nhưng không phải
lúc nào cũng thành
công
Sẵn sàng tuân thủ

4

Chiến lược nhằm
giảm bớt áp lực

Hỗ trợ để tuân

thủ

3
2

Tạo điều kiện

Hình 1.3: Mô hình quản lý tính tuân thủ của người nộpthuận
thuế
lợi

Tại một số nước thuộc khu vực Bắc Mỹ, quan điểm về tính tuân thủ của NNT được phân
loại theo nghĩa vụ của NNT: tuân thủ trong việc đăng ký thuế, tuân thủ trong việc nộp tờ
khai thuế và nộp các thông tin cần thiết liên quan đến thuế, tuân thủ trong việc báo cáo các
thông tin (kết hợp với việc lưu giữ sổ sách) và tuân thủ trong việc nộp thuế. Để đo lường
mức độ tuân thủ của NNT thì người ta sử dụng kết hợp các chỉ tiêu như: tỷ lệ phần trăm tờ
khai được kê khai đúng hạn so với số tờ khai được nộp, tỷ lệ phần trăm số tiền thuế được
kê khai so với tổng số tiền thuế phải nộp theo qui định của luật thuế, tỷ lệ phần trăm số tiền
thuế đã kê khai được nộp đúng hạn so với tổng số tiền thuế được nộp.
Theo quan điểm của cơ quan thuế Úc, New Zealand và một số nước châu Á như Nhật Bản,
Singapore, Thái Lan,... thì tính tuân thủ của NNT sẽ được phân loại và xác định theo các
mức độ rủi ro quản lý. Theo đó, cơ quan thuế căn cứ vào lịch sử tuân thủ (hồ sơ các hành
vi của NNT về kê khai, nộp thuế trong một thời gian) và đặc điểm của tưng loại hình,
ngành nghề kinh doanh của NNT để chia NNT thành các nhóm theo mức độ tuân thủ, từ đó
đưa ra các chiến lược áp dụng quản lý thích hợp với từng nhóm như sơ đồ dưới đây:

1
0



Trong mô hình tuân thủ, bên trái của tháp thể hiện bốn mức độ tuân thủ của NNT, bên phải
hình tam giác là các chiến lược quản lý tương ứng của cơ quan thuế áp dụng với từng
nhóm NNT:
- Nhóm không hợp tác. Ở đỉnh tháp tuân thủ là thái độ không hợp tác thể hiện
những NNT quyết không tuân thủ. Những đối tượng có thái độ này hoặc là cố
tình trốn thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc là chọn lựa cách đứng ngoài. Đây là
nhóm mà cơ quan thuế phải dành nhiều nguồn lực nhất trong việc quản lý. Với
nhóm này, cơ quan thuế cần áp dụng toàn bộ quyền lực theo luật pháp qui định
để ngăn chặn và xử lý các hành vi chống đối hoặc trốn thuế.
- Nhóm chống đối. Thái độ của những người chống đối thể hiện sự sẵn sàng
đối đầu. Đối với nhóm người này, hệ thống thuế thật vô lý, rắc rối và không
linh hoạt. Thái độ này thể hiện những NNT không muốn tuân thủ nhưng
cũng có thể phải tuân thủ nếu họ biết rằng hành vi của họ có thể bị xử lý.
Với nhóm này, cơ quan thuế cần có biện pháp tuyên truyền, giáo dục ý thức
tôn trọng pháp luật và biện pháp theo dõi, kiểm tra để răn đe, ngăn chặn.
- Nhóm cố gắng tuân thủ. Thái độ của nhóm này tích cực hơn, về cơ bản họ
muốn tuân thủ nhưng gặp khó khăn và không phải lúc nào cũng tuân thủ
được. Có thể họ chưa hiểu rõ về nghĩa vụ của mình, nhưng chủ định của họ
là nếu có bất cứ tranh chấp nào thì tính hợp tác và trung thực sẽ chiến thắng.
Đối với nhóm NNT này, cơ quan thuế cần trợ giúp họ bằng cách cung cấp
các thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời và cung cấp các dịch vụ tư vấn, giải
đáp và các dịch vụ tiện ích khác để họ thực hiện tốt nghĩa vụ của mình.
- Nhóm NNT sẵn sàng tuân thủ. Đây là nhóm chiếm số lượng lớn nhất trong
tổng số NNT của mỗi quốc gia. Thái độ của nhóm này là sẵn sàng làm điều
đúng, họ có ý thức ủng hộ cho hệ thống thuế, chấp nhận và thực hiện có hiệu
quả các yêu cầu của hệ thống thuế. Do vậy, cơ quan thuế cần tạo điều kiện tốt
nhất để NNT thuộc nhóm này hoàn thành nghĩa vụ thuế của mình.

Tỷ lệ đối tượng
nộp thuế có đăng ký


Tỷ lệ đóng góp vào số thu
thuế

> 1%

70+ %

Đối tượng nộp
thuế lớn

Đối tượng nộp thuế
trung bình

Đối tượng nộp
thuế nhỏ

5 - 25%
10 - 25%

70 - 95%

Hình 1.4: Các nhóm người nộp thuế - số người nộp thuế và các đặc tính
đóng góp vào số thu thuế

0 - 10%


Điều quan trọng là phải nhận thấy rằng mỗi NNT tùy từng thời kỳ có thể thuộc một
trong các nhóm nêu trên. Cũng có thể ở tại thời điểm nào đấy có thể có những NNT

thuộc tất cả các nhóm thái độ nói trên khi có các vấn đề về thuế khác nhau. Các nhóm
thái độ này không phải là đặc tính cố định của một đối tượng hoặc một nhóm, mà nó
phản ánh được mối quan hệ giữa cá nhân hoặc nhóm NNT với những yêu cầu (về thuế)
đặt ra cho họ.
Hình 1.4 được mô tả theo nghiên cứu của IMF, ở hầu hết quốc gia, các đối tượng nộp thuế
vừa và nhỏ chỉ đóng góp một phần nhỏ trong tổng thu về thuế, song việc cải thiện mức độ
tuân thủ của khu vực này có ý nghĩa quan trọng vì nó không chỉ đảm bảo sự bình đẳng
giữa các đối tượng nộp thuế mà còn giúp tiết kiệm nguồn lực cho cơ quan thuế (nguyên tắc
80/20, tức là trung bình có tới 80% nguồn lực của cơ quan thuế được sử dụng để quản lý
nhóm đối tượng chỉ đem lại 20% số thu thuế).

1.2.2. Các yếu tố tác động đến tính tuân thủ của NNT
Để nâng cao tính tuân thủ của NNT thì trước hết cần phải hiểu được tính tuân thủ của NNT
bị tác động bởi những yếu tố nào và mức độ tác động của những yếu tố này ra sao, từ đó cơ
quan thuế mới sử dụng các chiến lược và biện pháp thích hợp, hiệu quả để nâng cao tính
tuân thủ của NNT. Có thể khái quát những yếu tố ảnh hưởng đến tính tuân thủ của NNT
thành bốn nhóm sau:
Nhóm yếu tố về tình hình kinh tế - xã hội. Đây là nhóm yếu tố vĩ mô phản ánh tình hình
kinh tế - xã hội nói chung của một quốc gia như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tình hình lạm
phát, tình hình chính trị....Vì đây là yếu tố vĩ mô nên nhóm yếu tố này ảnh hưởng đến tính
tuân thủ của tất cả các nhóm NNT. Thông thường, khi nền kinh tế phát triển, tình hình
chính trị, xã hội ổn định thì thì nhóm nhân tố này có thể bỏ qua vì khi đánh giá mức độ ảnh
hưởng tới tính tuân thủ của NNT qua các năm là tương đối ổn định. Tuy nhiên, trong
trường hợp tình hình kinh tế xã hội bất ổn thì tác động của nhóm nhân tố này đến tình tuân
thủ của NNT lại rất lớn cả về phạm vi và mức độ ảnh hưởng. Do vậy, cơ quan thuế cần đưa
yếu tố này vào tính toán với trọng số thích hợp trong quá trình đánh giá tính tuân thủ và
xây dựng chiến lược quản lý tính tuân thủ của NNT.
Nhóm yếu tố về hệ thống chính sách pháp luật nói chung và pháp luật thuế nói riêng. Việc
tuân thủ tốt thường bắt nguồn từ chính sách thuế rõ ràng. Luật càng rõ và dễ hiểu và giải
thích rõ được nội dung luật sẽ là căn cứ vững chắc để xây dựng các chương trình quản lý

tuân thủ. Luật phức tạp và không rõ ràng sẽ làm tăng cơ hội cho NNT có những hành vi lợi
dụng kẽ hở của luật. Mặt khác, khi chính sách rõ ràng thì cơ quan thuế có nhiều cách để
thực hiện quy trình quản lý công bằng. Khi cộng đồng nhận thấy luật không phù hợp với
thực tế thì hiển nhiên các hành vi không tuân thủ sẽ ngày càng tăng thêm. Hoặc những sự
thay đổi của pháp luật về thuế sẽ gây ra những sự hiểu lầm về luật hoặc vẫn thực hiện theo
luật cũ,...
Nhóm nhân tố xuất phát từ bản thân NNT. Bao gồm các nhân tố về kinh tế và nhân tố hành
vi:
- Các nhân tố về kinh tế:
+ Gánh nặng về tài chính: luôn có một mối liên hệ giữa số nợ thuế và hành vi
tuân thủ. Nếu nghĩa vụ thuế lớn thì NNT có thể tránh phải nộp toàn bộ hoặc
tìm cách điều chỉnh số liệu báo cáo để làm giảm nghĩa vụ thuế;
+ Chi phí tuân thủ: Các chi phí này bao gồm thời gian bỏ ra để hoàn tất thủ
tục thuế, chi phí chi kế toán viên.... và có thể bao gồm cả chi phí về mặt tâm
lý như căng thẳng thần kinh do NNT không biết chắc họ có đáp ứng các qui
định của luật thuế hay không. NNT phải bỏ ra một số khoản chi phí trên để
tuân thủ các nghĩa vụ thuế, do đó làm cho thuế phải chịu của NNT cao hơn
số thuế thực nộp.


- Các nhân tố về hành vi:
+ Những khác biệt của từng cá nhân: Các nhân tố cá nhân tác động đến hành
vi bao gồm giới tính, lứa tuổi, trình độ học vấn, đạo đức, ngành nghề, tính
cách, hoàn cảnh và việc đánh giá rủi ro của từng người;
+ Cảm nhận về sự không công bằng: Các NNT có ấn tượng hệ thống không
công bằng và những NNT đã từng bị đối xử không công bằng có thể sẽ ít
tuân thủ hơn;
+ Cảm nhận về rủi ro tối thiểu: Nếu một NNT có cơ hội không tuân thủ và
nghĩ rằng chỉ có rủi ro không đáng kể nếu bị phát hiện thì NNT đó có thể
chấp nhận rủi ro này. Điều này có thể dẫn đến việc kê khai thấp một số loại

thu nhập nào đó;
+ Chấp nhận rủi ro: Một số người nhìn nhận việc tránh thuế là một trò chơi
và có thắng thua, họ thích thử nghiệm kỹ năng của mình trong việc tránh
các nghĩa vụ và tránh để không bị bắt.
Nhóm nhân tố về hoạt động quản lý của cơ quan thuế. Đây là nhóm nhân tố phản ánh khả
năng, trình độ tổ chức quản lý của cơ quan thuế. Nhóm nhân tố này được xác định bao gồm
các nội dung như: tổ chức bộ máy của cơ quan thuế; các qui trình nghiệp vụ của cơ quan
thuế; trình độ, năng lực của cán bộ thuế; trình độ ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt
động của cơ quan thuế; dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế,.... Một cơ quan thuế có trình độ và
khả năng quản lý tốt sẽ đảm bảo tính thực thi của pháp luật thuế và đảm bảo tính răn đe đối
với những trường hợp cố tình vi phạm pháp luật về thuế.

1.2.3. Các phương pháp để đo lường mức độ tuân thủ của NNT
Như đã phân tích ở trên, hành vi tuân thủ của NNT nếu căn cứ theo nghĩa vụ của NNT với
cơ quan thuế là khá đa dạng, đặc biệt với mỗi nhóm NNT lại có mức độ tuân thủ khác
nhau. Do vậy, phải sử dụng kết hợp nhiều phương pháp để đo lường mức độ tuân thủ của
NNT:
Phương pháp thống kê. Cơ quan thuế xây dựng các chỉ tiêu đánh giá và thống kê, phân tích
số liệu trên cơ sở các dữ liệu sẵn có của mình. Thông thường, phương pháp này được áp
dụng để đo lường các chỉ tiêu như:
 Tổng thu thực tế/tổng thu mục tiêu hàng năm.
 Khoảng cách thuế = 1 – (tổng thu thực tế/tổng thu tiềm năng)
 Số lượng bản khai thuế nhận được/số lượng doanh nghiệp đăng ký nộp thuế.
 Số lượng bản khai thuế nhận đúng thời hạn/số lượng bản khai thuế nhận được.
 Số thuế cần tăng thêm sau thanh tra thuế/nghĩa vụ thuế kê khai.
 Số thuế tăng thêm thực tế thu được/số thuế cần phải tăng thêm sau thanh tra
thuế.
 Số nợ thuế thu được/số nợ thuế thực tế tính vào đầu năm thu nợ.
 Số trường hợp tránh thuế và trốn thuế...
Phương pháp thống kê có ưu điểm là sử dụng được các dữ liệu sẵn có và dễ dàng cho việc

triển khai xây dựng các ứng dụng phục vụ cho hoạt động của cơ quan thuế. Tuy nhiên,
phương pháp này có nhược điểm là các chỉ tiêu thống kê chưa phản ánh được một cách
tổng thể và chính xác tình hình tuân thủ của NNT.
Phương pháp điều tra chọn mẫu. Cơ quan thuế thực hiện lựa chọn ngẫu nhiên các tờ khai
trong dữ liệu của mình. Sau đó thực hiện kiểm tra, đánh giá xem tờ khai có được nộp đúng
hạn không, có kê khai đầy đủ, chính xác và trung thực không,...Phương pháp này có ưu
điểm là kết quả điều tra có tính khoa học và độ chính xác cao nhưng chi phí thực hiện
không nhỏ.


Phương pháp phân tích báo cáo tài chính. Phương pháp này được áp dụng để dự báo khả
năng xảy ra trường hợp một NNT hay một nhóm NNT không tuân thủ pháp luật thuế thông
qua việc so sánh, phân tích một số nội dung trên báo cáo của NNT cụ thể như sau:
- Phân tích theo chiều ngang. Phân tích theo chiều ngang là việc so sánh các chỉ
tiêu trên báo cáo tài chính qua các năm, qua đó xác định xu hướng thay đổi và
tìm ra những vấn đề rủi ro trong việc xác định số thuế phải nộp.
- Phân tích theo chiều dọc. Phân tích theo chiều dọc là việc xác định tỷ lệ của các
chỉ tiêu trên báo cáo với tổng số, sau đó so sánh với mức bình quân chung của
ngành để đánh giá rủi ro có thể có đối với từng chỉ tiêu trên báo cáo tài chính
của NNT.
Ngoài ra, người ta còn sử dụng một số phương pháp khác để đo lường tính tuân thủ của
NNT:
- Điều tra, khảo sát: Cơ quan thuế có thể phối hợp với các đơn vị, tổ chức khác
thực hiện điều tra, khảo sát NNT về các vấn đề liên quan đến việc thực hiện
nghĩa vụ thuế đối với nhà nước. Phương pháp này có ưu điểm là tiếp cận được
với một số lượng lớn NNT và cũng cho thấy trình độ hiểu biết, thái độ tuân thủ
cũng như những vấn đề khó khăn của NNT khi thực hiện nghĩa vụ của họ. Tuy
nhiên, số liệu thu thập được và mức độ tin cậy của số liệu thu được qua điều tra,
khảo sát phụ thuộc rất nhiều vào cách thức xây dựng các bảng câu hỏi và cách
thức tổ chức điều tra, khảo sát.

- Quan sát trực tiếp: Khi cơ quan thuế có thể thu thập được những số liệu tin cậy
và xác định được khá chính xác số thuế phải nộp của một NNT, cơ quan thuế sẽ
thực hiện so sánh số dự tính với số kê khai của NNT để đánh giá mức độ trung
thực trong việc kê khai của họ. Phương pháp này có tính chính xác cao nhưng
khó có thể áp dụng rộng rãi do những khó khăn trong việc khai thác và kiểm
soát các nguồn cung cấp thông tin.
- Xây dựng mô hình phân tích: Thông qua việc tổng hợp các số liệu, chỉ tiêu liên
quan đến tính tuân thủ của NNT qua nhiều năm, cơ quan thuế có thể xây dựng
các ngưỡng giới hạn đối với các số liệu, chỉ tiêu này. Các trường hợp số liệu kê
khai, tính toán vượt các ngưỡng giới hạn này được coi là có nhiều nguy cơ
không tuân thủ pháp luật thuế.
Các phương pháp thông dụng được đề cập ở trên thường được dùng để đo lường, đánh giá
mức độ tuân thủ của NNT. Tuy nhiên, cần phải thừa nhận rằng không có một phương pháp
nào có thể đo lường một cách tuyệt đối đúng và toàn diện mức độ tuân thủ của NNT. Vì
vậy, cơ quan thuế cần căn cứ vào điều kiện cụ thể của mình lựa chọn kết hợp nhiều phương
pháp để đo lường, đánh giá mức độ tuân thủ của NNT cho phù hợp và hiệu quả.

1.2.4. Phương thức quản lý thuế và mối quan hệ với tính tuân thủ của NNT
Quản lý thuế truyền thống coi NNT là đối tượng quản lý của cơ quan thuế. Nhưng các
nghiên cứu quản lý thuế hiện nay khi xem xét cách tiếp cận để đổi mới quản lý thuế đã
nhấn mạnh muốn đạt được hiệu lực quản lý thuế cần phải xem xét NNT là khách hàng của
cơ quan thuế. Hoạt động của cơ quan thuế cũng như hoạt động kinh doanh; tất cả những
hoạt động để đảm bảo đối tượng tuân thủ tốt nghĩa vụ thuế phải được xem là các dịch vụ
phục vụ khách hàng. Sự phát triển của các nền kinh tế với sự phức tạp ngày càng tăng của
đối tượng nộp thuế tạo ra sức ép lớn hơn đối với nhiệm vụ quản lý thuế trong việc tạo điều
kiện và kiểm soát sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế. Chính vì vậy, phương thức quản lý
thuế mới theo đó tăng trách nhiệm cho người nộp thuế, tạo điều kiện cho người nộp thuế tự
chủ tự chịu trách nhiệm theo cơ chế người nộp thuế tự khai, tự tính và tự chịu trách nhiệm
đã thay thế cho phương thức quản lý thuế truyền thống.



Phương thức quản lý thuế theo mô hình tự khai tự nộp thuế là một phương thức quản lý
thuế được xây dựng trên nền tảng sự tuân thủ của NNT được cụ thể bằng việc NNT tự thực
hiện các nghĩa vụ mà Luật qui định và cơ quan thuế được tổ chức và thực hiện các biện
pháp quản lý thuế phù hợp với nguyên tắc đó. Nền tảng của phương thức quản lý thuế theo
mô hình tự khai tự nộp là tính tuân thủ của NNT.
Điều kiện để NNT thực hiện tự khai- tự nộp là:
- NNT phải hiểu biết nghĩa vụ của mình;
- Thủ tục thuế cần đơn giản nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho NNT thực hiện các
nghĩa vụ của mình;
- Cơ quan thuế cần có một hệ thống xử phạt nghiêm khắc và một hệ thống cưỡng
chế hiệu quả nhằm mục đích ngăn chặn và răn đe, hướng NNT về sự tuân thủ;
- Cơ quan thuế phải có một bộ máy thanh tra thuế đủ mạnh và hiệu quả nhằm làm
cho NNT nhận thức được rằng các trường hợp không tuân thủ sẽ bị phát hiện và
sẽ bị xử phạt nặng.
Phương thức quản lý thuế theo mô hình tự khai tự nộp có đặc trưng sau:
- Trách nhiệm, nghĩa vụ, quyền hạn và nhất là trách nhiệm về hành vi được qui
định rõ ràng cho cả hai phía là cơ quan thuế và NNT;
- Dân chủ trong quan hệ giữa cơ quan thuế và NNT;
- Cơ quan thuế không can thiệp và không làm thay trách nhiệm của NNT;
- Cơ quan thuế chuyển đổi từ việc chủ yếu dùng quyền lực đẻ quản lý chuyển
sang lấy hỗ trợ là chính. Đây là nền tảng cho một cuộc cái cách toàn diện hệ
thống quản lý thuế;
- Chế độ kiểm tra của cơ quan thuế chuyển từ "tiền kiểm" sang "hậu kiểm". Tức
là chuyển sang quản lý thuế theo cách thức quản lý rủi ro theo nhóm người nộp
thuế.

Hình 1.5: Đánh giá sự tuân thủ của người nộp thuế
Đăng ký thuế
Cơ quan

quản lý thuế

Khai thuế

Người nộp
thuế

Nộp thuế
Hình 1.5 mô tả sự đánh giá sự tuân thủ thuế của người nộp thuế trong cơ chế tự khai, tự
nộp. Cụ thể:
- Tuân thủ về Đăng ký thuế: Mức độ tuân thủ về đăng ký thuế được thể hiện ở việc
chấp hành quy định về đăng ký thuế. Đó chính là thực hiện đăng ký có đúng mẫu
biểu quy định không, có đăng ký thuế đúng thời hạn quy định không và những đối
tượng phải đăng ký thuế có đăng ký đầy đủ không,…
- Tuân thủ về khai thuế: Mức độ tuân thủ về khai thuế là nói đến việc kê khai trung
thực các khoản thu nhập, doanh thu, và sản lượng liên quan đến thuế trực thu hay
thuế gián thu, có nộp hồ sơ khai thuế đúng hạn và đầy đủ hay không. Tuân thủ
trong khai thuế có thể được phát hiện trong quá trình tiếp nhận hồ sơ khai thuế,
kiểm tra hồ sơ khai thuế và kế toán thuế.
- Tuân thủ trong nộp thuế: Mức độ tuân thủ trong nộp thuế là nói đến việc nộp thuế
đúng hạn. Mức độ tuân thủ này được định nghĩa là tỉ lệ giữa số nghĩa vụ thuế được
nộp đúng hạn và toàn bộ số nghĩa vụ thuế của người nộp thuế.


1.3. Kinh nghiệm một số nước trong quản lý thuế nhằm việc nâng cao
tính tuân thủ của NNT
1.3.1. Kinh nghiệm của Cơ quan thu nội địa Vương quốc Anh
Hệ thống thuế của Anh gồm hai tổ chức chịu trách nhiệm quản lý thu thuế là cơ quan Thu
nội địa chịu trách nhiệm quản lý thu các loại thuế trực thu và cơ quan Hải quan quản lý thu
các loại thuế gián thu và thuế tiêu thụ đặc biệt. Cả hai cơ quan đều trực thuộc Bộ Ngân khố

(Bộ Tài chính) của Anh. Cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế được cơ quan thu nội địa Anh áp
dụng từ năm 1996, tác động tới hơn 8 triệu NNT cá nhân, 700.000 tổ chức hợp danh và
300.000 quĩ tín thác.
Công tác tuyên truyền, hỗ trợ NNT của cơ quan thu nội địa được thực hiện như sau:
- Nguồn lực: Công tác tuyên truyền, hỗ trợ đóng vai trò quan trọng hàng đầu để
đảm bảo sự thành công của cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế, nên số cán bộ thuế
thực hiện nhiệm vụ này là rất lớn, chiếm 28% số cán bộ toàn ngành thuế. Tuy
nhiên, tỷ lệ cán bộ thực hiện công tác hỗ trợ đang giảm xuống do việc áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật như điện thoại, internet,...
- Cơ sở vật chất: các phòng hỗ trợ NNT của cơ quan thuế Anh thường được bố
trí gần ngay phía cửa ra vào và rất thuận tiện cho người nộp thuế. Đây đồng
thời là nơi tiếp nhận các loại văn bản giấy tờ gửi đến cơ quan thuế. Các phòng
được bố trí trong một không gian rộng có nơi đón tiếp khách hàng, có ghế ngồi
chờ, có giá để các tài liệu hướng dẫn và các tờ khai về nhiều lĩnh vực, nhiều vấn
đề và bằng nhiều ngôn ngữ. Các phòng này trang bị một số máy tính nối mạng
để NNT có thể truy cập tìm hiểu chính sách thuế. Tính đến cuối tháng 8/2004
toàn ngành thuế nước Anh với 76.600 công chức nhưng được trang bị đến
90.000 máy tính cá nhân và 3.500 máy in, 750 máy chủ để công tác hỗ trợ
NNT.
- Các hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ NNT được tiến hành dưới nhiều hình thức
dịch vụ phong phú với phương châm phục vụ khách hàng tốt nhất:
+ Duy trì hệ thống điện thoại hỗ trợ việc tự kê khai, tự nộp thuế. Hệ thống này
trả lời khoảng 1 triệu cuộc gọi/năm, hoạt động từ 8 sáng đến 10 giờ tối hàng
ngày. Trong trường hợp, các khách hàng cần bổ sung tờ khai, các tờ giải
thích hoặc các thông tin liên quan đều có thể gọi điện đến trung tâm hỗ trợ.
+ Tiến hành các chiến dịch tuyên truyền toàn quốc đối với các đối tượng nhận
được tờ khai nhằm nâng cao ý thức trong việc nộp tờ khai đúng hạn, cũng
như quảng bá cho các dịch vụ internet và dịch vụ hỗ trợ của cơ quan thuế.
Các chiến dịch tuyên truyền được thực hiện thông qua các phương tiện phát
thanh, truyền hình và internet.

+ Trên mạng internet hoặc tại các địa điểm hỗ trợ của cơ quan thuế có sẵn tài
liệu hướng dẫn cách thức điền tờ khai.
Theo thống kê của cơ quan thu nội địa vương quốc Anh thì nhu cầu tư vấn được sắp xếp
theo thứ tự: văn bản, điện thoại, tư vấn trực tiếp, điện tử. Tuy nhiên, theo xu hướng hiện
nay thì hình thức tư vấn điện tử ngày càng tăng nhanh rõ rệt và ngày càng có nhiều người
hỏi bằng điện thoại hơn.
- Xử lý lỗi và kiểm tra chất lượng hướng dẫn: Nếu NNT kê khai và nộp thuế
không đúng qui định và NNT chứng minh được lỗi này là do cán bộ thuế hướng
dẫn sai thì NNT không bị phạt, nhưng phải nộp đủ số thuế còn thiếu. Để tránh
hiện tượng sai sót trong hướng dẫn kê khai trong bộ phận dịch vụ hỗ trợ NNT
có một đội xử lý khiếu nại của người nộp thuế.
Để kiểm tra được chất lượng các cuộc tư vấn, các tổ kiểm tra xử lý tiến hành kiểm tra lại
các văn bản đã trả lời đối chiếu với chính sách chế độ xem có phù hợp và hợp lý không,


đối với hình thức tư vấn trực tiếp hoặc tư vấn qua điện thoại thì tổ kiểm tra xử lý có thể
phỏng vấn trực tiếp những người đã được tư vấn qua điện thoại hoặc đến trực tiếp để biết
được chất lượng các câu trả lời của cán bộ thuế.
- Đánh giá kết quả thực hiện: Theo thống kê của cơ quan thuế Anh thì tính đến
cuối năm 2003 có 85% số văn bản trả lời trong 15 ngày (yêu cầu đặt ra là 80%),
90% số cuộc gọi đến được trả lời sau 20 giây; 87% số người đến trực tiếp tư
vấn chỉ phải chờ trong 30 phút (yêu cầu 85%), 99 % số tờ khai đã được nhập
trước ngày 31 tháng 12. Như vậy, về cơ bản là công tác hỗ trợ người nộp thuế
của cơ quan thuế Anh đã đáp ứng được yêu cầu công việc của công tác quản lý
thu thuế, hỗ trợ tốt cho người nộp thuế và đảm bảo được số thu cho ngân sách.

1.3.2. Kinh nghiệm của Cục thu nội địa Singapore (IRAS)
Singapore là một quốc đảo của khu vực Đông Nam Á. Trước khi giành độc lập từ năm
1965, Singapore là thuộc địa của Anh nên chịu ảnh hưởng nhiều của Anh trong quản lý tài
chính, duy trì cơ chế quản lý thuế theo thông báo của cơ quan thuế. Sau hơn 10 năm đổi

mới, hệ thống quản lý thuế của Singapore là một hệ thống quản lý hiện đại, hiệu quả với
tốc độ triển khai công nghệ thông tin hàng đầu trong khu vực và trên thế giới. Theo đó,
IRAS luôn là cơ quan đi đầu trong lĩnh vự cung cấp dịch vụ công và luôn được NNT đánh
giá cao hoạt động của mình. Trong một cuộc điều tra năm 2000, 95% NNT là cá nhân,
83% NNT là doanh nghiệp được hỏi cho biết họ thực sự hài lòng với dịch vụ mà IRAS
cung cấp.
Có được những thành công kể trên trước hết là nhờ IRAS có chiến lược cải thiện hoạt động
của cơ quan thuế hướng đến NNT, tạo điều kiện cho họ có những hiểu biết về thuế và cung
cấp các phương tiện để NNT đơn giản hoá việc thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Bước đi
đầu tiên mà IRAS thực hiện là tăng cường việc kê khải thuế thông qua hệ thống điện thoại
và kê khai điện tử. Bằng những nỗ lực trong việc cải thiện chất lượng dịch vụ và tăng
cường tuyên truyền, quảng bá về các hình thức kê khai mới, đến năm 2000 có tới 1/3 NNT
thực hiện kê khai thuế điện tử và số còn lại hầu hết đều kê khai qua hệ thống điện thoại.
Một bước đi quan trọng nữa mà IRAS đã thực hiện là việc xây dựng hệ thống phân tích
thông tin tích hợp để phục vụ công tác tư vấn, hỗ trợ NNT. Sản phẩm của hệ thống này là
dịch vụ trả lời điện thoại tự động và dịch vụ tư vấn thuế một cửa. Theo đó, có đến 43% các
vấn đề vướng mắc về thuế được giải quyết bằng dịch vụ điện thoại trả lời tự động và NNT
có thể sử dụng dịch vụ một cửa để được giải đáp tất cả các vướng mắc về thuế.
Thông qua chương trình, kế hoạch phối hợp cung cấp thông tin với các cơ quan khác của
Chính phủ, IRAS đang xây dựng chiến lược phát triển với mục tiêu dài hạn là xoá bỏ mọi
hình thức yêu cầu NNT phải kê khai thuế, IRAS cùng với các cơ quan của Chính phủ sẽ
kiểm soát mọi trường hợp đăng ký kinh doanh, kiểm soát các luồng tiền, thu nhập, từ đó tự
xác định nghĩa vụ thuế cho từng NNT.
Chính nhờ những bước cải tiển triệt để này mà IRAS đã giúp cho NNT giảm đáng kể chi
phí cho việc tuân thủ nghĩa vụ nộp thuế, từ đó xây dựng và củng cố lòng tin của Chính phủ
và người dân vào hoạt động quản lý của mình.
Tóm lại, phần này đi vào hệ thống hóa những vấn đề mang tính lý luận về quản lý hành
chính thuế, tính tuân thủ của NNT và mối quan hệ trong quản lý thuế và tính tuân thủ thuế
của người nộp thuế. Bên cạnh đó, đề tài cũng đã nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước
trong quản lý thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ của NNT.



Chương 2:

QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH THUẾ VÀ TÍNH TUÂN THỦ CỦA
NGƯỜI NỘP THUẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Bối cảnh của quản lý hành chính thuế nhằm nâng cao tính tuân thủ
của người nộp thuế
2.1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam
Trong những năm đổi mới, từ Đại hội Đảng VI (năm 1986) đến nay, nền kinh tế
Việt Nam đã có một giai đoạn tăng trưởng kinh tế liên tục chưa từng có. Việc sớm thay đổi
chính sách đã có ảnh hưởng nhanh chóng và tích cực đối với hoạt động sản xuất và mức
sống của nhân dân. Khi công cuộc cải cách được thực hiện ở mức độ sâu sắc hơn trong
thập kỷ 90 thì tốc độ tăng trưởng kinh tế cũng được đẩy mạnh. Số liệu thống kê của Chính
phủ cho thấy tổng sản phẩm quốc dân tăng trưởng hàng năm trung bình khoảng 7% một
năm trong giai đoạn cải cách. Đây là một thành tựu đáng kể nếu tính đến ảnh hưởng tiêu
cực của cuộc khủng hoảng tài chính trong giai đoạn 1997-1999.
Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện, các dịch vụ chăm sóc sức
khoẻ, văn hoá, giáo dục có những bước tiến rõ rệt. Năng lực nghiên cứu khoa học được
tăng cường, đã triển khai nhiều ứng dụng công nghệ tiên tiến trong nhiều lĩnh vực.
Những thành tựu về kinh tế đã góp phần củng cố quốc phòng, giữ vững độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đảm bảo ổn định chính trị và trật tự xã hội.
Để tiếp tục phát huy những thành tựu phát triển kinh tế xã hội đã đạt được trong thời gian
qua, Đảng và Nhà nước ta đã xác định mục tiêu phát triển cụ thể của chiến lược phát triển
kinh tế, xã hội cho giai đoạn tiếp theo là:
- Đưa GDP năm 2010 lên ít nhất gấp đôi năm 2000. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và
sức cạnh tranh sản phẩm, của doanh nghiệp và của nên kinh tế; đáp ứng tốt hơn
nhu cầu tiêu dùng thiết yếu, một phần nhu cầu sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu,
ổn định kinh tế vĩ mô.
- Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta. Xoá hộ đói,

giảm hộ nghèo; giải quyết việc làm ở cả thành thị và nông thôn; chất lượng đời
sống vật chất và tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường xã hội an toàn,
lành mạnh; môi trường tự nhiên được bảo vệ và cải thiện.
- Năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ đủ khả năng ứng dụng các công
nghệ hiện đại, tiếp cận trình độ thế giới và tự phát triển trên một số lĩnh vực
nhất là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công
nghệ tự động hoá.
- Kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội, quốc phòng, an ninh
và có bước đi trước. Hệ thống giao thông đảm bảo lưu thông an toàn, thông
suốt và hiện đại hoá một bước. Mạng lưới giao thông được mở rộng và nâng
cấp. Bảo đảm về cơ bản cơ sở vật chất cho học sinh phổ thông học cả ngày tại
trường...
Qua phân tích, đánh giá tình hình kinh tế-xã hội Việt Nam trong thời gian qua có
thể thấy nền kinh tế Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển khá ổn định; các định hướng
và phát triển kinh tế được xây dựng và duy trì dài hạn không có sự biến động lớn tác động
đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp và tâm lý người dân. Các yếu tố lạm phát, tỷ
giá hối đoái, cán cân thanh toán quốc tế mặc dù còn phụ thuộc nhiều vào tình hình biến
động của thị trường thế giới nhưng đã được Nhà nước quản lý và có những tác động gián


tiếp để điều chỉnh, kiềm chế ở mức hợp lý. Các vấn đề chính trị, an ninh, quốc phòng được
giữ vững, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Cùng với sự chuyển biến tích cực của tình hình
kinh tế xã hội trong thời gian qua và những định hướng chiến lược phát triển dài hạn và
bền vững đã có những tác động tốt đến môi trường kinh doanh của Việt Nam, góp phần
nâng cao đời sống nhân dân, từ đó khơi dậy niềm tin của nguời dân với đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước và nâng cao tính tuân thủ của họ với pháp luật nói chung và
pháp luật thuế nói riêng.

2.1.2. Công tác quản lý thuế ở Việt Nam hiện nay
Thực hiện nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VI về phát triển nền kinh tế nhiều thành

phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Nghị quyết đại
hội Đảng lần thứ VII, VIII về công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, Nhà nước ta đã tiến hành cải cách thuế bước I (1990-1995), cải cách thuế bước II
(1996 đến 2005). Qua hai cuộc cải cách thuế, hệ thống quản lý thuế đã xây dựng và không
ngừng được kiện toàn, đảm bảo thực thi tốt và thống nhất các luật thuế trong cả nước. Hiệu
lực, hiệu quả của bộ máy quản lý thuế ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, trước yêu cầu
của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, công tác
quản lý thuế của nước ta vẫn còn các tồn tại và hạn chế sau:
Một là về cơ chế quản lý thuế
Nhìn chung cơ chế quản lý thuế chưa được xây dựng trên cơ sở đề cao tính chủ động,
nghĩa vụ, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân phải tự tính, tự khai, tự nộp thuế, tự chịu
trách nhiệm trước pháp luật. Điều này biểu hiện:
- Một thời gian dài chưa coi trọng việc tuyên truyền giáo dục, cung cấp dịch vụ hỗ trợ chất
lượng cao để nâng cao sự hiểu biết, tính tự giác tuân thủ pháp luật của NNT.
- Cơ quan thuế làm thay các chức năng thuộc trách nhiệm của NNT như: tính toán xác định
mức thuế để ra thông báo thuế, xác định mức miễn giảm thuế...
Hậu quả là, làm giảm nhẹ nghĩa vụ, trách nhiệm của NNT; nhiều vi phạm về thuế là do
thiếu hiểu biết gây ra, dẫn đến gánh nặng phải tăng cường công tác quản lý thuế để khắc
phục các sai phạm; làm lãng phí nguồn lực của cơ quan thuế.
Hai là, về công nghệ quản lý thuế
Việc quản lý thuế chưa dựa trên cơ sở thu thập thông tin, phân tích đánh giá theo các tiêu
thức quản lý để phân loại, lựa chọn phương thức theo mức độ rủi ro phù hợp với đặc điểm,
trình độ của từng loại NNT
Qui trình, qui phạm và các biện pháp nghiệp vụ quản lý chưa thật hợp lý và chưa thật coi
trọng hiệu quả thực thi pháp luật thuế cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế
Nhiều khâu quản lý thuế chủ yếu vẫn là thủ công; ứng dụng công nghệ thông tin vẫn ở
mức độ thấp, nhất là ở các khâu: thu thập thông tin liên quan đến NNT; tuyên truyền hỗ trợ
NNT; quản lý nợ thuế; thanh tra xử lý các vi phạm về thuế dẫn đến chất lượng cung cấp
dịch vụ và năng suất, hiệu quả quản lý thuế của cơ quan thuế còn thấp.
Chưa đề cao trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc cung cấp thông

tin và phối hợp với cơ quan thuế để thu thuế.
Công tác tuyên truyền và dịch vụ hỗ trợ NNT chưa được thực sự quan tâm và đầu tư đúng
mức, do vậy tính tuân thủ của NNT cũng như sự hiểu biết của xã hội đối với chính sách
thuế, các thủ tục hành chính thuế còn rất thấp.
Công tác thanh tra, kiểm tra xử lý các hành vi vi phạm về thuế của cơ quan thuế chưa đặt
đúng tầm và chưa phù hợp với thực trạng của nước ta.
Những tồn tại và hạn chế trên đòi hỏi ngành thuế phải tiếp tục cải cách hệ thống thuế để
thực hiện thắng lợi Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2010 theo quyết định số
201/2004/QĐ-TTG ngày 6/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ.


Thực hiện Chiến lược cải cách hệ thống thuế, từ ngày 1/1/2004, ngành thuế đã áp dụng thí
điểm cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế tại Cục thuế thành phố Hồ Chí Minh và Cục thuế
Quảng Ninh đối với 2 loại thuế là thuế GTGT và thuế TNDN. Việc thực hiện thí điểm cơ
chế tự khai tự nộp thuế tại một số Cục Thuế trong cả nước đã đạt được những kết quả khả
quan. Một mặt, ngành Thuế đã nâng cao chất lượng quản lý, giám chặt chẽ và phát hiện kịp
thời, chính xác hơn các trường hợp vi phạm, góp phần chống thất thu ngân sách, tạo bình
đẳng, công bằng trong kinh doanh giữa các đối tượng nộp thuế. Mặt khác, NNT cũng ý
thức rõ hơn việc nâng cao tính tự giác đối với nghĩa vụ nộp thuế. Từ ngày 1/7/2007 khi
Luật Quản lý thuế có hiệu lực thi hành, phương thức quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự
nộp thuế được áp dụng trên phạm vi toàn quốc. Theo cơ chế tự khai, tự nộp thuế, bộ máy
quản lý của cơ quan thuế các cấp được tổ chức tập trung theo các chức năng: tuyên truyền,
hỗ trợ NNT; theo dõi, xử lý việc kê khai thuế; đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thuế; kiểm tra,
thanh tra thuế. Bộ máy này có tính chuyên nghiệp và hiệu quả hơn, NNT được phục vụ tốt
hơn, vì cơ quan thuế có bộ phận tuyên truyền - hỗ trợ hướng dẫn, giải đáp mọi vướng mắc
của NNT. Các bộ phận chức năng khác như thu nợ, thanh tra, xử lý tờ khai... bảo đảm cho
cơ quan thuế giám sát chặt chẽ NNT, bảo đảm các vi phạm của NNT được phát hiện và xử
lý kịp thời.
Ba là, bộ máy tổ chức thu thuế của Việt Nam thuộc 2 cơ quan là Hải Quan và Tổng cục
Thuế. Tuy nhiên, đề tài chỉ bàn đến bộ máy của Tổng cục Thuế. Tổng cục Thuế là cơ quan

sự nghiệp trực thuộc Bộ Tài chính, được tổ chức theo ngành dọc từ trung ương đến địa
phương, các cấp của ngành thuế địa phương còn chịu sự lãnh đạo của chính quyền địa
phương cùng cấp. Bộ máy tổ chức thu thuế được tổ chức như được mô tả trong hình 2.1.
Bộ máy thu thuế cấp Tổng cục Thuế được tổ chức thành 12 vụ chức năng, gồm:

-

Vụ Pháp chế
Vụ Chính sách
Vụ Tuyên truyền – Hỗ trợ người nộp thuế
Vụ Kê khai và Kế toán thuế
Vụ Quản lý nợ và Cưỡng chế thuế
Vụ Dự toán thu thuế
Vụ Quản lý doanh nghiệp lớn
Vụ quản lý thuế thu nhập cá nhân
Vụ Hợp tác quốc tế
Vụ Thanh tra
Vụ kiểm tra nội bộ
Vụ Tổ chức cán bộ
Vụ Tài vụ - Quản trị

Với 12 Vụ chức năng trên, còn có Văn phòng Tổng cục, Cục Ứng dụng công nghệ
thông tin, Đại diện Tổng cục Thuế tại phía nam và Trường Nghiệp vụ thuế, Tạp chí Thuế
Nhà nước.
Ở cấp địa phương có các Cục Thuế ở 63 tỉnh, thành phố trên cả nước và tại mỗi
Huyện (quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh) có các Chi cục Thuế. Các đơn vị này được
tổ chức theo chức năng nhằm đảm nhận thu thuế theo quy định của Luật Quản lý Thuế.
Nhìn chung, bộ máy thu thuế của Việt Nam được tổ chức nhằm thực hiện theo chức
năng. Tuy nhiên, vẫn còn được tổ chức theo sắc thuế (quản lý thuế thu nhập cá nhân), điều
này cho thấy tổ chức bộ máy thu thuế của ngành thuế vẫn chưa hoàn toàn theo chức năng

mà vẫn còn sự đan xen với quản lý theo sắc thuế và là một bước “quá độ” trong hiện đại
hóa công tác hành chính thuế ở Việt Nam hiện nay.


Nguồn: Theo Quyết định số 115/2009/QĐ-TTg ngày 28 tháng 9 năm 2009 của Thủ tướng
Chính phủ

Bộ Tài chính

12 Vụ chức năng

Tổng cục Thuế

Văn phòng, Cục ứng dụng công
nghệ thông tin, VP đại diện phía nam

Trường Nghiệp vụ Thuế, Tạp chí Thuế

Cục Thuế

Gồm các Phòng chức năng
(Riêng TP Hồ Chí Minh và Hà Nội có
nhiều phòng chức năng hơn)

Chi cục Thuế
Chính phủ.

Hình 6.1: Chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của cơ quan Thuế
Với cơ cấu tổ chức của ngành thuế và sự thay đổi từ quản lý thuế theo sắc thuế và theo đối
tượng sang thực hiện quản lý thuế theo chức năng đã cho thấy một sự chuyển biến tích cực

trong công tác quản lý thuế. Tuy nhiên, sự thay đổi này cần phải được thực hiện trên sự kế
thừa từ công tác quản lý thuế trước đó.
Để thực hiện nhiệm vụ quản lý thu thuế nội địa, ngành thuế hiện nay có khoảng trên
40.000 cán bộ với trên 80% có trình độ đại học trở lên và số còn lại đã được qua đào tạo
trung cấp hoặc cao đẳng. Nhìn chung, ngành thuế đang thay đổi phương thức làm việc và
cùng với cải cách thủ tục hành chính của Nhà nước, Bộ Tài chính đã ban hành bộ thủ tục
hành chính thuộc lĩnh vực thuế (Quyết định số 1902/QĐ-BTC ngày 10/8/2009). Đồng thời,
Tổng cục Thuế đã ban hành công văn số 3343/TCT-CC ngày 14/8/2009 về việc công khai
bộ thủ tục hành chính thuế.
Việc công bố bộ thủ tục hành chính này có thể nói là một bước tiến trong thực hiện hành
chính thuế, là một tiêu chuẩn để cán bộ thuế thực hiện, đảm bảo sự minh bạch trong thủ tục
hành chính, là tiêu chí để cán bộ thuế phấn đấu thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Đồng
thời, đây là sự thể hiện sự cam kết của ngành thuế đối với người nộp thuế, đảm bảo tính
công bằng và minh bạch trong thực hiện thủ tục để hoàn thành trách nhiệm thuế của người
nộp thuế.


Với những kết quả phấn đấu về hành chính và con người của ngành thuế đã được đề cập ở
trên, thì để bắt kịp với sự cải cách hành chính thuế, cán bộ thuế cần phải thay đổi nhiều
hơn nữa văn hóa công sở và trình độ để đáp ứng nhiệm vụ trong điều kiện mới.

2.2. Thực trạng tính tuân thủ của NNT trong quản lý thuế ở Việt Nam
hiện nay
Trong những năm qua, nền kinh tế Việt Nam đang từng bước hội nhập và phát triển cùng
các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhờ những chính sách mở cửa phát triển kinh tế,
hàng năm có hàng chục vạn doanh nghiệp và hộ kinh doanh ra đời, qui mô kinh doanh
ngày càng lớn, hoạt động kinh doanh ngày càng đa dạng. Số người nộp thuế ngày càng
tăng lên và đa dạng cả về loại hình. Đặc biệt, loại hình người nộp thuế là cá nhân và hộ
kinh doanh cá thể tăng lên nhanh chóng khi có luật Thuế thu nhập cá nhân có hiệu lực thi
hành (xem bảng 2.1). Những nhân tố này đã làm tăng khối lượng công việc quản lý thuế

cũng như việc nhấn mạnh tính tuân thủ của người nộp thuế càng tăng lên.

Bảng 2.1: Số lượng người nộp thuế qua các năm (2007-2009)
Người nộp thuế
Doanh nghiệp Nhà nước

2007

2008

2009*

10.100

9.823

9.500

7.371

7.423

7.500

127.268

110.199

135.000


Công ty Cổ phần

45.583

47.215

50.000

DN tư nhân

58.942

138.765

360.000

1.425.990

1.485.580

1.500.000

Doanh nghiệp có vốn ĐTNN
Cty TNHH

Hộ cá thể

Cá nhân
105.979
600.425

6.000.000
* Ước tính cho năm 2009
Nguồn: Tổng cục Thuế, 2010
Nằm trong khu vực kinh tế phát triển năng động của khu vực, nền kinh tế Việt Nam trong
những năm qua đạt được nhiều thành tựu ấn tượng không thể không kể đến sự đóng góp
của khối doanh nghiệp đã và đang hoạt động tích cực, hiệu quả. Nhiều doanh nghiệp nhiều
năm liền là tấm gương điển hình trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế và có nhiều cá nhân
tiêu biểu trong việc nộp thuế thu nhập với người có thu nhập cao. Tuy nhiên, bên cạnh
những điển hình tốt trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế thì còn không ít NNT vi phạm pháp
luật thuế. Đánh giá chung là tính tự giác tuân thủ pháp luật thuế của NNT ở Việt Nam ở
mức độ thấp. Tình trạng vi phạm pháp luật thuế diễn ra phổ biến ở nhiều nhóm NNT và
mức độ ngày càng tinh vi phức tạp.
Trong thực tế, người nộp thuế đăng ký kinh doanh hoặc đăng ký thuế ở nước ta đã tăng
nhanh qua các năm đã làm tăng gánh nặng trong quản lý thuế. Đặc biệt, những người nộp
thuế này có thực sự tồn tại và kinh doanh hay không là một vấn đề đã gây khó khăn cho
công tác quản lý thuế của Việt Nam. Theo đánh giá của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì số
lượng các doanh nghiệp thành lập là rất lớn, nhưng số lượng còn thực tế hoạt động xấp xỉ
50% số đăng ký. Điều này đã phần nào cho thấy công tác quản lý người nộp thuế còn gặp
nhiều khó khăn phức tạp và mức độ tuân thủ thuế phải được nghiên cứu một cách đầy đủ
và kỹ càng.
Tại Việt Nam hiện nay, chưa có một nghiên cứu, đánh giá chính thức nào mang tính đại
diện cho toàn bộ các NNT về tính tuân thủ pháp luật thuế. Do đó, nội dung này của luận


văn sẽ đưa ra những nhận định mang tính chủ quan của tác giả trên cơ sở phân tích về tình
hình thực hiện 4 loại nghĩa vụ của NNT là đăng ký thuế; nộp tờ khai thuế và nộp các thông
tin cần thiết liên quan đến thuế; kê khai, tính thuế và nộp thuế

2.2.1. Tình hình đăng ký thuế
Rủi ro tuân thủ trong việc đăng ký thuế của NNT có thể là việc NNT không thực hiện kê

khai đăng ký thuế, kê khai thay đổi đăng ký thuế chậm so với thời hạn quy định; hoặc
không thực hiện khai báo khi đăng ký thuế thay đổi.
Cơ quan thuế quản lý (xác định) đối tượng nộp thuế thông qua mã số thuế. Mã số thuế là
một dãy số được cấp cho một tổ chức, cá nhân nộp thuế sử dụng trong suốt quá trình hoạt
động, từ khi thành lập cho đến khi chấm dứt tồn tại. Mã số thuế dùng để kê khai, nộp thuế
cho tất cả các loại thuế mà đối tượng đó phải nộp, bao gồm cả các khoản thuế, phí nội địa
và thuế xuất nhập khẩu (Thống nhất giữa cơ quan thuế và cơ quan hải quan về đăng ký cấp
mã số thuế cho NNT). Tuy nhiên, vẫn còn một số lớn NNT do cơ quan thuế quản lý thu
thuế nhưng chưa quản lý qua mã số thuế như các hộ gia đình nộp thuế nhà đất, các cá nhân
có thu nhập cao nộp thuế thông qua cơ quan chi trả, khấu trừ tại nguồn...
Tình trạng này diễn ra phổ biến ở khu vực ngoài quốc doanh, đặc biệt là các hộ kinh doanh
cá thể, buôn chuyến, vãng lai và ở các thành phố lớn. Theo số liệu của Tổng cục Thống

kê năm 2004 cả nước có khoảng 2,3 triệu hộ kinh doanh, theo số liệu cấp ĐKKD
của Bộ KH - ĐT đến hết năm 2004 cả nước đã cấp ĐKKD cho gần 2 triệu hộ
kinh doanh nhưng số hộ được quản lý thu thuế chỉ là 1,787 triệu hộ mới đạt
khoảng 78% so với số hộ điều tra; bằng khoảng 88% số hộ đã được cấp ĐKKD.
Trong số những hộ chưa được quản lý thu thuế có cả những hộ phải thu cả thuế
Môn bài, thuế GTGT và thuế TNDN. Đối với khu vực doanh nghiệp vẫn còn
tình trạng doanh nghiệp đã được cấp đăng ký kinh doanh nhưng không đến đăng
ký thuế hoặc đã đăng ký thuế nhưng thay đổi địa điểm trụ sở, địa điểm kinh
doanh hoặc kinh doanh nhưng không kê khai nộp thuế bỏ trốn cơ quan thuế
không kiểm soát được…
Đối với đăng ký thuế của cá nhân là một việc rất phức tạp và khó khăn kể từ khi Luật thuế
thu nhập cá nhân có hiệu lực thi hành. Cấp mã số thuế cho cá nhân là một việc làm rất
quan trọng, vì mã số thuế thu nhập cá nhân là một trong những nhân tố quan trọng nhất
trong quản lý thuế thu nhập cá nhân. Có mã số thuế, cơ quan thuế quản lý được các luồng
thu nhập của cá nhân, thông qua việc kê khai của các cá nhân, cơ quan chi trả thu nhập liên
quan. Hình 2.2. mô tả quy trình đăng ký mã số thuế thu nhập cá nhân hiện nay ở nước ta.
Theo quy trình này, mọi cá nhân có chứng minh nhân dân (hoặc hộ chiếu) đều được cấp

mã số thuế khi đăng ký thuế. Điều này có nghĩa là, việc đăng ký mã số thuế hiện nay chưa
bao quát hết đối tượng cư trú hiện nay ở nước ta – những cá nhân chưa có chứng minh
nhân dân (hoặc hộ chiếu). Điều này chưa thống nhất với quy định hiện hành là “Tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh và cung cấp dịch vụ, hàng hoá; Cá
nhân có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu nhập cá nhân”.1
Với đối tượng đăng ký mã số thuế đã được thu hẹp “chỉ những cá nhân có Chứng minh
nhân dân hoặc Hộ chiếu” và những cá nhân đã có mã số thuế trước đây không phải đăng
ký mã số thuế mới, nhưng cho đến nay công việc đăng ký và cấp mã số thuế thu nhập cá
nhân vẫn còn chưa hoàn tất.
Thực tế theo quy định việc đăng ký mã số thuế thu nhập cá nhân sẽ hoàn tất vào ngày 31
tháng 12 năm 2008. Tuy nhiên, ở hầu hết các địa phương tình trạng đăng ký mã số thuế
đến ngày 31/12/2008 vẫn chưa thực hiện xong và đã phải lùi thời hạn đăng ký mã số
1 Mục 2.1, Phần I, Thông tư số 85/2007/TT-BTC ngày 18 tháng 7 năm 2007


thuế. Cụ thể: theo ước tính của Cục Thuế Hà Nội, sẽ có khoảng 800.000 mã số thuế thu
nhập cá nhân được cấp mã số thuế trong đợt này. Nhưng tới ngày 31/12/2008 Cục mới
nhận được khoảng 18.000 hồ sơ; trong đó, có gần 10.000 hồ sơ đã được giải quyết. Theo
đó, hầu hết hồ sơ đăng ký cấp mã số thuế thu nhập cá nhân sẽ lùi sang năm 2009.

Hình 2.2: Quy trình cấp mã số thuế thu nhập cá nhân
Tương tự, việc đăng ký mã số thuế (MST) thu nhập cá nhân (TNCN) trên địa bàn tỉnh
Lạng Sơn bắt đầu được thực hiện đại trà từ đầu năm 2009. Song, theo số liệu của Cục Thuế
tỉnh, đến 11/2009 việc kê khai, đăng ký cấp MST mới đạt khoảng 50%. Nguyên nhân là do
nhiều doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân trên địa bàn tỉnh chưa thực sự quan tâm đến việc thực
hiện kê khai, đăng ký MST, cũng như kê khai về miễn trừ gia cảnh. Số liệu tổng hợp sơ bộ
CƠ QUAN THUẾ

1.Mẫu 01-ĐK-TCT
2.Bảng liệt kê Hồ

sơ ĐKT
3.Giấy phép thành
lập (bản sao)

1.Mẫu 01/ĐK-TNCN
2.Chứng minh nhân
dân hoặc Hộ chiếu

Mã số thuế
1.Mẫu 01/ĐK-TNCN
2.Chứng minh nhân
dân hoặc Hộ chiếu

TỔ CHỨC CHI TRẢ
THU NHẬP (TCCTTN)

CÁ NHÂN

Quan hệ của Tổ chức chi trả và cá nhân với Cơ quan thuế
Quan hệ của Tổ chức chi trả thu nhập với cá nhân làm việc tại TCCTTN

Quan hệ của Cơ quan Thuế với TCCTTN và với cá nhân

của Cục Thuế tỉnh, từ khi triển khai đến nay, đơn vị mới cấp được 21.469 MST. Trong đó,
cấp cho cá nhân được 9.174 MST, hộ kinh doanh là 9.736 MST, đơn vị hành chính sự
nghiệp vũ trang là 1.198 MST và đơn vị chi trả là 2.559 MST.
Đối với thành phố Hồ Chí Minh, hiện thành phố có khoảng hai triệu người cần được cấp
mã số thuế. Song, đến nay mới chỉ cấp được hơn một nửa. Nhiều cá nhân có nhu cầu được
cấp mã số thuế phục vụ việc khấu trừ thuế thu nhập vẫn đang phải chờ, dù hồ sơ có khi đã
nộp từ… vài tháng trước.

Như vậy, quy trình đăng ký mã số thuế đã được luật pháp quy định rõ ràng, nhưng những
nguyên nhân nguyên nhân khiến việc cấp mã số thuế khá chậm là do:

- Một là, khâu chuẩn bị giấy tờ để hoàn thiện hồ sơ mất khá nhiều
thời gian. “Ngoài ra, thời gian qua việc nhập số liệu, dữ liệu từ hồ
sơ, cán bộ thuế phải làm thủ công, trong khi nhu cầu cấp mã số thuế
rất lớn”.
- Hai là, người dân chưa thực sự quen với việc đăng ký thuế và chưa


am hiểu pháp luật.
- Ba là, đội ngũ cán bộ thuế có trình độ chưa cao và chưa thực sự
chuyên nghiệp.
- Bốn là, việc đăng ký mã số thuế còn thực hiện thủ công nên sẽ gây
ra những ách tắc và rất khó kiểm soát đối chiếu về sự trùng lắp về
các giấy tờ chứng minh của người nộp thuế.
2.2.2. Tình hình khai thuế và tính thuế
Tính đến nay, Cơ chế tự khai, tự nộp đã áp dụng được gần một năm, nhưng vẫn còn hiện
tượng NNT không nộp tờ khai và trong số những tờ khai đã nộp thì vẫn còn tình trạng
NNT nộp chậm tờ khai theo qui định hoặc tờ khai bị lỗi. Bảng 2.2 dưới đây là một ví dụ về
tình hình nộp tờ khai thuế.


×