Tải bản đầy đủ (.docx) (81 trang)

Xây dựng hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống giao tiếp cho sinh viên sư phạm kỹ thuật công nghiệp ,trường ĐHSP kỹ thuật hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (567.42 KB, 81 trang )

MỤC LỤC
2.3.1.
2.3.2.

Sự khác nhau về mức độ cởi mở cá nhân giữa sinh viên nam và sinh viên nữ

1.

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giao tiếp là đặc trưng quan trọng nhất trong hành vi của con người, nó không
những là điều kiện quan trọng bậc nhất của sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức,
nhân cách mà còn giúp cho con người đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả
trong mọi lĩnh vực hoạt động.
Đối với nghề dạy học, giao tiếp khơng những có vai ừị quan trọng ừong sự
nghiệp hình thành và phát triển nhân cách giáo viên mà còn là bộ phận cấu thành hoạt
động sư phạm, là thành phần chủ đạo trong cấu trúc năng lực sư phạm của người giáo
viên. Giao tiếp là phương thức, công cụ cơ bản nhất để tổ chức hoạt động dạy và học.
Nếu khơng có giao tiếp thì khơng thể hướng hoạt động sư phạm của thầy và ừị vào
việc đạt được mục đích giáo dục. Do đó, vấn đề đặt ra đối với nhiệm vụ đào tạo nghề
sư phạm là mỗi sinh viên phải được chuẩn bị và chủ động chuẩn bị cho mình về năng
lực giao tiếp.
Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên là một trong những nơi đào tạo nghề cho
những nhà giáo tương lai phục vụ công tác xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu
của xã hội. Hành trang của sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Hưng Yên ngoài tư cách,
phẩm chất, đạo đức, nhiệt huyết với sự nghiệp ừồng người cịn phải vững mạnh về
chun mơn và giỏi về nghiệp vụ sư phạm, ừong đó có năng lực giao tiếp. Vì vậy, việc
rèn luyện năng lực giao tiếp mà cụ thể là kỹ năng giải quyết tình huống giao tiếp cho
sinh viên sư phạm là vấn đề thiết yếu.
Khoa Sư phạm Kỹ thuật của Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên là nơi đào tạo
đội ngũ giáo viên Kỹ thuật công nghiệp cho các trường THPT. Với đặc điểm công việc


giảng dạy ưên đối tượng là những học sinh đang độ tuổi phát triển mạnh về nhận thức
cũng như tâm sinh lý nên kỹ năng giao tiếp lại càng là vấn đề cấp thiết đối với mỗi
sinh viên của khoa. Trên thực tế địa điểm của trường đặt tại vùng nông thôn nên môi
trường giao tiếp của sinh viên ừong khoa cũng như ữong trường đã bị hạn chế đi rất
nhiều, bên cạnh đó là vấn đề về sự chênh lệch giới, về thái độ giao tiếp của từng sinh
viên,... cũng làm ảnh hưởng khơng ít đến kỹ năng giao tiếp.


Để khắc phục những khó khăn ấy và rèn luyện kỹ năng giao tiếp cho sinh viên Khoa Sư phạm
Kỹ thuật thì một hệ thống bài tập tình huống giao tiếp là vơ cùng cần thiết . Vì vậy, tơi mạnh dạn chọn
đề tài : “Xây dựng hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống giao tiếp cho
sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp ,Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên”. Với hy vọng góp phần
nhỏ bé nhằm rèn luyện kỹ năng giải quyết vấn đề, nâng cao khả năng giao tiếp cho các bạn sinh viên
ừong khoa - những nhà giáo ưu tú tương lai.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giao tiếp là một phần không thể thiếu của con người, đặc biệt là sinh viên nói chung và sinh viên
Sư phạm nói riêng - Những nhà giáo dục tương lai của đất nước.
Hiện nay, giao tiếp hay cụ thể hơn là kỹ năng giao tiếp ngày càng ừở nên quan ữọng hơn bao giờ
hết ừong thời đại xã hội ngày càng văn minh. Kỹ năng giao tiếp có tốt hay khơng thế hiện rõ nét nhất
ừong cách ứng xử, giải quyết tình huống giao tiếp diễn ra hàng ngày xung quanh mỗi chúng ta.
Thực tế đã có rất nhiều người nghiên cứu các vấn đề liên quan đến kỹ năng giải quyết tình huống
ừong giao tiếp, có thế kể đến như Nhà giáo ưu tú Trần Trọng Thuỷ (Trong cuốn “Bài tập thực hành tâm
lý”), Ths Nguyễn Đình Chắt (với đề tài Thạc sĩ “Kỹ năng giải quyết tình huống sư phạm của sinh viên
trường CĐSP Đà Lạt - Lâm Đồng), Ths Lê Quang Sơn (với bài viết “Đặc điểm giao tiếp của sinh viên
Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị” ừên Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ, Đại học Đà Nang - số 2
(25).2008),... Tuy nhiên, việc xây dựng một hệ thống các bài tập tình huống giao tiếp nói chung cho
sinh viên Sư phạm để nâng cao kỹ năng giao tiếp ữên nhiều mặt vẫn cịn ít được chú ý. Việc nghiên cứu
của các tác giả hầu hết ừên những tình huống giao tiếp sư phạm và ứng xử sư phạm.
Vì vậy, tơi thấy cần thiết phải đi sâu vào nghiên cứu nội dung này với hy vọng xây dựng được
một hệ thống các tình huống giao tiếp điển hình ừên nhiều mặt để nâng cao một cách hiệu quả kỹ năng

giao tiếp cho sinh viên Sư phạm Kỹ thuật công nghiệp - Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên.
3.

Mục đích nghiên cứu
Xây dựng được một hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống ừong

giao tiếp cho sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp - Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên
4.

Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
4.1.Đối tượng nghiên cứu
Xây dựng hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống giao tiếp.
4.2.Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp luyện tập giải quyết tình huống giao tiếp.

5.

Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1.Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài
5.2.Tìm hiểu nhu cầu giao tiếp, thực trạng kỹ

2

năng giao tiếpvà giải quyết tình

huống giao tiếp của sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công

nghiệp- Trường ĐHSP



Kỹ thuật Hưng Yên.
5.3.Xây dựng hệ thống bài tập thực hành để luyện tập kỹ năng giải quyết tình huống giao tiếp
cho sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp - Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên
6.

Phạm vi nghiên cứu
Do hạn chế về thời gian, những tình huống giao tiếp nói chung là vơ hạn nên ữong phạm vi đề tài

của mình tơi chỉ xây dựng những bài tập tình huống điển hình, phù hợp với nhu cầu giao tiếp của sinh
viên Khoa Sư phạm Kỹ thuật cũng như phù hợp với những kỹ năng thiết yếu trong giao tiếp.
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1.Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp này được dừng trong suốt quá trình thực hiện, nghiên cứu đề tài, từ việc xây dựng
đề cương nghiên cứu vấn đề đến việc xác định cơ sở lý luận của giao tiếp và xây dựng hệ thống
bài tập tình huống, số lượng tài liệu tham khảo là ưên 10 sách và tư liệu có liên quan (xem phần
Tài liệu tham khảo)
7.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp lý thuyết
Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu lý thuyết về giao tiếp để xây dựng những bài tập tình
huống phù hợp nhất.
7.3. Phương pháp điều ữa bằng phiếu
Phiếu điều ữa đảm bảo tính khách quan, tổng hợp, gồm 95 câu hỏi về 4 lĩnh vực là: Nhu cầu giao
tiếp, nội dung giao tiếp, mức độ cởi mở của cá nhân và kỹ năng giao tiếp, yêu cầu sinh viên chọn
ý kiến phù hợp với mình. Từ đó dựa vào barem điểm, cho điểm các phiểu điều ưa.
Phiếu điều ữa được phát ra hơn 200 phiếu ữên hơn 200 đối tượng là sinh viên các lớp: KTK3,
KTK4.2, KTK5.1, KTK5.2, KTK6.1, KTK6.2, KTK7, KTK39, KTK6LC. Tổng số phiếu thu
được là 200 phiếu.
7.4. Phương pháp quan sát
Qua quan sát những biểu hiện trong các mặt hoạt động để tìm hiểu thực trạng nhu cầu giao tiếp
và kỹ năng giao tiếp của sinh viên.
7.5. Phương pháp ừao đổi, ữò chuyện

Qua ừao đổi ữị chuyện với sinh viên, với cán bộ Đồn, cán bộ lớp để tìm hiểu tâm tư, nguyện
vọng của sinh viên, thái độ của họ trong khi ừả lời các phiếu điều ữa, từ đó phát hiện ra yếu tố
ảnh hưởng tới nhu cầu giao tiếp và kỹ năng giao tiếp.
7.6.

Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
3 thực
Nhóm phương pháp này được thực hiện ừong việc đưa ra các nhận định, luận cứ có tính

tiễn, có độ tin cậy cao ừong phần tìm hiểu thực ừạng kỹ năng giao tiếp của sinh viên Khoa Sư
phạm Kỹ thuật, nêu ra những nguyên nhân hạn chế của việc giao tiếp và xử lý tình huống giao
tiếp, tổng kết rút kinh nghiệm từ nhiều chuyên gia về kỹ năng giao tiếp.


Ngồi ra, cịn sử dụng các phương pháp logic, tốn học thống kê,...
ữong việc lập bảng và phân tích số liệu,...
CHƯƠNG1
TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ GIAO TIẾP VÀ KỸ NĂNG GIẢI QUYẾT TÌNH
HUỐNG TRONG GIAO TIẾP
1.1. Khái niệm chung
1.1.1.

Khái niệm giao tiếp
Giao tiếp là một hoạt động rất phong phú, đa dạng và phức tạp của con người. Nên khái niệm

giao tiếp được giải thích cũng rất đa dạng và có nhiều bàn cãi ừong lĩnh vực này.
nhận thơng tin ừao đổi giữa người với người.
T.Chuc Com (Mỹ): Giao tiếp là sự tác động qua lại trực tiếp lên nhân cách dẫn đến việc hình
thành những ý nghĩa biểu tượng, chuẩn mực và mục đích hành động. Quan niệm này cụ thể hơn, đề cập
đến các yếu tố tham gia ừong giao tiếp nhưng chưa nêu được bản chất của giao tiếp.

T.Stéc Sen (Pháp) đặc biệt chú ý đến sự thay đổi ý nghĩa, tình cảm và xúc cảm giữa con người
với con người và khi đó ơng coi sự ữao đổi này là quá trình hai mặt của sự thông báo thiết lập, sự tiếp
xúc và trao đổi thông tin.
L.X. Vưgôtxki (nhà tâm lý học Liên Xô) cho rằng: Giao tiếp xem như là sự thông báo hoặc quan
hệ qua lại thuần tuý giữa con người, như là sự ữao đổi quan điểm và xúc cảm (L.X.Vưgôtxki).
Ngày nay, cùng với việc xây dựng một cách tích cực và khoa học hệ phương pháp nghiên cứu
giao tiếp thì bản chất, hiện tượng giao tiếp cũng được lý giải ngày càng đầy đủ và rõ ràng. Ở một khái
niệm chung nhất chúng ta có thể hiểu: Giao tiếp là sự tác động qua lại giữa con người với con người,
mà trong quả trình của nỏ nảy sinh sự tiếp xúc tầm lý, được thể hiện ở sự trao đổi thông tin, sự ảnh
hưởng lẫn nhau, sự rung cảm lẫn nhau, sự hiểu biết lẫn nhau, và cuối cùng là những quan hệ qua lại
giữa con người với con người được thực hiện, được thể hiện và được hình thành.
1.1.2.

Vai trị của giao tiếp
Ngày nay, giao tiếp trở thành vấn đề rộng lớn, có ý nghĩa quan trọng trong khoa học và cuộc

sống.
Người ta khơng thể nghiên cứu con người với tính cách là đơn vị độc lập, không phụ thuộc vào
môi trường xã hội xung quanh vì: “Bản chất con người khơng phải là trừu tượng vốn có của một cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà của tất cả những mối quan
hệ xã hội”
Cơ sở của quan hệ phụ thuộc lẫn nhau là những nhu cầu của con người biểu thị mối liên hệ của
con người với những người khác cũng như với những đối tượng và những hồn cảnh có ý nghĩa quan
4 tất cả
ữọng sống còn đối với họ và quy định vị trí cá nhân ữong mơi trường xã hội. Nói cho thật đúng thì

những nhu cầu của một người riêng lẻ đều chỉ có thể thoả mãn khi tính đến những nhu cầu của những
người xung quanh. Đồng thời cơ cấu nhu cầu càng phức tạp thì quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa người



này với người khác càng tăng. Chẳng hạn chúng ta khó mà tưởng tượng là nhu cầu muốn được người
khác tơn ữọng lại có thể thoả mãn ngồi mối liên hệ với những người xung quanh.
Giao tiếp là điều kiện quan trọng nhất của sự hình thành bản thân con người như là con người xã
hội, đồng thời là điều kiện tất yếu của sự tồn tại con người. Chính vì vậy mà nhiều nhà bác học thuộc
lĩnh vực tâm lý học cũng quan tâm đến vấn đề giao tiếp. Chẳng hạn nhà bác học Đức R.Noibe đã nói:
“Con người là nhu cầu quan ữọng của con người, con người sẽ bị mất mát nhiều nếu họ không thể so
sánh được mình với người khác, khơng thể ữao đổi được với người khác về các ý nghĩ, không thể định
hướng được vào người khác. Căm thù người khác còn tốt hơn là phải sống cơ đơn”
Hơn nữa, trong q trình giao tiếp với nhau, người ta ừao đổi quan niệm với nhau. Trong quan niệm của
họ thể hiện thái độ đánh giá về mặt trí tuệ của họ đối với những mặt khác nhau của đời sống thực tế, của
đời sống vật chất và tinh thần. Những quan niệm này có thể giống nhau và như thế thì củng cố lẫn nhau
và ừở thành cơ sở cho hoạt động chung và cho cách xử sự (giống nhau) của những người ấy. Những
quan niệm giống nhau sẽ cửng cố thái độ đạo đức nảy sinh một cách tự phát. Còn trong trường hợp có
những quan niệm khác nhau thì sẽ nảy ra sự đấu tranh quan niệm dẫn đến việc hình thành quan điểm
chung.
Trong quá trình giao tiếp người ta cũng trao đổi kiến thức cho nhau và chính như thế là nâng cao
trình độ văn hố chung của tập thể cũng như của mỗi thành viên ữong đó. Điều quan ữọng không phải
là bản thân các kiến thức được truyền đạt lại mà là thái độ tích cực đối với các kiến thức đó. Điều đó
giải thích tại sao lại có sự lựa chọn thiên lệch đối với một số nghề nghiệp, sách báo phổ biến, khoa học,
tác phẩm nghệ thuật nào đó - Do ảnh hưởng của chứng mà hình thành một cái mà ta có thể gọi là “mốt”
trong nhận thức thẩm mỹ. Và trong quá trình giao tiếp người ta cũng ữao đổi cho nhau các kinh nghiệm
riêng về cuộc sống và lao động, tác động vào ý chí và tình cảm của nhau nhằm mục đích tạo nên sự
thống nhất rộng lớn để giải quyết các vấn đề xã hội một cách có kết quả.
Có thể nói rằng con người hiểu biết mình và nhận thức mình như là một nhân cách qua quá trình
giao tiếp. Nhận thức được sức mạnh tinh thần và thể lực của mình ữong sự thống nhất với người khác.
Từ đó, có được tình đồng chí, bè bạn và sự giúp đỡ lẫn nhau, lịng tin tưởng ở chính mình, thủ tiêu sự cơ
lập. Đặc biệt qua q trình giao tiếp, con người có được ấn tượng mới và thơng tin mới, truyền thụ cho
nhau những kinh nghiệm xã hội và kinh nghiệm sống, tạo nên sự phong phú thực sự về mặt tinh thần
của mỗi cá nhân.
1.1.3. Chức năng của giao tiếp

I.I.3.I.

Chức năng xã hội
Trong nhóm chức năng xã hội, trước hết chúng ta phải nhắc đến chức năng thông tin của giao
5

tiếp. Chức năng thông tin được biểu hiện ở khía cạnh truyền thơng (trao đổi thơng tin) của giao tiếp:
Qua giao tiếp, con người ữao đổi cho nhau những thông tin nhất định. Những thông tin này sẽ có ý
nghĩa về nhiều mặt như kiến thức, tâm lý, cảm xúc. Sự thiếu thông tin sẽ làm cho con người cảm thấy
lạc lõng và cơ đơn, mất đi tính cộng đồng vốn có.


Trong xã hội, con người luôn hoạt động trong một hay nhiều tổ chức nhất định. Đó có thể là gia
đình,lớp học, trường học, cơng ty,... Và trong một tổ chức, một công việc thường do nhiều bộ phận,
nhiều người cùng thực hiện. Để có thể hồn thành cơng việc một cách tốt đẹp, những bộ phận, những
con người này phải thống nhất với nhau, tức là phối hợp với nhau một cách nhịp nhàng. Muốn vậy họ
phải tiếp xúc với nhau để ữao đổi, bàn bạc, phân công nhiệm vụ cho từng bộ phận, từng người, phổ biến
quy trình, cách thức thực hiện cơng việc và ừong q trình thực hiện cũng phải có những “tín hiệu” để
mọi ngươi hành động một cách thống nhất. Đây chính là chức năng tổ chức phối hợp hành động của
giao tiếp.
Chức năng điều khiển được thể hiện ở khía cạnh tác động ảnh hưởng qua lại của giao tiếp. Trong
giao tiếp, chúng ta ảnh hưởng, tác động đến người khác và ngược lại, người khác cũng tác động, ảnh
hưởng đến chúng ta bằng nhiều hình thức khác nhau như: Thuyết phục, ám thị, bắt chước. Đây là một
chức năng rất quan ữọng của giao tiếp.
Trong xã hội, mỗi con người là một chiếc gương. Giao tiếp với họ chính là chúng ta soi mình
trong chiếc gương đó. Từ đó chúng ta thấy được những ưu điểm, những thiếu sót của mình và tự sửa
chữa, hồn thiện bản thân. Chức năng phê bình và tự phê bình này có ý nghĩa quan ữọng trong việc phát
triển toàn diện của con người, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới hiện nay của xã hội.
I.I.3.2.


Chức năng tâm lý

Bên cạnh nhóm chức năng xã hội, giao tiếp còn mang những chức năng tâm lý nhất định.
Chức năng động viên khích lệ của giao tiếp liên quan đến lĩnh vực cảm xúc ữong đời sống tâm lý
của con người. Trong giao tiếp, con người còn khơi gợi ở nhau những cảm xúc, tình cảm nhất định;
chúng kích thích hành động của họ. Một lời khen chân tình được đưa ra kịp thời, một sự quan tâm được
thể hiện đứng lúc có thể làm người khác tự tin, cảm thấy phải cố gắng làm việc tốt hơn.
Giao tiếp khơng chỉ là hình thức biểu hiện mối quan hệ giữa con người với con người, mà còn là
cách thức để con người thiết lập các mối quan hệ mới, phát triển và củng cố các mối quan hệ đã có. Tiếp
xúc, gặp gỡ nhau - Đó là khởi đầu của các mối quan hệ. Nhưng các mối quan hệ này có tiếp tục phát
triển hay khơng, có ữở nên bền chặt hay không, điều này phụ thuộc nhiều vào q trình giao tiếp sau đó.
Trong cuộc sống, nhiều khi chứng ta có những cảm xúc cần được bộc lộ. Những niềm vui hay
nỗi buồn, sung sướng hay đau khổ, lạc quan hay bi quan,... chứng ta muốn được người khác cùng chia
sẻ. Chỉ có trong giao tiếp chúng ta mới tìm được sự đồng cảm, cảm thơng và giải tỏa được cảm xúc của
mình.
Trong quá trình tiếp xúc với những người xung quanh, chúng ta nhận thức được các chuẩn mực
đạo đức, thẩm mỹ, pháp luật tồn tại trong xã hội, tức là những nguyên tắc ứng xử: Chúng ta biết được
6
cái gì tốt, cái gì xấu; cái gì đẹp, cái gì khơng đẹp; cái gì nên làm, cái gì cần làm, cái gì khơng được
làm

và từ đó mà thể hiện thái độ, hành động cho phù hợp. Những phẩm chất như khiêm tốn hay tự phụ, lễ
phép hay hỗn láo, ý thức nghĩa vụ, tôn ữọng hay khơng tơn ữọng người khác,... Đó chính là q trình
hình thành, phát triển tâm lý, nhân cách của mỗi chúng ta.


Như vậy giao tiếp có nhiều chức năng quan ữọng. Trong cuộc sống của mỗi chúng ta, khi các
quan hệ giao tiếp cơ bản không thực hiện được đầy đủ các chức năng này thì điều đó khơng những sẽ
ảnh hưởng tiêu cực đến cuộc sống và hoạt động, mà còn để lại những dấu ấn tiêu cực ữong sự phát triển
tâm lý nhân cách của mỗi chúng ta.

1.2.

Các phương tiện giao tiếp
Trong quá trình giao tiếp chúng ta phải sử dụng những phương tiện giao tiếp khác nhau. Phương

tiện giao tiếp là tất cả những yếu tố mà chúng ta dùng để thể hiện thái độ, tình cảm, mối quan hệ và
những tâm lý khác của mình trong một cuộc giao tiếp.
Phương tiện giao tiếp hết sức phong phú và đa dạng nhưng chứng ta có thể chia chúng thành hai
nhóm chính: Ngơn ngữ và phi ngơn ngữ. Giao tiếp ngơn ngữ và giao tiếp phi ngơn ngữ ít khi tách rời
nhau, mà thường bổ sung cho nhau. Trong các mối quan hệ tương đối gần gũi, thân thiết, giao tiếp phi
ngơn ngữ chiếm ưu thế hom, cịn ữong các mối quan hệ ít nhiều có tính chất xã giao thì nó làm nền cho
giao tiếp ngơn ngữ.
1.2.1. Phương tiện giao tiếp ngôn ngữ
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp chủ yếu của con người. Bằng ngôn ngữ, con người có thể
truyền đi bất cứ một thơng tin nào, như diễn tả tình cảm, ám chỉ, miêu tả sự vật... Ở phương tiện này, sự
giao tiếp thường dựa vào những yếu tố sau đây:
- Nội dung ngôn ngữ:
Tức là ý nghĩa của lời nói, của từ. Ở đây chúng ta cần lưu ý đến vai ưò của ý cá nhân của ngôn
ngữ ữong giao tiếp. Một từ hay một tập hợp từ đều có một hay vài ý nghĩa nhất định. Ý nghĩa của ngơn
ngữ có hai hình thức tồn tại: Khách quan và chủ quan. Khách quan bởi nó khơng phụ thuộc vào sở
thích, ý muốn của một cá nhân nào. Chẳng hạn, không ai dùng từ “cái túi” để chỉ “cái cây” và ngược lại.
Tính chủ quan thể hiện ở chỗ, có những từ vơ thưởng vơ phạt, nhưng trong qua trình sử dụng gây ra
những phản ứng, những cảm xúc tích cực hay tiêu cực nào đó. Đây chính là ý cá nhân của ngơn ngữ. Ví
dụ: từ “ma t” đối với người nghiện hút thì không gợi lên cảm giác tiêu cực như ở những người bình
thường.
Ngay trong một nhóm người, đơi khi cũng có những quy định riêng cho một số tập hợp từ. Tiếng
“lóng” là một ví dụ. Mỗi cá nhân, mỗi nhóm người từ cộng đồng địa phương đến đẳng cấp dân tộc đều
có những sắc thái riêng trong cách sử dụng ngôn ngữ. Hiểu được ý cá nhân là cơ sở tạo nên sự đồng
điệu ữong giao tiếp, còn được gọi là sự đồng cảm.
-


Tính chất của ngơn ngữ:
Trong giao tiếp, tính chất của ngơn ngữ như nhịp điệu, âm điệu, ngữ điệu... cũng đóng vai ưị
7

quan ữọng. Có người ữơng vẻ ngồi hình thức khá hồn hảo khiến mọi người thích thú, nhưng khi họ
thốt ra những tiếng chát chúa hay the thé làm cho ta cảm thấy thất vọng ngay. Cũng có người nhờ tiếng


nói ấm áp, dịu dàng, quyến rũ làm cho người nghe cảm tình ngay, mặc dù dung mạo khơng lấy gì làm
khả ái.
Trong khi nói, chứng ta cần chú ý tới giọng điệu, ngữ điệu. Lời nói có được rõ ràng, khúc triết
hay không, phụ thuộc nhiều vào cách nhấn giọng. Nhờ cách nhấn giọng người nói có thể làm cho người
nghe chú ý đến những lời nói của mình. Muốn nhấn giọng cho đúng phải hiểu rõ mình nói những gì và
suy nghĩ, đắn đo từng lịi một. Biết nhấn mạnh những lời quan ữọng và để những lời nói phụ lướt nhẹ
đi.
Hai yếu tố khác có thể thay đổi ý nghĩa của lời nói là cách uốn giọng và ngữ điệu. Trong lúc nói
phải có lúc lên giọng, xuống giọng, lúc nhặt, lúc khoan, lúc nói nhẹ, lúc gằn từng tiếng thì lời nói mới
nổi bật lên. Trước và sau khi nói ra những lời quan trọng phải ngừng một lúc, để cho người nghe chú ý.
-

Điệu bộ khi nói
Điệu bộ là những cử chỉ của tay chân và vẻ mặt. Có khi vừa nói vừa chỉ, vừa nói vừa nhìn chằm

chằm, vừa nói vừa liếc, vừa nói vừa vuốt ve, âu yếm,... Thường điệu bộ phụ hoạ theo lời nói để giúp
thêm ý nghĩa cho nó. Tuy nhiên, việc sử dụng điệu bộ khi nói cũng phải phù hợp với phong tục, tập
quán, nền văn hoá. Những cử chỉ, điệu bộ tự nhiên là đáng yêu nhất, đừng gị ép mình bằng cách bắt
chước điệu bộ của người này hay người khác.
1.2.2. Phương tiện giao tiếp phỉ ngôn ngữ
Trong giao tiếp, chỉ một tỷ lệ những điều hiểu nhau mà chúng ta có được là nhờ nghe qua lời nói.

Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, trong giao tiếp tác động của từ ngữ chỉ chiếm từ 30% - 40% , phần còn
lại là do cách diễn đạt bằng cơ thể, hoặc giao tiếp không lời qua vẻ mặt, động tác, dáng điệu và các tín
hiệu khác. Việc nghiên cứu phương tiện phi ngôn ngữ là hết sức quan trọng, giúp chúng ta ừở nên nhạy
cảm hơn ừong giao tiếp.
-

Nét mặt:
Trong giao tiếp nét mặt biểu lộ thái độ, cảm xúc của con người. Các cơng trình nghiên cứu thống

nhất rằng nét mặt của con người biểu lộ sáu cảm xúc: Vui mừng, buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, tức giận và
ghê tởm. Ngồi tính biểu cảm, nét mặt cịn cho ta biết ít nhiều về cá tính con ngươi. Người có nét mặt
căng thẳng thường là người dứt khốt, trực tính; người có nét mặt mềm mại ở vừng miệng thì hồ nhã,
thân mật, biết vui đùa và dễ thích nghi ừong giao tiếp.
Nhướn mày thường là dấu hiệu cho biết người ta không hiểu và muốn lặp lại thơng tin. Đơi khi
nó chỉ sự khơng tin tưởng mấy. Nhăn ừán, cau mày là dấu hiệu phổ biến của sự lúng túng và sự lo lắng,
và đôi khi là biểu hiện của sự giận dữ.
-

Nụ cười:
8 người
Trong giao tiếp, người ta có thể dùng nụ cười để biểu lộ tình cảm, thái độ của mình. Con

có bao nhiêu kiểu cười thì có bấy nhiêu cá tính. Có cái cười tươi tắn, hồn nhiên, đơn hậu, có cái cười
chua chát, miễn cưỡng, đanh ác, có cái cười đồng tình, thơng cảm nhưng cũng có cái cười chế giễu,


cười khinh bỉ... Mỗi điệu cười biểu hiện một thái độ nào đó, cho nên trong giao tiếp, chúng ta phải tinh
nhạy quan sát nụ cười của đối tượng giao tiếp để biết được lòng dạ của họ.
-


Ảnh mắt:
Dân gian có câu nói: “Đơi mắt là cửa sổ tâm hồn” bởi lẽ cặp mắt là điểm khởi đầu cho tất cả mọi

nghiên cứu quan sát, tìm hiểu qua ánh mắt con người có thể nói lên nhiều thứ. Ánh mắt phản ánh ữạng
thái cảm xúc, bộc lộ tình cảm, tâm ữạng và ước nguyện của con người ra bên ngoài.
Trong giao tiếp, ánh mắt cịn đóng vai ưị “đồng bộ hố” câu chuyện, biểu hiện sự chú ý, tơn
ừọng, sự đồng tình hoặc là phản đối. Ánh mắt ừong giao tiếp cũng phụ thuộc vào vị trí xã hội của mỗi
bên. Người có địa vị xã hội cao hơn (hoặc tự cho mình là người có vai ừị cao hơn) thường nhìn vào mắt
của người kia nhiều hơn, kể cả khi nói, lẫn khi nghe.
Ánh mắt của một người cịn phản ánh cá tính của người đó: Người có óc thực tế thường có cái
nhìn lạnh lùng, người ngay thẳng nhân hậu có cái nhìn thẳng và trực diện, người nham hiểm đa nghi có
cái nhìn soi mói, lục lọi,...
-

Các cử chỉ:
Các cử chỉ gồm các chuyển động của đầu (gật đầu, lắc đầu,...), của bàn tay (vẫy, chào, khua tay),

của cánh tay,... Vận động của chứng có ý nghĩa nhất định ừong giao tiếp. Thật vậy, chuyển động của đầu
có thể là “đồng ý” hay “khơng đồng ý”, của bàn tay là lời mời, sự từ chối, chống đối hay van xin,...
Người ta cũng có thể dùng cử chỉ để điều khiển cuộc giao tiếp, chẳng hạn như một số vận động
của tay và đầu có ý nhắc người đối thoại nói nhanh, chậm, dừng lại hay giải thích thêm.
Mũi cũng là phương tiện fruyen thơng, bởi vì khi nhìn người khác với cái vẻ coi khinh người ta
thường nhìn xuống mũi của mình. Khi động tác này đi kèm với một cái hít vào khinh khỉnh thì thái độ
phủ nhận lại càng được gia tăng. Ngoài ra, lưỡi, cằm, cử chỉ của bàn tay, vị trí của đơi chân, ... cũng nói
lên nhiều điều.
-

Tư thế:
Tư thế cũng là một trong các phương tiện giao tiếp. Nó có liên quan mật thiết với vai ưị, vị trí xã


hội của cá nhân. Thường thường, một cách vơ thức, nó bộc lộ cương vị xã hội mà cá nhân đang đảm
nhận. Ví dụ, tư thế ngồi thoải mái, đầu hoi ngả ra phía sau là tư thế của bề ữên, của lãnh đạo. Tư thế
ngồi hơi cúi đầu về phía trước, tựa hồ lắng nghe là tư thế của người cấp dưới.
Tư thế có vai ừị biểu cảm, có thể nhìn thấy qua tư thế trạng thái tinh thần thoải mái hay căng
thẳng. Những tư thế để “mở” tay và chân tựa như tạo điều kiện để tiếp cận gần gũi cho người đối thoại,
phản ánh một thái độ cởi mở, hồ hợp.
-

Diện mạo:
Là những đặc điểm tự nhiên, ít thay đổi được như tạng người (cao hay thấp, mập hay 9ốm, mặt

vuông hay dài, môi mỏng hay dày...), sắc da (ữắng hay đen, xanh xao, vàng vọt hay “ngăm ngăm”...), và
những đặc điểm thay đổi được như tóc, râu, ữang điểm, ừang sức, ừang phục...


Diện mạo có thể gây ấn tượng rất mạnh, nhất là lần đầu tiên. Ví dụ, đàn ơng cao ráo, có vẻ khoẻ
mạnh, sẽ gây ấn tượng tốt hơn là người thấp bé hay gầy đét; một người “tốt tướng” thường được mọi
người tơn ữọng từ cái nhìn đầu tiên. Cách trang sức, cách ăn mặc cũng nói lên nhiều cá tính, văn hố,
nghề nghiệp, địa vị, lứa tuổi của một cá nhân.
-

Những hành vi giao tiếp đặc biệt:
Đó là động tác ơm hơn, vỗ vai, xoa đầu, khốc tay, bắt tay,... Những phương tiện này gọi là đặc

biệt vì ữong những mối quan hệ đặc biệt ta mới sử dụng chúng. Chẳng hạn, khơng phải gặp ai ta cũng
có thể ôm hôn được; hoặc ở nước ta người lớn xoa đầu ữẻ con chứ không được phép ngược lại.
Những cái bắt tay cũng nói lên cá tính và thái độ của hai người đối với nhau: Bắt tay mạnh mẽ,
khơ ráo chứng tỏ con người có cá tính mạnh và nhân cách đáng tin; còn cái bắt tay ẻo lả, ướt át thuộc về
con ngươi yếu đuối và đáng ngờ.
1.3.


Một số kỹ năng giao tiếp Ctf bản
Giao tiếp vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. Muốn thành công ừong giao tiếp, chúng ta

không chỉ cần nắm vững những kiến thức cơ bản ừong lĩnh vực này mà cịn phải biết vận dụng những
kiến thức đó vào thực tiễn hoạt động giao tiếp của mình. Tức là nắm vững kỹ năng và không ngừng ừau
dồi, rèn luyện để đạt đến mức nghệ thuật. Dưới đây là một số kỹ năng cơ bản ừong giao tiếp.
1.3.1. Kỹ năng lắng nghe
Trong quá trình giao tiếp, chúng ta vừa phải tác động lại vừa phải quan sát lắng nghe “đối
phương”. Việc lắng nghe người khác, nắm bắt, thông hiểu các thơng tin để có thái độ, hành vi tương
xứng là điều rất có ý nghĩa ừong giao tiếp. Có nhà nghiên cứu đã nhận xét rằng, ừong cuộc sống, mỗi
ngày làm việc, ít ra là chứng ta phải dừng nửa thời gian để lắng nghe và xử lý thông tin ừên cơ sở đó mà
chứng ta có những tác động phản hồi đối với mọi người.
Đ C
9
Viết
17%
14o/o

53%

Hình 1.1. Biểu đồ thời lượng sử dụng các kỹ năng
I.3.I.I.

Để có thể lắng nghe tốt
Trong quan hệ giao tiếp, việc lắng nghe tích cực thường diễn ra khi ta thật sự quan tâm đến vấn
1

đề nào đó và vì thế, tất nhiên khi có quan hệ, tác động ta hướng tất cả sự chú ý vào vấn đề. Tuy nhiên


0
những trường hợp ngược lại: Do công việc yêu cầu, do thái độ ứng xử đối nghịch của đối phương gây
cho chúng ta sự ức chế về mặt tâm lý, đòi hỏi sự tự kiềm chế khá căng thẳng.


Để có thể vượt qua tình thế như vậy và có thể lắng nghe có hiệu quả cần tự điều chỉnh để tự thích
ứng với tình hình, và hình thành được thái độ sau:
Thái độ tự thấu cảm: Ta tự đặt mình vào vị trí, hồn cảnh của người nói, thử đặt mình vào tình
cảnh như vậy, từ đó mà tạo ra sự thấu hiểu thông điệp cả từ hai phía: Phía cơng khai và những gì tiềm
ẩn bên trong các thơng điệp đó. Trong phần lớn trường hợp người fruyen thơng tin thường có mong
muốn ta thấu hiểu họ một cách đầy đủ cả hai khía cạnh ấy, nhất là ở phía “ý tại ngơn ngoại”, tiềm ẩn
bên ừong.
Sự tập trung, chú ý vào nội dung thông tin với thái độ khách quan là không thể thiếu. Cần hết sức
chăm chú nắm bắt thông tin, sẵn sàng phản hồi bằng ngơn ngữ, bằng tín hiệu, bằng biểu cảm (thái độ) ví
dụ như: Gật gù tỏ vẻ hiểu, hưởng ứng, mỉm cười tán đồng. Tất nhiên để bộc lộ thái độ khách quan như
vậy, ta phải hết sức tự kiềm chế, kiên nhẫn với thái độ tự tin để duy trì sự giao lưu, tiếp xúc diễn ra một
cách thuận lợi. Đơi lúc có thể kiểm ừa ngược lại hoặc để tâm xem lại những điều mình đã nắm được, ta
có thể xen kẽ bằng những câu nhắc lại những gợi ý khéo như: “Theo anh nên hiểu vấn đề ấy như thế
nào?” hoặc gợi mở thêm sự giao lưu được tiếp tục kiểu như “Hình như anh cũng cảm thấy khó
x ử . . t h ậ m chí có thể tỏ thái độ trung lập với những gợi ý vô thưởng vô phạt như “Tôi hiểu anh ừong
trường hợp này...”. Tác dụng của những câu đưa đẩy ấy sẽ duy trì được sự giao lưu, tiếp xúc và nếu có
dụng ý ta sẽ gián tiếp hiểu được thái độ đích thực của đối tượng giao tiếp.
I.3.I.2.

Những trở ngại trong việc lắng nghe
Có nhiều ưở ngại khiến cho chất lượng lắng nghe người khác nói khơng phải lúc nào cũng như

nhau, do nhiều nguyên nhân rất dễ sa vào tình ữạng chất lượng kém với các mức độ khác nhau như: Do
không tập trung chú ý nên chẳng nắm được nội dung, nghe lõm bõm, chỉ thông hiểu một phần, nghe
nhưng nắm thơng tin khơng chính xác, nghe rồi nhưng khơng có chủ định và qn mất thơng tin,....

Trước hết phải nói đến ừở ngại về mặt tâm lý - Ví dụ như tốc độ suy nghĩ, chúng ta có thể nghe
với tốc độ nhanh nhưng người nói lại rề rà, quá chậm. Do vậy có những khoảng ữống, khiến ta dễ liên
tưởng, dễ suy nghĩ lan man về các vấn đề khác. Hơn thế nữa, ừong trường hợp tâm trạng chúng ta xao
động, ta mải chú ý vấn đề khác, nếu người nói lại khơng “tâm lý” dễ dẫn ta đến ữạng thái suy nghĩ lan
man. Có thể xem ữở ngại tâm lý là ừở ngại quan ữọng nhất, làm giảm hiệu quả của sự lắng nghe.
Cùng với tốc độ suy nghĩ, việc phân tán chú ý còn do nội dung thơng tin q khó, ta khơng thể
hiểu rõ và cũng không thể không nắm bắt được thực chất của thông tin, cảm thấy căng thẳng do vậy
không tập trung được chú ý.
Cũng có thể do thiếu kiến thức, đơi khi trong trao đổi, một bên cứ nói và một bên cứ lảng đi,
không chịu “nghe”. Như vậy là ừong giao tiếp, sự hiểu biết về đối tượng: Cá tính, trình độ học vấn, kinh
nghiệm xử thế,.. .thì chắc chắn sẽ gặp ít ưở ngại hơn.

1
1

về mặt cá tính, một số người có tính thiếu kiên nhẫn ừong giao tiếp - Thái độ này sẽ ảnh hưởng
tiêu cực đến quá trình giao lưu, tiếp xúc. Với tâm ữạng như vậy, chúng ta nói vào tai này thì thơng tin sẽ
trượt ra tai khác, vô hiệu quả.


Thực tế chứng tỏ rằng đôi khi thái độ thờ ơ, tiêu cực ừong giao tiếp nảy sinh ra do định kiến,
thành kiến và nhân cách của ai đó; thái độ gây nên ữạng thái ức chế, cản ữở sự ữao đổi thông tin, nghĩa
là không chịu tiếp nhận, ừao đổi các thông tin.
1.3.2. Kỹ năng đặt câu hỏi
Thu thập thông tin từ người khác là một kỹ năng khá quan ữọng ừong giao tiếp. Có nhiều thơng
tin chúng ta cần được chứa đựng ừong não bộ của người khác. Có lúc chính họ tự nguyện, tự giác cho ta
tin tức, nhưng đa số trường hợp chúng ta phải khai thác nó bằng các câu hỏi khác nhau. Muốn khai thác
thơng tin có hiệu quả chúng ta cần thực hiện nó một cách có bài bản.
Muốn khuyến khích việc cung cấp tin, bạn phải làm sao cho việc ấy ừở thành niềm vui thú đối
với người khác. Hãy sử dụng nghệ thuật lắng nghe để tạo hứng thú ở đối tượng cung cấp thông tin.

Khi muốn khai thác thông tin, bạn hãy bắt đầu bằng một câu hỏi dễ. Những câu hỏi dễ sẽ giúp
người khác có cơ hội ưả lời đúng một cách dễ dàng. Chúng làm cho đối tượng thoải mái, bớt căng thẳng
và tự tin hơn. Nói chung, trước hết cần phải làm nóng cuộc nói chuyện để khi người đối thoại thấy được
sức cuốn hút thì anh ta sẽ say sưa trút bầu tâm sự.
Sau khi đã làm cho người khác cảm thấy thoải mái, bạn cần biết đặt những câu hỏi để có được
những tin tức đầy đủ và chính xác. Có rất nhiều loại câu hỏi để bạn có thể sử dụng, tuỳ vào từng hồn
cảnh và dụng ý sử dụng.
-

Câu hỏi hẹp:
Đó là những câu hỏi nhằm thu hẹp vấn đề để ừanh thủ những thơng tin chính xác, ngắn gọn. Ví

dụ: “Ai thực hiện việc này?”, ‘Tên anh là gì?”. Những câu hỏi hẹp có ích khi bạn cần những dữ kiện rõ
ràng, thẳng thắn. Hầu hết các cuộc gặp gỡ đều có những câu hỏi hẹp ở một thời điểm nào đó.
-

Câu hỏi trực tiếp:
Tức là hỏi thẳng vào vấn đề mà mình cần tìm hiểu. Loại này có ưu điểm là thu thập thơng tin

một cách nhanh chóng và thường tạo ra yếu tố bất ngờ ở đối tượng. Hỏi trực tiếp thường để lộ mục đích
tìm hiểu, làm cho đối tượng không được tự nhiên.
-

Câu hỏi gián tiếp:
Tức hỏi về một vấn đề này để suy ra vấn đề mình cần tìm hiểu. Loại câu hỏi này thường dùng để

khai thác những yếu tố tế nhị mà không thể hỏi trực tiếp.
-

Câu hỏi gợi mở:

Là loại câu hỏi mà khơng thể ữả lời có hoặc khơng được, chúng địi hỏi phải có lời giải thích tại

sao. Nhờ câu hỏi này mà chúng ta bước vào một giai đoạn mới của cuộc đàm phán độc thoại chuyển
thành đối thoại. Loại câu hỏi này làm dễ dàng cho người đối thoại. Mục đích của loại câu hỏi này chủ
yếu là thu thập thông tin sâu hơn mà câu hỏi hẹp không làm được.
-

Câu hỏi để suy nghĩ:

1
2


Mục đích của câu hỏi này nhằm xây dựng bầu khơng khí thân thiện, hiểu biết lẫn nhau. Chúng
đặc biệt có lợi khi nhắc lại một phần các ý kiến đã phát biểu. Câu hỏi này sẽ tạo điều kiện cho đối tác
cải chính, bổ sung vấn đề đã được trình bày.
1.3.3. Kỹ năng thuyết phục
Để giải quyết tốt một cơng việc nào đó, chúng ta thường cần sự giúp đỡ, hợp tác của người khác.
Điều này đòi hỏi giữa chúng ta và họ phải có sự thống nhất về quan điểm, lập trường, về cách giải quyết
công việc. Tuy nhiên ừên thực tế, chúng ta thường gặp trường hợp, trong đó người khác khơng cùng
chung ý kiến, quan điểm với chúng ta. Trong trường hợp này, việc chứng ta có đạt được mục đích hay
khơng phụ thuộc vào khả năng thuyết phục của chứng ta. Thuyết phục chính là đưa ra tình tiết, sự kiện,
phân tích, giải thích làm cho người khác thấy đứng, thấy hay mà tin theo, mà làm theo.
1.3.3.1.

Những điểm cần chú ý khỉ thuyết phục

Thuyết phục người khác là một công việc không hề đơn giản, bởi một lẽ thường tình là bất kỳ ai,
khi đã có ý kiến về một vấn đề nào đó, cũng có niềm tin nhất định vào mình và khơng muốn tiếp thu ý
kiến của người khác. Hơn nữa không phải ai cũng biết cách thuyết phục người khác. Để thuyết phục có

hiệu quả chúng ta cần chú ý một số điểm sau đây:
Bầu khơng khí bình đẳng là điều kiện đầu tiên để có thể thành cơng ừong thuyết phục, bởi vì nó
làm cho người đối thoại cảm thấy thoải mái, được tơn ừọng, làm giảm sự đề phịng, phản kháng của họ.
Thông thường người đối thoại luôn muốn bảo vệ ý kiến của mình, khơng muốn tiếp thu ý kiến
của người khác. Muốn thuyết phục họ, trước hết phải tôn ữọng và lắng nghe họ. Đến một lúc nào đó sẽ
xuất hiện chỗ hở trong quan điểm của người đối thoại vì thiếu thơng tin, vì cân nhắc chưa thấu đáo. Lúc
này họ sẽ cảm thấy thiếu tự tin và muốn nghe ý kiến. Đây chính là lúc để thuyết phục.
Khi trình bày ý kiến cần lưu ý: Lý lẽ đưa ra phải rõ ràng và có cơ sở; lịi nói phải ngắn gọn và có
ừọng tâm, khơng nên dài dịng ừàn lan, phải nhã nhặn, ơn tồn, lịch sự; ngôn ngữ và cách lập luận phải
phù hợp với trình độ nhận thức của người đối thoại; biết thừa nhận những điểm có lý ữong ý kiến của
người đối thoại; cần tác động đến cả nhận thức, tình cảm và ý chí của người đối thoại.
1.3.3.2.

Quy trình thuyết phục

Từ sự phân tích ừên, ta có thể đưa ra một quy trình thuyết phục bao gồm các bước cơ bản:
Trước hết hãy tạo một khơng khí bình đẳng, thân thiện gây thoải mái cho người đối thoại. Đây là
một bước quan trọng, ảnh hưởng khá nhiều đến kết quả thuyết phục.
Sau khi đã tạo được một khơng khí cởi mở nhất định, chứng ta cần tìm hiểu, lắng nghe để hiểu tâm lý
người đối thoại. Muốn thuyết phục ai đó về một vấn đề nào đó. Trước hết hãy tìm hiểu quan điểm cá
nhân của họ về vấn đề, những vướng mắc, bận tâm khiến họ lo ngại, từ chối. Chứng ta không thể đưa ra
1

cách giải cho một bài toán khi chưa biết đề bài. Hãy vận dụng hết khả năng lắng nghe ừong bước3 này.


Bất kỳ ai cũng đều mong muốn có được sự đồng cảm, chia sẻ của người khác với những ý kiến,
lo lắng của mình. Hãy chứng tỏ sự cảm thơng với những vướng mắc đó, coi vướng mắc của người đối
thoại cũng chính là vướng mắc của người thuyết phục.
Và cuối cùng, khi đứng ưên quan điểm của người đối thoại đồng thòi ưên quan điểm của người

đưa ra được cách giải quyết những vướng mắc ấy, chúng ta cần dùng lý lẽ để giải tỏa lo ngại và bận tâm
của người đối thoại.
1.3.4. Kỹ năng thuyết trình
Trong cuộc sống, có những khi đối tượng chúng ta cần trình bày quan điểm, suy nghĩ về vấn đề
nào đó, khơng chỉ là một hay hai người, mà có thể là mười người, hai mươi người, một ừăm người, hay
hơn thế nữa. Đó chính là lúc chúng ta thực hiện một bài thuyết trình. Thuyết trình hay cịn gọi là diễn
thuyết, là nói chuyện trước nhiều người về một vấn đề nào đó một cách có hệ thống.
I.3.4.I.

Các bước thuyết trình
Một bài thuyết trình thành cơng bao giờ cũng đi qua ba bước: Chuẩn bị thuyết trình, tiến hành

thuyết trình và kết thúc thuyết trình.
- Chuẩn bị thuyết trình
Bất kỳ một nhà diễn thuyết chuyên nghiệp nào cũng có lúc lúng túng, e ngại, căng thẳng. Để có
thể đường hồng, tự tin, chúng ta và cả những nhà diễn thuyết chuyên nghiệp cũng đều phải có sự chuẩn
bị chu đáo cho buổi nói chuyện của mình. Khi được mời thuyết trình về một vấn đề nào đó, chúng ta
cần cân nhắc hai vấn đề. Đó là: Chúng ta có am hiểu vấn đề, có đủ thơng tin để trình bày hay khơng?
Con người và
cương vị của người nói có được người nghe chấp thuận hay khơng? Nói cách khác, tầm quan trọng của
vấn đề phải ngang tầm với người diễn thuyết, nếu khơng người nghe sẽ thiếu tin tưởng.
Bài nói chuyện phải được xây dựng xung quanh người nghe, lấy người nghe làm trung tâm. Cùng
một vấn đề nhưng nói cho những đối tượng khác nhau thì cách xây dựng bài nói cũng khác nhau. Chẳng
hạn, cùng một vấn đề thời sự nhưng nói cho sinh viên khác với nói cho giáo viên. Vì vậy, người thuyết
ừình cần tìm hiểu người nghe là ai, giới tính, tuổi tác, nghề nghiệp, tín ngưỡng.. .để chuẩn bị bài nói
chuyện cho phù hợp.
Bài diễn thuyết cần được chuẩn bị một cách chu đáo. Người diễn thuyết có thể thảo sẵn nội dung
diễn thuyết ra giấy hoặc chí ít cũng phải lập một đề cương chi tiết các ý cần phải trình bày và những dẫn
chứng, những số liệu để minh hoạ. Không nên quá tin tưởng vào trí nhớ. Nếu lần đầu diễn thuyết thì cần
tập dượt trước . Sự chuẩn bị tốt luôn làm người diễn thuyết tự tin ừong q trình nói chuyện.

-

Tiến hành thuyết trình
1

Khi tiến hành thuyết trình, điều quan trọng nhất của người diễn thuyết là kiểm soát được
nội
4
dung mà mình đang trình bày. Tránh tình ừạng, vì một vài câu hỏi hay một vài yếu tố khách quan dẫn
đến quên mất trình tự hay quên mất nội dung định trình bày. Để có được một bài thuyết trình hay, phụ


thuộc vào rất nhiều yếu tố, đặc biệt là khả năng dẫn dắt vấn đề, khả năng gây thiện cảm, khả năng xử lý
tình huống của người thuyết trình.
-

Kết thúc thuyết trình
Người thuyết trình cần biết kết thúc đúng lúc. Khi người nói đã dùng đến cụm từ “cuối cùng

l à . . t h ì có nghĩa chỉ cịn vài phút nữa thơi. Nếu sau đó, người nói vẫn cịn muốn nói tiếp thì người
nghe sẽ cảm thấy rất ức chế. Sau khi tóm tắt những ý then chốt của bài nói chuyện và tuỳ theo tính chất
của bài nói chuyện mà đưa ra lời kêu gọi, lời chúc mừng, cần nhớ cảm ơn thính giả đã chú ý lắng nghe.
Trong trường hợp cần thiết, cần dành một ít thời gian để giải đáp những ý kiến, những thắc mắc của
người nghe.
I.3.4.2.

Một số điểm cần lưu ý với người thuyết trình

Ấn tượng đầu tiên bao giờ cũng có một vị trí nhất định ừong sự thành cơng của bài thuyết trình.
Để có được những ấn tượng tốt đẹp ấy, người thuyết trình cần chú ý một số điểm sau:

Trước hết người thuyết trình phải ăn mặc nghiêm túc, lịch sự, phù hợp với tính chất của buổi
thuyết trình. Tránh những bộ quần áo cầu kỳ, kiểu cách, xa lạ với người nghe. Quần áo phù hợp sẽ làm
cho người thuyết trình thêm tự tin. Bên cạnh đó, dáng đi chững chạc cũng thể hiện sự đường hoàng, tự
tin của người thuyết trình, khơng nên đi q nhanh nhưng cũng đừng chậm chạp, ung dung, thong thả
quá. Khi bước ra chào, cần tiếp xúc bằng mắt và mỉm cười với người nghe.
Khi đứng ưên bục, người thuyết trình cần đứng thẳng người với tư thế tự nhiên, không bỏ tay túi
quần, mắt nhìn thẳng xuống người nghe, ánh mắt nhẹ nhàng, tơn ữọng và quan tâm. Trước khi nói
chuyện, cần tự giới thiệu về bản thân, những lời giới thiệu này nên ngắn gọn, khơng rườm rà, dài dịng.
Khi nói, giọng nói cần to, rõ ràng đủ cho người ngồi xa nhất cũng có thể nghe thấy. Thêm vào
đó, cần thay đổi tốc độ nói, nhịp độ nói: Khi lên, khi xuống, khi ừầm, khi bổng, khi nhanh, khi chậm,
khi lướt qua, khi nhấn mạnh, tuỳ thuộc vào nội dung trình bày. Trong quá trình trình bày, thường xuyên
đưa mắt xuống người nghe, bao quát tất cả những người có mặt ừong phịng, đừng để ai đó có cảm giác
bị “bỏ rơi”.
Ngồi ánh mắt, người thuyết trình cần chú ý sử dụng cả phương tiện phi ngôn ngữ khác như nét
mặt, cử chỉ, động tác. Tuy nhiên, cần sử dụng chúng một cách tự nhiên, hợp lý. Người diễn thuyết có
thể đi lại trong khi nói chuyện, song khơng nên rời khỏi tầm nhìn của một nhóm người nghe nào đó quá
lâu. Chẳng hạn, trong khi giảng bài, có những giáo viên đi xuống cuối lớp và dừng lại ở đó ữong một
khoảng thời gian.
Trong trường hợp này, những học sinh ngồi ở dãy bàn đầu dễ phân tán chú ý và sẽ khó tiếp thu bài
giảng hơn.
1
5


1.3.5.

Kỹ năng đọc và tóm tắt văn bản

I.3.5.I.


Kỹ năng đọc
Đọc là hoạt động nhận thức có từ lâu đời, nó xuất hiện từ nhiều thế kỷ trước công nguyên. Đọc

là một kỹ năng. Để đọc có hiệu quả, chúng ta cần được dạy cách đọc và không ngừng rèn luyện để biến
kỹ năng thành kỹ xảo. Để đọc có hiệu quả, cần chú ý một vài khía cạnh sau:
Khi đọc một đoạn văn bản, chứng ta cần nắm được thông tin chứa đựng ừong đó. Trở ngại lớn
nhất cho sự lĩnh hội là khi đọc, người đọc không được tiếp xúc trực tiếp với người viết. Vì vậy, điểu cốt
lõi khi đọc là người đọc phải thực hiện một cuộc đối thoại ữong tưởng tượng với người viết, tức là phải
tập trung tư tưởng cao độ đặt câu hỏi, phân tích, và tự tìm lời giải đáp cho những câu hỏi đó. Đó là đọc
tích cực.
Tốc độ đọc cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của việc đọc. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, tốc độ
đọc trung bình vào khoảng 250 từ/1 phút. Bí quyết để đọc có hiệu quả là chọn tốc độ đọc phù hợp với
tài liệu. Không nên đọc nhanh với bất kỳ tài liệu nào, cũng đừng bận tâm đọc kỹ mọi thứ. Để có thể
quyết định có nên đọc một tài liệu nào đó hay không, hoặc đọc phần nào, tốc độ nào, người đọc có thể
sử dụng phương pháp khảo sát, phân tích và đọc với tốc độ phù họp. Khi khảo sát, người đọc chỉ cần
đọc phần đầu, phần cuối và lướt qua bố cục. Điều này giúp người đọc nắm bắt được cấu trúc tổng quát
và những điểm chính của văn bản. Từ đó, mà quyết định văn bản có đáng đọc hay khơng và đọc với tốc
độ nào.
Tóm lại, đọc là một kỹ năng quan trọng ừong giao tiếp gián tiếp. Nó giúp chúng ta thu thập được
nhiều thơng tin có chiều sâu trong nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống.
I.3.5.2.

Kỹ năng tóm tắt văn bản

Tóm tắt văn bản là trình bày lại nội dung của văn bản, có loại bỏ những thơng tin khơng cần thiết
theo mục đích đã định. Như vậy, văn bản tóm tắt bao
gọn hơn văn bản gốc. Trong tóm tắt văn bản, việc

giờ cũng ngắn
lựachọn thơng tin nào để đưa vào


văn bản tóm tắt phụ thuộc vào mục đích và u cầu của người tóm tắt.
Khi tóm tắt văn bản, cần loại bỏ hết những thơng tin khơng cần thiết đối với mục đích tóm tắt,
diễn đạt lại nội dung văn bản bằng cách vắn tắt và súc tích nhất nhưng vẫn phản ánh trung thực nội dung
của văn bản gốc. Điều khác biệt giữa văn bản tóm tắt và văn bản gốc là người tóm tắt phải diễn đạt lại
văn bản gốc theo ý của mình, hạn chế đến mức thấp nhất việc sử dụng lại các câu, các đoạn của văn bản
gốc.
Nói chung, văn bản tóm tắt dài bao nhiêu là phụ thuộc vào văn bản gốc và mục đích và mục đích
tóm tắt của chúng ta. Cũng có những trường hợp cả một bài văn dài, chỉ được tóm tắt bằng một câu. Ví
1
dụ, khi giới thiệu bộ sử thi Ramayana của Ấn Độ thời cổ đại, tác giả Cao Huy Đỉnh viết: “Ramayana
6

chủ yếu mơ tả cuộc tình dun ừắc ừở và mối tình chung thuỷ của hồng tử Rama và nàng Xita”.


1.4.Các tình huống giao tiếp đặc trưng
Con người sống ừong một xã hội với rất nhiều mối quan hệ giao tiếp phức tạp. Các tình huống
giao tiếp diễn ra hàng ngày với mỗi người cũng vô cùng phong phú. Để tìm hiểu một cách chung nhất,
ta có thể xem xét các tình huống giao tiếp nảy sinh ừong ba mơi trường: Gia đình, nhà trường và xã hội.
1.4.1.

Tình huống giao tiếp trong gia đình

Gia đình xét ừên quan điểm của tâm lý học là một tập thể nhỏ, ừong đó mọi người quan tâm đến
nhau, chú ý đến những nhu cầu, hứng thú của nhau. Giao tiếp ữong gia đình là một yếu tố quan ữọng
ừong sự phát triển nhân cách của mỗi con người.
Khơng khí tươi vui, lành mạnh ừong gia đình là một “tiểu khí hậu” thuận lợi cho sự phát triển
đầu đời của mỗi chúng ta. Trong một gia đình đầm ấm, yêu thương thì ngay từ những ngày đầu tiên, con
ừẻ đã được phát triển dưới ảnh hưởng của sự giao tiếp thường xuyên với cha mẹ, ông bà, anh chị em. Sự

giao tiếp thường xuyên và tích cực này khơng chỉ gắn kết các thành viên trong gia đình lại với nhau, mà
cịn xây dựng một nền tảng vững chắc cho việc hình thành kỹ năng giao tiếp sau này của ừẻ.
Mỗi một cá nhân sống ừong gia đình đều có vị trí nhất định, họ mang ừên mình nhiều chức danh.
Ví dụ: Người phụ nữ ừong gia đình có thể là vừa là người vợ, người mẹ, người con, người em,... Với
mỗi một chức danh họ lại có những tiêu chuẩn đạo đức, văn hoá, cách giao tiếp khác nhau. Làm sao
đảm bảo ừong gia đình có đầy đủ lễ nghĩa, có ưên có dưới để ữở thành một gia đình văn hố.
Thời gian sống ừong gia đình của mỗi con người là rất lớn, vì vậy mà thời gian giao tiếp cũng
như các tình huống giao tiếp xảy ra trong gia đình cũng vô cùng phong phú và khá phức tạp. “Mỗi cây
mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh”, mỗi gia đình đều có những fruyen thống, những đặc điểm riêng, vì vậy mà
những tình huống phát sinh ữong các gia đình khác nhau là khác nhau.
Tình huống giao tiếp ữong gia đình nảy sinh do nhiều nguyên nhân như: Truyền thống đạo đức,
khác biệt giữa các thế hệ, bất đồng về tính cách giữa các thành viên,... Những tình huống này có khi chỉ
là tình huống giao tiếp xã giao thơng thường như: Mời, chào, hỏi,... Nhưng có khi nó lại là những tình
huống giao tiếp có mâu thuẫn nảy sinh mà muốn giải quyết được, các thành viên ừong gia đình phải có
những kỹ năng giao tiếp và xử lý tình huống nhất định.
Xử lý tốt các tình huống giao tiếp nảy sinh trong gia đình sẽ mang đến khơng khí n vui, hạnh
phúc. Góp phần làm nền tảng tinh thần và vật chất của mỗi thành viên thêm vững chắc.
1.4.2.

Tình huống giao tiếp trong nhà trường
Sau gia đình, nhà trường được xem như môi trường giao tiếp quan ữọng thứ hai, bởi lẽ nhà

trường không chỉ là nơi đào tạo, giáo dục con người về tri thức, nhân cách mà còn là nơi thiết lập những
mối quan hệ xã hội có ảnh hưởng rất lớn đến mỗi người đó là tình thầy ừị, tình bạn.
1

Mơi trường giao tiếp ừong nhà trường là lớp học. Trong đó, đối tượng giao tiếp là thầy7cơ, bạn
bè, sách vở. Khác với gia đình, cá nhân trong nhà trường khơng có quan hệ về huyết thống và đặc điểm
giao tiếp ừong mơi trường này cũng có những sắc thái riêng, đó là “Kính thầy, u bạn”. Cũng chính từ



sắc thái riêng này mà chứng ta có thể phân chia các tình huống giao tiếp ừong nhà trường thành hai
mảng đó là: Tình huống giao tiếp giữa thầy giáo - Học sinh và tình huống giao tiếp giữa người học với
người học.
Để xử lý tốt cả hai mảng tình huống ừên, trước hết, chúng ta cần thể hiện sự khéo léo, tế nhị, linh
hoạt của bản thân sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh khác nhau, đồng thời phải đảm bảo những
nguyên tắc cơ bản giữa các mối quan hệ. Những ngun tắc cơ bản đó là gì? Sự tơn ừọng, u mến, hết
lịng vì học sinh của thầy đối với ữị; là lịng kính u, kính trọng của ừị với thầy giáo; là tình cảm u
thương, đồn kết, tôn ừọng lẫn nhau giữa những người học.
Xử lý tốt các tình huống giao tiếp diễn ra trong nhà trường không những đem lại hiệu quả cao
ữong học tập mà còn làm đẹp thêm giá trị nhân cách của mỗi con người.
1.4.3.

Tình huống giao tiếp trong xã hội

Mơi trường giao tiếp thứ ba này là môi trường rộng lớn nhất, phức tạp nhất và phong phú nhất. Ở
đây, chúng ta chỉ xét ừên những mối quan hệ xã hội phổ biến nhất đối với sinh viên.
Cuộc sống hàng ngày của sinh viên, ngoài những giờ lên lớp, tiếp xúc với thầy cơ, bạn bè, sách
vở để hồn thành tốt nhiệm vụ học tập của mình, họ cịn tham gia vào nhiều mối quan hệ xã hội khác
xung quanh họ để thoả mãn nhu cầu về tâm lý, cũng như nhu cầu phát triển về nghề nghiệp.
Các tình huống giao tiếp nảy sinh ừong những mối quan hệ xã hội của sinh viên chủ yếu ữên ba
mặt sau: Tình bạn, tình u, cơng việc (cơng việc làm thêm, khi đi phỏng vấn,...), và mối quan hệ xã hội
khác (ừong xóm trọ, ừong kí túc xá,...). Những tình huống giao tiếp này ảnh hưởng tới sinh viên về
nhiều mặt như tâm lý, tình cảm, sự nghiệp. Để giải quyết tốt các tình huống này, cần có những u cầu
khác nhau như ữong phỏng vấn xin việc cần có kỹ năng ưả lời câu hỏi của nhà tuyển dụng, ừong tình
yêu cần có sự cảm thơng, chia sẻ, tơn trọng,...
Tóm lại, để xử lý tốt các tình huống giao tiếp nói ữên, mỗi sinh viên chứng ta, ngoài nhiệm vụ
học tập để ừang bị cho mình tri thức mới, cần trang bị thêm những kỹ năng giao tiếp để hoàn thiện thêm
hành trang để làm chủ cuộc sống sau này.
1.5.


Đặc điểm giao tiếp của sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp

1.5.1. Đặc điểm giao tiếp của sinh viên Sư phạm
Giao tiếp có ý nghĩa cực kỳ quan ữọng đối với mỗi người. Con người luôn sống ừong xã hội, nên
giao tiếp giữa người với người là nhu cầu tất yếu. Sinh viên Sư phạm cũng như con người,
cuốn vào những hệ

thống khác nhau của

Trong q trình giao tiếp đó những ngun tắc sống,

ln ln

giao tiếp.
những tiêu chuẩn đạođức được

hình thành và ngày càng hồn thiện.
1

Trong trường Đại học, sinh viên nói chung và sinh viên Sư phạm nói riêng sống ừong những
lớp
8
học, một ừong những đom vị cơ sở ữong hệ thống dạy học ữong trường. Ở đó, họ có cuộc sống tập thể,
tiếp thu tri thức mới hiện đại, sâu sắc của lồi người, hình thành và phát triển nhân cách, tu dưỡng


những phẩm chất đạo đức và năng lực của mình. Bên cạnh những vấn đề ữên giao tiếp cũng ữở thành
một vấn đề đặc biệt quan ữọng và có đặc thù riêng ở mỗi trường. Nhưng hầu hết sinh viên Sư phạm đều
mang những đặc điểm sau trong giao tiếp:

Nhu cầu giao tiếp của sinh viên Sư phạm ngày một tăng cao theo yêu cầu của Giáo dục, đó là xu
thế phù hợp với xu thế chung của xã hội và lịch sử. Khơng thể có sự cơ đơn trong đa số các trường hợp
như quan niệm của một số học giả Tiến sĩ.
Phạm vi giao tiếp của sinh viên Sư phạm là rất tập trung. Nó đặc trưng bởi hoạt động hoc tập.
Đối tượng chủ yếu là bạn học, ngồi ra cịn giao tiếp với cán bộ ừong trường, với học sinh phổ thông và
các đối tượng khác.
Nội dung giao tiếp của sinh viên sư phạm đặc trưng bởi hoạt động chủ đạo là học tập. Ngồi ra
cịn trao đổi với bạn bè về tình bạn, tình u. Khơng khí giao tiếp ừong tập thể sinh viên tốt, lành mạnh,
cởi mở, sơi nổi, có sự thống nhất hành động.
1.5.2. Đặc điểm giao tiếp của sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp
Trong giao tiếp, sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Công nghiệp cũng mang những đặc điểm chung của
sinh viên, cũng như sinh viên Sư phạm. Nhưng bên cạnh đó, họ lại có những nét riêng, được hình thành
do ngành học.
Môn Kỹ thuật Công nghiệp là một ừong những môn học của học sinh phổ thông ừên cả nước.
Mặc dù được đưa vào và ưở thành một môn học chính thức, bắt buộc ữong chương trình đào tạo đã từ
lâu. Nhưng cho đến nay, môn học này vẫn chưa được đánh giá đúng mức, và bị xếp vào một ừong
những mơn “phụ” bên cạnh các mơn “chính” như: Tốn, lý, hoá, văn, ngoại ngữ,... Sinh viên theo học
ngành học này ừong các trường ừên cả nước không nhiều và hầu hết là sinh viên nữ. Cơ hội làm việc
của sinh viên ừong các hoạt động giáo dục khi theo học ngành học này cũng không cao như các sinh
viên Sư phạm ngành học khác. Lấy ví dụ như một công việc làm thêm phổ biến của sinh viên Sư phạm
đó là làm gia sư. Một phần giúp sinh viên tích lũy thêm kiến thức và kinh nghiệm cho nghề nghiệp của
mình sau này, một phần có thu nhập thêm về kinh tế. Nhưng một điều dễ nhận thấy là sinh viên Sư
phạm Kỹ thuật Cơng nghiệp có tỷ lệ làm gia sư thấp hơn so với các khoa khác, đơn giản vì nhu cầu của
người học khơng đúng chun môn của họ. số lượng giáo viên Kỹ thuật Công nghiệp ừong các trường
phổ thơng cũng ít hơn rất nhiều so với giáo viên Tốn, Lý, Hóa,...
Chính những đặc điểm ừên về ngành học tạo nên một vài nét riêng biệt ừong đặc điểm giao tiếp
của sinh viên Sư phạm Kỹ thuật Cơng nghiệp đó là: Phạm vi và đối tượng giao tiếp bị thu hẹp. Sự chủ
động và tích cực ừong giao tiếp còn hạn chế. Điều này được thể hiện không chỉ qua công việc làm thêm
mà ở cả các hoạt động ngoại khoá ừong trường và xã hội do sinh viên Sư phạm Kỹ thuật công nghiệp
1 tiếp

thực hiện. Hầu hết sinh viên Sư phạm Kỹ thuật cịn “ngại” khi giao tiếp với những mơi trường giao

ngồi sách vở, trường lớp và bạn học.

9

Tóm lại, mặc dù có những đặc điểm giao tiếp riêng do đặc thù ngành học nhưng sinh viên Sư
phạm Kỹ thuật Công nghiệp cũng giống như sinh viên Sư phạm nói chung đều là đối tượng được giáo


dục đồng thời cũng là nhà giáo dục tương lai, nên việc tìm hiểu đặc điểm và phát triển kỹ năng giao tiếp
cho sinh viên là vô cùng cần thiết, có ảnh hưởng lâu dài đến một thế hệ nhà giáo cũng như học sinh sau
này.
CHƯƠNG2
THựC TRẠNG NHU CẦU GIAO TIẾP VÀ KỸ NĂNG GIAO TIẾP CỦA SINH
VIÊN KHOA Sư PHẠM KỸ THUẬT - TRƯỜNG ĐHSP KỸ THUẬT
HƯNG YÊN

Trong phần tìm hiểu thực ừạng nhu cầu giao tiếp và kỹ năng giao tiếp của sinh viên Khoa Sư
phạm Kỹ thuật - Trường ĐHSP Kỹ thuật Hưng Yên, tôi đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau ữong
đó có phương pháp điều ưa bằng phiếu hỏi (Ansquest) ưên 200 sinh viên của khoa ở cả 4 khối: Năm I,
năm II, năm III, năm IV. Cụ thể là các lớp: KTK7.1, KTK39, KTK6.1, KTK6.2, KTK5.1, KTK5.2,
KTK4.2, KTK3, KTK7LC. Trong đó có 73 nam và 127 nữ, riêng lớp KTK7LC, tôi xếp chung với nhóm
năm rv, vì hầu hết phiều điều ữa phát ra tại lớp KTK7LC đều ữên đối tượng là sinh viên lớp KTK36 của
khoa, tốt nghiệp tháng 8 năm 2009, nhập học tháng 10 năm 2009.
Phiếu điều ưa chia làm bốn phần: I - Nhu cầu giao tiếp; II - Nội dung giao tiếp; m - Mức độ cởi
mở của cá nhân; IV - Kỹ năng giao tiếp. Tổng số là 95 câu. Với mỗi mục khác nhau, có số lượng câu
hỏi và cách đánh giá khác nhau. Nội dung phiếu điều ữa được trình bày ở phần phụ lục.
2.1.Nhu cầu giao tiếp
Để tìm hiểu nhu cầu giao tiếp của sinh viên Khoa Sư phạm Kỹ thuật, tôi đã sử dụng phiếu ữắc

nghiệm p.o do Trường ĐHSP Lênin (Liên Xô cũ). Gồm 33 câu hỏi ừả lời “Đúng”, “Không”. Trả lời
“Đúng” ở những câu sau đây được một điểm: 1, 2, 7, 8, 11, 12, 13, 14, 17, 18, 19, 20, 21, 22, 23, 24, 26,
28, 30, 31, 32. Trả lời “Không” ở những câu sau đây được một điểm: 3, 4, 5, 6, 9, 10, 15, 16, 25, 27, 29.
Sau đó tính tổng số điểm đạt được của đối tượng được điều ữa rồi đối chiếu theo bảng phân mức độ.
Nhìn chung, giao tiếp là một vấn đề khơng thể thiếu được ừong đời sống của sinh viên Sư phạm
nói chung và sinh viên Khoa Sư phạm Kỹ thuật nói riêng. Hoạt động giao tiếp là một ừong những
hoạt động nổi bật của người sinh viên. Phần lớn sinh viên đều có nhu cầu muốn được giao tiếp với
người khác và nhu cầu giao tiếp ngày càng phong phú, đa dạng, phù hợp hom với xu thế phát triển đi
lên của xã hội, phù hợp với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Cũng qua tìm hiểu thực ừạng nhu cầu
giao tiếp của sinh viên khoa Sư phạm kỹ thuật, tôi nhận thấy nhu cầu giao tiếp là khơng đồng đều, có
sự chênh lệch giữa nam và nữ, giữa các khối lớp.
2.1.1.

Thực trạng nhu cầu giao tiếp của sinh viên nam Khoa Sư phạm Kỹ thuật

2
0

Nhu cầu giao tiếp của sinh viên nam có sự chênh lệch giữa các khối theo các mức độ khác
nhau, được thể hiện rõ nét qua bảng sau:


Bảng 2.1. Nhu cầu giao tiếp của sinh viên nam Khoa Sư phạm Kỹ thuật
Mức độ
Trung bình
TB thâp
Thâp (3 TB cao
(23 - 24)

(21 - 22)


20)

Cao (28 32)

(25 -27)

Năm học
SL

TL%

SL

TL%

I (12 người)

3

25

4

II (12 người)

7

TU (19 người)
IV (30 người)


10
14

X (73 người)

34

SL

TL%

SL

TL%

SL

TL%

33,33 3

25

2

0

58,33 2
52,63 4


16,66 2
21,05 3
23,33 7

10,52 0
6,67 0

0

46.67 7

16,66 1
15,78 2
23,33 2

16,67 0
8,33 0

46,57 17

23,28 15

20,54 7

9,59

0

0

0

0

Qua bảng số liệu ta thấy một điểm nổi bật, đó là: mức độ nhu cầu giao tiếp cao, khơng có một
sinh viên nam nào.
Trong khi đó, tỷ lệ của sinh viên nam ở mức độ thấp lại chiếm khá cao 34/73 người (46,57%) và
sinh viên năm thứ II có tỷ lệ mức độ nhu cầu giao tiếp thấp là cao nhất 7/12 người (58.33%).
Ở mức độ nhu cầu giao tiếp trung bình cao, tỷ lệ sinh viên nam đạt được chiếm tỷ lệ khiêm tốn
7/73 người (9,59%). Trong đó, cao nhất là sinh viên năm I với 2/12 người (16.67%).
Như vậy, ta dễ dàng nhận thấy rằng nhu cầu giao tiếp của sinh viên nam khoa Sư phạm kỹ thuật
còn thấp, đặc biệt là khối sinh viên năm n. Bên cạnh đó, giữa các năm học có sự chênh lệch khá lớn về
nhu cầu giao tiếp.
2.1.2.

Thực trạng nhu cầu giao tiếp của sinh viên nữ Khoa Sư phạm Kỹ thuật

Để đánh giá một cách rõ nét thực ừạng nhu cầu giao tiếp của sinh viên nữ Khoa Sư phạm Kỹ
thuật, ta xem xét bảng số liệu sau:
Bảng 2.2. Nhu cầu giao tiếp của sinh viên nữ Khoa Sư phạm Kỹ thuật
\]Vlức độ
Thâp
TB thâp
Trung
TB cao
(2 -22)
1

(3 -20)
Năm


38,46 5

19,23 5

19,23 3

11,53 3

11.53

ĩĩ(20người)

10
13

65

15

15

5

0

0

ĩĩĩ(45người)


12

26,67 13

28,89 17

1
37,77 3

6,67

0

0

YV(36người) 8
X (127người) 44

22.22 12
34.65 33

33.33 8
25.98 33

22.22 4
25.98 11

11.11 3

mức này chiếm 4.22% (6/127 người).


3

SL

TL%

(28 -32)

TL%

3

TL%

(2 -27)
5

SL
l(26người)

SL

bình
(2 -24)
3
SL TL%

Cao


8.66

SL

6

TL%

8.33
4,72 2
1


Tỷ lệ sinh viên đạt mức nhu cầu giao tiếp thấp nhìn chung đã giảm so với nam 36.22% (46/127
người). Trong đó, chiếm tỷ lệ cao nhất ở mức độ này vẫn là sinh viên năm II với 65% (13/20 người).
Sinh viên năm II cũng là khối sinh viên nữ duy nhất không đạt mức nhu cầu giao tiếp cao (0%).
Sinh viên nữ năm I có tỷ lệ nhu cầu giao tiếp ở mức cao và trung bình cao là cao nhất 11.53%
(3/20người).
Sinh viên nữ năm IV có tỷ lệ nhu cầu giao tiếp ở mức cao và mức trung bình cao đứng thứ hai,
chỉ sau sinh viên năm I.
Như vậy, nhu cầu giao tiếp của sinh viên nữ cũng có sự chênh lệch giữa các năm. Nhưng chiếm
tỷ lệ nhu cầu giao tiếp cao nhất vẫn là sinh viên năm I và năm IV.
2.1.3.

Sự khác nhau trong nhu cầu giao tiếp giữa sinh viên nam và sinh viên nữ

Khoa Sư phạm Kỹ thuật
Qua điều ưa thực tế cho thấy ừong nhu cầu giao tiếp có sự chênh lệch giữa sinh viên nam và
sinh viên nữ Khoa Sư phạm Kỹ thuật. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu dưới đây:
Bảng 2.3. So sảnh nhu cầu giao tiếp của sinh viên nam và sinh viên nữ Khoa Sư phạm

Kỹ thuật
"\Mức độ

Thâp (3 -

Giới'\
SL
Nam

20)
TL%

TB thâp

Trung bình

(21 - 22)
SL
TL%

(23 - 24)
SL
TL%

TB cao

Cao (28 - 32)

(25 -27)
SL

TL% SL

TL%

34

46,57 18

24,65 14

19,17 7

9,59

0

0

44

34.65 33

25.98 33

25.98 11

8.66

6


4,72

(73người)
Nữ
(127người)

2
2


50

thấp,

nhau, chỉ chênh nhau

TỶ LỆ % 45

nhu cầu

1.13%.

40 35 30 25

giao tiếp

20 15 10 5 0

của nam


bình, tỷ lệ nhu cầu giao

chiếm tỷ

tiếp ở nữ (25.98%) cao

lệ

hơn so với ở nam

46.57%

(19.17%).

in
co
•st
CN

cao hơn
ở nữ là
34.65%.

Ở mức độ trung
ẹp


Ã





ỵ05
<

ơi o<0

/1
C
M



oo

MỨC Độ
Hình
2.1. Biểu đồ
nhu càu
giao tiếp
của sinh
viên Khoa
Sư phạm
Kỹ thuật

O
)

Ã
C

N

mức độ
trung
bình

Nhìn vào
biểu đồ và
bảng số liệu

thấp thì
nhu cầu
giao tiếp
của nam

ta thấy:


bình cao, tỷ lệ của nữ
thấp hơn so với tỷ lệ
của nam. Còn ở mức độ

Thấp TB thấp Trung bình TB cao

Cao

mức độ

Ở mức độ trung


và nữ
xấp xỉ
bằng

cao, thì ở nam là khơng
có, còn ở nữ là 4,72%.

■ Nam
□ Nữ


N

nữ

2.1.4.

So

sánh





nhu cầu giao tiếp

vậy,

nh


giữa các khối lớp

giữa

u

Khoa Sư phạm

sinh

cầ

Kỹ thuật

viên

u

Cũng qua

nam

gi

q trình nghiên



ao


cứu và tìm hiểu,

sinh

tiế

tơi nhận thấy nhu

viên

p

cầu

nữ

lớ

khơng chỉ có sự

khoa

n

chênh






giới, mà cịn có

phạm

n

sự

kỹ

so

giữa sinh viên ở

thuật

vớ

các năm học.

có sự

i

chênh

sin

So sảnh nhu cầu


lệch

h

giao tiếp giữa các

khá

vi

khối lớp Khoa Sư

lớn về

ên

nhu

na

cầu

m.

lệch

chệnh

về

lệch

2.4.

phạm Kỹ thuật
TB thâp
Trung

Thâp

TB cao

Cao

X

Bậ

bình
TL%

tiếp.

34.21 9

viên

tiếp

Bảng


giao
Sinh

giao

SL

TL%

SL

23.68 8

TL%

SL

21.05 5

TL%

SL

13.15 3

TL%
7.89

2.37 1



56.25 6
34.37 17
33.33 19

18.75 6

18.75 2

26.56 20

31.25 5

28.79 15

22.73 6

th

ối cùng là sinh



viên năm thứ II.

ha

Tỷ lệ cụ thể ở


i

từng mức độ như



sau:

sin

Ở mức độ

h

thấp, sinh viên

vi

năm n có tỷ lệ

ua cột

ên

cao

xếp




(56,25%), sau đó

thứ

m

đến

bậc ta

rv,

năm

dễ

sa

(34.37%),

dàng

u

viên năm IV có

nhận

đó


tỷ lệ thấp nhất

thấy

đế

(33.33%).

rằng

n

sinh

sin

trung bình thấp,

viên

h

sinh viên ở các

năm I

vi

năm có tỷ lệ xấp


có nhu

ên

xỉ

cầu



ữong đó tỷ lệ cao

giao

m

nhất là sinh viên

tiếp

III

năm

cao

,

(28.79%),


nhất,



nhất là sinh viên

đứng

cu

năm II (18.75%).

Q

nhất
sinh

viên
III
sinh

Ở mức độ

bằng

nhau

IV
thấp



×