Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

skkn kinh nghiệm dạy trẻ 4 5 tuổi những kĩ năng sống cơ bản nhằm giúp trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân ở trường MN hải vân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.22 MB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GD&ĐT NHƯ THANH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

KINH NGHIỆM DẠY TRẺ 4-5 TUỔI NHỮNG KĨ NĂNG
SỐNG CƠ BẢN NHẰM GIÚP TRẺ BIẾT CÁCH TỰ
CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ BẢN THÂN Ở TRƯỜNG
MẦM NON HẢI VÂN – NHƯ THANH

Người thực hiện : Vũ Thùy Lan
Chức vụ : Giáo viên
Đơn vị : Trường MN Hải Vân – Như Thanh
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

NHƯ THANH NĂM 2017


MỤC LỤC


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài:
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO): Kỹ năng sống là những hành động
tích cực, có liên quan đến kiến thức và thái độ, trực tiếp hướng vào hoạt động
của cá nhân hoặc tác động vào người khác, hướng vào những hoạt động làm
thay đổi môi trường xung quanh, giúp mỗi cá nhân ứng phó có hiệu quả với
các yêu cầu, thách thức của cuộc sống hàng ngày. Xã hội hiện nay đã và đang
làm thay đổi cuộc sống, nhiều vấn đề phức tạp liên tục nảy sinh. Bên cạnh
những tác động tích cực, còn có những tác động tiêu cực gây nguy hại cho con
người, đặc biệt là trẻ em. Nếu mỗi người chúng ta trong đó có trẻ em không có


những kiến thức cần thiết để lựa chọn những giá trị sống tích cực, không có
những năng lực để ứng phó vượt qua những thách thức thì rất dễ gặp những trở
ngại, rủi ro trong cuộc sống. Do đó, việc hình thành kỹ năng sống cho mọi
người nói chung và trẻ em nói riêng đang trở thành nhiệm vụ quan trọng mà
chúng ta cần phải đặc biệt quan tâm.[ 1]
Giáo dục kĩ năng sống nhằm giúp trẻ phát triển hài hòa và toàn diện về
nhân cách như các mặt thể chất, tình cảm – kỹ năng xã hội, giao tiếp, ngôn
ngữ, nhận thức và sẵn sàng đi học. Nói cụ thể hơn, giáo dục kỹ năng sống giúp
cho trẻ được an toàn, khỏe mạnh, khéo léo, bền bỉ, có khả năng thích ứng được
với những thay đổi của điều kiện sống. Mặt khác, giáo dục kỹ năng sống còn
giúp cho trẻ biết cách kiểm soát cảm xúc, biết thể hiện tình yêu thương, sự sẻ
chia, đồng cảm với những người xung quanh. Không những vậy, giáo dục kĩ
năng sống còn giúp cho trẻ mạnh dạn, tự tin, tự trọng và tôn trọng người khác,
có khả năng giao tiếp tốt, trẻ biết lắng nghe, nói năng lịch sự, hòa nhã và cởi
mở. Ngoài ra, giáo dục kỹ năng sống còn giúp trẻ ham hiểu biết, sáng tạo, có
những kỹ năng thích ứng với hoạt động học tập ở các lớp lớn hơn như: Sẵn
sàng hòa nhập, nỗ lực vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, có trách
nhiệm với bản thân, với công việc và với các mối quan hệ xã hội khác. Vì vậy
việc hình thành và phát triển kỹ năng sống cần được tiến hành ngay từ bậc học
mầm non.[2],[3]
Việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non ngày càng trở nên cần thiết
nhằm góp phần đào tạo “Con người mới” với đầy đủ các mặt: “Đức, trí, thể,
mỹ, tình cảm kỹ năng xã hội”. Ngạn ngữ có câu: “Gieo hành vi, gặp thói quenGieo thói quen, gặp tính cách”. Giáo dục kỹ năng sống nên bắt đầu từ lứa tuổi
mầm non, bởi vì lứa tuổi này đã hình thành những hành vi cá tính, tính cách,
nhân cách. Trẻ có kiến thức về kỹ năng sống thì trẻ sẽ biết mình phải giao tiếp
với ông bà, bố mẹ như thế nào, biết cách bảo vệ mình trước người lạ ra sao,
biết cách phối hợp với các bạn chơi như thế nào cho đúng…[4]
Bản thân tôi là một giáo viên mầm non tôi nhận thấy rằng đối với trẻ 4-5
tuổi việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là rất cần thiết vì lúc này trẻ đã bắt đầu
nhận thức được thế nào là đúng, thế nào là sai. Điều gì cần làm, và điều gì

không được làm… Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ là giúp trẻ biết cách chăm
sóc và bảo vệ chính bản thân mình, tạo sự tự tin cho trẻ, giúp trẻ thích nghi
được với môi trường xung quanh. Không những thế còn giúp cho trẻ biết cách
3


giao tiếp và ứng xử trong cuộc sống hàng ngày, trẻ biết cách phối hợp với các
bạn chơi trong nhóm.
Vậy làm thế nào để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi có hiệu quả,
giúp trẻ phát triển một cách toàn diện nhất về mọi mặt, đó là câu hỏi luôn đặt ra
cho tôi. Từ những trăn trở, suy nghĩ trên tôi đã chon đề tài: “Kinh nghiệm dạy
trẻ 4-5 tuổi những kỹ năng sống cơ bản nhằm giúp trẻ biết cách tự chăm
sóc và bảo vệ bản thân ở Trường mầm non Hải Vân - Như Thanh’’
1.2. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm ra một số biện pháp dạy trẻ 4-5 tuổi những kỹ năng sống cơ bản
giúp trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân ở trường Mầm non Hải Vân
- Hình thành cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi những kỹ năng sống
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là”Kinh nghiệm dạy trẻ 4-5
tuổi những kỹ năng sống cơ bản giúp trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ
bản thân ở trường Mầm non Hải Vân – Như Thanh’’.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Trong đề tài này tôi đã chọn và sử dụng những phương pháp nghiên cứu
sau:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận: Gồm phương pháp phân tích,tổng hợp,
phân loại và hệ thống hóa các tài liệu và văn bản có liên quan đến vấn đề nghiên
cứu.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Gồm phương pháp điều tra, quan
sát,đàm thoại ,các phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt đông
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế,thu thập thông tin: Điều tra ở lớp

nhỡ (4-5) tuổi trường Mầm non Hải Vân tổng số 30 cháu. Trò chuyện giữa giáo
viên với các đồng nghiệp, phụ huynh của và với trẻ để tìm hiểu sự hiểu biết của
trẻ về nề nếp, thói quen, tình cảm của từng trẻ,để trẻ nắm được những tri thức
mới về kỹ năng sống như thế nào
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết :Tài liệu,sách báo,mạng internet,bài
thơ câu chuyện có nội dung dạy trẻ những kỹ năng sống
- Phương pháp thống kê sử lý số liệu: phương pháp toán học và các bảng
biểu
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận:
Giáo dục kỹ năng sống là một phần quan trọng trong chương trình chăm
sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ mầm non. Hiện nay, việc đưa giáo dục kĩ năng
sống vào nhà trường nhất là từ bậc học mầm non đã được thực hiện ở rất nhiều
các Quốc gia trên thế giới, ở mỗi nước có một phương thức giáo dục khác
nhau. Ở Việt Nam, việc đưa giáo dục kĩ năng sống vào lứa tuổi mầm non cũng
đã được chú trọng quan tâm vào những năm gần đây. Theo tổ chức Y tế thế
giới (WHO-1993) “Năng lực tâm lý xã hội là khả năng ứng phó có hiệu quả
với những yêu cầu và thách thức của cuộc sống. Đó cũng là khả năng của một
cá nhân để duy trì một trạng thái khỏe mạnh về mặt tinh thần, biểu hiện qua
4


hành vi phù hợp và tích cực khi tương tác với người khác, với văn hóa và môi
trường xung quanh. Năng lực tâm lý xã hội có vai trò quan trọng trong việc
phát triển sức khỏe theo nghĩa rộng nhất về mặt thể chất, tinh thần và xã hội.
Kỹ năng sống là khả năng thể hiện, thực thi năng lực tâm lý xã hội này”. TS
Nguyễn Thu Cúc chuyên gia tư vấn của ABS Training cho biết: “Kỹ năng sống
không phải là những gì quá cao siêu, phức tạp”. Trong thời đại hiện nay, ngoài
kiến thức, mỗi chúng ta và nhất là trẻ em rất cần trang bị những kỹ năng sống
để ngày càng hoàn thiện bản thân sao cho phù hợp với sự phát triển của xã hội.

Vì vậy Bộ GDĐT đưa kỹ năng sống lồng ghép vào chương trình dạy học là
việc làm rất quan trọng và cần thiết, mặc dù việc này không phải là dễ đối với
lứa tuổi mầm non. Đặc biệt đối với trẻ mẫu giáo nhỡ (4-5 tuổi ), vì đây là giai
đoạn đầu trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách nên việc nắm bắt
tâm lý trẻ còn gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, đây cũng là giai đoạn tình cảm
của trẻ phát triển mãnh liệt, đặc biệt là tính đồng cảm và tính dễ xúc cảm đối
với con người và cảnh vật xung quanh. Đây cũng là một thời điểm thuận lợi để
giáo dục tình cảm yêu thương, đồng cảm, chia sẻ cho trẻ.[1],[5]
2.2. Thực trạng của vấn đề khi áp dụng sáng kiến
* Thuận lợi:
Lớp tôi được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm, tạo điều kiện về cơ sở
vất chất để giáo viên thực hiện tốt chuyên đề “ Giáo dục kỹ năng sống” cho trẻ.
Bản thân cũng được tham dự lớp bồi dưỡng tiếp thu chuyên đề hè do
Phòng giáo dục huyện tổ chức trong đó có chuyên đề giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ và dự một số tiết dạy mẫu của trường nên tôi đã học tập được một số
kinh nghiệm trong phương pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ.
Các tài liệu, tập san về hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ được nhà trường,
phòng giáo dục cấp phát kịp thời. Đặc biệt nhà trường có máy vi tính kết nối
internet tạo điều kiện cho tôi cập nhật thông tin mới một cách nhanh chóng và
thuận tiện.
Bản thân có trình độ chuyên môn trên chuẩn, chịu khó, nhiệt tình năng
động trong mọi nhiệm vụ được giao, luôn gần gũi phụ huynh được phụ huynh
tin tưởng.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên khi đi vào thực tế quá trình giáo dục kỹ
năng sống cho trẻ 4-5 tuổi tôi còn gặp phải một số những khó khăn:
Là giáo viên trẻ, vốn sống cũng như kinh nghiệm giáo dục trẻ chưa có
nhiều nên việc chăm sóc giáo dục trẻ cũng như dạy kỹ năng sống cho trẻ gặp
không ít khó khăn.
Là địa phương thuần nông nên đa số các bậc phụ huynh không có điều

kiện để quan tâm đến trẻ. Có không ít cha mẹ trẻ nhận thức về dạy kỹ năng
sống cho trẻ chưa rõ ràng. Họ đưa con đến trường rồi phó mặc việc giáo dục trẻ
cho giáo viên, cho con đi học chỉ cần biết hát, biết múa, biết đọc thơ, kể chuyện
thế là đủ, còn lại các việc khác không quan trọng. Nhiều phụ huynh còn cho
rằng trẻ con biết gì, làm được gì mà dạy kỹ năng sống. có một số gia đình do ít
con cho nên chiều chuộng và dẫn đến trẻ ít hoạt động mà luôn có tính ỷ lại vào
5


người khác. Chính vì vậy việc phối hợp với các bậc phụ huynh trong việc dạy
kỹ năng sống cho trẻ tôi gặp nhiều khó khăn.
Đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị phục vụ hoạt động đã có sự đầu tư nhưng
chưa đa dạng. Vì vậy không thu hút được hứng thú của trẻ, làm hạn chế kết quả
của hoạt động.
Lớp tôi có 30 cháu nhưng có tới 14 cháu chưa qua lớp mẫu giáo bé. Vì thế
việc giáo dục trẻ các nề nếp thói quen, hành vi văn minh gặp nhiều khó khăn. Bên
cạnh đó, các cháu tuy cùng độ tuổi nhưng nhận thức lại không đồng đều, có nhiều
cháu sinh cuối năm và có nhiều cháu thể lực không tốt, đây cũng là một trong
những nhân tố làm hạn chế kết quả của hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Trong tổng số 30 cháu của lớp thì có đến 21 cháu là nam, 9 cháu nữ mà
trong đó lại có một số cháu quá hiếu động và nghịch ngợm, nên phần nào cũng
gây ảnh hưởng đến quá trình tổ chức hoạt động.
Với thực trạng trên, qua việc khảo sát các kỹ năng sống đầu năm ở trẻ tại
lớp mẫu giáo nhỡ 4-5 tuổi cho kết quả như sau:
Kết quả
Tổng số
trẻ
Đạt
Chưa đạt
Lĩnh vực khảo sát

trong
Số
Tỉ lệ
Số
Tỉ lệ %
lớp
lượng
%
lượng
1. Kỹ năng giao tiếp lịch sự
30
20
66,6
10
33,4
lễ phép.
2. Kỹ năng phục vụ chăm
30
18
60
12
40
sóc bản thân.
3. Kỹ năng tuân thủ quy tắc
30
20
66,6
10
33,4
xã hội.

4. Kỹ năng hợp tác.
30
16
53,3
14
46,7
5. Kỹ năng ứng xử phù hợp
30
19
63,3
11
36,7
với người xung quanh.
Nhìn vào kết quả khảo sát đầu năm ta thấy tỉ lệ trẻ có kỹ năng sống ở
mức đạt thấp (dao động từ 53,3% đến 66,6%). Mức độ chưa đạt chiếm tỷ lệ
cao( có tới 33,4% đến 46,7% trẻ ở mức chưa đạt).
Đứng trước tình hình như vậy, tôi luôn đắn đo suy nghĩ làm thế nào để
nâng cao kết quả giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, tạo cơ hội để trẻ vận dụng
kiến thức kỹ năng vào thực tiễn cuộc sống, để những kỹ năng đó trở thành
thuộc tính vững chắc trong nhân cách trẻ. Qua tài liệu tôi đã tìm ra được một số
biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 4-5 tuổi và dưới đây là một số biện pháp
chính mà tôi đã thực hiện và đã thu được kết quả khả quan.
2.3.Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề.
2.3.1. Biện pháp 1: Dạy trẻ biết cách tự chăm sóc và bảo vệ bản thân để có
thêm những kỹ năng sống cần thiết.
Dựa vào đặc điểm tâm sinh lý của trẻ ta thấy không nên làm cho trẻ những
việc trẻ có thể tự làm được vì nếu ta làm hộ hết tất cả mọi việc cho trẻ ngay cả
những việc trẻ có thể tự làm được thì sẽ tạo cho trẻ một thói quen rất xấu đó là
6



trẻ chỉ biết sống phụ thuộc vào người khác. Trong xã hội hiện đại ngày nay thì
chúng ta càng cần phải dạy cho trẻ biết cách tự chăm sóc phục vụ bản thân
mình, đó là những kỹ năng tối thiểu cơ bản của mỗi cá nhân trẻ và giúp trẻ
ngày một hoàn thiện mình hơn. Đầu năm, lớp tôi còn rất nhiều trẻ chưa có kỹ
năng tự phục vụ bản thân như: Chưa biết cách thay quần áo, chưa biết cách gấp
chăn gối của trẻ và còn để đồ dùng không đúng nơi quy định, còn một số trẻ thì
xúc cơm và cầm bút bằng tay trái, thậm chí trẻ bị sổ mũi thì ngay lập tức trẻ lấy
tay quệt ngang mặt mà không cần nghĩ mình phải làm gì. Là một giáo viên điều
đầu tiên là tôi cần tập cho trẻ những kỹ năng nhỏ nhất giúp trẻ biết cách chăm
sóc và giữ gìn sức khỏe cho chính mình.
Ví dụ: Khi dạy cho trẻ cách mặc quần áo, hay cách gấp chăn, gối tôi tổ
chức cho trẻ chơi trò chơi: “Ai nhanh hơn, đẹp hơn”, hình thức chơi như sau:
Tôi cho 2 trẻ lên thi, đầu tiên tôi gợi mở, giới thiệu cho trẻ các thao tác, sau đó
tôi tổ chức cho trẻ chơi. Cả lớp đếm cùng cô từ 1 đến 10, khi nghe cô nói hết
giờ, trẻ phải dừng tay. Cô và cả lớp kiểm tra kết quả và tặng quà. Lúc đầu trẻ
thực hiện rất vụng về, lúng túng nhưng do trẻ được luyện tập thường xuyên nên
các thao tác của trẻ dần chính xác hơn.

(Hình ảnh trẻ tự thay quần áo phù hợp với thời tiết)
Để giúp trẻ biết cách phòng tránh một số loại bệnh cho bản thân thì trước
tiên trẻ phải phân biệt được các đồ dùng cá nhân của trẻ như: Khăn mặt, cốc
uống nước, dép, chăn, gối...
Khi trẻ đã nhận biết được đâu là đồ dùng của mình thì trẻ chỉ lấy đúng đồ
dùng của mình để dùng chứ không dùng chung với các bạn khác, đây là một
thói quen rất tốt cho chính trẻ. Để thực hiện được kỹ năng này, tôi đã cho trẻ
thực hiện hàng ngày và nó cũng nằm trong chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ ở
trường mầm non.
Ví dụ: Đến giờ uống sữa tôi cho tất cả trẻ phải lấy đúng kí hiệu cốc của
mình để uống và sau đó phải tìm đúng khăn mặt của mình để lau miệng.

7


(Hình ảnh trẻ lấy đúng ký hiệu cốc để uống nước)
Ở trên lớp trẻ được thực hiện theo đúng chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ,
trong đó có những việc trẻ phải tự làm như: Trẻ phải biết tự mình rửa tay trước
khi ăn và sau khi đi vệ sinh, phải biết xúc cơm như thế nào cho đúng, biết lấy
khăn lau miệng... Đây là công việc trẻ phải tự làm chứ không thể nhờ ai làm hộ
mình được và đó là kỹ năng không thể thiếu trong mỗi trẻ vì nó còn giúp trẻ
hình thành hành vi và thói quen tốt cho trẻ sau này.
Ví dụ: Trước giờ ăn cơm tôi tập cho trẻ thói quen rửa tay bằng xà phòng
và khi ăn cơm không được nói chuyện, khi ho hay hắt hơi phải lấy tay che
miệng, ăn xong phải biết lấy cốc của mình xúc miệng và lau mặt,…

(Hình ảnh trẻ tìm kí hiệu khăn để lau miệng)
8


Các thói quen này chỉ hình thành ở mỗi cá nhân trẻ khi cô cho trẻ hàng
ngày được thực hiện, nếu cắt bớt công đoạn đi thì chính cô giáo đã không
truyền thụ được hết các kỹ năng cơ bản giúp trẻ chăm sóc tốt bản thân mình.
Ngoài việc dạy trẻ các kỹ năng tự chăm sóc và bảo vệ bản thân tôi còn
chú ý giáo dục trẻ tính thật thà vì chính đức tính trung thực, thật thà sẽ góp
phần tạo nên nhân cách trẻ sau này. Qua quá trình giảng dạy và giao tiếp với trẻ
tôi nhận thấy cách tốt nhất để giáo dục và khuyến khích tính trung thực ở trẻ là
người lớn, đặc biệt là những người gần gũi trẻ phải trở thành những người
trung thực. Người lớn nên chú ý tránh nói dối trước mặt trẻ, dù đó chỉ là những
lời nói dối vô hại. Để giáo dục trẻ kỹ năng sống trung thực, tôi luôn chú ý lồng
ghép vào các hoạt động trong ngày của trẻ như sau những giờ hoạt động chính
tôi thường nhắc nhở trẻ về nhà hát (nếu hôm đó là giờ âm nhạc) bài hát cô vừa

dạy cho các con các nhớ về nhà hát cho bố, mẹ, ông, bà nghe hoặc về nhà đọc
thơ cô vừa dạy cho cả nhà nghe… Đặc biệt trong giờ ăn trưa của trẻ ngoài việc
giới thiệu các món ăn và giáo dục trẻ ăn đầy đủ các chất dinh dưỡng tôi còn
nhắc nhở trẻ về khoe với bố mẹ những món ăn con được ăn ở trên lớp.Vì qua
trò chuyện với phụ huynh tôi được biết có những trẻ về thường nói với bố mẹ:
Con ở trên lớp chỉ ăn cơm với trứng và thịt thôi, mặc dù 5 ngày trong tuần nhà
trường đã nấu 5 món ăn khác nhau. Ngoài ra tôi còn nhắc nhở trẻ về nhà phải
nói thật với bố mẹ là trên lớp con được ăn những gì, học những gì.
Ví dụ: Trong một lần trò chuyện với mẹ của cháu Lộc, chị có hỏi tôi: Trên
lớp cháu được ăn những món ăn gì mà hôm nào về nhà cháu cũng bảo ăn cơm
với trứng? Tôi có trao đổi lại với chị rằng: 5 ngày trong tuần của cháu ở trường
là 5 món ăn khác nhau như thứ 2 cháu ăn cơm với thịt lợn rim, thứ 3 cháu ăn
cơm với ruốc cá thu, thứ 4 cháu ăn cơm với thịt bò , thứ 5 cháu ăn cơm với
trứng đúc thịt và thứ 6 cháu ăn cơm với thịt ngan. Đồng thời tôi mời chị vào
thăm quan nhà bếp để chị trực tiếp được quan sát. Bên cạnh đó, hàng ngày
trong giờ ăn trưa tôi cũng thường hỏi lại Lộc: Hôm nay con được ăn món gì?
Và nhắc Lộc về nhà nhớ khoe với bố mẹ. Ngoài ra, vào những giờ cuối buổi
chiều tôi còn dành ra ít phút trước khi trả trẻ để đánh giá, nhận xét một ngày
của trẻ ở lớp, khuyến khích trẻ tự nhận xét bản thân xem trẻ có trung thực hay
không để động viên, khen ngợi hay có những biện pháp giáo dục phù hợp.
Sau một thời gian với sự cố gắng của cả cô và trẻ thì học sinh lớp tôi đã
hình thành được các thói quen cơ bản để chăm sóc và bảo vệ chính bản thân
mình như: Trẻ đã phân biệt được đồ dùng cá nhân của mình, trẻ biết tự thay
quần áo và gấp chăn gối sau khi ngủ dậy. Trước giờ ăn cơm trẻ đã biết đi rửa
tay bằng xà phòng, đến giờ ăn trẻ đã biết cầm thìa bằng tay phải và xúc cơm
gọn gàng không để cơm rơi vãi ra bàn ăn, khi ăn xong trẻ đã biết đi lấy nước
xúc miệng, lấy đúng kí hiệu khăn của mình để lau miệng, lấy đúng kí hiệu chăn
gối của mình để đi ngủ. Đặc biệt trẻ đã nói rất thật với mọi người về tất cả các
hoạt động mà trẻ đã được trải nghiệm qua một ngày học ở trường.
2.3.2. Biện pháp 2: Tạo sự tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động góp

phần giáo dục kỹ năng sống cho trẻ:

9


Nền tảng của việc giáo dục kỹ năng sống là ý thức cao về giá trị bản thân
trẻ, giáo viên cần phải tin tưởng vào khả năng của trẻ, không áp đặt suy nghĩ
của mình lên trẻ, không suy nghĩ thay cho trẻ mà cần khơi dậy tiềm năng của
trẻ, hổ trợ và phát triển tiềm năng này bằng thái độ thông cảm, tin tưởng và tôn
trọng trẻ. Hãy tỏ ra thích thú và vui mừng mỗi khi trẻ thể hiện cho mình thấy
trẻ đã tạo thành một kỹ năng mới và khen ngợi trẻ khi trẻ đạt được mục tiêu
mình đề ra. Tuy nhiên, không phải trẻ nào cũng có sự tự tin luôn mà còn nhiều
trẻ rất nhút nhát, không dám làm, dám nói, dám phát biểu ý kiến vì sợ mình
không làm được việc cô giao, sợ bị cô mắng, sợ bạn bè chê cười. Vì vậy, tạo
sự tự tin cho trẻ là rất cần thiết vì trẻ có tự tin trẻ mới làm tốt tất cả mọi việc và
tự tin còn giúp trẻ mạnh dạn hơn trong giao tiếp cũng như trong các hoạt động
sau này.
Những câu nói của người lớn mà đặc biệt là của cô giáo đôi khi chúng ta
không để ý nhưng đối với trẻ đó lại là một động lực giúp trẻ tự tin hơn và làm
tốt công việc của mình.
Ví dụ: Khi trẻ gấp chăn gối, có thể trẻ còn lúng túng chưa biết gấp thế nào
cho gọn gàng, lúc này cô không nên vội vàng làm giúp trẻ mà hãy nói với trẻ: “
Con có thể tự làm được mà” do kỹ năng này đã được cô hướng dẫn nhiều lần.

(Hình ảnh trẻ gấp chăn gối)
Câu nói đó của cô là một sự động viên, khích lệ đối với trẻ để trẻ tự tin
vào bản thân mình là mình có thể làm được việc này mà không cần ai giúp đỡ.
Sau khi trẻ làm tốt công việc, cô giáo không thể thiếu câu khen ngợi trẻ để trẻ
cảm thấy mình đã làm được và trẻ sẽ tự tin hơn trong các lần sau.
10



Trong các hoạt động trẻ rất muốn chứng minh cho mọi người thấy khả
năng của mình, nắm bắt được nhu cầu này tôi đã cho trẻ tự thể hiện sự tự tin
của mình thông qua các vai chơi ở hoạt động góc. Như chúng ta đã biết: “Trẻ
học mà chơi, chơi mà học”, vì vậy qua việc tham gia chơi ở các góc thì các kĩ
năng sống được trẻ tiếp thu một cách dễ dàng nhất.
Ví dụ: Qua góc chơi phân vai bán hàng, mẹ con, nấu ăn trẻ học được các
kỹ năng như : Kỹ năng giao tiếp ( giữa người bán hàng và người mua hàng, mẹ
và con), Kỹ năng hợp tác (Trẻ biết chơi làm bác sĩ, biết trò chuyện, chia sẻ với
bạn cùng chơi), kỹ năng chăm sóc ( nấu món ăn ngon cho mọi người, xúc bột
cho em bé ăn)…

(Hình ảnh trẻ đóng vai bán hàng và ngươi mua hàng)
Ngoài ra ở các góc chơi khác các kỹ năng của trẻ cũng đều có thể được
củng cố và phát huy.
Ví dụ: Ở góc xây dựng, trẻ có kỹ năng hợp tác và làm việc theo nhóm.
Với trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi lớp tôi, các cháu đã biết tự phân vai chơi cho nhau và
chơi rất đoàn kết, không tranh giành đồ chơi lẫn nhau và đã biết cùng nhau tạo
nên những công trình đẹp.(Cháu Minh Hòa nói: Bạn Linh ơi chuyển cho tôi
mấy cây để tôi trồng, cho tôi mấy con cá để tôi thả xuống ao hay bạn Phát nói:
Bạn Quân ơi chúng ta cùng làm hàng rào bảo vệ nào…)
Trong chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ trên lớp thì hoạt động có chủ
đích là một trong những hoạt động để tôi tích hợp có hiệu quả nội dung giáo

11


dục kỹ năng sống cho trẻ, dựa vào nội dung của từng hoạt động để tích hợp
một cách hài hòa nhất.

Ví dụ: Qua hoạt động KPKH: Trò chuyện về một số luật giao thông
đường bộ, tôi dạy trẻ một số kĩ năng sau: Kỹ năng tuân thủ quy tắc của luật
đường bộ: Đi bộ phải đi bên phải, khi đi phải có người lớn dắt. Kỹ năng bảo vệ
bản thân: Khi ngôi trên xe máy phải đội mũ bảo hiểm, ngồi ngay ngắn không
đùa nghịch khi ngồi trên xe…. Sau giờ học đó những trẻ được bố mẹ đưa đến
trường bằng xe máy đều phải đội mũ bảo hiểm, và khi ngồi trên xe thì ngồi rất
ngay ngắn và ôm chặt bố mẹ.
Thông qua các hoạt động sự tự tin của trẻ còn được thể hiện khá rõ rệt,
nếu trẻ càng có tính tự tin bao nhiêu thì trẻ càng phát huy tốt năng lực của mình
bấy nhiêu. Trẻ có tự tin vào mình thì trẻ mới hăng hái phát biểu ý kiến, bên
cạnh đó có những trẻ có thể trả lời được câu hỏi của cô những trẻ lại không
dám giơ tay phát biểu, phải chăng trẻ nhút nhát sợ mình trả lời sai! Tôi luôn
tìm hiểu nguyên nhân và có hướng khắc phục cho cá nhân trẻ để trẻ mạnh dạn,
tự tin hơn. Đối với các giờ học nói chung và giờ tạo hình nói riêng tôi luôn chú
ý động viên, khen ngợi trẻ là chính, hạn chế chê trẻ vì chê trẻ nhiều trẻ sẽ thấy
thiếu tự tin và dần dần trẻ không hứng thú khi học nữa.
Tôn trọng cũng chính là động lực tâm lý đầu tiên sinh ra sự tự tin, trẻ
không được tôn trọng thì trẻ sẽ mất dần sự tự tin trong chính bản thân trẻ. Đối
với trẻ có lẽ trẻ chưa hiểu được sự tôn trọng là gì mà trẻ chỉ hiểu rằng những
việc mà trẻ làm được sẽ được cô và các bạn khen ngợi để lần sau trẻ tiếp tục
phát huy. Nắm bắt được tâm lý này cho nên tôi luôn tôn trọng trẻ, khích lệ trẻ
để tạo thêm sự tự tin cho trẻ, nhưng bên cạnh đó tôi không quá khen ngợi trẻ để
dẫn đến việc trẻ kiêu ngạo. Khi trẻ đã có sự tự tin thì mọi hoạt động sẽ đem lại
kết quả cao. Trẻ nhỏ không tránh khỏi mắc phải sai lầm, trẻ có mắc phải sai
lầm thì trẻ mới trưởng thành hơn trong cuộc sống. Cách hoàn hảo nhất để xây
dựng sự tự tin cho trẻ chính là cho trẻ thấy sự yêu thương vô điều kiện của bạn
dành cho trẻ. Rất nhiều bậc phụ huynh cũng như cô giáo khi trẻ mắc lỗi thường
to tiếng và quát mắng trẻ. Những hành động đó sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến sự
phát triển tâm lý của trẻ, trẻ mất tự tin vào chính bản thân mình. Thay vào sự to
tiếng và quát mắng bằng những lời an ủi: “ Cô biết con có thể làm được mà,

lần sau con cố gắng hơn”. Khi trẻ mắc lỗi tôi từ từ phân tích giúp trẻ nhận ra
những cái đúng, cái sai từ đó trẻ rút ra bài học cho chính mình, và đó là điều cô
giáo đang tôn trọng chính cá nhân trẻ.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động tạo hình, tôi cho trẻ vẽ thuyền, với những trẻ
thích vẽ thuyền thì trẻ sẵn sàng làm theo sự hướng dẫn, gợi mở của cô, còn
những trẻ không thích vẽ thuyền vì do nhiều nguyên nhân: Trẻ không có tự tin
làm được, hay trẻ không thích vẽ thuyền, khi tôi phát hiện ra trẻ không thực
hiện theo yêu cầu, tôi không thể mắng trẻ mà tôi tìm hiểu nguyên nhân trước
rồi nhắc trẻ biết sửa lỗi của mình để trẻ rút kinh nghiệm cho lần sau.
Hoạt động ngoài trời và hoạt động văn nghệ thể thao là hoạt động không
thể thiếu trong trường mầm non đây là món ăn tinh thần giúp trẻ tự tin trong
giao tiếp và giúp trẻ phát huy những khả năng riêng biệt. Trong tất cả các hoạt
12


động của lớp tôi đều khuyến khích tất cả trẻ cùng tham gia, đặc biệt khi múa
hát các bạn trai thường thiếu tự tin tham gia tập cùng các bạn gái mà lớp tôi tỉ
lệ các bạn trai lại rất đông nên tôi thường phải động viên trẻ để trẻ tham gia,
lúc đầu trẻ tập luyện có thể chưa tốt, tôi không vội vàng chê trẻ mà nhẹ nhàng
hướng dẫn lại theo từng bước cho đến khi trẻ khá hơn rồi nhẹ nhàng động viên
trẻ làm tiếp.

(Hình ảnh trẻ tham gia tập văn nghệ cùng cô)
Kích thích sự tò mò ở trẻ cũng là một cách hay để giúp trẻ trở nên tự tin
hơn. Bởi vì đó là lúc trẻ khám phá thế giới xung quanh và kiểm nghiệm xem
mình có thể làm gì. Tất nhiên là những lúc trẻ tìm tòi, khám phá như vậy cô
giáo cần phải luôn theo sát để đảm bảo an toàn cho trẻ. Nhưng để có thể giúp
trẻ học được một kỹ năng mới, tôi không trực tiếp tham gia vào hoạt động của
trẻ mà tạo điều kiện để trẻ tự trải nghiệm, và học hỏi. Để phát triển lòng tự tin
của trẻ, tôi quan sát những đặc tính nổi bật ở mỗi trẻ và khuyến khích trẻ tham

gia vào các hoạt động thích hợp với năng khiếu của bản thân.
Ví dụ: Giờ khám phá khoa học “ Chìm và nổi” tôi chuẩn bị rất nhiều vật
dụng khác nhau như thìa Inoc và thìa nhựa… cho trẻ thí nghiệm để trẻ phát
hiện ra vật nào chìm dưới nước, vật nào nổi trên mặt nước. Đây là tiết học trẻ
tham gia rất hào hứng vì trẻ được thể hiện sự hiểu biết của mình cho cô và trẻ
thấy. Trước khi làm thí nghiệm tôi cho trẻ quyền được dự đoán các vật đó khi
rơi dưới nước sẽ như thế nào. Đây là lúc trẻ thể hiện sự tự tin của mình và nó
còn kích thích sự tò mò muốn biết sự việc đó có diễn ra như thế nào, có đúng ý
mình nghĩ không.
13


(Hình ảnh trẻ đang làm thí nghiệm chìm và nỗi)
Với sự cố gắng của trẻ lớp tôi thì lòng tự tin của trẻ ngày một lớn dần lên
nhờ vào cảm giác được yêu thương, tôn trọng. Trẻ đã mạnh dạn trong mọi hoạt
động và dám nói lên ý muốn của mình để người khác nghe, trẻ tự tin làm bất
cứ việc gì cô giao.
2.3.3. Biện pháp 3: Tạo môi trường giao tiếp để giáo dục kĩ năng sống cho trẻ:
Dạy trẻ mầm non kỹ năng giao tiếp là rất cần thiết nhưng cô giáo cũng
cần phải xác định được sẽ dạy trẻ các kỹ năng giao tiếp nào. Trẻ đến trường thì
người đầu tiên trẻ giao tiếp là cô, rồi đến các bạn trong lớp và các cô trong trường.
Hình thành kỹ năng giao tiếp cho trẻ không phải là dạy trẻ nói nhiều mà dạy trẻ
cách giao tiếp và ứng xử như thế nào cho đúng. Môi trường giao tiếp phải luôn an
toàn, thân thiện thì sẽ tạo cho trẻ sự yên tâm, hưng phấn khi tham gia vào các hoạt
động. Trong lớp việc xây dựng các góc chơi cũng rất quan trọng vì khi trẻ tham
gia vào các góc chơi cũng chính là lúc trẻ đang học cách giao tiếp với các bạn.
Tôi luôn chú ý tạo môi trường giao tiếp thật tốt để trẻ có cảm giác thật
thoải mái khi đến lớp và trẻ có nhu cầu giao tiếp bằng lời. Có nghĩa là trong tất
cả mọi hoạt động một ngày của trẻ ở lớp, tôi luôn dùng nhiều trò chơi, câu đố
để khích lệ trẻ tham gia, qua đó sẽ giúp trẻ tự tin hơn, cởi mở hơn trong giao

tiếp.
Ví dụ: Lớp tôi có cháu Quỳnh Như và cháu Mai Hạnh rất ít nói và ít tham
gia vào các hoạt động của lớp do cháu quá nhút nhát. Với những trẻ còn nhút
nhát, ít tham gia vào các hoạt động thì tôi thường xuyên gọi trẻ trả lời trong các
hoạt động và cho trẻ nhập vào các nhóm chơi như: Bán hàng, nấu ăn vì ở các
nhóm chơi này yêu cầu trẻ giao tiếp nhiều hơn.
Bầu không khí lớp học cũng ảnh hưởng tới sự giao tiếp của trẻ, khi trẻ
nhìn thấy cô cáu gắt thì trẻ sẽ có cảm giác sợ, không giám nói nữa. Vì vậy khi
lên lớp tôi luôn tạo cảm giác thoải mái cho trẻ để trẻ mạnh dạn giao tiếp. Lớp
tôi tuy vẫn còn một vài trẻ nói ngọng, và nói lắp do trẻ nói nhanh gây khó
khăn cho trẻ khi trẻ muốn giải thích một vấn đề nào đó. Lúc này tôi nhẹ nhàng
14


khuyến khích trẻ nói lại điều trẻ đang muốn nói, tôi không ngắt ngang lời trẻ
đang muốn nói vì như vậy là đang tỏ ra không tôn trọng ý trẻ.
Ví dụ: Khi trẻ chơi bán hàng thì trẻ phải biết cách bán như thế nào? Đây
là lúc trẻ đang học cách giao tiếp giữa người mua hàng và người bán hàng.
Tôi luôn chú ý tạo điều kiện cho trẻ nói lên ý kiến của mình, và dành thời
gian để lắng nghe trẻ nói, hiểu về những gì trẻ đang suy nghĩ và mong muốn.
Theo tôi trẻ sẽ không bao giờ nói lên ý kiến của mình khi người lớn không lắng
nghe trẻ nói, khi người khác chú ý lắng nghe trẻ thì trẻ sẽ thấy được giá trị của
bản thân. Nếu cô giáo không chú ý lắng nghe trẻ nói trẻ sẽ tin rằng chẳng có ai
nghe trẻ nói và dần dần trẻ ngại giao tiếp với mọi người xung quanh.
Môi trường giao tiếp trong lớp ảnh hưởng tới trẻ rất nhiều, là cô giáo chủ
nhiệm nên tôi luôn giao tiếp với trẻ trong tất cả mọi hoạt động và chú ý cách
nói của mình sao cho đúng mực vì trẻ học giao tiếp qua người khác rất nhanh.
Trẻ không chỉ học giao tiếp từ cô mà trẻ còn học giao tiếp từ các bạn của
trẻ. Vì vậy tôi luôn tạo điều kiện cho trẻ được giao tiếp giữa các trẻ với nhau
thông qua các hoạt động học cũng như hoạt động vui chơi. Trẻ càng được giao

tiếp với nhau nhiều thì trẻ càng được mở rộng vốn kiến thức và trẻ ngày một tự
tin hơn trong giao tiếp.
Ví dụ: Giờ hoạt động ngoài trời trẻ lớp tôi rất thích tham gia và tham gia
rất sôi nổi vì trẻ được chơi theo ý thích, có những nhóm trẻ thường rủ nhau
chơi xích đu và kể cho nhau nghe những câu chuyện trẻ biết, có nhiều trẻ thì lại
thích vẽ các hình theo ý tưởng của trẻ xuống nền sân trường. Lúc này tôi
thường quan sát xem các trẻ giao tiếp với nhau như thế nào và cách nói chuyện
của trẻ đã đúng chưa, nếu chưa đúng tôi nhẹ nhàng nhắc nhở trẻ để trẻ nhận ra
cách nói của mình là không đúng và tôi giúp trẻ sửa sai.

(Hình ảnh trẻ đang vẽ theo ý thích khi tham gia hoạt động)
Hay ở giờ văn học, đặc biệt là hoạt động kể chuyện tôi thường kể chuyện
cho trẻ nghe sau đó cho trẻ học cách kể lại chuyện. Khi trẻ đã thuộc câu chuyện
15


tôi lại hướng dẫn cho trẻ đóng kịch, lúc này trẻ rất thích vì mình được đóng các
nhân vật mà mình thích và trẻ sẽ bộc lộ khả năng giao tiếp của mình cho mọi
người thấy.
Ngoài ra tôi còn sử dụng các trò chơi dân gian để tạo môi trường giao tiếp
cho trẻ vì mỗi một trò chơi dân gian thường giúp trẻ thực hành 1-3 kỹ năng
sống.
Ví dụ: Trò chơi “ Chi chi chành chành” tập cho trẻ kỹ năng phát âm rõ
ràng, thân thiện với bạn, phối hợp vận động tinh khéo; trò chơi“Dung dăng
dung dẻ”tập cho trẻ kỹ năng phát âm rõ ràng, thân thiện, phối hợp vận động cơ
bản, hợp tác với bạn bè; trò chơi“Trốn tìm”tập cho trẻ kỹ năng phối hợp các
vận động cơ bản, lắng nghe, qua sát…Tôi luôn chú ý chọn những trò chơi dân
gian gần gũi và phổ biến ở địa phương, phù hợp với những kỹ năng sống mang
tính giáo dục để chơi cùng trẻ hoặc hướng dẫn trẻ chơi cùng nhau. Khi tổ chức
cho trẻ chơi tôi không quan trọng kết quả thắng thua mà chỉ nhắc nhở để trẻ

chơi đúng luật và quan trọng hơn cả là thông qua mỗi trò chơi giáo dục kỹ
năng sống cần thiết cho trẻ.

(Hình ảnh các bé đang chơi trò chơi "chi chi chành chành)
Như vậy, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ có thể tiến hành trong tất cả các
hoạt động giáo dục hàng ngày như: vui chơi, học tập, chăm sóc sức khỏe, lao
động vừa sức, lễ hội, tham quan… Mỗi hoạt động có những yếu thế riêng đối
với việc dạy những kỹ năng sống cần thiết với cuộc sống của trẻ. Để có được
những kỹ năng sống thì trẻ cần phải có thời gian, trong một quá trình tập luyện
thường xuyên với sự hỗ trợ của cô giáo, bạn bè và gia đình.
2.3.4. Biện pháp 4: Phối hợp với phụ huynh để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ:
Ngoài việc thực hiện các biện pháp giáo dục trên, tôi luôn ý thức được
tầm quan trọng của việc phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường vì gia đình là
trường học đầu tiên đối với trẻ. Mặt khác việc dạy kỹ năng sống cho trẻ không
phải là chuyện một sớm một chiều mà là cả một quá trình. Các kỹ năng sống
16


phải được giáo dục, rèn luyện một cách đồng nhất thì mới bền vững và thành
kỹ xảo. Nếu chỉ dạy kỹ năng sống cho trẻ ở trường thôi thì chưa đủ. Bên cạnh
đó, môi trường gia đình rất thích hợp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ
được tiếp thu các kỹ năng thông qua gia đình một cách tự nhiên, nhẹ nhàng mà
lại hiệu quả cao. Đặc biệt trong thời buổi hiện nay nuôi dạy con luôn là mối
quan tâm hàng đầu của các bậc phụ huynh, ai cũng muốn con mình đạt được
những thành tích cao trong học tập cũng như trưởng thành hơn về mặt nhân
cách. Tuy nhiên việc làm thế nào để có thể giúp trẻ phát huy được khả năng
tiềm ẩn? Làm thế nào để trẻ có những kỹ năng sống tốt nhất thì nhiều phụ
huynh vẫn còn lúng túng trong vấn đề này. Giáo viên là người được trang bị
những tri thức khoa học về nuôi dạy trẻ, là người gần gũi trẻ trong suốt cả ngày
nên đã phát hiện ra những nét đẹp hay những hành vi chưa tốt của mỗi trẻ và

có khả năng tìm ra các biện pháp giáo dục, các cách giải quyết phù hợp với quy
luật phát triển tâm sinh lý của trẻ. Chính vì vậy mà tôi phải tuyên truyền đến
các bậc phụ huynh để họ hiểu tầm quan trọng của kỹ năng sống, những kiến
thức cần dạy trẻ, phương pháp dạy trẻ như thế nào để trẻ tiếp thu một cách
thoải mái, tự nhiên. Thông qua bảng tuyên truyền, hay ở những giờ đón trả trẻ
tôi thường trò chuyện với các bậc phụ huynh về các cách giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ, ngoài ra tôi còn mời phụ huynh tham quan hoặc tham gia trực tiếp
vào các hoạt động của lớp hay thông qua các buổi họp phụ huynh trò chuyện,
trao đổi nhằm giúp phụ huynh có thêm những kiến thức để giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ tại gia đình. Cụ thể:
Ở hoạt động đón trẻ, tôi đã trao đổi với phụ huynh về tình hình sức khoẻ,
vệ sinh cá nhân, những kỹ năng trẻ đang có để cùng phụ huynh có những biện
pháp giáo dục trẻ, giúp trẻ chủ động trong các hoạt động.

(Hình ảnh cô đang trao đổi với phụ huynh)
17


Ví dụ : Ở lớp tôi có cháu Anh Quân, thời gian đầu đi học cháu không thể
tự mình mặc áo, không biết mặc quần kể cả quần đùi. Thông qua trao đổi với
bà của cháu, tôi biết cháu là con trong một gia đình có điều kiện. Bố mẹ cháu
đi làm ăn xa, cháu ở nhà với ông bà nội vì quá yêu thương và nuông chiều
cháu, làm thay hết mọi việc cho cháu nhưng không biết rằng điều đó vô tình
dẫn đến việc cháu không biết cách tự phục vụ bản thân, làm cháu bị thiếu hụt
đi những kỹ năng sống cơ bản. Tôi có trao đổi với bà của cháu rằng để cháu tập
làm mọi thứ bắt đầu từ chỗ chọn việc dễ nhất để cháu làm. Ví dụ buổi sáng
chuẩn bị đến trường, bà có thể để cháu tự mặc quần áo chọn cho cháu những
loại quần áo dễ mặc để cháu tự mặc và động viên: Cháu của bà có thể tự mặc
được đúng không! Sau khi cháu làm được, bà nên khen cháu một vài câu để
tăng tính tự tin cho cháu chẳng hạn như: Cháu của bà giỏi quá…. Từ đó cháu

dần tự tin và thích tự làm mọi việc.
Thông qua bảng tuyên truyền với phụ huynh: Bảng được trang trí đẹp
mắt, kích thước to rõ, các phụ huynh có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng.
Đây là nơi trao đổi thông tin với phụ huynh rất hiệu quả. Theo từng chủ đề tôi
đã đánh máy nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mà cô đang dạy trẻ ở trên
lớp để phụ huynh tiện theo dõi.
Ví dụ : Ở chủ đề giao thông tôi ghi nội dung lồng ghép giáo dục kỹ năng
sống cho trẻ như sau:
Kỹ năng giáo tiếp: Giao tiếp với bạn bè, với cô, với các chú công an giao
thông…
Kỹ năng tuân thủ luật giao thông đường bộ: Đi bên tay phải, khi đi ra
đường phải có người lớn dắt, khi ngồi trên xe máy phải đội mũ bảo hiểm….
Kỹ năng hợp tác: Trẻ biết chơi cùng bạn, chia sẻ đồ chơi với bạn, giúp đỡ bạn
khi cần thiết, cùng bạn hoàn thành việc đơn giản, tìm sự giúp đỡ của bạn khi cần…
Ngoài ra tôi còn mời các bậc phụ huynh tham ra trực tiếp vào việc tổ chức
bữa ăn trưa cho trẻ. Có rất nhiều phụ huynh đã không khỏi ngỡ ngàng vì khả
năng tự lập của con mình trên lớp.
Thông qua các buổi họp phụ huynh, tôi cũng đã chủ động lồng ghép nội
dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đến các bậc phụ huynh. Các phụ huynh đã
tiếp nhận thông tin một cách đồng bộ.
Những biện pháp trên đã làm thay đổi cơ bản từ phía phụ huynh: Cha mẹ
luôn coi trọng trẻ và tích cực phối hợp với giáo viên để dạy kỹ năng sống cho
trẻ. Đặc biệt là giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số phụ huynh dịu
dàng, ít quát mắng trẻ, chú ý đến lời ăn tiếng nói, thay đổi trong cách rèn kỹ
năng sống cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cưng chiều trẻ một cách thái quá.
Ngoài các biện pháp chính nêu trên để có được kết quả tốt thì tôi còn sử
dụng các biện pháp khác hổ trợ như: Hướng dẫn trẻ cách hợp tác với các bạn
trong nhóm để rèn kỹ năng sống; giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ ở mọi lúc,
mọi nơi; Chú ý đánh giá kỹ năng sống cho trẻ thường xuyên…
2.4. Hiệu quả của sáng kiến

Sau một năm thực hiện các biện pháp trên, cùng với sự ủng hộ và giúp đỡ
nhiệt tình của phụ huynh, nhà trường, các bạn đồng nghiệp và đặc biệt là sự cố
18


gắng của trẻ lớp tôi kết quả giáo dục kĩ năng sống cho trẻ đã có những chuyển
biến rõ rệt. Kết quả khảo sát lần 2 thu được như sau:
Tổng
Kết quả
số
Đạt
Chưa đạt
Lĩnh vực khảo sát
trẻ
Số
Tỉ lệ % Số Tỉ lệ %
trẻ
trẻ
1. Kỹ năng giao tiếp lịch sự lễ phép.
30
28
93,3
2
6,7
2. Kỹ năng phục vụ chăm sóc bản
30
29
97
1
3

thân.
3. Kỹ năng tuân thủ quy tắc xã hội.
30
27
90
3
10
4. Kỹ năng hợp tác.
30
27
90
3
10
5. Kỹ năng ứng xử phù hợp với
30
29
97
1
3
người xung quanh.
Kết quả khảo sát trên cho thấy, tỉ lệ trẻ có kỹ năng sống ở mức đạt tăng
lên nhanh chóng từ 64,5% lên 93,5%, tăng thêm 29% so với đầu năm học. Trẻ
đã có được những kỹ năng tương đối bền vững. Đáng mừng là tỉ lệ trẻ ở mức
chưa đạt giảm xuống dưới 10%. Kết quả này đã chứng minh ưu điểm của việc
thực hiện có hiệu quả các biện pháp trên. Trẻ lớp tôi đã có được những kỹ năng
sống cơ bản, cần thiết của lứa tuổi này. Đồng thời cũng lĩnh hội được những kỹ
năng kỹ xảo, thói quen hành vi, nếp sống văn hoá, làm nền tảng cho việc phát
triển nhân cách trẻ toàn diện, bền vững, có khả năng thích ứng với mọi biến
động của xã hội, biết tự khẳng định mình trong xã hội. Góp phần làm cho xã
hội ngày càng phát triển vững mạnh.

Về phía phụ huynh,sự chuyển biến tích cực từ phía trẻ đã làm cho phụ
huynh cảm thấy vui mừng, phấn khởi,tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà
trường. Các bậc phụ huynh đã có thói quen phối hợp với giáo viên,tích cực
tham ra các hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trường.
Bản thân, qua việc tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi
cũng có điều kiện để rèn luyện các kỹ năng sống của mình,có một số kinh
nghiệm và tự tin hơn khi tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ trong đó có
hoạt động giáo dục kỹ năng sống.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
- Kết luận:
Từ những việc làm cụ thể và kết quả đạt được tôi đã rút ra được một số
kinh nghiệm sau:
Bản thân tôi luôn khích lệ trẻ trong mọi hoạt động để giúp trẻ tự tin vào
chính mình.
Người lớn, cô giáo phải là tấm gương soi cho trẻ và luôn tôn trọng, yêu
thương trẻ.
Cô cần tạo điều kiện cho trẻ vừa học, vừa chơi, không nên áp đặt mọi thứ
trong một khuôn khổ nhất định, không ép trẻ học qúa nhiều gây áp lực cho trẻ.
Người lớn, cô giáo không nên quát mắng trẻ mà hãy kiên trì, quan tâm,
động viên cho trẻ làm được việc đó, tạo sự tin tưởng để trẻ cố gắng lần sau.
19


Cô cần phối kết hợp với phụ huynh để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Cô cần tạo môi trường, tạo cơ hội để trẻ được trải nghiệm,giúp trẻ có
thêm kỹ năng sống tốt.
- Kiến nghị:
Trong quá trình giảng dạy, tôi có một số ý kiến đề xuất như sau:
Đối với nhà trường: Cần làm tốt hơn nữa công tác tham mưu với chính
quyền địa phương, tăng cường về cơ sở vật chất để tạo điều kiện cho việc tổ

chức các hoạt động rèn kỹ năng sống cho trẻ được tốt hơn.
Đối với phòng giáo dục: Mở các lớp bồi dưỡng về phương pháp giáo dục
kỹ năng sống cho giáo viên. Tổ chức các tiết dạy mẫu nhằm tạo điều kiện cho
giáo viên được học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp.
Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi đã triển khai thực hiện. Rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, chị em đồng nghiệp để đề
tài này ngày một hoàn thiện hơn, thực hiện tốt hơn trong những năm học tiếp
theo.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép của người
khác.
Như Thanh, ngày 17 tháng 3 năm 2017
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
Người viết sáng kiến

Nguyễn Thị Hiền

Vũ Thùy Lan

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tham khảo tài liệu trên internet
2.Tài liệu Bồi dưỡng giáo viên mầm non –Bộ GD-&ĐT.
3.Tâm lí học trẻ em.
4.Chăm sóc giáo dục mẫu giáo và hướng dẫn thực hiện 3-4 tuổi,4-5 tuổi.5-6
tuổi nhà xuất bản giáo dục

5.Trang web hỗ trợ giảng dạy và chăm sóc trẻ em www.mamnon.com

21



×