Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

“Đảng cộng sản việt nam với việc vận dụng và phát triển tư tưởng đại đoàn kết dân tộc hồ chí minh trong hai cuộc kháng chiến 1945 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.96 KB, 65 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh là một nhà cách mạng lỗi lạc, người lãnh đạo vĩ đại
của cách mạng Việt Nam và của dân tộc Việt Nam. Người là hiện thân
của những giá trị văn hoá rực rỡ nhất, đẹp đẽ nhất, kết tinh của những
tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại. Cả cuộc đời người là sự phấn đấu
quên mình để cho dân tộc, nhân loại được sống trong hoà bình, tự do,
hạnh phúc. Người đã để lại không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà cả cho
nhân dân thế giới một hệ thống giá trị tư tưởng. Trong đó tư tưởng Hồ
Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một tư tưởng lớn và cơ bản.
Tư tưởng đại đoàn kết của Người đã được Đảng ta vận dụng và
phát triển trong quá trình cách mạng Việt Nam. Đó là đường lối chiến
lược, là nguồn sức mạnh và động lực lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc luôn là một nhân tố quyết định làm
nên thắng lợi của cách mạng nước ta, là điều kiện tiên quyết để chuyển
hoá sức mạnh của dân tộc ta từ sức mạnh tinh thần tiềm ẩn thành sức
mạnh vật chất tự giác và có tổ chức, là một công cụ sắc bén để nhân dân
ta phát huy được sức mạnh tổng hợp vĩ đại của mình trong cuộc đấu
tranh dành độc lập, tự do cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc.
Trong mỗi giai đoạn cách mạng đoàn kết dân tộc là để phát huy
lòng yêu nước, nhiệt tình cách mạng, ý trí đấu tranh, sự hy sinh và cống
hiến của mỗi người và góp phần tạo nên thắng lợi vĩ đại của toàn bộ sự
nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hội nghị lần thứ VII ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX
(1/2003) đã đưa ra nghị quyết cụ thể hoá tư tưởng chiến lược Hồ Chí
1


Minh và Đảng ta về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong thời
kì mới. Hội nghị đã khẳng định: Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chính trị


hệ trọng, có quan hệ đến sự phát triển của đất nước, đến đời sống thiết
thân về chính trị, kinh tế, xã hội của các tầng lớp nhân dân, vừa có tính
thời sự cấp bách, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài hệ trọng nhưng rất
nhạy cảm, cần được giải quyết một cách khách quan khoa học.
Vì vậy, việc nghiên cứu vận và phát triển tư tưởng đại đoàn kết
dân tộc là việc làm cần thiết đặc biệt nghiên cứu quá trình thực hiện
chiến lược đại đoàn kết dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp
và chống Mỹ. Qua đó thấy được vai trò lãnh đạo của Đảng, tính tích cực,
sáng tạo của Đảng trong thực tiễn lịch sử. Từ đó khẳng định giá trị mà
nhân dân ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng mà đứng đầu là Chủ
Tịch Hồ Chí Minh.
Là một sinh viên khoa Giáo dục chính trị em rất mong muốn được
tìm hiểu và làm rõ vấn đề này. Do vậy em chọn đề tài: “Đảng Cộng sản
Việt Nam với việc vận dụng và phát triển tư tưởng đại đoàn kết dân tộc
Hồ Chí Minh trong hai cuộc kháng chiến 1945- 1975 làm khoá luận tốt
nghiệp.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Chiến lược đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là một nhân tố hết
sức quan trọng làm nên thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Vì
vậy, trên thực tế vấn đề này đã được nhiều công trình, bài viết đề cập tới
nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà
nước và Mặt trận có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu chiến lược đại
đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh như: Trường Chinh, Lê Duẩn, Võ Nguyên
Giáp…

2


Các nhà khoa học cũng có nhiều công trình nghiên cứu về tư
tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh, về chiến lược đại đoàn kết của

Đảng, của mặt trận dân tộc thống nhất: Phùng Hữu Phú: “Chiến lược đại
đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh” (NXB CTQG, Hà Nội, 1995); “Đại đoàn
kết Hồ Chí Minh” (NXB CTQG, Hà Nội, 1995) Hoàng Thị Điều; “Chiến
lược đoàn kết đại đoàn kết là thượng sách giữ nước” (NXB Quân đội
nhân dân, 2003) Đỗ Trình; “Mặt trận đại đoàn kết, đại hoà hợp dân tộc
di sản quốc bảo của Hồ Chí Minh” (NXB Quân đội nhân dân, 2003)
Nguyễn Văn Khoan; “Phát huy hơn nữa sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh” (Trương Quang Được – Tạp chí Cộng sản số 16/8/2001)…
Nhiều bài viết nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của vấn đề
này được đăng trên các tạp chí chuyên nghành: nghiên cứu lịch sử; lịch
sử Đảng; Tạp chí Cộng sản… Các bài viết đều đã khẳng định vai trò của
khối đoàn kết dân tộc trong cách mạng Việt Nam, nhiều bài viết đã chỉ ra
những thành công và hạn chế của khối đại đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên
các công trình, tác phẩm, bài viết chưa đề cập một cách trực tiếp đến vấn
đề Đảng Cộng sản Việt Nam với việc vận dụng và phát triển tư tưởng đại
đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh trong hai cuộc kháng chiến 1945- 1975.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
Luận văn góp phần làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết
dân tộc. Sự vận dụng và phát triển tư tưởng đó của Đảng trong quá trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt nhấn mạnh trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ. Khẳng định sự cần thiết phải phát huy
hơn nữa sức mạnh của khối đại đoàn kết trong tình hình hiện nay.
Nhiệm vụ:
3


Trình bày khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc. Khái quát sự vận dụng và phát triển tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí

Minh trong đấu tranh dành chính quyền. Đồng thời phân tích những
đường lối, chủ trương, biện pháp cũng như kết đạt được trong quá trình
thực hiện chủ trương, giải pháp đó trong hai cuộc kháng chiến 19451975.
4. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở nghiên cứu
- Quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
- Các văn kiện của Đảng, Mặt trận
- Các bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước ta
- Những công trình nghiên cứu của các nhà hoạt động chính trị,
khoa học
Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp lịch sử và lô gíc, Phương pháp phân
tích tổng hợp, phương pháp so sánh
5. Ý nghĩa khoá luận
Quá trình nghiên cứu khoá luận này là cơ sở để ta đi sâu nghiên
cứu chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân
tộc. Đồng thời thấy đươc sự vận dụng và phát triển tư tưởng đại đoàn kết
Hồ Chí Minh của Đảng trong giai đoạn đã qua. Trên cơ sở đạt được
khẳng định tính tất yếu của việc vận dụng và phát triển hơn nữa tư tưởng
đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Quá trình thực hiện khoá luận giúp cho tác giả có ý thức trân
trọng giá trị lịch sử mà nhân dân ta đã đoàn kết, hợp lực tạo nên, đồng
thời đây cũng là bước tập dượt làm quen với công trình nghiên cứu khoa

4


học. Nó giúp cho tác giả củng cố kiến thức cơ bản, tích luỹ kiến thức
cũng như phương pháp tiếp cận một vấn đề cụ thể đặt ra
Khóa luận bảo vệ thành công sẽ là tài liệu tham khảo cho những ai

quan tâm nghiên cứu vấn đề này.
6. Kết cấu khoá luận
Khoá luận gồm có:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung: Gồm hai chương
Chương I: Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh
Chương II: Đảng cộng sản Việt Nam với việc vận dụng và phát
triển tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh trong hai cuộc
kháng chiến 1945- 1975.
- Phần kết luận
- Tài liệu tham khảo

5


6


NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC HỒ CHÍ MINH
1.1Cơ sở hình thành
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ
sở kế thừa và phát triển ở một trình độ mới truyền thống yêu nước, nhân ái,
tinh thần cố kết cộng đồng của dân tộc Việt Nam.
Trong hệ giá trị tinh thần của người Việt Nam yêu nước là một giá trị
trụ cột. Giá trị ấy từ lâu đã thấm sâu vào tâm thức mỗi người dân Việt Nam
như một tình cảm tự nhiên bởi nó được hun đúc, gạn lọc trong suốt chiều
dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Tình yêu quê hương đất nước thể hiện ở
sự gắn bó giữa những người có cùng nguồn tộc, tổ tiên, cùng chia sẻ ngọt

bùi, đau thương, cùng gắn bó máu thịt với mảnh đất quê hương thể hiện ở
sự giữ gìn và tăng cường tình đoàn kết cộng đồng qua những câu ca dao, tục
ngữ như:
“Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nướcphải thương nhau cùng”.
“Thương người như thể thương thân” hay
“Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao”
Truyền thống tốt đẹp ấy xuất phát từ lòng yêu thương con người
của nhân dân ta, tình yêu thương bắt đầu từ những người thân trong gia đình
và mở rộng ra là tình yêu quê hương đất nước, giữ gìn và làm giàu thêm đất
mẹ. Tình cảm ấy, tình thương ấy mỗi người dân Việt Nam đều coi là lẽ sống
của mình. Vì vậy, mỗi cá nhân đều gắn chặt mình với cộng đồng, quốc gia,
dân tộc và hình thành nên sự cố kết cộng đồng một cách tự nhiên.
7


Lịch sử Việt Nam đã có hàng ngàn năm dựng nước đầy gian khổ
nhưng rất vinh quang. Thiên nhiên nước ta tươi đẹp hùng vĩ nhưng cũng rất
khắc nghiệt. Quá trình cải tạo và chinh phục thiên nhiên là quá trình lao
động vất vả chống ngập lụt, hạn hán, bão táp…Thiên nhiên là kẻ thù nguy
hiểm và thử thách đầu tiên trong cuộc sống của nhân dân ta. Hơn nước ta ở
vào vị trí địa lý quan trọng của vùng Đông Nam á là địa bàn chiến lược
quan trọng cả về kinh tế và quân sự. Vì vậy mà trong mấy ngàn năm dựng
nước và giữ nước: “Dân tộc ta đã phải tiến hành 18 cuộc kháng chiến bảo
vệ Tổ quốc cùng với hàng trăm cuộc khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng.
Họa mất nước có khi kéo dài hàng chục, hàng trăm năm. Thời gian chống
giặc ngoại xâm cộng lại trên 12 thế kỷ”.
Trước sự đe dọa của thiên tai, nhân dân ta phải đoàn kết hợp quần
nhau lại mới đủ sức mạnh để khai phá đất hoang thành đồng ruộng, lập xóm

làng đắp đê chống lũ lụt, khơi kênh ngòi chống úng hạn… công cuộc lao
động gian khổ và yêu cầu hợp quần đó tạo nên sự gắn bó mật thiết giữa con
người với thiên nhiên, giữa người với người ở cùng một làng, một nước. Để
chiến thắng giặc ngoại xâm thường có lực lượng vật chất mạnh hơn ta rất
nhiều lần nhân dân ta càng phải đoàn kết nhau lại thành một khối thống
nhất. Đoàn kết thống nhất vì sự sống còn của dân tộc vì độc lập, tự do của
Tổ quốc là nguồn gốc sức mạnh của nhân dân ta, được nhân dân ta chân
trọng giữ gìn, bổ sung và phát triển từ đời này sang đời khác.
Vì vậy, ngay từ rất sớm Hồ Chí Minh đã được tiếp thu truyền thống
yêu nước, đoàn kết cộng đồng là một bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam
là nguồn gốc sức mạnh bản lĩnh của dân tộc Việt Nam, Người đã rút ra một
kết luận: “dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý
báu của dân tộc ta. Từ xưa đến nay mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng, thì tinh
thần ấy lại sôi nổi nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn nó
8


lướt qua mọi nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm lũ bán nước và cướp
nước”.Người đã khẳng định “giặc chiếm trời, giặc chiếm đất nhưng không
chiếm được lòng nồng nàn yêu nước của nhân dân ta”
Hồ Chí Minh đã tiếp thu và phút huy một cách rực rỡ những truyền
thống tốt đẹp của dân tộc ta. Chính truyền thống truyền thống tốt đẹp và
quật khởi của dân tộc đã thôi thúc người con yêu nước Nguyễn Ái Quốc ra
đi tìm đường cứu nước. Người ra đi tìm đường cứu nước với khát vọng
cháy bỏng: “tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn đến tột bậc, là làm sao
cho nước nhà được độc lập,dân ta được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn
áo mặc ai cũng được học hành”.
Chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kế tcộng đồng của dân tộc
Việt nam là cơ sở đầu tiên, sâu xa hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại
đoàn kết dân tộc. Cơ sở đặc biệt quan trọng góp phần hình thành tư tưởng

đại đoàn kết dân tộc Hồ chí Minh đó là chủ nghĩa Mác- Lênin.
Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh được hình thành dựa
trên quan điểm của chủ nghĩ Mác- Lênin coi cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng
Tư tưởng của chủ nghĩa Mác –Lênin về vai trò của quần chúng quan
điểm coi quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng.
Chủ nghĩa Mác- Lênin đã khẳng định rằng quần chúng nhân dân bao giờ
cũng là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng, đóng vai trò quyết định
thắng lợi của các cuộc cách mạng. Trong các cuộc cách mạng vĩ đại làm
thay đổi hình thái kinh tế- xã hội, quần chúng nhân dân tham gia đông đảo,
tích cực thì cách mạng mới có thể giành được thắng lợi. Cách mạng là ngày
hội của quần chúng, chứ không phải là sự nghiệp riêng của một số cá nhân.
Lênin viết trong tác phẩm nhà nước và cách mạng: “Những cuộc cách
mạng là những đầu tầu của lịch sử Mác đã từng nói như vậy. Cách mạng là
9


ngày hội của những người áp bức và bóc lột không lúc nào quần chúng
nhân dân lại có thể tỏ ra là người sáng tạo ra trật tự xã hội mới được tích
cực như trong thời kỳ cách mạng. Trong những thời kỳ như thế cứ theo
nhãn quan hẹp hòi tiểu tư sản, theo quan điểm tiệm tiến mà nói thì quần
chúng có thể làm nên những thành công”.
Trong tác phẩm tuyên ngôn của Đảng cộng sản (1848) Mác-Ăngghen
sau khi phân tích quá trình hình thành, phát triển của chủ nghĩa tư bản. Các
ông đã chứng minh sự ra đời, phát sinh phát triển của chủ nghĩa tư bản là
một tất yếu lịch sử đồng thời chỉ ra những mâu thuẫn của phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa, đối kháng giai cấp giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô
sản trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Từ đó Mác- Ăngghen đã
chỉ ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân: xóa bỏ chế độ tư bản chủ
nghĩa. Xóa bỏ chế độ người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân,

nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột, nghèo
nàn, lạc hậu, xây dựng xã hội mới- xã hội cộng sản văn minh.
Trong tác phẩm này Mác cũng chỉ ra rằng cuộc đấu tranh của giai cấp
vô sản chống lại giai cấp tư sản trước hết diễn ra trên mảnh đất dân tộc ở
mỗi nước, giai cấp công nhân phải thủ tiêu sự thống trị của giai cấp tư sản
bằng cách đoàn kết tất cả các lực lượng tiến bộ xung quanh mình và nguyên
tắc sách lược của Đảng cộng sản phải ủng hộ cho mọi phong trào chống chế
độ đương thời, tìm mọi cách tập hợp lực lượng dân chủ, trong đó những
người cộng sản phải giữ tính độc lập của mình.và ở những nước chưa hoàn
thành cách mạng dân chủ tư sản thì Đảng cộng sản phải đấu tranh chung với
giai cấp tư sản để chống lại chế độ phong kiến.Trong trường hợp đó giai cấp
vô sản phải nắm vũ khí, để khi chiến thắng chế độ phong kiến thì tiến hành
đấu tranh chống lại giai cấp tư sản. Mác-Ăngghen cũng chỉ rõ giai cấp vô
sản muốn thực hiện được vai trò lãnh đạo cách mạng phải trở thành giai cấp
10


dân tộc: “Giai cấp vô sản mỗi nước, trước hết phải giành lấy chính quyền,
phải tự xây dựng mình thành một giai cấp dân tộc”{5,tr565}. Trong Tuyên
ngôn Đảng cộng sản Mác -Ăngghen cũng đã chỉ rõ sự nghiệp giải phóng
giai cấp công nhân chỉ có thể thực hiện được với điều kiện công nhân tất cả
các nước phải liên hiệp phải đoàn kết lại. Mác đã nêu ra khẩu hiệu chiến
lược: “vô sản tất cả các nước liên hiệp lại”và Lê nin đã kế thừa, phát triển
trong thời đại Đế quốc chủ nghĩa: “vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị
áp bức, đoàn kết lại”.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã khẳng định rằng
sự liên minh giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp công nông là hết sức
cần thiết đảm bảo cho thắng lợi của giai cấp vô sản: “không có sự cố gắng
tự nguyện tiến tới sự liên minh và sự thống nhất của giai cấp tư sản thì
không thể chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản được….cuộc đấu tranh

của giai cấp vô sản là để giành lấy sự đồng tình, ủng hộ của đa số nhân dân
lao động”.
Tuy nhiên để hoàn thành được sứ mệnh lịch sử, giai cấp công nhân
phải thực hiên được những điều kiện hết sức cơ bản phải: Có một chính
đảng vững mạnh của giai cấp công nhân, nắm vững chủ nghĩa Mác-Lênin,
có đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn, có quan hệ mật thiết với quần
chúng, có khả năng tập hợp rộng rãi các giai cấp và tầng lớp và toàn thể dân
tộc.
Chủ nghĩa Mác đã chỉ cho Hồ Chí Minh con đưòng Tự giải phóng.
Đó là con đường tập hợp đoàn kết dân tộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế
quốc thực dân. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là người yêu nước Việt Nam đầu
tiên đến với chủ nghĩa Mác- Lênin và là người đầu tiên tìm thấy ở học
thuyết cách mạng đó cái “cần thiết”, “cẩm nang thần kỳ”, là kim chỉ nam, là
mặt trời soi sáng con đường giải phóng dân tộc Việt Nam vì vậy khi đọc
11


luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc thuộc địa Người đã sung sướng
thốt lên rằng: “Luận cương của Lênin làm cho tôi cảm động, phấn
khởi,sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi mừng đến phát khóc lên. Ngồi một
mình trong buồng tối mà tôi nói to lên như nói trước quần chúng đông đảo.
“ Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là
con đường giải phóng chúng ta”.
Hồ chí Minh đã vận dụng sáng tạo tư tưởng chủ nghĩa Mác- Lênin
coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng vào điều kiện lịch sử cụ thể của
Việt Nam thực hiện chiến lược đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiêp giải
phóng dân tộc Người khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng
chứ không phải là việc của một hai người, của một cá nhân anh hùng nào.
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ vai trò của quần chúng nhân dân
trong lịch sử, vị chí của khối liên minh công nông, vai trò của Đảng cộng

sản, đồng thời đã giải đáp được những vấn đề mà bấy lâu nay Nguyễn Ái
Quốc đang tìm kiếm vì vậy trong tác phẩm Đường Kách Mệnh Người
khẳng định: “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩ
chân chính nhất, chắc chắn nhất là chủ nghĩa Lênin”{3,tr 267}
Như vậy với hành trang chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết,
cố kết cộng đồng của dân tộc Viêt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm
đường cứu nước để cuối cùng Người lựa chọn, một học thuyết, một con
đường phù hợp với tiêu chuẩn, với giá trị truyền thống của dân tộc. Thông
qua quá trình bôn ba tìm đường cứu nước Người đã nhận rõ nhu cầu của
dân tộc Việt Nam cũng là của dân tộc và nhân loại toàn thế giới đó là giải
phóng khỏi áp bức dân tộc. Như vậy, Người đã từ một người yêu nước trở
thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế. Suốt cuộc đời đấu tranh vì sự nghiệp
giải phóng dân tộc và nhân dân lao động toàn thế giới. Vì vậy, Người đã tập

12


hợp được khối đại đoàn kết rộng lớn của những người yêu độc lập, tự do,
hòa bình, chính nghĩa trên toàn thế giới.
Hồ Chí Minh đã đúc kết tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh
thông qua những kinh nghiệm thành công và thất bại của phong trào cách
mạng việt Nam và cách mạng thế giới, Người đã rút ra những bài học cần
thiết cho việc hình thành tư tưởng đại đoàn kết dân tộc
Dân tộc Việt Nam có bề dày lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời,
có một nền văn hiến phong phú giàu bản sắc dân tộc, có được tài sản đó
trước hết đó là sự tham gia tích cực của nhân dân- cội nguồn của sức mạnh
dân tộc, đồng thời có công lao đóng góp của các lãnh tụ vĩ đại. Song trong ý
thức của mọi người dân của nhiều vua hiền tài giỏi thì dân vẫn là cội rễ của
sức mạnh, là nhân tố quyết định sự hưng vong của các triều đại: “vua tôi
hòa thuận cả nước góp sức”, “muốn mưu việc lớn, tính kế muôn đời cho

con cháu thì trên vâng mệnh trời dưới theo ý dân”, “khoan thư sức dân để
làm kế sâu gốc bền rễ đó là thượng sách giữ nước” và “Nhân dân là thành
đồng của Tổ quốc”.
Phát huy truyền thống đó, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta vào
giữa thế kỷ XIX chúng đã biến nước ta thành một nước thuộc địa nửa
phong kiến thì sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt Nam đã trỗi dậy mạnh
mẽ chống bọn xâm lược cướp nước và bán nước bảo vệ độc lập tự do của
dân tộc. Tuy vậy, lần lượt các cuộc kháng chiến theo phương thức thời
phong kiến xưa như phong trào “Cần Vương”; phương sách nhờ viện trợ
nước ngoài như phong trào “Đông Du”(Phan Bội Châu) như vậy chẳng
khác nào đuổi hổ cửa trước rước beo cửa sau; xu hướng cải lương dần bắt
tay với địch như phong trào “Duy Tân”(Phan Chu Trinh), nhưng chẳng
khác nào xin giặc rủ lòng thương; phong trào khởi nghĩa nông dân Yên Thế
(Hoàng Hoa Thám), nhưng còn mang nặng cốt cách phong kiến, khởi nghĩa
13


Yên Bái …Tất cả các phong trào yêu nước đều lần lượt bị dìm trong biển
máu, trong thời đại mới, nếu chỉ có tinh thần yêu nước thôi thì không đủ để
đánh thắng các thế lực đế quốc xâm lược. Có nhiều nguyên nhân khác nhau
dẫn đến thất bại của các phong trào cách mạng, một trong những nguyên
nhân đó là người lãnh đạo chưa biết tập hợp lực lượng, chưa phát động
được phong trào sâu rộng trong quần chúng.
Hồ Chí Minh trân trọng mọi công phu tìm kiếm, khâm phục tâm
huyết của các bậc tiền bối, nhưng có những suy nghĩ phê phán. Thấy rõ tất
cả các con đường lựa chọn đều không có hiệu quả. Hồ Chí Minh suy nghĩ
nhiều về những nguyên nhân thất bại ấy, nguyên nhân chính là chưa tìm
thấy được một con đượng cách mạng đúng đắn. Với lòng yêu tổ quốc, yêu
nhân dân vô hạn với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí
Minh đã kiên quyết ra đi tìm đường cứu nước.

Khi ra đi tìm đường cứu nước, đi tới nhiều châu lục, làm nhiều nghề
khác nhau để kiếm sống, vừa tiến hành khảo sát chủ nghĩa thực dân, đế
quốc. Điều đó đã mở rộng tầm thức của Người và Người đã rút ra một kết
luận quan trọng: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống
người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột, mà chỉ có một tình
hữu ái là thật mà thôi, tình hữu ái vô sản” và “chỉ có chủ nghĩa cộng sản
mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và
nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết ấm no trên quả đất việc làm
cho mọi người và vì mọi người, niềm vui,hòa bình, hạnh phúc”{416}
Người đã nghiên cứu cách mạng tư sản Mỹ, Pháp và Người cho rằng
những cuộc cách mang này đã mang lại nhưng giá trị nhất định nhưng chỉ là
“cách mạng không đến nơi”. Tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của các nước
thuộc địa, Người nhìn thấy sức mạnh tiềm ẩn to lớn và những hạn chế của

14


các dân tộc này. Đó là chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa có và chưa biết
tổ chức, chưa biết đoàn kết lại .
Nghiên cứu cách mạng Pháp (1789) trong tác phẩm Đường Kách
Mệnh Người đã rút ra bài học kinh nghiệm từ cuộc cách mạng đó, về sức
mạnh của khối đại đoàn kết: “ công nông là gốc của cách mệnh, cách mệnh
thì phải có tổ chức…dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng
không chống lại”. Khi cách mạng tháng Mười Nga thành công. Người đã
tìm thấy con đường và những bài học quý báu của cuộc cách mạng này:
“Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng, muốn cách mệnh thàng công thì
phải dân chúng(công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền …phải hy sinh,
phải thống nhất. Nói tóm lại phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”.
Cách mạng tháng mười Nga thành công bởi vì công nông đã thực sự đoàn
kết, có đảng cộng sản lãnh đạo với đường lối tập hợp đoàn kết đúng đắn:

“Một là, về phần mình, cách mạng tháng mười Nga được sự ủng hộ tích cực
của tuyệt đại đa số giai cấp công nhân Nga. Hai là, cách mạng tháng Mười
Nga được sự ủng hộ chắc chắn của nhân dân nghèo và của đa số binh lính
khao khát hòa bình và ruộng đất. Ba là, đứng đầu cách mạng tháng Mười,
với tư cách là một lực lượng lãnh đạo có đảng Bôn- xê- vích, một đảng từng
trải mạnh mẽ không những về kinh nghiệm và kỉ luật đã được tôi luyện từ
bao nhiêu năm, mà còn vì những mối liên hệ rộng rãi với quần chúng cần
lao nữa”{5,tr 69}
Thực tiễn cách mạng ở Trung Quốc và Ấn Độ được Hồ Chí Minh
đặc biệt chú ý vì hai nước này đã để lại cho Việt Nam nhiều bài học bổ ích
về tập hợp lực lượng đoàn kết dân tộc, giai cấp Đảng phái tôn giáo như: chủ
trương “liên nga thân cộng ủng hộ công nông”, “hợp tác quốc cộng” của
Tôn Trung Sơn.

15


Nguyễn Ái Quốc đã thấy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc.
Người đã “khơi dậy tiềm năng bị chôn vùi, phát huy những sức mạnh sẵn
có, làm nẳy nở cái mới cái hay, cái đẹp của cả dân tộc và trong mỗi con
người”{13,tr 2} Người cũng chỉ rõ lực lượng của cách mạng An Nam đó là:
“Công nông là gốc của cách mệnh, học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ là
bạn của công nông...” Như vậy người đã chỉ rõ hai động lực chính của cách
mạng là công nông và nông dân đồng thời phải liên minh với giai cấp, tầng
lớp khác như tiểu tư sản, trí thức, một bộ phận trung và tiểu địa chủ có lòng
yêu nước
Như vậy, thông qua tổng kết lịch sử Việt Nam và kinh nghiệm
cách mạng thế giới, thông qua hoạt động thực tiễn của mình Hồ Chí Minh
đã rút ra luận điểm: Cách mạng muốn thành công thì phải có sự đoàn kết
không chỉ đoàn kết trong nước mà còn đoàn kết quốc tế. Từ đây Hồ Chí

Minh đã hình thành nên chiến lược đại đoàn kết dân tộc Việt Nam.
Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh không chỉ được hình thành từ
yếu tố khách quan nói chung mà nó còn có sự đóng góp của yếu tố chủ
quan.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước và thanh bạch. Ngay từ
thuở nhỏ Hồ Chí Minh đã được tiếp thu từ cha tư tưởng “yêu nước là ái
dân”. Quê hương Nghệ Tĩnh nơi sinh ra Hồ Chủ Tịch là mảnh đất địa linh
nhân kiệt giàu truyền thống cách mạng. Với tư chất thông minh tư duy độc
lập, sáng tạo, ham hiểu biết, nhạy bén với thời cuộc, với khả năng phân tích
khái quát tổng hợp Hồ Chí Minh đã tiếp nhận mạch ngầm văn hóa truyền
thống và thời đại. Những yếu tố này đã hình thành nên tư tưởng đại đoàn
kết Hồ Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng xây dựng đất nước.
Trong suốt cuộc đời cách mạng của mình Hồ Chí Minh luôn luôn
nêu cao tư tưởng đại đoàn kết toàn dân, vì đại nghĩa dân tộc và thường
16


xuyên chăm lo vun đắp cho rừng cây đại đoàn kết ngày càng nảy lộc, đâm
chồi, nở hoa kết trái đồng thời với đạo đức trong sáng, tác phong bình dị
chân tình nên có sức cảm hóa lớn đối với mọi người không chỉ là tấm
gương về đại đoàn kết kêu gọi và vận động mọi người đoàn kết mà Người
còn thăm hỏi động viên quan tâm gần gũi tới từng người. Người đã cảm hóa
tập hợp, lôi cuốn nhân dân bằng tấm lòng trung với nước, hiếu với dân bằng
cả cuộc đời cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, bằng bốn phương vô sản
đều là anh em. Chính tấm gương đạo đức trong sáng của người đã biến
thành sức mạnh quy tụ mọi người dân yêu nước đấu tranh cho hòa bìnhchính nghĩa.
Tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã trở thành đỉnh cao tư tưởng
đại đoàn kết nhân loại. Đó là sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, giữa chủ
quan và khách quan. Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc gắn liền với cuộc đời
đấu tranh và hoạt động thực tiễn của Người, được ra đời trên nền tảng vững

chắc cả về lý luận và thực tiễn tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã trở
thành một đường lối cứu nước của dân tộc ta và đã làm nên những thắng lợi
vẻ vang quyết định vận mệnh của dân tộc. Do vậy tư tưởng đại đoàn kết Hồ
Chí Minh vẫn mãi trường tồn với thời gian.
1.2 Một số nội dung cơ bản tư tưởng đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí
Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là một hệ thống
những luận điểm, nguyên tắc giáo dục, tập hợp và tổ chức lực lượng cách
mạng tiến bộ nhằm phát huy đến mức cao nhất sức mạnh dân tộc và sức
mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và chủ
nghĩa xã hội. Nói một cách khác, đó là tư tưởng xây dựng, củng cố mở rộng
lực lượng cách mạng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người.
17


Cụ thể hóa khái niệm trên ta có thể xem xét tư tưởng đại đoàn Hồ Chí
Minh ở những vấn đề sau:
1.2.1 Hồ Chí Minh coi đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa
chiến lược, quyết định thành công của cách mạng.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng đoàn kết là sức mạnh của dân tộc giúp cho
dân tộc ấy có thể chiến thắng được mọi kẻ thù mặc dù kẻ thù ấy mạnh hơn
ta rất nhiều lần: “Khi một dân tộc đã đoàn kết và kiên quyết tranh lại quyền
độc lập thì dân tộc ấy nhất định thắng lơị và dù bao nhiêu đế quốc cũng
không ngăn cản được thắng lợi ấy {6, tr 146} vì vậy, phải biết tập hợp lực
lượng cách mạng xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng sức mạnh dân
tộc. Người đã thấy được sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong suốt
cuộc đời hoạt động cách mạng của mình Hồ Chí Minh luôn coi trọng việc
phát huy, mở rộng khối đại đoàn kết của toàn dân tộc trong quá trình cách
mạng Hồ Chí Minh đã nêu ra những luận điểm có tính chân lý: “Đoàn kết là

sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi” và “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của
thành công”, “Đoàn kết là điểm mẹ, điểm mẹ mà thực hiện tốt thì đẻ ra con
cháu đều tốt”.
Thông qua thực tiễn cách mạng Việt Nam Người đã nhận thấy rằng
nếu không đoàn kết lại thành một khối thống nhất thì không thể thắng được
âm mưu vô cùng xảo quyệt của kẻ thù. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực
dân pháp”, Người đã vạch rõ âm mưu “ chia để trị” của kẻ thù và khẳng
định tính tất yếu khách quan của đại đoàn kết dân tộc để chiến thắng kẻ thù:
“Chủ nghĩa thực dân Pháp không hề thay đổi phương châm “ chia để trị”
của nó. Chính vì thế mà nước An Nam, một nước chung một dân tộc, một
dòng máu, chung một tiếng nói đã bị chia năm xẻ bảy. Lợi dụng sự xảo trá
sự chia cắt ấy người ta hy vọng làm nguội được tình đoàn kết nghĩa đồng
bào trong người An Nam và tạo nên sự xung khắc anh em ruột thịt với
18


nhau”.{3,tr116}. Vì vậy, chỉ có đoàn kết mới đánh bại được âm mưu chia rẽ
của kẻ thù. Người thấy rằng người việt Nam có “tình đoàn kết, nghĩa đồng
bào sâu nặng” vì vậy, cần phải khơi dậy tình đoàn kết nghĩa đồng bào sâu
nặng tập hợp mọi lực lượng yêu nước trong nhân dân.
Hồ Chí Minh coi đại đoàn kết dân tộc là một đường lối chiến lược
của cách mạng Việt Nam, là nguồn sức mạnh là động lực của cách mạng.
Đại đoàn kết dân tộc theo Người không phải là một thủ đoạn chính trị mà là
một chủ trương chiến lược lâu dài: “Đoàn kết của chúng ta không những
rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài…không phải là một thủ đoạn chính trị… ai
có tài, có đức có lòng phụng sự Tổ quốc thì ta đoàn kết với nhau” {7, tr
438}. Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam Người luôn luôn củng cố,
mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc coi đó là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối
chủ trương của Đảng.
Chính vì vậy, Người đã khẳng định cách mạng muốn thắng lợi phải

dựa vào sức mình là chính, bằng tinh thần đoàn kết của chính dân tộc mình.
Do đó Người luôn luôn tin tưởng vào sức mạnh, tinh thần đoàn kết quật
khởi của dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam đứng lên: Đem sức ta mà
giải phóng cho ta không ỷ lại, chờ đợi vào cách mạng chính quốc.
Xuất phát từ sự kế thừa quan điểm giá trị truyền thống cách mạng của
ông cha ta “nước lấy dân làm gốc”, “người đẩy thuyền cũng là dân mà lật
thuyền cũng là dân”, “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân
liệu cũng xong” đồng thời vận dụng quán triệt sâu sắc nguyên lý maxit:
cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, nhân dân là người sáng
tạo ra lịch sử. Nên trong bất kỳ hoàn cảnh nào Người cũng nhằm xây dựng
lực lượng cách mạng dựa vào quần chúng nhân dân, phát huy nhiệt tình
cách mạng, ý chí quyết chiến quyết thắng,chí thông minh sáng tạo của nhân
dân. Người khẳng định:” trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. trong
19


thế giới không có gì mạnh bằng sức mạnh của nhân dân”, Người còn chỉ
rõ: “có lòng dân thì có tất cả mất lòng dân là mất hết”.
Tuy nhiên theo Người mỗi quốc gia dân tộc cũng có những giai cấp
tầng lớp khác nhau họ có những nhu cầu lợi ích khác nhau. Song dù thế nào
họ cũng có những nhu cầu lợi ích chung là lợi ích tối cao của dân tộc và
cũng chính trong mỗi một dân tộc lợi ích tối cao của dân tộc được giải
quyết thì lợi ích cơ bản thiết thân của mỗi con người, mỗi giai cấp cũng
được đảm bảo.
Vì vậy, để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc rộng rãi Người luôn
luôn tìm kiếm, chân trọng, phát huy, những yếu tố tương đồng Người luôn
coi mỗi người dân Việt Nam đều là “ con rồng cháu tiên” vì vậy “ai cũng có
ít hay nhiều lòng yêu nước”. Chính vì thế để mở rộng khối đại đoàn kết dân
tộc người yêu cầu Đảng, Nhà nước phải có chủ trương chính sách đúng đắn
theo Người: bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền lợi đều vì dân.

cách mạng rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều chớ để trong tay bọn
ít người và khi đất nước được độc lập thì “ tất cả quyền bính trong nước là
của toàn thể nhân dân Việt Nam.Việc nước là việc chung”nên mỗi người
dân “đều phải gánh vác một phần trách nhiệm”.
Vì thế cho nên, trong mỗi giai đoạn cách mạng Hồ Chí Minh luôn có
những chủ trương chính sách đúng đắn để quy tụ nhân dân lao động thành
một khối thống nhất, mở rộng khối đại đoàn kết trong bất cứ một cuộc cách
mạng nào cũng phân thành ba tuyến lực lượng: Lực lượng cách mạng, lực
lượng phản cách mạng, lực lượng trung gian. Sự thành bại của mỗi cuộc
cách mạng không chỉ phụ thuộc hoàn toàn thực lực cách mạng mặc dù lực
lựơng cách mạng luôn là yếu tố quyết định nhưng điều đó còn có nghĩa là
nó còn phụ thuộc vào sự ủng hộ của lực lượng trung gian, sự phân hóa cô

20


lập kẻ thù chủ tịch Hồ Chí Minh có chiến lược khác nhau đối với các lực
lượng cách mạng
Với lực lượng cách mạng chủ yếu là công nhân, nông dân, trí thức
phương pháp đại đoàn kết Hồ chí Minh là khai thác phát huy sự thống nhất
tương đồng; hạn chế tiến tới xóa bỏ sự khác biệt về mục tiêu, lợi ích giai
cấp lấy lợi ích chung làm nên tảng từng bước giải quyết lợi ích riêng.
Với lực lượng trung gian: từng bước giải tỏa mặc cảm cho họ, kích
thích lòng yêu nước thu hút họ về phía cách mạng, Người dùng hình tượng
năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn, nhưng ngắn dài đều tập hợp lại nơi
bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác nhưng họ
đều thuộc dòng dõi tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải
nhận rằng đã là con hồng cháu lạc thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc.
Đối với đồng bào lầm đường lạc lối ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ,
có đoàn kết thì mới có tương lai, mới chắc chắn có vẻ vang”, khối đoàn kết

được mở rộng ngay cả đối với những người trước đây đã chống lại chúng
ta.
Với các thế lực thù địch chủ trương cô lập phân hóa chúng đến cao
độ, lôi kéo tranh thủ được những ai có thể tranh thủ được còn những ai đã lộ
rõ mặt phản động thì kiên quyết tiêu diệt.
Với chủ trương phương pháp đoàn kết đúng đắn đã quy tụ mọi người
vào khối đại đoàn kết dân tộc xây dựng nên độc lập thống nhất cho tổ quốc,
hướng tới cuộc sống tự do ấm no hạnh phúc cho nhân dân là mẫu số chung
của sự đoàn kết toàn dân tộc.
1.2.2 Đại đoàn kết dân tộc là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của
cách mạng
Hồ Chí Minh cho rằng, đại đoàn kết dân tộc không chỉ là một mục
tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng mà còn là mục tiêu, mục đích, nhiệm vụ
21


hàng đầu của cả dân tộc. Bởi vì đại đoàn kết dân tộc chính là sự nghiệp của
quần chúng, do quần chung, vì quần chúng cho nên đoàn kết dân tộc không
phải là chủ trương xuất phát từ sự cần thiết, từ sự mong muốn, ý chí chủ
quan của lực lượng lãnh đạo cách mạng mà là một nhu cầu nội tại khách
quan của chính quần chúng trong đấu tranh tự giải phóng mình. Tuy nhiên
bản thân quần chúng không thể tự mình nhận thức được một cách đầy đủ
cách mạng một cách tự giác. Vì vậy phải có một tổ chức tiền phong giúp họ
đó là Đảng cộng sản theo Người trước hết phải có đảng cách mệnh để trong
thì vận động tổ chức quần chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức
và vô sản giai cấp mọi nơi và Đảng có vững thì cách mệnh mới thành công
cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.
Đảng có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, đoàn kết quần chúng và lôi kéo
các tầng lớp nhân dân khác đứng lên làm cách mạng.Vậy Đảng là ai. Đảng
là mỗi chúng ta. Đảng lớn lên do mỗi chúng ta lớn lên.Vì vậy phải coi trọng

công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng phê bình và tự phê bình không chỉ là
trách nhiệm của mỗi đảng viên mà là của mỗi người dân. Đồng thời Người
cũng chỉ ra Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai
cũng phải hiểu ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa
cũng như người không có chí khôn, cũng như tàu không có bàn chỉ nam
Đảng phải theo chủ nghĩa Mác-Lênin.
Trong bất cứ giai đoạn nào Đảng cũng phải là một tổ chức cách mạng
chân chính tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của thời đại.Vì vậy,
Người đã căn dặn “ luôn giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình” để Đảng xứng đáng là hạt nhân của khối đại đoàn kết
toàn dân, đảm bảo cho sự nghiệp của giai cấp công nhân và nhân dân Việt
Nam giành thắng lợi.

22


Đảng phải làm gì để phát huy được tính tiền phong gương mẫu đó là
“đảng viên đi trước làng nước theo sau”, cán bộ là đày tớ, là công bộc của
nhân dân mỗi đảng viên cần có những phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, phải có chí, dũng, mưu và việc gì có lợi cho dân thì cố gắng
làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh. Để vận động tuyên truyền
giáo dục quần chúng nhân dân đòi hỏi trước hết đó là có đạo đức: “cũng
như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải
có gốc không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đức không có
đức thi tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình Hồ Chí Minh là
một tấm gương đạo đức trong sáng về đại đoàn kết dân tộc về đạo đức cách
mạng, cả cuộc đời người hiến dâng cho dân tộc Người nói: “cả cuộc đời tôi
chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và hạnh phúc của
nhân dân”. Người là tấm gương mẫu mực trong việc sử dụng có hiệu quả

các hình thức tuyên truyền giáo dục, thuyết phục, vận động quần chúng với
phong cách bình dị lời nói dễ hiểu, dễ di vào lòng người đã động viên được
đông đảo quần chúng nhân dân lao động đi theo cách mạng.
1.2.3 Trong tư tưởng Hồ Chí Minh đại đoàn kết dân tộc là đại
đoàn kết toàn dân
Kế thừa, phát triển biện chứng truyền thống của dân tộc và nguyên lý
của chủ nghĩa Mác- Lênin nhân dân là đầu tầu của cách mạng, là ngưòi làm
nên lịch sử. Hồ Chí Minh đã đưa ra khái niệm Nhân dân rất mới mẻ, Người
quan niệm Dân, Nhân dân để chỉ “mọi con dân nước Việt”, “mọi con rồng
cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc thiểu số với dân tộc đa số, không phân
biệt già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo. Người đã nhận thức được vai trò to lớn
của nhân dân: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng
làm được. Không có thì việc gì cũng không xong. Dân chúng biết cách giải
23


quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ mà người tài
giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra.
Trong cách mạng chỉ có sự đồng tâm hiệp lực thì cách mạng mới
thành công. Người nhận thấy nước Việt Nam là một nước: có chung một
dòng máu, chung một phong tục, chung một lịch sử, chung một truyền
thống, chung một tiếng nói, người Việt Nam co tình đoàn kết nghĩa đồng
bào sâu nặng. Vì vậy, trong sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà Người
luôn chăm lo xây dựng, mở rộng khối đoàn kết dân tộc: “ta đoàn kết là để
đấu tranh cho thống nhất nước nhà. Ai có tài, có đức, có lòng phụng sự tổ
quốc thì ta đoàn kết với họ”.
Để thực hiện được khối đại đoàn kết rộng rãi theo Người phải kế thừa
truyền thống yêu nước - đoàn kết – nhân nghĩa của dân tộc, phải khoan
dung độ lượng với con người, ngay cả với những người lầm đường, lạc lối
mà biết hối cải thì ta vẫn biết cách kéo học về phái dân tộc, đoàn kết là

không kiên định, không khoét sâu cách biệt Người đã chỉ ra: “bất kỳ ai mà
tán thành hòa bình, thống nhấtđộc lập, dân chủ thì dù những người đó trước
đây có chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”{tập
7 tr 438}.
Để thực hiện được khối đại đoàn kết vững chắc rộng rãi toàn dân phải
dựa trên nền tảng: lấy liên minh công nông làm nền tảng vững chắc để đoàn
kết các tầng lớp khác trong nhân dân Người chỉ rõ “trong giai đoạn hiện
nay, giai cấp công nhân là giai cấp độc nhất và duy nhất! có sứ mệnh lịch sử
là lãnh đạo cách mạng đến thắng lợi cuối cùng, bằng cách liên minh với giai
cấp nông dân”. Có như thế mới phát triển và củng cố được lực lượng cách
mạng và đưa cách mạng đến thắng lợi cuối cùng.
Chính tư tưởng coi sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân
vì quần chúng nên Hồ Chí Minh đã huy động được toàn dân đoàn kết thành
24


một khối thống nhất đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng nước nhà, giải
phóng con người giành độc lập tự do cho tổ Quốc.
1.2.4 Đại đoàn kết dân tộc phải biến thành sức mạnh vật chất có
tổ chức là Mặt trận dân tộc thống nhất.
ở Hồ Chí Minh đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan điểm
tư tưởng, ở những lời kêu gọi mà trở thành một chiến lược cách mạng, trở
thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng toàn dân ta. Đại đoàn kết dân tộc
biến thành sức mạnh vật chất, thành lực lượng vật chất có tổ chức. Đó là
Mặt trận dân tộc thống nhất, Mặt trận là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, thắt chặt mối liên hệ giữa nhân dân với Đảng: “ Mặt trận dân tộc
thống nhất chính là cái cốt vật chất, là điều kiên tiên quyết để chuyển hóa
sức mạnh tinh thần tiềm ẩn thành sức mạnh vật chất hiện thực của dân
tộc”{8, tr 23-24}.
Trong mỗi thời kì cách mạng Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xây dựng

mặt trận dân tộc thống nhất với nhiều hình thức, nội dung.tên gọi khác nhau
như: Hội phản đế đồng minh (1930), Mặt trận dân chủ (1936), Mặt trận
nhân dân phản đế (1939), Mặt trận Việt minh (1941), Mặt trận Liên
Việt(1946), Mặt trận dân tộc giải phóng Miền nam Việt Nam (1960), Mặt
trận Tổ Quốc Việt Nam (1955), (1976) cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ
của từng thời kì cách mạng. Dù tên gọi khác nhau nhưng chỉ là một tổ chức
chính trị rộng rãi, tập hợp đông đảo các giai tầng, dân tộc, tôn giáo, đảng
phái trong và ngoài nước.
Thực tiễn lịch sử nước ta đã chứng minh thành công của cách mạng
nước ta là nhờ có đoàn kết quần chúng trong các Mặt trận: đoàn kết trong
Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta làm nên cách mạng tháng tám thành công,
lập nên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa; đoàn kết trong Mặt trận Liên
Việt, nhân dân ta kháng chiến thắng lợi, lập nên hòa bình ở Đông Dương;
25


×