Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

Ảnh hưởng của 3 loại thuốc trừ sâu (secsaigon 25EC, dragon 585EC, dầu khoáng SK 99EC) đến rệp sáp hại cam và thiên địch của chúng tại gia lâm hà nội, năm 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.92 MB, 130 trang )

1. Mở đầu

1.1. Đặt vấn đề
Cây ăn quả có múi (CăQCM) ở nớc ta bao gồm cam,
chanh, quýt, bởi (Citrus spp) là nhóm CăQCM có giá trị kinh
tế cao. Từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX quả có múi đã
trở thành loại quả quan trọng và có sản lợng cao bằng hoặc
hơn ba loại quả quan trọng khác là nho, chuối và táo tây.
Nghề trồng CăQCM là một ngành sản xuất nông sản hàng hoá
có giá trị kinh tế lớn ở nhiều nớc trên thế giới. Theo FAO,
(1991) ớc tính đến năm 2000 tổng sản lợng quả có múi trên
toàn thế giới đạt khoảng 85 triệu tấn, đứng đầu trong các
loại quả ( Vũ Công Hậu, 1996) [6].
ở nớc ta, nghề trồng CăQCM có truyền thống lâu đời và
có những loại quả có múi ngon, là đặc sản gắn liền với các
địa danh cũng nh thơng hiệu đặc trng cho từng vùng nh:
Cam Sành, Bố Hạ, Xã Đoài; Bởi Diễn, Phúc Trạch, Đoan Hùng,
Năm Roi,Từ những năm 90 của thế kỷ XX, CăQCM đã trở
thành loại cây trồng quan trọng, cây chủ lực trong chuyển
đổi cơ cấu cây trồng. Diện tích trồng CăQCM ở nớc ta hàng
năm không ngừng tăng lên. Theo số liệu thống kê cho biết
năm 1990, cả nớc có 19.062 ha cam

quýt với sản lợng và

119.238 tấn quả. Năm 1994, cả nớc trồng khoảng 60.000 ha
CăQCM và đến năm 1999 các con số này tơng ứng đạt là
63.400 ha với 405.100 tấn quả có múi. ( Vũ Công Hậu, 1996)
[6].

1




Với diện tích và sản lợng của CăQCM hàng năm đều tăng
ở khắp các vùng trồng trong cả nớc, nó chiếm một vị trí quan
trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, với mục
đích nhằm nâng cao năng suất và sản lợng, tăng nguồn thu
nhập cho ngời dân. Có những nơi CăQCM đã trở thành hàng
hoá chủ yếu và cũng là nguồn thu nhập chính đối với nông
hộ. Trớc năm 1975, cam quýt ở các nông trờng trồng CăQCM
(nh Cao Phong, Sông Bôi, Thanh Hà, Sông Con,) đã đạt
năng suất trung bình 18-20 tấn/ha với tuổi thọ của các vờn là
17-18 năm. Từ cuối thập niên 70 của thế kỷ XX, năng suất
cam quýt ở nhiều nông trờng chỉ đạt 10 tấn/ha và tuổi thọ
của vờn giảm xuống chỉ còn 10-12 năm (Vũ Khắc Nhợng,
1993) [12].
Tiềm năng phát triển của ngành CăQCM ở nớc ta là rất lớn
do các điều kiện đất đai, thời tiết khí hậu thuận lợi. Nhng
trong những năm gần đây sản lợng cam quýt sản xuất ra,
không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nớc, phẩm chất
quả cha đáp ứng đợc yêu cầu xuất khẩu. Điều đó, đã tạo
điều kiện mở đờng cho sản phẩm cam quýt tơi từ Trung
Quốc nhập khẩu ồ ạt và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trờng
trong nớc. Điều đó đã kéo theo tình hình phát sinh một số
sâu bệnh gây hại cho cây có múi ngày càng phức tạp và
nghiêm trọng.
Song song việc phát triển các vùng trồng CăQCM ngày
một tăng, nhng có nhiều nguyên nhân gây nên tình trạng
suy thoái nhanh của các vờn CăQCM. Một trong các nguyên
nhân quan trọng là do sâu bệnh. Thành phần sâu bệnh hại


2


CăQCM ở nớc ta rất phong phú và đa dạng. Chỉ riêng sâu hại,
trên CăQCM ở nớc ta đến nay đã ghi nhận đợc 169 loài thuộc
45 họ của 9 bộ côn trùng và nhện nhỏ (Phạm Văn Lầm và ctv,
1999) [10]. Trong những năm gần đây, một số sâu bệnh đã
phát sinh phát triển mạnh và gây hại nghiêm trọng cho
CăQCM và việc phòng trừ chúng gặp rất nhiều khó khăn nh
bệnh Tristeza, bọ trĩ, rệp hại, nhện đỏ cam, nhện rám vàng,
ngài hút quả.
Để phục hồi nền sản xuất cây ăn quả có múi, duy trì và
phát triển các vùng cam quýt đặc sản. Chúng ta cần tăng cờng nghiên cứu ứng dụng các biện pháp phòng trừ dịch hại.
Đến nay, đã đạt đợc nhiều kết quả khả quan, những thành
tựu nổi bật về phục hồi giống, nhân giống sạch bệnh và kỹ
thuật chăm sóc, canh tác... đã và đang đợc ứng dụng rộng rãi
trong sản xuất.
Tuy nhiên, do đầu t thâm canh và sản xuất chuyên canh
đã tạo điều kiện cho sâu bệnh phát triển mạnh mẽ, diễn
biến phức tạp. Biện pháp phòng chống sâu hại nói chung và
sâu hại CăQCM nói riêng ở nớc ta hiện nay chủ yếu dựa vào
thuốc hoá học. Qua một thời gian dài sử dụng thuốc hoá học
đơn thuần, chẳng những không diệt đợc sâu hại triệt để
mà còn gây hại cho thiên địch, gây ô nhiễm môi trờng ảnh
hởng đến sức khoẻ cộng đồng, gây mất cân bằng sinh học
trong hệ sinh thái bền vữngChình vì vậy, mật độ quần
thể một số loài sâu hại trớc đây giữ vai trò thứ yếu thì nay
đã nổi lên nh một loài chủ yếu với mật độ khá cao, khả năng
gây hại lớn ở hầu hết các vùng trồng Cam, quýt nh rệp hại,


3


nhện, bọ trĩ, sâu vẽ bùa.
Trong các nhóm sâu hại CăQCM thì thành phần rệp sáp
gây hại đáng kể. Chúng chích hút dinh dỡng ở hầu hết các
bộ phận cây trồng: cành, lá, hoa, quả.làm giảm phẩm chất,
chất lợng sản phẩm và đôi khi không cho thu hoạch hoặc có
thu hoạch thì cũng ảnh hởng đến việc tiêu thụ và xuất khẩu
sản phẩm. Do vậy việc điều tra, nghiên cứu thành phần của
loài rệp hại trên CăQCM là một việc làm quan trọng. Từ đó
đề xuất việc sử dụng thuốc hoá học một cách hợp lý, có hiệu
quả và an toàn với môi trờng.
Đi sâu nghiên cứu vấn đề này, đợc sự đồng ý của Khoa
Nông học Trờng Đại học Nông Nghiệp Hà Nội chúng tôi tiến
hành đề tài:

ảnh hởng của 3 loại thuốc trừ sâu (SecSaigon
25EC,

Dragon 585EC, Dầu khoáng SK 99EC)

đến rệp sáp hại cam và thiên địch của chúng tại
Gia Lâm - Hà Nội, năm 2008.
1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích
-Trên cơ sở tìm hiểu tác động của một số loại thuốc trừ
sâu

SecSaigon 25EC, Dragon 585EC, Dầu khoáng SK


99EC phòng chống rệp sáp hại cam và thiên địch của chúng,
từ đó đề xuất sử dụng thuốc hoá học một cách hợp lý, có
hiệu quả và an toàn với môi trờng tại vùng nghiên cứu.
1.2.2. Yêu cầu
- Điều tra thành phần rệp sáp hại cam và thiên địch
chúng (côn trùng bắt mồi, côn trùng ký sinh) tại vùng nghiên

4


cứu.
- Đánh giá tác động của một số loại thuốc trừ sâu
SecSaigon 25EC, Dragon 585EC, Dầu khoáng SK 99EC để
phòng trừ rệp sáp hại cam và thiên địch của chúng.
- Bớc đầu đề xuất sử dụng thuốc hoá học một cách hợp
lý, có hiệu quả và an toàn.
1.3. ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
-Tìm hiểu tác động của một số loại thuốc trừ sâu
SecSaigon 25EC,

Dragon 585EC, Dầu khoáng SK 99EC đến

rệp sáp và thiên địch của chúng trên cây cam sẽ đóng góp
thêm cơ sở khoa học, sử dụng hợp lý thuốc hoá học, vừa bảo
vệ cây trồng, vừa bảo vệ các loài thiên địch.
-Bổ sung dẫn liệu về thành phần của rệp sáp hại cam
và vai trò của các loài thiên địch (côn trùng bắt mồi, ký sinh)
có ý nghĩa trong điều hoà số lợng rệp sáp.


5


2. Tổng quan tài liệu
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
Công tác phòng chống dịch hại nói chung và rệp hại nói
riêng trên thế giới ngày nay đã đạt đợc nhiều thành tựu to lớn.
Cùng với sự phát triển không ngừng về khoa học bảo vệ thực
vật, hàng loạt thuốc trừ sâu thế hệ mới ra đời, nh những
thuốc trừ sâu có tính chọn lọc cao, thuốc trừ sâu sinh học ít
độc với con ngời và môi trờng .Gần đây nhất là những ứng
dụng trừ sâu hại của sản phẩm dầu khoáng đối với các loại
rệp sáp trên cây ăn quả có múi. Hiệu quả của việc sử dụng
dầu khoáng DC-Tron Plus không độc hoặc chỉ độc rất nhẹ
đối với một số thiên địch phổ biến trên CăQCM nh nhện bắt
mồi, bọ rùa,.Do đó khi sử dụng dầu khoáng này để trừ sâu
hại, nó lại có u điểm bảo tồn gần nh tất cả các nhóm thiên
địch phổ biến trên CăQCM, lại an toàn với môi trờng (Nguyễn
Văn Cảm và ctv, 2000) [4]. Những loại thuốc này đã dần dần
thay thế những thuốc trừ sâu thế hệ cũ có độ độc cao và
gây ô nhiễm môi trờng, làm giảm đáng kể thiệt hại do sâu
hại gây nên. Ngoài ra, hiện nay xu hớng trên thế giới đang
quan tâm đến biện pháp sinh học và quản lý dịch hại tổng
hợp ngày càng đợc chú ý ở nhiều nớc; Mỹ, Australia, Nhật,
Trung Quốc, Thái Lan ... Công tác phòng trừ sâu bệnh hại trên
cây có múi đã đợc áp dụng theo nguyên tắc quản lý dịch hại
tổng hợp (Intergratest Pest Management, IPM). Chơng trình
IPM đợc thử nghiệm và ứng dụng trên các vờn cây lâu năm
đã mang lại hiệu quả cao và bền vững.


6


ở nớc ta việc nghiên cứu về rệp sáp hại CăQCM cũng đã
đợc nhiều tác giả quan tâm nh: Các kết quả điều tra Viện
Bảo Vệ Thực Vật (1967-1968); (1977- 1978); (1999), [20],
[21], [22], Trần Đức Hà (1967- 1968) [8], Hồ Khắc Tín [16],
Hà Minh Trung, Đỗ Thành Lâm, Trơng Quốc Tấn (1992)[18],
Quách Thị Ngọ (1998) [13], Phạm Văn Lầm và ctv (1999) [10],
Nguyễn Văn Cảm & ctv 2000 [4], Phạm Thị Vợng và Trơng
Quảng Hàm [24],.... Từ những kết quả nghiên cứu trên của các
tác giả đã góp phần hạn chế thiệt hại do rệp sáp gây ra trong
thực tiễn sản xuất cây có múi ở nớc ta. Tuy nhiên ở những
điều kiện sinh thái khác nhau, trình độ thâm canh và tập
quán canh tác khác nhau thì thành phần sâu hại trên cây cam
quýt cũng có những điểm khác biệt. Trên thực tế ở các vờn
cam hiện nay việc phòng trừ rệp sáp hại vẫn chủ yếu dựa vào
thuốc hoá học, nên đã gây nhiều bất cập trong sản xuất, các
loại sâu và rệp sáp trở nên quen, kháng với thuốc bảo vệ thực
vật.
Xuất phát từ các luận cứ khoa học trên, đáp ứng yêu cầu
của sản xuất trớc mắt cũng nh lâu dài, chúng tôi tiến hành
thực hiện đề tài, nhằm thu thập các dẫn liệu khoa học, làm
cơ sở để phát triển các biện pháp phòng trừ rệp sáp có hiệu
quả, thích hợp với điều kiện sinh thái và canh tác của vùng
trồng cam tại Đa Tốn- Gia Lâm - Hà Nội.
2.2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu trong và ngoài nớc
2.2.1. Những nghiên cứu trên thế giới.
2.2.1.1.Tình hình gây hại của rệp sáp trên CĂQCM.


7


Liling Yong Wangren and D.F Waterhouse(1997) [47], có
72 loài gồm rệp muội (Aphididae), rệp sáp giả (Coccidae), rệp
bông (Margarodidae), rệp sáp phẩy (Diaspididae). Theo Uma
Narabimham A, (1984) [63], rệp sáp có vòng đời ngắn, sức
sinh sản cao nên số lợng quần thể tăng nhanh. Con đực, khi trởng thành trải qua 2 giai đoạn tiền nhộng và nhộng, nhng ở
con cái không có giai đoạn nhộng, ngoài ra chúng có thể sinh
sản theo kiểu đơn tính và lỡng tính.
Rệp sáp gây hại nhiều trên cây lu niên, đặc biệt trong
nhóm CĂQCM thì cây cam là một trong những đối tợng bị
gây hại nhiều nhất. Theo Metcalf, C. L(1962)[50]; Davidson,
(1966) [34], Samson, J.A (1986) [55]. Tác hại của rệp sáp làm
giảm quá trình quang hợp của cây. Mặt khác tạo điều kiện
cho kiến cộng sinh mang rệp đi khắp mọi nơi, theo Pratt. R.
M, (1958) [54], Su.T.H, Lin FC.(1968) [58], Garg D.O, (1978)
[44].
Theo công bố của chuyên gia Nga (Dancing.EM và
G.M.Konstantinova, 1990) [33], ở Việt Nam có khoảng 100 loài
rệp sáp, trong đó có 52 loài hại cam quýt. Trong khi đó, theo
kết quả nghiên cứu của Barbagallo.S (1981) [29], ở Italia ngoài
nhện gây hại trên cam còn có các loài sâu hại khác gây hại
trong đó rệp sáp gây hại cũng rất nghiêm trọng.
Ngoài các nghiên cứu trên về rệp sáp còn có rất nhiều
đề tài, báo cáo khoa học có liên quan đến rệp sáp hại cây có
múi, theo Smith D, Beattie G.A.C., Roger Broadley (1997) [56],
và các nghiên cứu của một số tác giả Dekle, G. W. (1965) [35],

8



Elmer, H. S. and O. L. Brawner. (1975)

[38], Emden H.F.Van

(1972) [39], Comstock, J. H. (1916) [31], Metcalf, C. L. & G. L.
Hockenyos (1930) [51], Morrison, H. E. Morrison.(1927) [52],
SH.Futch, CW. McCoy & C.C. Childers (2006) [43], các tác giả
đã đi sâu nghiên cứu các đặc điểm hình thái sinh học,
vùng phân bố, ký chủ, của một số loài rệp sáp hại cây có múi:
Rệp sáp lông xơ Icerya purchasi Maskell; Rệp sáp vảy tròn
trong suốt Apsidiotus destructor Signoret ; Rệp sáp bột tua
ngắn Planococus citri Risso; Rệp sáp bột 2 tua dài
Pseudococus longispinus Targioni; Rệp sáp 3 sống nổi
Unaspis Citri Comstocky; Rệp sáp phảy dài Lepidosaphes
beckii Newmann; Rệp sáp nâu mềm Cocus hesperidum
Linnacus
*Rệp sáp bông: Icerya purchasi Maskell hại cây có
múi
Theo Smith D, Beattie G.A.C., Roger Broadley (1997)
[56], Fasulo TR, Brooks RF (2001) [41], Baker JR. (2005)[28],
Thorpe, W. C. (1930) [62] vòng đời rệp Icerya purchasi
Maskell khoảng 2 tháng vào mùa hè, có ít nhất 2 thế hệ trong
một năm, tất cả những con non có thể chuyển động đợc.
Sau khi nở chúng bò đi và đến những nhánh ở cành cây
hoặc thân cây, những con cái trởng thành di chuyển cho
đến khi bọc trứng phát triển. Chúng gây hại chính trên họ
cam, quýt và những cây khác nh cây Keo cũng bị chúng tấn
công. Chúng có nguồn gốc ở úc, nhng ngày nay nó xuất hiện

ở tất cả nhng nơi có họ Cam, Chanh sinh sống và gây hại trên
quả, lá, cành.

9


Theo Gossard HA.(1901) [45], Ebeling W.(1959) [37], tại
Florida- Mỹ rệp sáp Icerya purchasi Maskell đã trở thành loài
gây hại phổ biến trên các cây có múi. Tại trung tâm nghiên
cứu côn trùng học California (1888) họ đã rệp nhận biết đợc
sự xuất hiện rệp sáp Icerya purchasi, sau đó đến năm 1893
họ đem nhân nuôi rệp sáp trong các vờn ơm ở Keene-Florida
và thành lập

trung tâm nghiên cứu rệp sáp hại tại đây

(Debach P. 1973)[36].
Theo S.H. Futch, C.W. McCoy and C.C. Childers 2 [43], rệp
sáp Icerya purchasi Maskell cơ thể có hình ô van và có màu
nâu sáng. Vòng đời của một trởng thành cái đẻ từ 500- 800
trứng.
*Rệp

sáp

vảy

tròn

trong


suốt:

Apsidiotus

destructor Signoret hại cây có múi
Theo Smith D, Beattie G.A.C., Roger Broadley (1997)
[56], loài này có từ 2 - 4 thế hệ trong 1 năm ở nhiệt độ cao
khoảng 400C có thể làm ảnh hởng tới nó A. destructor thích
nhiệt độ ôn hoà, thích sống dới bóng mát. Nó xuất hiện phía
tán dới của cây và mặt dới lá, đôi khi xuất hiện trên quả. Loài
này không phổ biến, có nhiều ở Queensland vì ở đó có khí
hậu phù hợp. Chúng tấn công tất cả họ Cam, Chanh và có
nhiều trên cây cảnh. Chúng xuất hiện ở Bắc Nam Mỹ, Trung
Quốc, chỉ hại chính trên bộ phận lá và quả.
Theo Williams, D. J. and G. W. Watson. (1988) [66],
Taylor, T. H. C. (1935) [61], rệp sáp Apsidiotus destructor
Signoret gây chúng xuất hiện và gây hại chủ yếu trên
cam, chanh, chuối, táo ở nhiều nớc trên thế giới. Waterhouse,
D. F. and K. R. Norris. (1987) [65], tại trung tâm nghiên cứu

10


sinh học tại Melbourne úc, loài rệp sáp Apsidiotus destructor
Signoret cũng gây hại nhiều trên cam, chanh, tại Đảo Hawaii
rệp sáp Apsidiotus destructor Signoret cũng gây hại rất nhiều
trên CĂQCM ( Beardsley, J. W. (1970) [30])
Ngoài ra còn có tên gọi khác Chrysamphalus aurantii
citrinus.

*Rệp sáp bột tua ngắn: Planococus citri Risso hại
cây có múi
Theo Smith D, Beattie G.A.C., Roger Broadley (1997)
[56], rệp Planococus citri Risso Queensland và Bắc Territory
có 6 vòng đời trong một năm. ở New South Wales có 4-5 vòng
đời trong năm. Suốt mùa đông những con cái loài này sống ở
trên vết nứt trên cành cây hoặc trên lá. Những con còn lại di
chuyển lên quả vào cuối mùa xuân và thờng sống ở trên đài
hoa giữa lá và giữa quả vào cuối tháng 11. Planococus citri
tấn công trên những cây họ cam, quýt và những cây cảnh
và nó cũng tiết ra dịch ngọt, là môi trờng cho nấm muội đen
phát triển. Nó có mặt ở tất cả mọi nơi trên thế giới gây hại
cho hoa, quả, lá, cành.
Planococus citri xuất hiện ở hầu hết các vùng trên thế
giới từ một hòn đảo ở Nam Thái Bình Dơng. ở Nam Âu, Bắc
Mỹ và Nam úc. ở vùng Nam Thái Bình Dơng P. Citri đợc ghi lại
trên 20 cây ký chủ trong đó có Cam, Chanh. ở vùng khí hậu
ôn đới nó xuất hiện chủ yếu ở những cây trồng trong nhà
Coleusvaf ở vờn dới điều kiện mùa hè nó cũng xuất hiện trên
nho, các cây thuộc họ cam, chanh và khoai tây. ở vùng Địa

11


Trung Hải nó chỉ tấn công trên cây họ cam chanh nhng
không xuất hiện ở nho.
Các tác giả James (1932-1937), Myres (1932), Betrem
(1936), Risbec (1937), Entwistle (1958), Tangetal (1992) đã
mô tả vòng đời rệp sáp Planococus citri là loài đẻ trứng, sản
phẩm trứng bắt đầu từ 2 tuần thụ tinh. Những quả trứng

màu hổ phách đợc đẻ trong những túi bông ở đằng sau.
Những túi bông có chiều dài ngang bằng chiều dài cơ thể
của con cái trởng thành. Số lợng trứng rất nhiều từ 150-200
quả. Thời kỳ ấp trứng từ 2-10 ngày. Những con cái trải qua
thời kỳ nhộng gồm 3 giai đoạn. chúng có ít đốt râu hơn,
chúng di chuyển nhiều hơn so với con đực. Nhộng đực giống
nhộng cái ở một nửa thời kỳ này nhng ở giai đoạn 3 chúng trải
qua thời kỳ tiền nhộng và sau đó là một quá trình bất động
trớc khi trở thành con trởng thành. Thời kỳ nhộng của con cái
khoảng 16 ngày ở Trinidad và 32-36 ngày ở Coted Ivoice và
Ghana (Entwistle, 1972) con cái trởng thành tiếp tục lớn và đẻ
quả trứng đầu tiên khi nó đợc 9-10 ngày tuổi, thời kỳ ấp
trứng khoảng 5 tuần; con đực trởng thành xuất hiện sau 3
ngày ở thời kỳ nhộng và thời kỳ từ lúc còn là trứng đến lúc trởng thành là 16-17 ngày ở Trinidad, còn tại Quebec theo
Sutherland, J.R.G (1932) [57], ngời ta cũng theo dõi thấy sự
xuất hiện và gây hại của rệp sáp Planococus citri tại vùng
trồng cây ăn quả có múi.
*Rệp sáp bột 2 tua dài: Pseudococus longispinus
Targioni hại cây có múi

12


Theo Smith D, Beattie G.A.C., Roger Broadley (1997)
[56], Flandes, S. E. (1940) [42] thì ở Queensland và Bắc
Territory có 4-6 thế hệ trong năm. Vào mùa xuân các con non
mới nở di chuyển đến những chồi cây non vào cuối tháng 11
đầu tháng 12. Những con non và con trởng thành tìm chỗ
ẩn náu ở dới đài hoa bên cạnh lỗ lõm ở chóp, nơi tiếp xúc giữa
quả và cành, thông thờng chúng di chuyển xuống thân để

đẻ hoặc đẻ trên lá già. Phần lớn những con này sống qua mùa
đông và tập trung vào tháng 8-9, những con này tiết ra dịch
ngọt là môi trờng tốt cho nấm muội đen và những loài nấm
khác phát triển. Loài này xuất hiện ở Nho, Lê, Mẵng Cầu và
Cây cảnh. Chúng phân bố rộng rãi và tiếp tục phát triển sau
mùa thu hoạch.
*Rệp sáp 3 sống nổi: Unaspis Citri Comstocky hại
cây có múi
Theo Smith D, Beattie G.A.C., Roger Broadley (1997)
[56], vòng đời của rệp sáp Unaspis Citri Comstocky khoảng 8
tuần vào mùa hè. ở Queensland úc có 5-6 thế hệ trong năm
khi nó sống trên cây có thể dễ dàng tìm thấy nó ở thân
cây, cành và ở lá, chúng tấn công chủ yếu trên cây họ cam,
quýt. Loài rệp sáp này đã phát tán từ Đông úc sang FloridaMỹ. Sự xâm nhập của những con này với số lợng lớn nó có thể
là nguyên nhân làm khô vỏ cây, làm vỏ cây bong ra và nó
thờng tấn công vào những cây già.
Theo S.H. Futch, C.W. McCoy and C.C. Childers 2 [43], rệp
sáp Unaspis Citri Comstocky cơ thể trởng thành phủ lớp sáp

13


màu trắng, có 3 sống nổi trên lng, cơ thể dài từ 1,52,25mm. Chúng gây hại chủ yếu trên cây có múi. Ngời ta
cũng thấy sự xuất hiện của ong ký sinh Encarsia spp ký sinh
trên loài rệp sáp này.
Loài này có tên gọi khác là Targioni Tozzetti và Fiorina
Japonica Kuwana.
*Rệp

sáp


phảy

đỏ

tía:

Lepidosaphes

beckii

Newmann hại cây có múi
Theo Smith D, Beattie G.A.C., Roger Broadley (1997)
[56], thì ở Queensland và Bắc Territory có 6-8 thế hệ trong
năm. ở New South Wales có 2-3 thế hệ trong năm. Chúng đợc
phân tán tập trung trên quả với số lợng lớn hoặc đám rệp sáp
kéo đến những đám quả nằm cạnh nhau, có thể tìm thấy ở
dới quả hay bất kỳ phần nào của cây. Chúng thờng xâm
nhập vào vờn cây ăn quả mới trồng. Những chồi mang ghép
có thể đa con rệp tới vờn quả mới, loài này bị ảnh hởng bởi
thời tiết nóng khô, nhất là vùng ven biển. Cây ký chủ có cả ở
Bơ khuynh diệp, cây Vả, Hồ đào và nhiều loài cây cảnh.
Loài này có nguồn gốc ở khắp trên thế giới.
Theo S.H. Futch, C.W. McCoy and C.C. Childers2 [43], rệp
sáp Lepidosaphes beckii Newman cơ thể trởng thành có màu
đỏ tía hoặc nâu tối, cơ thể dài từ 2 - 3mm. Ngoài ra chúng
cũng bị một số thiên địch ký sinh (Aphytis lepidosaphes
Compere, Chilocorus stigma Say) chủ yếu trên cây có múi ở
Floria- Mỹ.Loài này còn có những tên khác nh Mitilaspis
atricola, Mitilaspis atricola Packard Cocous beckii, Cornuaspis

beckii, Lepidosaphes citricola.

14


*Rệp sáp nâu mềm: Cocus hesperidum Linnacus hại
cây có múi
Theo Smith D, Beattie G.A.C., Roger Broadley (1997)
[56], loài này rất hiếm, con cái có thể sinh nở không cần
giao phối vì nó đẻ tổng cộng khoảng 200 con. Vòng đời của
nó khoảng 2 tháng vào mùa hè, sự phát triển giữa các thể hệ
không đồng bộ, các thế hệ chồng chất lên nhau. ở
Queensland và Bắc Territory có 4-5 thế hệ trong năm.
ở New South Wales, Victoria và Nam úc có 3- 4 thế hệ
trong năm, số lợng tăng nhanh nhất vào mùa hè và mùa thu.
Con trởng thành tập trung ở lá cây và nhánh nhỏ thỉnh
thoảng xuất hiện trên quả xanh, nó thờng tiết ra số lợng lớn
dịch ngọt là môi trờng cho nấm muội đen phát triển. Những
con mới sinh di chuyển xung quanh cho đến nửa vòng đời
sau đó nó di c đến lá và những nhánh nhỏ định c rồi đẻ
con. Loài này xuất hiện trên Cam, quýt và cây cảnh và có
hầu hết ở các nớc trên thế giới nên chúng xuất hiện với mật độ
cao gây hại nặng cho cây. Nấm muội đen phát triển làm
giảm khả năng quang hợp và ảnh hởng đến chất lợng quả.
Theo S.H. Futch, C.W. McCoy and C.C. Childers 2 [43], rệp
sáp Cocus hesperidum Linnacus cơ thể trởng thành có màu
nâu sáng hoặc nâu vàng, cơ thể dài từ 2,5- 4mm. Rệp sáp
non mới sinh có màu vàng nhạt, chúng gây hại chủ yếu trên
cây có múi ở Floria- Mỹ.
Theo tài liệu Cocus hesperidum còn có tên gọi khác

Lecanium hesperidum Linnaeus, Cocus signferum Lecanium.
Các cây ký chủ nh cây họ cam, chanh, cà phê, ổi, cúc

15


2.2.1.2 Biện pháp phòng chống rệp sáp hại CĂQCM
-Biện pháp sinh học: Việc sử dụng thiên địch (loài côn
trùng, nhện bắt mồi và côn trùng ký sinh) để khống chế mật
độ và làm giảm thiểu tác hại của rệp sáp hại cây trồng nói
chung và CĂQCM nói riêng ở nhiều nớc phát triển Mỹ, Nhật,
úcđang áp dụng phổ biến, bởi vì biện pháp sinh học
không nhng có tác dụng lâu dài mà còn thân thiện với môi trờng, giữ cân bằng sinh học. Biện pháp này đợc phân ra làm
hai loại, loài côn trùng bắt mồi và loài ký sinh.
Về loi bắt mồi: Kết quả u tiên l vic nhp ni b rùa
Rodolia cardinalis Mulsant t Châu c v Califorlia (M) tr
rp sáp bông Icerya purchasi Maskell hại cam quýt đã mang lại
hiệu quả từ năm 1888. Cho đến nay, quần thể bọ rùa vẫn
giữ và hạn chế đợc số lợng rệp sáp bông ở bang Califorlia.
Nhiều nớc khác cũng áp dụng thực hiện biện pháp này
(Khalalf, 1987) [46]. Tại Nhật Bản theo Takagi. K (1983) [60],
trớc 1867 không thấy có sự xuất hiện của rệp sáp hại cây có
múi, nhng sau những năm 1900 do đất nớc mở cửa giao lu
buôn bán với nớc ngoài thì ngời ta phát hiện nhiều loài rệp
sáp gây hại nghiêm trọng cho vùng trồng cây có múi. Để hạn
chế sự phát triển của rệp sáp, nớc Nhật áp dụng biện pháp
sinh học dùng Bọ rùa lông nhung Rodolia cardinalis Mulsant
để khống chế lại với rệp sáp bông Icerya purchasi Maskell,
ngoài ra Bọ rùa Cryptolaemus montrouzieri Mulsant cũng tấn
công nhiều loại rệp sáp Pseudococcidae .


16


Nhện lớn ăn thịt có khả năng hạn chế quần thể rệp sáp
khá nhiều. ở Florida (Mỹ) trên vờn cam chanh đã phát hiện đợc 148 loài nhện lớn, trong đó có rất nhiều loại ăn rệp sáp
(Mansour F. Et al, 1982), [49].
Theo kết quả điều tra thành phần côn trùng bắt mồi ăn
thịt đối với rệp của Zhang. G.Q (1985), Zhang Zhi Quang
(1992), [67], [68], cho thấy có 10 bộ côn trùng, 1 bộ nhện lớn
ăn thịt(Araneae) và 1 bộ nhện nhỏ ăn thịt (Acarina). Nhng
trong đó các loài ăn thịt có tác dụng điều hoà số lợng rệp
chủ yếu nằm ở 2 họ : Bọ rùa (Coccinellidae) thuộc bộ cánh
cứng Coleoptera và ruồi ăn rệp (Syrphidae) thuộc bộ hai cánh
Diptera.
Về loi côn trùng ký sinh: Có nhiu loi ong ký sinh rệp
sáp, trong đó phần nhiều thuộc họ Encyrtidae v họ
Aphelinidae. Theo Essing.E.O (1942) [40]. Ngay trong họ
Encyrtidae đó có 26 giống ký sinh rp sáp. Những loài phổ
biến có khả năng hạn chế rệp sáp có ý ngha l: Leptomastix,
Metaphycus

(Encyrtidae)

Aphytis;

Coccophagus,

Encarsi,


Prospaltella (Aphelinidae). Loài Aphytis lingnanensis HK-J đợc
sản xuất với lợng lớn và đa ra thị trờng để trừ rệp sáp đầu
nhọn Unaspis yanonensis Nhật Bản Takagi. K (1983) [60].
Rệp sáp bán cầu bốn đờng trắng Ceropplastes rubens
Maskell

lần đầu tiên đợc tìm thấy tại Orange thuộc bang

Florida Mỹ (1955) đây là một phát hiện mới. Đầu những
1962 rệp sáp vảy ốc Chrysomphalus aonidum (Linnaeus) là
một trong những loài hại cây có múi nặng nhất, nó xâm

17


nhập vào Florida từ Cuba. Cho đến khi xuất hiện Ong bắp
cầy ký sinh thuộc bộ cánh màng Aphytis holoxanthus thì mật
độ rệp sáp vảy ốc giảm số lợng nhanh chóng.
Biện pháp hoá học : Để giảm mật độ cũng nh tác hại rệp
sáp gây ra cho các loại cây trồng nói chung trong đó có
CĂQCM nói riêng, đã có rất nhiều các công trình khoa học
trên thế giới quan tâm và nghiên cứu, nhà khoa học đã sử
dụng các nhóm thuốc có hoạt chất thuộc nhóm lân hữu cơ,
cacbamat, cúc tổng hợp (Pyrethroid). Methyl parathion,
Moniter, Bi58, Chrlopyrifos Methyl.
Theo Luck R.F. (1981) [48], tại Califoria họ đã đa việc
quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) cho cây có múi với mục đích
vừa phòng trừ dịch một cách khoa học dới ngỡng gây hại kinh
tế, vừa giữ đợc cân bằng sinh học mà lại không ảnh hợng
đến môi trờng sống.

Theo Copland, M. J. W. and A. G. Ibrahim. (1985) [32], để
phòng trừ các loài rệp sáp ngời ta thờng xuyên sử dụng một số
loại

thuốc hóa

học thuộc nhóm

diazinon,

dimethoate,

formothion, malathion và nicotine, cũng giống nh các loại
thuốc hóa học trớc đây, các loại thuốc hóa học thuộc nhóm
lân hữu cơ malathion, diazinon và dimethoate không chỉ
phòng trừ hiệu quả các loại rệp sáp khác nhau trong đó có
loài rệp sáp Apsidiotus destructor Signoret, nhợc điểm của
thuốc tiêu diệt luôn cả thiên địch, ngoài ra còn làm ô nhiễm
môi trờng.
Theo Swingle, H.S và O.I. Snapp (1931) [59], tại miền bắc
San José- Mỹ việc phòng trừ rệp sáp trên cây có múi bằng

18


thuốc hoá học ngày càng phổ biến và sử dụng rộng rãi, trong
các loại thuốc hoá học đó ngời ta nhận thấy dầu khoáng là một
sản phẩm phòng trừ rệp sáp rất hiệu quả, an toàn cho thiên
địch, môi trờng. Theo các tác giả Nakao S.., Nohara K, Ono T.
(1996) [53], để làm tăng hiệu lực của thuốc hoá học ngời ta đã

trộn thêm từ 0,5 2% dầu khoáng, với mục đích làm tan phần
lớp vỏ sáp và thấm sâu vào da bịt các lỗ thở để cho rệp mau
chết hơn, ngoài ra thuốc còn làm giảm khả năng sinh sản của
rệp sáp cái
Theo Yanosh, V.A (1986) [64], ở Nga, ngời ta đã trộn dầu
khoáng với thuốc trừ bệnh để phun, ngoài tác dụng trừ sâu
thuốc còn kiềm trị cả nấm bệnh, còn các loại thuốc trừ sâu
khác chỉ phun đến ngỡng kinh tế.
2.2.2 Những nghiên cứu về rệp sáp ở Việt Nam
2.2.2.1 Tình hình gây hại của rệp sáp trên CĂQCM
Đầu những năm 1960 trở lại đây các nghiên cứu về dịch
hại nông nghiệp nói chung, sâu bệnh hại trên CăQCM nói
riêng, ngày càng đợc quan tâm và chú trọng. Nói đến sâu
hại cây có múi chắc chắn chúng ta không thể bỏ qua một
loại sâu hại rất quan trọng đó là rệp sáp. Rệp sáp có thể
xâm nhập và tấn công gây hại trên nhiều bộ phận của cây
trồng nh rễ, thân cành, lá, hoa và quảchúng có thể làm
giảm năng suất, chất lợng và đôi khi còn không cho thu
hoạch. Để vực dậy các vùng trồng CăQCM nổi tiếng Cam Sành,
Cam Bố Hạ, Cam Xã Đoài; Bởi Diễn,thì chúng ta cần phải
nghiên cứu sâu hơn các đặc điểm sinh thái học, phân bố,
phạm vi ký chủ của loài rệp sáp hại cây có múi. Từ đó chúng

19


ta đa biện pháp phòng trừ hiệu quả, hợp lý, an toàn với môi trờng, đem lại giá trị kinh tế cao cho các nông hộ trồng.
Các nghiên cứu gần đây về sâu hại và biện pháp
phòng trừ chúng trên CĂQCM đã đợc đề cập đến trong các
tài liệu đã công bố của Hồ Khắc Tín (1980) [16], Hà Minh

Trung, Đỗ Thành Lâm, Lơng Quốc Tấn (1992) [18], Đờng Hồng
Dật (1996) [5], Vũ Công Hậu (1996) [6], Nguyễn Trần Oánh
(1997) [25], Phạm Văn Lầm và ctv [10], Bộ môn côn trùng Trờng Đại học NN Hà Nội (2004) [2], Tuyển tập tiêu chuẩn nông
nghiệp Việt Nam (2001) [27],...
Theo Trần Văn Hội và Hoàng Lâm (1991) [7], bớc đầu
điều tra thành phần sâu bệnh cam, quýt ở Bắc Giang - Hà
Tuyên, kết quả bớc đầu thu đợc đã xác định đợc 27 loài sâu
hại trong đó có 5 loài rầy rệp, 5 loài bớm phợng, 4 loài bọ xít
và nhiều loài sâu khác, xác định đợc 2 đối tợng sâu hại có
mật độ cao, mức độ gây hại lớn là rệp sáp nâu mềm và bọ
xít dài.
Kết quả điều tra côn trùng và bệnh hại cây ăn quả ở
Việt nam 1997-1998 của Viện Bảo vệ thực vật (1999) [22],
phát hiện thấy 96 loài sâu hại, trong đó có 22 loài rệp hại
cam quýt, có 6 loài gây hại chủ yếu đó là:
- Rệp sáp: Aonidiella aurantii Maskell
- Rệp sáp : Ceroplastes rubens Maskell
- Rệp chổng cánh: Diaphorina citri Kuwayama
- Rệp sáp mềm cam: Plannococus citri Risso
- Rệp muội đen: Toxoptera aurantii BdeF
- Rệp sáp vẩy dài : Unaspi yanonenis Kuwana

20


Kết quả nghiên cứu thành phần sâu bệnh hại cây ăn
quả ôn đới (1996- 2000), Lê Đức Khánh, Hà Minh Trung, Trần
Huy Ngọ, Nguyễn Công Thuật và cvt [9], đã thu đợc 66 loài
sâu và nhện hại trên cây mận thuộc 24 họ, 7 bộ của lớp côn
trùng, trong đó các loài rệp mận Phorodon humuli và

Brachycaudus cardui là những đối tợng gây hại quan trọng
nhất ở tất cả vùng trồng mận Tam hoa trong những năm 19961998. Chúng gây hại rất nặng trên lộc xuân, lộc thu, rệp
chích hút làm cho các chồi non, lá non biến dạng cong queo,
ảnh hởng rất lớn đến quá trình quang hợp của cây và là một
trong những nguyên nhân chính làm giảm chất lợng nông
sản, gây rụng quả hàng loạt. Trên cây đào thu đợc 21 loài
sâu, còn ở cây táo thu đợc 16 loài sâu, trong đó rệp táo
Eriosoma lanigerum và bọ đục quả Rhynchites sp gây hại
nghiêm trọng trên táo trồng thử nghiệm tại Sapa- Lào cai...
Theo Saing Sophath (2004) [26], tại vùng Gia lâm Hà nội
bớc đầu cho thấy thành phần rệp hại bởi đã điều tra đợc 20
loài thuộc 7 họ, trong đó họ Diaspididae 7 loài, họ
Pseudococcidae 4 loài, họ Coccidae 4 loài, họ Aphididae 2loài,
Marganrodidae 1loài, họ Aleyrodidae 1 loài và 1 loài thuộc họ
Chermydae.
Theo Vũ Khắc Nhợng (1993) [12], bớc đầu đánh giá về
sâu bệnh hại cam, quýt ở các tỉnh phía Bắc trong mấy chục
năm qua đã thu thập đợc 150 loài có mặt trên cam quýt. Con
số này chắc chắn cha đầy đủ vì không những các loài
gây hại chúng ta cha nắm đợc hết mà để trống, các loài có
ích cha đợc thống kê đầy đủ. Trong số 150 loài, các loài côn

21


trùng chiếm 70% còn lại là Nấm, Virus, Vi khuẩn, Nhện hại các
loài ký sinh thực vật. Bộ có nhiều loài gây hại cam quýt là bộ
cánh vẩy (45 loài).
Theo Vũ Văn Tố (2000) [17], rệp sáp là những con côn
trùng phân bố rộng rái ở nhiều nớc trên thế giới thuộc các vùng

nhiệt đới. ở Việt Nam rệp sáp có mặt ở hầu hết mọi nơi và
phá hại trên nhiều loại cây trồng và cỏ dại thuộc nhiều họ
thực vật khác nhau nh Cam, Quýt, Cà phê, Tiêu, Nho.
ở Miền Bắc Việt Nam rệp sáp phân bố hầu hết ở các
vùng đồng bằng, Trung du và một số tỉnh miền núi nh Lào
CaiTheo Em Lavabre (1970) cho biết rệp cái có khả năng
sinh sản rất lớn, 1 con rệp cái có thể đẻ đợc 200 - 500 trứng,
trứng đợc đẻ thành từng bọc. Vòng đời của rệp từ 20 - 40
ngày, ngời ta ớc tính trên cây cà phê có khoảng 8 thế hệ rệp
trong năm.
Theo Hồ Khắc Tín (1980) [16], cho biết rệp sáp phát dục
theo kiểu biến thái không hoàn toàn, con đực phát triển theo
kiểu đa biến thái. Quá trình phát triển của cá thể rệp cái
gồm 3 giai đoạn: trứng, rệp con và rệp trởng thành, có l thời
kỳ phát triển bên trong lớp kén bao gồm 2 giai đoạn: Tiền
nhộng và Nhộng. Rệp con lúc đầu cha phân biệt đợc là con
đực, con cái. Nhng đến 2 tuổi thì phân biệt dễ dàng hơn.
Lúc này rệp đực có màu nâu tối, mình thuôn dài, các tua sáp
mất dần và xuất hiện những lông sáp xung quanh cơ thể.
Theo Phạm Văn Lầm rệp sáp (Homoptera: Coccidea) là
nhóm sâu hại nguy hiểm cho nhiều loại cây trồng đặc biệt

22


cây ăn quả có múi. Dựa trên kết quả quan sát và điều tra
của bản thân và một số tài liệu đã công bố, tác giả đúc kết
về thành phần rệp sáp hại cây ăn quả có múi ở Việt Nam,
dựa vào kết quả xác định tên khoa học của các chuyên gia
phân loại ở Liên Xô cũ và một số tài liệu khác đã công bố

trong nớc (Viện Bảo vệ thực vật, 1967- 1968) [20]. Các loài
rệp sáp hại CĂQCM đã phát hiện đợc tập trung nhiều nhất vào
họ Diaspididea 27 loài, sau đó đến họ Coccidae 18 loài và
họ Pseudococcidae 8 loài, ít nhất là họ Margarodidea hoặc là
Monophlebidae 4 loài (tạp chí Bảo vệ thực vật 2/1994 số
134).
Theo Nguyễn Thị Cúc (2000) [3], tổng họ Coccoidea, bộ
Homoptera thì những loài nói chung có kích thớc nhỏ bé,
chúng chích hút dịch cây trồng ở trên lá, cành, thân, trái
Có nhiều loại rệp sáp gây hại cho cây có múi Cam, Quít,
Chanh (Citrus sp) nhng trong đó có 2 nhóm rệp sáp phổ biến
nhất là rệp sáp dính (Lepidosaphes, Aonidiella) và rệp sáp
bông (Pseudococcus, Planococus, Icerya puryachasi) tất các
loài này đều có đặc điểm chung là cơ thể tiết ra một lớp
sáp bao phủ quanh cơ thể, chu kỳ sinh trởng ngắn ( đa số dới
tháng trong điều kiện vùng ĐBSCL), khả năng sinh sản cao, có
loài đẻ trứng hoặc đẻ con, trong môi trờng thuận lợi chúng
bùng pháp nhanh làm cho lá bị vàng, rụng, cành khô và chết,
trái bị biến màu phát triển kém và rụng.
2.2.2.2 Biện pháp phòng chống rệp sáp hại CĂQCM

23


Kết quả nghiên cứu bớc đầu về sâu ăn rệp sáp
Eublemma amabilis Moure của Vũ Thị Nga, Nguyễn Thị Chắt
( 2003) [11], trên cây mẵng cầu xiêm rệp sáp là một trong
những đối tợng sâu hại chính đặc biệt là rệp sáp giả. Đã ghi
nhận đợc một số loài thiên địch của rệp sáp, một trong
những loài thiên địch này là sâu ăn rệp sáp Eublemma

amabilis Moore, chúng có thể tấn công nhiều loài rệp sáp giả
và rệp sáp mềm Dysmicoccus brevipes, Planococcus lilacilus,
Ceroplastes rusci, Pulvinaria sp, Crystallotesta sp. Khả năng ăn
mồi của ấu trùng tuổi cuối đối với 2 loài rệp sáp giả
Planococcus lilacilus v Dysmicoccus brevipes là trong vòng
24 giờ trung bình có thể ăn đợc 11,4- 12,8 cá thể rệp sáp giả
loài P. lilacilus hoặc 6,3- 8,6 cá thể rệp sáp giả loi D. brevipes.
(Tạp chí BVTV chuyên ngành số 4/ 2004).
Theo Saing Sophath (2004) [26], tác giả cũng tìm thấy
giữa rệp sáp hại bởi với một số sinh vật khác, đặc biệt với
thiên địch của chúng có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Tác giả đã tìm thấy 16 loài thiên địch hại trên rệp, trong đó
có 6 loài ong ký sinh (Ooencyrtus sp, Prospaltella sp và
Eretmocetrus sp) và 4 loài bọ rùa ăn rệp, 1 loài bọ cánh
mạnh, bọ xít bắt mồi, giòi, nhện nhỏ ăn rệp và 2 loài nấm ký
sinh.
Theo Quách Thị Ngọ, (1998) [13], trên cam, quýt, bởi,
chanh kết quả bớc đầu cho thấy thành phần sâu hại và thiên
địch trên cây có múi vùng đồng bằng trung du Bắc bộ khá
phong phú. Tác giả đã thu thập đợc 126 loài (trong số đó có
22 loài thiên địch) thuộc 28 họ trong 9 bộ côn trùng, 4 loài

24


nhện hại phổ biến và nhiều loại nhện có ích thuộc lớp nhện.
Có 26 loài giám định sơ bộ đến giống và loài. Lepidoptera
với 3 họ gồm 17 loài. Những loài gây hại chính đều nằm
trong 4 bộ này. Ngoài ra có nhiều loài cha có điều kiện giám
định.

Trong điều kiện tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu long số
lợng rệp sáp bị các loài thiên địch khống chế (trong đó quan
trọng nhất là các loại ong Ký sinh nh nhóm Encarsia, Aphytis,
Metaphycus và các loài Bọ rùa) do vậy mật độ rệp sáp tại nơi
đây thờng thấp. Ngoài ra, khi môi trờng thích hợp mật độ
rệp sáp tăng cao từ 5- 10% trái bị nhiễm và khoảng 5 thành
trùng/ trái hoặc lá thì ta có thể sử dụng thuốc hoá học. Nhiều
kết quả khảo sát cho thấy một số loại thuốc hoá học gốc Lân
hữu cơ tỏ ra có hiệu quả đối với rệp sáp, song không nên sử
dụng một loại thuốc liên tục mà cần luân phiên thay đổi bộ
thuốc. Có thể phối hợp thuốc hoá học với dầu khoáng DC- Tronc
Plus có thể sử dụng ở liều lợng 0,5%. Nguyễn Thị Thu Cúc
(2000) [ 3].
Theo kết quả nghiên cứu của Phạm Thị Vợng và Trơng
Quảng Hàm (1997- 2000) [24] các loại thuốc nh Diazinon 50EC,
Supracide 40EC nếu dùng đơn lẻ thì hiệu quả phòng trừ không
cao, nhng khi kết hợp các loại thuốc trên với dầu khoáng phun
đúng thời điểm, lợng thuốc giảm đi 1/2 mà hiệu lực phòng trừ
vẫn tăng lên từ 10- 20%. Kết quả này không những bảo vệ đợc
môi trờng tránh ô nhiễm mà còn giảm đợc chi phí đầu t ban
đầu. Nhờ áp dụng giải pháp mới này để phòng trừ cho sâu hại

25


×