Tải bản đầy đủ (.doc) (158 trang)

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU - CÁCH MẠNG THÁNG mười HIỆN THỰC hóa lý TƯỞNG CỘNG sản CHỦ NGHĨA THỜI đại NGÀY NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (783.34 KB, 158 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cách mạng Tháng Mười Nga đã khẳng định giá trị, sức sống của nó trong thời
đại ngày nay. Giá trị đích thực của lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là tính hiện thực của
nó, tuy nhiên để hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa phải là quá trình lâu dài
gắn liền với tiến trình cách mạng của giai cấp công nhân do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 là biểu hiện sinh động nhất tính hiện thực hóa
lý tưởng cộng sản chủ nghĩa trong thời đại ngày nay.
Cách mạng Tháng Mười nổ ra và giành thắng lợi là kết quả tất yếu của lịch sử
quá trình biện chứng khách quan sự vận dụng sáng tạo học thuyết Mác và cách mạng
vô sản của V.I.Lênin vào thực tiễn nước Nga những năm đầu của thế kỷ XX. Cách
mạng Tháng Mười đã mở ra quá trình hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và
chính thức khai sinh ra chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước Nga và thế giới. Trước Cách
mạng Tháng Mười, chủ nghĩa xã hội chỉ là những ước mơ, khát vọng, trào lưu tư
tưởng; chỉ là lý luận khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân về một chế độ xã
hội công bằng, bình đẳng, không có áp bức, bóc lột. Cách mạng Tháng Mười thắng
lợi đã biến những mơ ước, lý tưởng ấy thành hiện thực sinh động ở nước Nga, sau đó
là Liên Xô và phát triển thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Với những thành
tựu to lớn đã đạt được, chủ nghĩa xã hội hiện thực là nhân tố quan trọng làm nên đặc
điểm nổi bật của thế kỷ XX. Cách mạng Tháng Mười thắng lợi đã mở ra một thời đại
mới trong lịch sử xã hội loài người - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi thế giới. Giai cấp công nhân vững tin bước lên vũ đài chính trị
với tư cách là giai cấp trung tâm của thời đại, là “hạt nhân” của phong trào cách mạng
thế giới; mở ra con đường đúng đắn cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc, giải phóng con người thoát khỏi áp bức, bóc lột, bất công và xây dựng một
thế giới mới công bằng, dân chủ, tiến bộ và văn minh. Cách mạng xã hội chủ nghĩa
Tháng Mười có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới, cung cấp những giá trị to lớn dịnh
hướng cho quá trình hiện thực hóa lý tưởng cộng sản trên thế giới.
Những vấp váp, sai lầm dẫn đến đỗ vỡ trong quá trình hiện thực hóa lý
tưởng cộng sản ở Liên Xô và Đông Âu là do những nguyên nhân chủ quan và
khách quan, nhưng nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Đó là sụp đổ một mô hình về


chủ nghĩa xã hội đã không còn phù hợp với sự biến đổi mới của thời đại. Sự sụp đổ
đó không phải là sụp đổ về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, càng không phải là sự
“kết thúc lịch sử” của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là hệ
quả tiêu cực từ những sai lầm nghiêm trọng cả về nhận thức và hành động trong
quá trình hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa theo tinh thần của Cách mạng
Tháng Mười, vi phạm quy luật khách quan, xử lý không đúng đắn các mối quan hệ
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh.
1


Giá trị Cách mạng Tháng Mười Nga về hiện thực hóa lý tưởng cộng sản ở
các nước xã hội chủ nghĩa sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ tiếp tục được phát
huy ở các nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp hiện thực hóa lý tưởng
cộng sản trong cải cách, đổi mới ở các nước xã hội chủ nghĩa đã giành được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; song cũng đang gặp phải không ít những thách
thức, khó khăn. Cách mạng Tháng Mười vẫn là ngọn đuốc soi đường cho sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các đảng cộng sản kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, lý
tưởng của Cách mạng Tháng Mười, quyết tâm hiện thực hóa lý tưởng ấy thông qua
đổi mới, cải cách với những bước đi thích hợp. Những giá trị của Cách mạng Tháng
Mười về hiện thực hóa lý tưởng cộng sản đang được vận dụng sáng tạo trong công
cuộc đổi mới, cải cách ở một số nước xã hội chủ nghĩa, cũng như các phong trào có
tính chất xã hội chủ nghĩa trên thế giới.
Hiện nay, chủ nghĩa chống cộng và các phần tử cơ hội, xét lại tiếp tục chống
phá chủ nghĩa xã hội, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận với nhiều âm mưu, thủ
đoạn hiểm độc. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, chúng đẩy mạnh thực hiện “diễn
biến hòa bình” trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Đặc biệt, chúng ra sức tuyên truyền,
kích động các luận điệu sai trái, phản động hòng phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ
nhận cách mạng xã hội chủ nghĩa, phủ nhận giá trị lịch sử của Cách mạng Tháng Mười.
Bên cạnh đó, thực tiễn công cuộc đổi mới, cải cách của các nước xã hội chủ nghĩa trong
giai đoạn hiện nay đang đặt ra những vấn đề mới, đòi hỏi phải tiếp tục làm sáng tỏ

những vấn đề lý luận trước những biến đổi của thực tiễn sinh động. Cần phải đẩy mạnh
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đúc rút bài học kinh nghiệm, đưa ra những định
hướng đúng đắn cho sự phát triển đất nước nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là nhiệm vụ chính trị rất hệ trọng. Trong đó,
việc nghiên cứu quá trình hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa của Cách mạng
Tháng Mười để rút ra những bài học, khẳng định những giá trị trong thời đại ngày nay;
từ đó vận dụng vào thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của các nước xã hội chủ
nghĩa, trong đó có Việt Nam là yêu cầu cấp bách. Từ những luận giải trên, chúng tôi
chọn vấn đề “Cách mạng Tháng Mười hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
trong thời đại ngày nay” làm đề tài nghiên cứu có tính cấp thiết về lý luận và thực tiễn
hiện nay.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực của đề tài
2.1. Những công trình, bài viết nghiên cứu về Cách mạng Tháng Mười
Nga ở nước ngoài
Bài báo Sức mạnh tự hành của Iuri Belov đã bàn đến tinh thần tập thể của
nhân dân Nga; năng lực tổ chức mạnh mẽ của Lênin và Đảng Bônsevich đóng vai
trò quan trọng trong thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga.
2


Bài viết 80 năm cách mạng Nga của Métvêdép đã đi sâu phân tích, đánh giá
các sự kiện của Cách mạng Tháng Mười và các chính sách của chính quyền Xô
viết trong các giai đoạn lịch sử tồn tại của nó.
Cuốn sách Cách mạng Tháng Mười: Những bài học lịch sử của
I.V.C.Pletnicốp, V.A.Xaprukin đã nêu bật 14 bài học chủ yếu rút ra từ kinh nghiệm
lịch sử của Cách mạng Tháng Mười. Liên hệ với tình hình hiện nay ở nước Nga.
Tương lai của nước Nga - đó là chủ nghĩa xã hội.
Bài viết Cách mạng Tháng Mười - quy luật tất yếu lịch sử của P.A.Gôlúp đã
khái quát những bài học lịch sử rút ra từ Cách mạng Tháng Mười có ý nghĩa đặc biệt
đối với thời điểm hiện nay của nước Nga đó là việc xây dựng đảng cộng sản vững

mạnh; khôi phục chính quyền nhân dân và chủ nghĩa xã hội.
Bài trả lời phỏng vấn với tựa đề Chúng ta đã có chủ nghĩa cộng sản đích
thực của Alecxandr Dinoviev bàn về các vấn đề: Thái độ đối với cuộc Cách mạng
Tháng Mười; chủ nghĩa cộng sản; chủ nghĩa "Phương Tây"; về tình hình và vị thế
của nước Nga.
Bài viết Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười vĩ đại - Sự kiện chủ yếu của
thế kỷ XX của Thiếu tướng Ưđemxki đã đưa ra đánh giá Cách mạng Tháng Mười vĩ
đại mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử toàn thế giới, đặt nền móng cho sự tiến
bộ thật sự của nhân loại.
Bài viết Tháng Mười vĩ đại - một cơ hội cho loài người của Victor Vaxilenco đã
nêu bật ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười - sự ra đời chế độ xã hội mới, triển vọng
đối với loài người trong xây dựng chế độ xã hội tốt đẹp hơn.
Cuốn sách Cách mạng Tháng Mười mở đầu kỷ nguyên mới của I Xaắc
MinXơ nêu bật vị trí vai trò của Cách mạng Tháng Mười trong lịch sử, và giá trị
của nó đối với công cuộc bảo vệ chính quyền Xô Viết non trẻ, chống lại giai cấp tư
sản trong cuộc nội chiến sau 1917. Khẳng định tính tất yếu, cấp thiết của Cách
mạng Tháng Mười đối với nhân dân Nga và nhân dân lao động thế giới.
2.2. Những công trình, bài viết nghiên cứu về Cách mạng Tháng Mười Nga ở
trong nước
Cuốn sách Cách mạng Tháng Mười và ý nghĩa thời đại của nó của Nguyễn
Trọng Chuẩn, Nguyễn Văn Huyên và Đặng Hữu Toàn chủ biên đã khẳng định tính
tất yếu, phân tích ý nghĩa lịch sử, tính chất thời đại và những bài học kinh nghiệm
từ Cách mạng Tháng Mười Nga. Lý luận của Lênin về Cách mạng xã hội chủ
nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những ảnh hưởng của Cách mạng Tháng
Mười với cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam.
3


Sách tham khảo Lịch sử chủ nghĩa Mác: Sự phát triển chủ nghĩa Mác trong
thời kỳ thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đã giới thiệu sự phát triển và vận mệnh của

chủ nghĩa Mác trong giai đoạn Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đến những
năm 50 của thế kỷ XX, đánh giá ảnh hưởng của mô hình xây dựng CNXH ở Liên
Xô, phương thức sản xuất Châu Á...
Bài viết Những quan điểm, cách đánh giá sai lệch về Cách mạng Tháng
Mười của Hà Mỹ Hương đã tập hợp những luận điệu của các học giả, chính khách
phương Tây và cả những người đã từng là những người Mác xít chính thống của
Nga phủ nhận ý nghĩa của cách mạng Tháng Mười, công kích chủ nghĩa xã hội.
Phê phán những luận điểm sai trái của họ, khẳng định tính đúng đắn, vĩ đại của
cách mạng Tháng Mười.
Bài viết Hành trình đi đến một thắng lợi vĩ đại của Nguyễn Xuân Sơn
khẳng định Cách mạng Tháng Mười Nga thành công là cả một quá trình đấu tranh
quyết liệt và sáng tạo của những người cách mạng Nga, được tập dượt và thử
thách qua cuộc cách mạng Nga lần thứ nhất 1905 - 1907, cuộc Cách mạng tháng
hai năm 1917.
Các bài tham luận khoa học trong hội thảo khoa học 150 năm Tuyên ngôn
của Đảng cộng sản và 80 năm Cách mạng Tháng Mười Nga đã bàn một số vấn đề
xoay quanh Cách mạng Tháng Mười Nga, quá trình phát triển, ảnh hưởng của
Cách mạng Tháng Mười Nga đối với phong trào cách mạng thế giới và cách mạng
Việt Nam. Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên xô trong 80 năm.
Cuốn sách Cách mạng Tháng Mười và phong trào giải phóng dân tộc, do
Phạm Xuyên chủ biên là tập hợp các bài viết, nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ ảnh
hưởng to lớn của cách mạng Tháng Mười đối với vận mệnh các dân tộc bị áp bức
trên toàn thế giới sau cách mạng Tháng Mười và hiện nay.
Cuốn sách Cách mạng Tháng Mười và cách mạng Việt Nam Nguyễn Văn Linh
đã nêu bật ý nghĩa to lớn, toàn diện của cách mạng Tháng Mười đối với tiến trình phát
triển cách mạng thê giới cũng như cách mạng Việt Nam. Trong đó, tập trung đánh giá
sâu sắc về công cuộc cải tổ ở Liên Xô, đổi mới ở Việt Nam và ảnh hưởng của nó đến
tình hình cách mạng thế giới.
Cuốn sách Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội - Những vấn đề cơ bản
của lịch sử thời kỳ quá đội ở Liên Xô (1917-1937) - Tập 1; Phần 2, đã đề cập đến

tính quy luật của sự ra đời và phát triển của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Xô Viết
nhiều dân tộc. Thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Mười vĩ đại và công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội - yếu tố quyết định của sự phát triển lịch sử thế giới.
4


Cuốn sách Chủ tịch Hồ Chí Minh với Cách mạng Tháng Mười, với nhiều
nguồn tư liệu phong phú, từ nhiều góc độ khác nhau, các nhà nghiên cứu đã góp
phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về mối quan hệ giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh với
Cách mạng Tháng Mười, với V.I.Lênin và Liên Xô vĩ đại.
Cuốn sách Cách mạng Tháng Mười - Ngọn đuốc soi đường của thời đại: Kỷ
niệm 70 năm Cách mạng Tháng Mười đã phân tích sâu sắc ý nghĩa to lớn và ảnh
hưởng sâu rộng của Cách mạng Tháng Mười đối với đời sống nhân loại; những bài
học kinh nghiệm của Đảng và nhân dân Liên Xô trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 90 năm Cách mạng Tháng Mười Nga do
Học viện Chính trị quân sự tổ chức “Cách mạng Tháng Mười Nga và một số vấn đề
cấp bách về thời đại ngày nay” đã khẳng định giá trị lịch sử, ý nghĩa thời đại của;
những bài học rút ra từ Cách mạng Tháng Mười có ý nghĩa lý luận, thực tiễn soi sáng
con đường cách mạng Việt Nam.
Sách tham khảo Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 - lịch sử và hiện tại của
Nguyễn Quốc Hùng đã nêu lên những tác động, ảnh hưởng tích cực của Cách mạng
Tháng Mười đến phong trào cách mạng thế giới trên nhiều bình diện và mọi quốc gia
từ châu Âu, châu Á, châu Mỹ Latinh.
Bài viết Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười - 1917 mở đầu một thời đại
mới trong lịch sử khẳng định những giá trị hiện thực của cách mạng Tháng Mười, con
đường giải phóng cho các dân tộc trên thế giới.
Bài viết Cách mạng Tháng Mười và bài học kinh nghiệm về tổ chức và xây
dựng lực lượng quần chúng của Thái Văn Long đã phân tích những bài học quý
báu của Lênin và Đảng Bônsêvích trong việc vận động, giác ngộ, tập hợp, tổ chức

giáo dục lực lượng quần chúng.
Bài viết Cách mạng Tháng Mười với phong trào cộng sản thế giới hiện nay của
Nguyễn Danh Quỳnh xác định dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười đối với
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế hiện nay.
Như vậy, các công trình đã góp phần làm rõ ý nghĩa, giá trị, ảnh hưởng của Cách
mạng Tháng Mười ở các phạm vi khác nhau: Đối với phong trào giải phóng dân tộc,
phong trào công nhân, với tiến trình phát triển của nhân loại... Tuy nhiên, chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề Cách mạng Tháng Mười hiện thực
hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa - sự phát triển hợp quy luật trong thời đại hiện nay.
Vấn đề này cần được tiếp cận, nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu, dựa trên cơ
sở khoa học; vì vậy, đề tài không trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
5


3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích, làm rõ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về lý tưởng cộng sản và
hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa; trên cơ sở đó, luận chứng Cách mạng
Tháng Mười Nga mở đầu quá trình hiện thực hóa lý tưởng cộng sản và giá trị của
nó trong thời đại ngày nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
và hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
- Luận chứng Cách mạng Tháng Mười Nga hiện thực hóa lý tưởng cộng sản
chủ nghĩa.
- Làm rõ những giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga hiện thực hóa lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa trong thời đại ngày nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Cách mạng Tháng Mười Nga hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và

giá trị của nó trong thời đại ngày nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về lý tưởng cộng sản và
hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa; quá trình hiện thực hóa lý tưởng cộng sản
của cuộc Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga và giá trị của nó đối với hiện
thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa trên thế giới và ở Việt Nam trong thời đại ngày
nay.
- Về thời gian, không gian: Sự hình thành lý tưởng cộng sản đầu thế kỷ XIX
đến quá trình hiện thực hóa lý tưởng cộng sản ở nước Nga - Liên Xô, hệ thống xã
hội chủ nghĩa thế giới và các nước xã hội chủ nghĩa hiện nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của các đảng cộng sản về chủ nghĩa cộng sản, về cách mạng xã
hội chủ nghĩa, Cách mạng Tháng Mười Nga trong thời đại ngày nay.
5.2. Cơ sở thực tiễn
Đề tài được nghiên cứu dựa vào thực tiễn Cách mạng Tháng Mười Nga hiện
thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa; thực tiễn phát triển hệ thống xã hội chủ
nghĩa trong thế kỷ XX, cả những thành tựu và khủng hoảng, sụp đổ mô hình chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu, Liên Xô; thực tiễn hiện thực hóa lý tưởng cộng
sản ở các nước xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài
sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học xã hội và nhân văn, khoa học
6


chính trị; trong đó, chú trọng các phương pháp: Lịch sử - lôgic, kết hợp với lôgic lịch sử, phân tích và tổng hợp, so sánh, phương pháp chuyên gia và một số phương
pháp khác để làm rõ vấn đề nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của đề tài

- Đề tài khái quát, phân tích làm rõ một cách hệ thống những nội dung cơ
bản về lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
của chủ nghĩa Mác - Lênin.
- Khái quát và luận chứng rõ Cách mạng Tháng Mười hiện thực hóa những
nội dung lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và rút ra những giá trị của nó.
- Luận chứng những giá trị của Cách mạng Tháng Mười Nga về hiện thực
hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa được phát huy ở các nước xã hội chủ nghĩa trong
thời đại ngày nay.
7. Giá trị và hướng sử dụng kết quả nghiên cứu của đề tài
* Nâng cao nhận thức về giá trị của Cách mạng Tháng Mười trong thời đại hiện
nay đối với mọi tầng lớp nhân dân, nhất là đội ngũ cán bộ, đảng viên, cán bộ nghiên cứu,
giảng dạy trong hệ thống nhà trường hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và
thực tiễn quá trình hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa của Cách mạng Tháng
Mười ở nước Nga (sau đó là Liên Xô) và hệ thống xã hội chủ nghĩa; phát triển lý luận
về xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu phục vụ cho công tác
tuyên truyền, giáo dục, định hướng nhận thức cho toàn xã hội, nhất là đội ngũ cán bộ,
đảng viên về bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa
xã hội khoa học; đồng thời, góp phần cung cấp luận cứ cho Đảng, Nhà nước hoạch
định chủ trương, chính sách đúng đắn trong sự quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
- Kết quả nghiên cứu đề tài còn dùng làm tài liệu tham khảo trong công tác
giảng dạy những nội dung liên quan và nghiên cứu khoa học ở các cơ sở giáo dục đào tạo đại học và sau đại học hiện nay.
- Xã hội hóa kết quả nghiên cứu dưới hình thức xuất bản sách.
8. Kết cấu đề tài
Đề tài được kết cấu: Phần mở đầu, 3 chương (7 tiết), kết luận, danh mục các
bài báo đã công bố, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

7



Chương 1

LÝ TƯỞNG CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA VÀ CON ĐƯỜNG HIỆN THỰC
HÓA LÝ TƯỞNG CỘNG SẢN CHỦ NGHĨA
1.1. Quan niệm và sự hình thành, phát triển lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa
1.1.1. Quan niệm về lý tưởng và lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
* Lý tưởng
Theo cách hiểu chung nhất, lý tưởng là mục đích cao cả, ước vọng sâu sắc nhất
mà con người, cộng đồng người trong một hay nhiều thế hệ theo đuổi, hướng tới, mong
muốn đạt được trong suốt cuộc đời, sự nghiệp, có vai trò chi phối và quyết định đến
hành động sống căn bản của họ. Lý tưởng có thể chia thành lý tưởng xã hội và lý tưởng
cá nhân và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong đó, lý tưởng xã hội quy định, ước
chế lý tưởng cá nhân; nếu lý tưởng cá nhân đi “chệch” lý tưởng xã hội thì cá nhân đó
khó được xã hội chấp nhận và trở thành cô độc. Còn lý tưởng xã hội muốn phát triển,
thực hiện được thành công phải thông qua lý tưởng, hoạt động của các cá nhân.
Lý tưởng xã hội, là quan niệm phù hợp với lợi ích kinh tế và chính trị của một
tập đoàn xã hội, một giai cấp nào đó về một chế độ xã hội hoàn thiện nhất, tốt đẹp
nhất. Chế độ đó là mục tiêu cuối cùng của những ước vọng và mọi hoạt động của
tập đoàn xã hội, giai cấp ấy. Lý tưởng xã hội bị quy định bởi các quan hệ xã hội
thống trị và khi cá thể hóa ở mỗi con người thì còn bị chi phối bởi các đặc điểm
tâm lý, tinh thần của từng cá nhân. Trong lịch sử, lý tưởng xã hội của các giai cấp
tiến bộ đều phù hợp ở mức độ nào đó với xu hướng phát triển khách quan của xã
hội. Những lý tưởng xã hội đó đã trở thành ngọn cờ tư tưởng của những phong trào
cách mạng đấu tranh phủ định những chế độ xã hội đã lỗi thời lạc hậu, xây dựng
chế độ xã hội mới tiến bộ hơn. Lý tưởng xã hội mang dấu ấn giai cấp sâu sắc và
bao giờ cũng được thể hiện ra với tư cách là một hệ thống quan điểm, tư tưởng về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của giai cấp thống trị xã hội.

Vai trò của lý tưởng đối với sự phát triển xã hội
Lý tưởng có vai trò chỉ đạo, định hướng, quyết định đến hoạt động sống căn
bản của con người và cộng đồng người. Khi có lý tưởng thì mọi hoạt động của con
người và cộng đồng người đều hướng vào thực hiện để đạt được mục tiêu và
những dự định đã đặt ra. Nhà văn Nga L.Tôn-xtôi nói: Lý tưởng là ngọn đèn chỉ
đường. Không có lý tưởng thì không có phương hướng kiên định, mà không có
phương hướng thì không có cuộc sống. Người không có lý tưởng sẽ không có mục
tiêu phấn đấu cụ thể, không có lẽ sống, thiếu ý chí vươn lên để đạt được mục đích
8


trong cuộc đời.
Lý tưởng giúp con người có bản lĩnh, sự kiên định, khả năng vượt qua mọi
khó khăn, thách thức để vươn lên. Lý tưởng được hình thành trên cơ sở tình cảm,
nhận thức và niềm tin vào cuộc sống, vào khát vọng muốn vươn tới. Vì vậy, lý
tưởng vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy con người vươn lên. Lý tưởng của
con người sẽ làm cho họ có thái độ tích cực trong nhận thức, nồng nhiệt trong tình
cảm, mãnh liệt trong ý chí và quyết tâm trong hành động, nâng sức mạnh của con
người lên gấp bội. Lý tưởng thường có tính vượt trước nên có vai trò dự báo, định
hướng và xây dựng niềm tin cho con người trong hoạt động thực tiễn. Người có lý
tưởng sẽ luôn kiên định vững vàng với mục tiêu đã chọn, trước khó khăn, gian khổ
họ không dao động, ngả nghiêng mà luôn giữ vững niềm tin, lập trường, quan
điểm, chính kiến của mình; đồng thời, họ biết khắc phục trở ngại để vươn lên trong
cuộc sống và hướng tới mục tiêu đã xác định.
Lý tưởng là cơ sở để đoàn kết, gắn kết con người, tạo nên sự thống nhất ý chí
và hành động cùng nhau đạt được mục đích cuộc sống. V.A.Xukhômlinxki, một nhà
giáo dục Nga đã nhận định: “người nào có một lý tưởng cao đẹp thúc đẩy, lý tưởng
đó đối với anh ta trở thành một thực tế hiển nhiên thì người đó không những sẽ yêu
cầu cao đối với chính bản thân mình, đối với hành vi của mình mà còn thể hiện tinh
thần trách nhiệm đối với những công việc của người khác” 1. Khi lý tưởng trở thành

giá trị văn hóa, đạo đức, lý tưởng của từng cá nhân được hình thành và phát triển
gắn liền với sự phát triển của một cộng đồng thì giữa các thành viên của cộng đồng
đó luôn có sự hiểu biết, đồng cảm, nhất trí, tin tưởng, tôn trọng, đoàn kết, quan tâm
chia sẽ, giúp đỡ lẫn nhau. Sự thống nhất về lợi ích căn bản, thống nhất về mục tiêu
cần hướng tới là sợi dây để gắn kết các thành viên với nhau.
Lý tưởng có khả năng làm biến đổi mạnh mẽ con người, xã hội và thời đại
theo hướng tiến bộ. Lý tưởng cao đẹp phản ánh xu thế phát triển của xã hội, những
khát vọng của con người, nên lý tưởng vừa mang tính thời đại, vừa mang tính vượt
trước. Lý tưởng tiến bộ, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử, xu thế thời đại sẽ là
động lực quan trọng làm biến đổi con người trong nhận thức thế giới và cải tạo tạo thế
giới theo hướng tiến bộ. Lý tưởng tác động đến hành vi của con người trong hiện
thực, hình thành ở họ các chuẩn mực về phẩm chất, năng lực, đạo đức để cải tạo
thực tiễn, hiện thực hóa mục tiêu đã chọn.
Lý tưởng là một giá trị cao nhất của nhân cách, đánh dấu trình độ phát
triển của con người và xã hội. Trong quá trình phát triển của xã hội loài người,
1

V.A.Xukhomlinxki, Hình thành niềm tin cộng sản cho thế hệ trẻ, Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1983, tr. 19.

9


nhân cách được hình thành và phát triển nhờ các mối quan hệ xã hội, thông qua
quá trình thực hiện các mối quan hệ xã hội đó mà cá nhân phát triển và bắt đầu quá
trình hoạt động sống của mình. Do vậy, nhân cách thường được xác định như là
một hệ thống quan hệ của con người với thế giới xung quanh và với chính bản thân
mình. Với ý nghĩa đó, nhân cách con người bao hàm nhiều giá trị sống; song lý
tưởng chính là giá trị cao nhất của nhân cách, bởi lý tưởng là sự thể hiện cao độ
khả năng, trình độ làm chủ của con người đối với lực lượng tự nhiên và lực lượng
xã hội. Mặt khác, không phải lúc nào ở con người cũng hình thành lý tưởng, lý

tưởng còn là sự phản ánh khách quan trình độ nhận thức của con người và trình độ
phát triển kinh tế, xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định. Lý tưởng con người
sâu sắc và tiến bộ đến đâu phụ thuộc rất lớn vào các điều kiện kinh tế - xã hội, vào
thời đại và mà người đó sinh sống và hoạt động.
* Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là một nấc thang mới trong sự phát triển của lý
tưởng xã hội nói chung. Bằng phép biện chứng duy vật trong xem xét lịch sử xã
hội, đứng trên lập trường cộng sản chủ nghĩa và chủ nghĩa nhân đạo cao cả, các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra quá trình phát triển khách quan của
xã hội loài người, sự hình thành tất yếu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa trên cơ sở khoa học, các ông chỉ ra các đặc trưng của chế độ xã hội mới là xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Đó là mục tiêu lý tưởng cao cả của
nhân loại vươn tới. Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là lý tưởng cao cả, khoa học, cách
mạng, có tính hiện thực, là mục đích cao nhất của người cộng sản, giai cấp công
nhân và nhân dân lao động về xã hội cộng sản văn minh. Theo quan điểm của
C.Mác và Ph.Ăngghen, khát vọng vươn tới chủ nghĩa cộng sản là hướng đến một
xã hội không còn giai cấp, không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Đó là
nguồn gốc của phân chia giai cấp, của áp bức, bóc lột, bất công và bất bình đẳng xã
hội. Đó là xã hội mọi người đều bình đẳng hoàn toàn, không có hiện tượng “người
bóc lột người” và tiến tới xóa bỏ nhà nước, hình thành một “thế giới đại đồng”,
không có biên giới quốc gia. Ở đó, năng suất lao động rất cao, của cải làm ra dồi
dào tới mức phân phối “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”. Mỗi cá nhân
được tự do phát huy mọi khả năng của mình, tự do làm những điều không ảnh
hưởng đến lợi ích và quyền tự do của người khác trên cơ sở tư liệu sản xuất chung.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Chỉ từ lúc đó, con người mới bắt đầu tự mình làm ra lịch
sử của chính mình một cách hoàn toàn tự giác, chỉ từ lúc đó, những nguyên nhân xã
hội mà con người làm cho phát huy tác dụng, mới đưa lại, với một mức độ chiếm ưu
10



thế và không ngừng tăng lên, những kết quả mà con người mong muốn. Đó là bước
nhảy của nhân loại từ vương quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do” 1 và “Lý
tưởng cộng sản là đem lại hạnh phúc, lợi ích cho giai cấp, dân tộc, nhân loại”2.
Từ cách tiếp cận trên có thể quan niệm: Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là loại
hình phát triển cao nhất của lý tưởng xã hội, được kết tinh từ sự chuyển hóa của
tình cảm cách mạng, tri thức, niềm tin khoa học của giai cấp công nhân, quần
chúng lao động tiến bộ nhằm hướng tới một xã hội không còn áp bức, bóc lột, bất
công, con người được tự do, bình đẳng, hạnh phúc, có cơ hội phát triển toàn diện,
phù hợp với lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân loại.
Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là lý tưởng của giai cấp công nhân, đồng thời đáp
ứng với lợi ích căn bản và phản ánh nguyện vọng thiết tha, mong ước ngàn đời của
quần chúng nhân dân lao động bị áp bức và bóc lột. Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa mang
tính giai cấp, tính nhân dân, tính tiên tiến, tính cách mạng, tính nhân văn và nhân đạo
cao cả. Đồng thời, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa kế thừa có chọn lọc những tinh hoa
trong các lý tưởng xã hội trước đó, được xây dựng trên cơ sở xã hội hiện thực mà
nguyên tắc căn bản nhất là luôn luôn “gắn lý luận với thực tiễn”, thông qua hoạt động
thực tiễn sáng tạo của con người để thực hiện lý tưởng. Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
được kết tinh từ sự chuyển hóa của ba yếu tố cơ bản: Tình cảm cách mạng, tri thức
khoa học và niềm tin khoa học.
Tình cảm cách mạng là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực
cách mạng, phản ánh quan hệ của con người với con người, với tổ chức, với phong
trào cách mạng trong quá trình đấu tranh cho mục tiêu của chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Tình cảm cách mạng được hình thành trên cơ sở tri thức khoa học
và lòng nhân đạo cộng sản; là hình thức biểu hiện trực tiếp, cụ thể và tập trung nhất
của lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Tri thức khoa học là sự hiểu biết của người về bản chất và quy luật vận
động khách quan của tự nhiên, xã hội, tư duy; là cơ sở vững chắc, mang lại hiệu
quả cho hoạt động thực tiễn. Tri thức khoa học là thành tố quan trọng của lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa, là cơ sở để xây dựng niềm tin khoa học cho con người.
Tri thức khoa học giúp cho người cách mạng nắm vững những quy luật vận động

và phát triển khách quan của lịch sử; trên cơ sở đó quyết tâm hành động theo
những quy luật đó, tiến hành thắng lợi cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng
thành công chủ nghĩa cộng sản văn minh, ít tổn thất nhất. Đồng thời, có tri thức
khoa học, người cách mạng biết phát hiện và cách thức giải quyết các mâu thuẫn,
1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 1995.Tr. 393.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 1995.Tr. 450.

11


biết dự báo khoa học về tương lai để hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
Niềm tin khoa học là sự tin tưởng vững chắc của người cách mạng về khả
năng thắng lợi tất yếu của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; về tính hiện
thực của những khát vọng vươn tới tự do, bình đẳng; về sự lãnh đạo của đảng cộng
sản; về sức mạnh của quần chúng nhân dân và khả năng của chính bản thân mình.
Đó là sự hòa quyện giữa tri thức khoa học và tình cảm cách mạng. Niềm tin của lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa được tạo lập trên cơ sở thế giới quan duy vật, phương
pháp luận biện chứng, nhân sinh quan cộng sản. Đặc trưng quan trọng của niềm tin
khoa học là sự thấm nhuần chân lý, sẵn sàng chứng minh, bảo vệ chân lý trong bất
kỳ hoàn cảnh nào. Niềm tin khoa học thôi thúc người cách mạng biết vươn lên,
khắc phục khó khăn, tìm ra những giải pháp hữu hiệu nhất để đạt tới những khát
vọng nhận thức và cải tạo hiện thực.
Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa thuộc hình thái ý thức xã hội, nhưng nó không
chỉ là những nhận thức, ước nguyện về một xã hội tốt đẹp mà nó được biểu hiện ở
những hành vi, hành động cách mạng tích cực, chủ động, sáng tạo; ở sự sẵn sàng xả
thân, hy sinh vì mục đích cao cả cho nhân loại. Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa không
phải là mơ ước viển vông, những tình cảm nhất thời mà có tính chất ổn định, bền

vững. Tính chất đó bắt nguồn từ nhiều yếu tố, nhưng quan trọng nhất là sự giác ngộ
về lợi ích cơ bản của cá nhân, tập thể và xã hội, giữa người cách mạng và mục tiêu
của chủ nghĩa cộng sản. Đặc trưng của lợi ích cách mạng là sự thống nhất những lợi
ích căn bản cả về nội dung, phạm vi và hình thức biểu hiện. Nó quy định sự khác
nhau về chất của lý tưởng cộng sản chủ nghĩa so với các lý tưởng xã hội khác trong
lịch sử nhân loại. Mặt khác, tính hiện thực của lý tưởng cộng sản còn bắt nguồn từ
những điều kiện khách quan và những nhân tố chủ trong tiến trình phát triển lịch sử.
1.1.2. Sự hình thành, phát triển lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
Giống như bất kỳ các lý tưởng xã hội khác, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
cũng có quá trình phát sinh, hình thành, phát triển trên cơ sở kế thừa có chọn lọc
những tinh hoa tư tưởng, văn hóa nhân loại và dựa trên điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội nhất định. Lý tưởng cộng sản có mầm mống phát sinh từ rất sớm, cùng với
lịch sử hình thành, phát triển của giai cấp và đấu tranh giai cấp. Các nhà tư tưởng,
nhà cách mạng trong lịch sử không chỉ đề cập mà còn hy sinh, phấn đấu cống hiến
cho lý tưởng xã hội nhân đạo, tiến bộ của nhân loại. Từ những dự án sơ khai của
A.ghít, Clêômen thế kỷ III trước Công nguyên, rồi đạo đức của Khổng Tử, lòng
nhân ái của Thích ca, Giê su…cho đến những mô hình, hệ thống quan điểm ngày
càng hoàn chỉnh, tiến bộ hơn của Tô mát Morơ, H.Xanhximông, R.Ôoen, S.Phuriê.
12


Vào thời đại của C.Mác và Ph.Ănghen lý tưởng cộng sản chủ nghĩa đã phát triển
và được đặt trên cơ sở khoa học. Đến giai đoạn của V.I.Lênin, lý tưởng đó được bổ
sung, phát triển và bước đầu hiện thực hóa trong cuộc sống.
* Điều kiện khách quan cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.
Điều kiện kinh tế - xã hội
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
đã được khẳng định, thống trị ở Anh, Pháp và ở Đức. Nước Anh đã hoàn thành
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất vào năm 1820, trở thành cường quốc
kinh tế số một lúc đó. Nước Pháp đang tiến hành cách mạng công nghiệp lần nhất

từ 1820 - 1860. Từ năm 1830 đến năm 1841 ở các nước Anh, Pháp, Đức số đầu
máy hơi nước tăng 9 lần; sản lượng khai thác than, sản xuất thép tăng 3 lần; độ dài
đường sắt tăng 13 lần; hàng hải phát triển khá mạnh.
Những thành tựu của khoa học - kỹ thuật mới đã được vận dụng khá nhanh
và hiệu quả vào việc phát triển nền công nghiệp hiện đại và nền kinh tế của chủ
nghĩa tư bản (còn gọi là “nền đại công nghiệp”). Nền công nghiệp hiện đại là nền
tảng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa tư bản, nhất là từ đầu thế kỷ XIX để có
thể phát triển ngày càng nhanh hơn, cao hơn. Phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã tỏ rõ tính “ưu việt” hơn hẳn so với phương thức sản xuất phong kiến lỗi
thời, lạc hậu. C.Mác đã thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản ra đời chỉ vài ba thế kỷ
nhưng sẽ tạo ra một khối lượng hàng hóa khổng lồ bằng tất cả các phương thức sản
xuất khác gộp lại.
Tính quy luật phổ biến của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa là sự phát triển của
lực lượng sản xuất dựa vào sựu phát triển của công nghiệp, của khoa học và công
nghệ phát triển ngày càng cao, cho nên tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất
dẫn đến quốc tế hóa ngày càng cao. Tính quy luật “xã hội hóa” đó đã ngày càng
mâu thuẫn với tính chất “tư nhân tư bản chủ nghĩa” của quan hệ sản xuất của chủ
nghĩa tư bản. Mâu thuẫn này không thể giải quyết triệt để, chừng nào còn chế độ tư
hữu bản chủ nghĩa. Một tính quy luật nữa là do nền kinh tế tư bản chủ nghĩa mở
rộng ra toàn cầu, trước hết là xâm chiếm thuộc địa, mở rộng thị trường, khai thác
nguồn lực mọi quốc gia, do vậy mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất trên phạm vi toàn cầu.
Điều kiện chính trị - xã hội
Chủ nghĩa tư bản đang tiếp tục phát triển làm cho mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ngày càng tăng; làm phá sản hàng loạt người
lao động; phân hóa giàu nghèo ngày càng sâu sắc; giai cấp vô sản tăng nhanh về
13


số lượng. Mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt.

Những cuộc đấu tranh độc lập đầu tiên ra đời đã báo hiệu một thời kỳ bão táp
cách mạng. Nhưng các cuộc cách mạng đó đều bị thất bại vì thiếu một đường lối
dẫn đường của chính đảng cách mạng.
Giai cấp công nhân đã bước lên vũ đài chính trị với tư cách là một lực lượng
chính trị - xã hội độc lập trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản với quy mô sâu
rộng. Điển hình là ba cuộc đấu tranh độc lập đầu tiên của giai cấp công nhân: Cuộc
khởi nghĩa của công nhân thành phố Liông ở Pháp năm 1831 - 1834, cuộc khởi
nghĩa của công nhân dệt Xilêdi ở Đức năm 1844 và Phong trào Hiến chương ở Anh
từ năm 1838 đến năm 1848. Về căn bản, các cuộc đấu tranh đó vẫn không thắng
được giai cấp tư sản do chưa đủ các điều kiện và tính chất triệt của đấu tranh cách
mạng. Bởi vì, khi chưa có một hệ tư tưởng khoa học và một chính đảng cách mạng
lãnh đạo, thì đấu tranh của công nhân vẫn chưa thể là cuộc đấu tranh tự giác - cuộc
đấu tranh giai cấp chống giai cấp tư sản, tiến tới thắng lợi của cách mạng vô sản.
Các cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đầu thế kỷ XIX đã phán ánh khát vọng
cháy bỏng của quần chúng nhân dân lao động mà trước hết là giai cấp công nhân và
những người lao khổ bị áp bức, bóc lột, bần cùng hóa dưới chủ nghĩa tư bản. Lần
đầu tiên trong lịch sử loài người, ước mơ và khát vọng được giải phóng khỏi áp bức,
bất công không chỉ là những dự án nhân đạo, những “sản phẩm văn chương” thuần
túy mà đã được thể hiện thông qua hành động thực tiễn đấu tranh cách mạng với tính
cách là một phong trào độc lập. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản không những đã
tạo ra những tiền đề khách quan phủ định chính nó, mà còn tạo ra những tiền đề vật
chất để xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn. Đây chính là cơ sở thực tiễn làm
cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa sớm trở thành hiện thực.
* Những tiền đề về tư tưởng, lý luận
Lý tưởng cộng sản chủ nghĩa ra đời, đặt trên cơ sở khoa học còn bắt nguồn từ
sự kế thừa những tinh hoa tư tưởng của nhân loại, trực tiếp là những hạt nhân hợp lý
của Triết học cổ điển Đức, Kinh tế chính trị học Anh, Tư tưởng xã hội chủ nghĩa
không tưởng phê phán.
Mặc dù có những hạn chế nhưng Triết học cổ điển Đức với phương pháp luận
biện chứng của Hêghen và thế giới quan duy vật của Phơbách, đã mang lại cái nhìn

mới về thực tiễn xã hội và lịch sử nhân loại. Các nhà triết học thuộc trào lưu này đã
xem con người là nền tảng, đề cao sức mạnh trí tuệ và khả năng hoạt động của con
người. Kinh tế chính trị học Anh với hai đại biểu lớn là Adam Smith, David Ricardo
cho rằng phạm trù lao động là lực lượng khởi tạo nền kinh tế, phạm trù giá trị kinh tế
14


là sự biểu hiện của giá trị chung, đã đề ra ý tưởng tự do kinh tế. Đặc biệt, chủ nghĩa xã
hội không tưởng phê phán giữa thế kỷ XIX đã phê phán sâu sắc chủ nghĩa tư bản, phủ
nhận chế độ tư bản chủ nghĩa, phủ nhận sự tồn tại của chế độ tư hữu; các đại biểu tư
tưởng của trào lưu tư tưởng này đã phác họa các mô hình xã hội tương lai, đưa ra các
dự báo thiên tài về quy luật phát triển xã hội; thấm nhuần tư tưởng nhân văn, nhân
đạo, bênh vực và thức tỉnh ý thức đấu tranh của quần chúng nhân dân chống lại chủ
nghĩa tư bản. Đó là những thành tựu tư tưởng, lý luận mà loài người tích lũy được cho
đến giữa thế kỷ XIX, trở thành tiền đề lý luận, thế giới quan khoa học của sự hình
thành lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
* Vai trò của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đối với sự hình thành, phát
triển lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
Trong quá trình hình thành, phát triển của lý tưởng cộng sản, C.Mác và
Ph.Ăngghen, V.I.Lênin đã có những cống hiến vĩ đại cả ở phương diện lý luận và
thực tiễn. Các ông không chỉ là những lãnh tụ cộng sản sáng lập ra lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa, mà còn thường xuyên tổng kết thực tiễn đấu tranh giai cấp của giai
cấp công nhân để bổ sung, phát triển, hoàn thiện lý tưởng ấy, trở thành học thuyết
khoa học, cách mạng và hoàn bị.
C.Mác và Ph.Ăngghen có công lao to lớn trong việc đưa lý tưởng cộng sản từ
không tưởng trở thành khoa học. Thời kỳ trước C.Mác và Ph.Ăngghen, nhân loại đã
kinh qua các cuộc đấu tranh không biết mệt mỏi cho ước vọng chính đáng vươn tới
một xã hội không có áp bức, bất công, không có người bóc lột người, con người
được sống trong tự do, bình đẳng, hữu ái, nhưng tất cả đều rơi vào bế tắc, con người
vẫn chưa có lối thoát. Sự thay thế của chế độ xã hội từ chiếm hữu nô lệ đến chế độ

xã hội tư bản chủ nghĩa chẳng qua cũng chỉ là sự thay thế hình thức áp bức, bóc lột
này bằng hình thức áp bức, bóc lột khác mà thôi. Nhân loại và các nhà tư tưởng
trước đó chưa lý giải được tính tất yếu, con đường, lực lượng, điều kiện, biện pháp
để hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Vượt lên trên tất cả, với trí tuệ thiên
tài và tình cảm cách mạng, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng, phát triển lý luận
đưa lý tưởng cộng sản từ không tưởng trở thành khoa học:
Trước hết, C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên luận giải sâu
sắc, toàn vẹn về con người - hạt nhân cốt lõi, là phạm trù xuất phát, trung tâm và
là mục tiêu cao cả của lý tưởng cộng sản. Các ông không coi con người là một
thực thể trừu tượng, thuần túy về mặt sinh học, tách khỏi mọi quan hệ ràng buộc
họ với nhau trong xã hội, mà xác định “trong tính hiện thực của nó, bản chất con
15


người là tổng hòa những quan hệ xã hội” 1. Do vậy, muốn giải phóng con người
phải đặt con người trong các quan hệ hiện thực của nó và phải xóa bỏ những
nguồn gốc, nguyên nhân nô dịch, áp bức con người. Đồng thời, hai ông khẳng
định, sự nghiệp giải phóng con người chính do con người thực hiện chứ không
phải là lực lượng siêu nhiên, tôn giáo, thánh thần ở trên hoặc bên ngoài con
người.
Thứ hai, với hai phát kiến vĩ đại là Chủ nghĩa duy vật lịch sử và Học thuyết
giá trị thặng dư, C.Mác, Ph.Ăngghen đã giúp cho nhân loại nói chung, quần chúng
lao động bị áp bức, bóc lột nói riêng có quan niệm đúng đắn về lịch sử thế giới, về
tính tất yếu hiện thực của lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Vận dụng chủ nghĩa duy
vật biện chứng vào nghiên cứu lịch sử xã hội loài người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
mở ra sự đột phá mang tính cách mạng và có ý nghĩa lịch sử trong toàn bộ quan
niệm về xã hội loài người, trên cơ sở trình bày cơ cấu của hình thái kinh tế - xã hội
và quá trình vận động phát triển của nó: “trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của
mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn
của họ - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ

phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những
quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực
trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái
ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất
đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần
nói chung”2. Từ đó, hai ông rút ra kết luận sự phát triển của xã hội loài người từ một
hình thái kinh tế - xã hội này sang một hình thái kinh tế - xã hội khác cao hơn là một
quá trình lịch sử tự nhiên. Do vậy, lý tưởng về xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp,
ra đời sau phát triển, tiến bộ hơn chế độ tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn khách quan,
không phải do sự áp đặt chủ quan của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
nghèo khổ.
C.Mác và Ph.Ănghghen đã vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật
vào phân tích, “mổ xẻ” xã hội tư bản, tìm ra bản chất, quy luật vận động của xã hội
ấy. Với Học thuyết giá trị thặng dư, các ông đã chỉ ra quy luật vận động kinh tế của
xã hội tư bản, vén bức màn “bí mật” của chế độ tư bản là bóc lột giá trị thặng dư
do sức lao động của những người làm thuê tạo ra. Bóc lột giá trị thặng dư là bản
chất, mục tiêu của chủ nghĩa tư bản, Học thuyết này chứng minh một cách khoa
học rằng: Trong chủ nghĩa tư bản, sức lao động của công nhân là loại “hàng hóa đặc
1
2

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 1995, Tr. 523.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 13, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 14 -15.

16


biệt” mà nhà tư bản, giai cấp tư sản đã mua và có những thủ đoạn tinh vi mà chiếm
đoạt ngày càng lớn “giá trị thặng dư” được sinh ra nhờ bóc lột phần công lao động
của công nhân mà nhà tư bản, giai cấp tư sản không trả cho công nhân. Đây là

nguyên nhân làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản không thể
điều hòa trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Thứ ba, với Học thuyết về sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công
nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra lực lượng xã hội có sứ mệnh hiện thực hóa
lý tưởng cộng sản nghĩa. Từ sự phân tích khách quan, khoa học những điều kiện
kinh tế của nền sản xuất tư bản, mâu thuẫn về mặt kinh tế đã biểu hiện ra thành
mâu thuẫn chính trị giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản - hai giai cấp có vai
trò nổi bật nhất và đối lập trực tiếp nhau về lợi ích ngày càng gay gắt trong suốt
thời gian tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Bởi lẽ, xuất phát từ những điều
kiện kinh tế - xã hội khách quan, giai cấp vô sản là giai cấp gắn liền với lực lượng
sản xuất tiên tiến dưới chủ nghĩa tư bản, là con đẻ của nền sản xuất đại công
nghiệp, được nền đại công nghiệp tôi luyện, tổ chức thành một giai cấp không chỉ
có ý chí cách mạng triệt để chống lại ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản mà
còn là giai cấp cách mạng có khả năng giác ngộ về vai trò sứ mệnh lịch sử giải
phóng chính mình bằng cách giải phóng toàn bộ xã hội khỏi chế độ tư bản chủ
nghĩa, thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp vô sản còn
có sứ mệnh giác ngộ, đoàn kết với giai cấp vô sản các dân tộc bị áp bức trên phạm
vi toàn thế giới trong cuộc đấu tranh để hướng tới một xã hội không có người bóc
lột người. Đây là phát hiện tài tình của C.Mác và Ph.Ăngghen, điều mà các nhà tư
tưởng trước đó chưa chỉ ra được.
Như vậy, với các phát hiện của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen đã làm rõ nguồn
gốc sinh ra tư tưởng, không gì khác chính những điều kiện kinh tế của đời sống xã hội
nhất định cùng với những quan hệ xã hội và quan hệ chính trị do các điều kiện ấy quyết
định đã chi phối sự hình thành những quan niệm và tư tưởng của xã hội đó. Trên cơ sở
đó, lần đầu tiên trong lịch sử, lý tưởng cộng sản chủ nghĩa được đặt trên một mảnh đất
hiện thực sinh động, được luận giải từ tình cảm cách mạng, với tri thức khoa học, góp
phần củng cố niềm tin khoa học về một chế độ xã hội cộng sản tốt đẹp trong tương lai.
Những luận giải của C.Mác và Ph.Ăngghen đã trở thành hệ thống lý luận hoàn chỉnh
nó đã trực tiếp đi vào đời sống xã hội, trở thành vũ khí lý luận của giai cấp vô sản và
nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu, lý tưởng cộng sản.

V.I.Lênin phát triển lý tưởng cộng sản chủ nghĩa trong điều kiện lịch sử mới,
đồng thời là người trực tiếp lãnh đạo cách mạng bước đầu hiện thực hóa lý tưởng
17


cộng sản. Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, chiến
tranh thế giới và khủng hoảng sâu sắc của xã hội tư bản chủ nghĩa, lần đầu tiên
cách mạng xã hội chủ nghĩa giành thắng lợi trước tiên ở nước Nga lạc hậu; giai cấp
công nhân và nhân dân lao động bước lên vũ đài chính trị. V.I.Lênin đã cụ thể hóa,
phát triển lý tưởng cộng sản và hiện thực hóa lý tưởng cộng sản, được thể hiện ở
những nét nổi bật sau đây:
Thứ nhất, V.I.Lênin đã đấu tranh không khoan nhượng với các quan điểm sai
trái, chống phá chủ nghĩa Mác, bảo vệ nền tảng tư tưởng, vũ khí lý luận để thực
hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. V.I.Lênin đã đấu tranh, vạch trần luận điệu sai
trái của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán Makhơ, làm rõ một cách có hệ thống
khách quan, khoa học những nguyên lý cơ bản về lý luận nhận thức chủ nghĩa
Mác, cung cấp cho giai cấp vô sản một vũ khí tư tưởng mạnh mẽ để nhận thức và
cải tạo thế giới. Người kịch liệt phê phán phái xã hội học duy tâm Mikhailốpxky để
khẳng định sự thống nhất biện chứng vai trò của cá nhân và giai cấp trong tiến
trình phát triển của xã hội loài người. V.I.Lênin phê phán những quan điểm cực
đoan cho rằng chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước không còn là chủ nghĩa tư bản
nữa, hòng khỏa lấp bản chất của chủ nghĩa tư bản, làm suy giảm động lực, ý chí
đấu tranh cho lý tưởng cộng sản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Thứ hai, V.I.Lênin đã có những dự báo thiên tài về khả năng hiện thực hóa
của lý tưởng cộng sản ở các khía cạnh khác nhau. Về khả năng giành thắng lợi
của giai cấp vô sản, lần đầu tiên V.I.Lênin khẳng một cách có căn cứ khách quan
và có cơ sở khoa học rằng, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản,
cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể giành được thắng lợi trước tiên ở một nước,
thậm chí là ở một nước, nếu nước đó là khâu yếu trong sợi dây truyền của chủ
nghĩa đế quốc. Về nhịp độ, con đường, hình thức tiến lên chủ nghĩa cộng sản, khi

quan niệm chủ nghĩa xã hội là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa, V.I.Lênin đã có những đóng góp kiệt xuất, mang tính đột phá đối
với lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen. V.I.Lênin cho rằng: Bước quá độ từ tư bản
chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội cụ thể có những hình thức khác nhau, tùy thuộc ở
quan hệ đại tư bản hay nền kinh tế nhỏ chiếm ưu thế trong nước. Chỉ ở những
nước mà giai cấp vô sản đã phát triển đầy đủ, thì mới có thể chuyển trực tiếp từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Hoặc ở một nước nếu trong đó nền đại
công nghiệp chiếm ưu thế, hay thậm chí là không chiếm ưu thế nhưng rất phát
triển và có cả nền sản xuất nông nghiệp cũng với quy mô phát triển thì có thể quá
độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội được. V.I.Lênin còn nêu ra dự báo khoa học:
18


“tất cả các dân tộc đều phải đến chủ nghĩa xã hội không phải một cách hoàn toàn
giống nhau; mỗi dân tộc sẽ bổ sung hình thức này hay hình thức khác của chế độ
dân chủ; loại hình hay loại khác của chuyên chính vô sản vào nhịp độ này hay
nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời
sống xã hội”1.
Thứ ba, V.I.Lênin trực tiếp cùng với Đảng Bônsêvích lãnh đạo làm nên thắng
lợi Cách mạng Tháng Mười vĩ đại. Thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga năm
1917 đã mở ra một thời đại mới - Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga là
thực tiễn sinh động để V.I.Lênin tiếp tục tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý tưởng
cộng sản và con đường hiện thực hóa lý tưởng ấy một cách khoa học và cách mạng.
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin còn là những người một lòng sắt son, hiến
dâng trọn đời cho lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Tuy có nguồn gốc xuất thân gia đình
khác nhau, sinh ra trong thời đại khác nhau, nhưng điểm chung ở ba ông là đã tự
nguyện dành tất cả trái tim, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp
công nhân, nhằm thực hiện mục tiêu, lý tưởng cao đẹp là giải phóng giai cấp, giải
phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng nhân loại thoát khỏi mọi xiềng xích

của giai cấp thống trị bóc lột, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trên
toàn thế giới.
Ở C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin còn thể hiện một nghị lực phi thường, trí
tuệ uyên bác và trái tim nồng cháy khi tham gia phong trào đấu tranh cách mạng của
giai cấp công nhân, sẵn sàng hy sinh cuộc sống và lợi ích riêng tư, xả thân cống hiến
hết mình cho sự nghiệp cách mạng vô sản. Các ông không chỉ là lãnh tụ của phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế mà còn là hình mẫu về sự cống hiến cho lý
tưởng cộng sản chủ nghĩa, cho sự nhiệp giải phóng con người.
1.2. Con đường hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa
Hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là tổng thể các hoạt động tự giác
của các chủ thể xã hội, trên cơ sở nắm vững và vận dụng đúng đắn các quy luật
khách quan, đề ra con đường, phương pháp, điều kiện, giải pháp phù hợp và tổ chức
thực hiện sáng tạo, hiệu quả, làm cho các giá trị của lý tưởng cộng sản chủ nghĩa trở
thành hiện thực trong đời sống xã hội.
Hiện thực hóa lý tưởng cộng sản là những hoạt động thực tiễn để từng bước đạt
được những giá trị về tự do, dân chủ, công bằng, bình đẳng, bác ái… của con người,
loài người trong đời sống hiện thực. Đó là nhu cầu, khát vọng chân chính cao đẹp của
1

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 36, Nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcova.1978, tr. 160.

19


con người và xã hội nhằm xây dựng một xã hội mới hoàn toàn khác hẳn về chất so
với các chế độ xã hội trước đó và vươn tới một xã hội văn minh đích thực. Quá trình
đó, được thực hiện thông qua vai trò tích cực chủ quan của các chủ thể xã hội, trước
hết là Đảng cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa và các đoàn thể chính trị - xã hội,
cùng với giai cấp công nhân, nhân dân lao động, được tập hợp, đoàn kết, đấu tranh
giành chính quyền về tay mình, tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng và phát triển xã

hội mới có đầy đủ các giá trị của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là hoạt động có ý thức, tự giác cao
của đông đảo quần chúng tiến bộ, được tổ chức chặt chẽ bằng những con đường, giải
pháp sáng tạo, phù hợp với sự vận động của thực tiễn khách quan, với những điều
kiện, khả năng tuân theo quy luật phổ biến và quy luật đặc thù. Đó chính là quá trình
biện chứng giữa những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của các chủ thể xã
hội. Những mục tiêu lý tưởng - giá trị cao đẹp của chủ nghĩa cộng sản không phải và
không chỉ thực hiện một lần trong một giai đoạn là xong xuôi, mà là được hiện thực
hóa dần dần, từng bước, nhằm đạt được những mục tiêu trực tiếp, trước mắt, cũng
như những mục tiêu cơ bản lâu dài; đồng thời, phấn đấu liên tục để đi tới mục tiêu
cuối cùng của xã hội cộng sản văn minh. Con đường hiện thực hóa những mục tiêu lý
tưởng ấy là không hề thẳng tắp, trơn tru, bằng phẳng. Nó phải trải qua nhiều giai đoạn
với những mục tiêu, giải pháp, điều kiện khác nhau; có cả những cơ hội, thuận lợi đan
xen không ít khó khăn, thách thức; có cả những thành tựu lẫn hạn chế, khuyết tật,
phản ánh con đường quanh co, phức tạp, thậm chí có bước thụt lùi và rút ra bài học
kinh nghiệm để sửa chữa, khắc phục, khẳng định những giá trị của lý tưởng cộng sản,
tạo tiền đề điều kiện cho những bước phát triển tiếp theo.
Thực chất quá trình hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa là tiến hành
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa để từng bước đạt được các giá trị của chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa cộng sản, thực hiện đồng thời 4 sự nghiệp giải phóng: Giải
phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người và giải phóng nhân loại
thoát khỏi áp bức, bóc lột, bất công, tiến hành cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội
mới có nền tảng vật chất và tin thần vững chắc, thỏa mãn những nhu cầu cơ bản
của con người và xã hội. Đó là một xã hội phản ánh trình độ văn minh cao; ở đó,
không còn sự bất công cũng như tình trạng người bóc lột người; có nền kinh tế,
chính trị, văn hoá - xã hội phát triển; con người thực sự được tự do và có cơ hội
phát triển các giá trị người.
Con đường hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa được thể hiện ở tiến trình
cách mạng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực cơ bản của đời sống xã hội.
20



1.2.1. Lật đổ chính quyền nhà nước của giai cấp tư sản, giành chính
quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Đây là mục tiêu trực tiếp, trước mắt giữ vị trí quan trọng hàng đầu nhằm tạo
tiền đề, điều kiện để hiện thực hóa những mục tiêu giai đoạn tiếp theo của lý tưởng
cộng sản. Chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản đầu tiên của mọi cuộc cách mạng
xã hội. Cuộc cách mạng vô sản không phải là ngoại lệ. Giai cấp công nhân phải lãnh
đạo quần chúng nhân dân lao động lật đổ chính quyền nhà nước của giai cấp tư sản,
giành chính quyền về tay mình là mục tiêu và điều kiện tiên quyết để bước vào cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa và đi tới xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Đối với chính quyền nhà nước của giai cấp tư sản đã có trên 5 thế kỷ ra đời,
tồn tại và đóng một vai trò hết sức quan trọng trong lịch sử. Thế nhưng, chính
quyền nhà nước ấy ngay từ khi ra đời đã mang bản chất của một giai cấp thống trị
bóc lột. Những lý tưởng ước muốn về một xã hội tự do, dân chủ, bình đẳng, với
một chính quyền nhà nước đại diện cho ý chí, quyền lợi của nhân dân không những
không được đáp ứng, mà còn bị trói buộc, cắt xén, xâm phạm. Chính quyền nhà
nước của giai cấp tư sản là công cụ chủ yếu để bảo vệ lợi ích cho họ. Trong tác
phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác và Ph.Ăngghen đã vạch trần tính
chất phản động của nhà nước tư sản. Bằng những khẩu hiệu “Tự do - Bình đẳng Bác ái”, giai cấp tư sản đã thu hút được sự tham gia của giai cấp vô sản vào cuộc
đấu tranh xóa bỏ chế độ quân chủ phong kiến chuyên chế. Nhưng sau khi giành
được chính quyền, giai cấp tư sản phản bội lại quyền lợi của giai cấp vô sản. Chúng
dùng nhà nước làm công cụ để đàn áp các cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp vô
sản. Ph.Ăngghen đã khẳng định: “chủ yếu nhà nước là công cụ bảo vệ quyền lợi cho
giai cấp thống trị, đàn áp và nảy sinh ra từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối lập
giai cấp, nhà nước là của giai cấp có thế lực nhất,… và do đó có thêm được những
phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức”1. Khi chủ nghĩa tư bản phát
triển ở giai đoạn cao nhất, thì chính quyền nhà nước của giai cấp tư sản đã bộc lộ
đẩy đủ bản chất bóc lột, ăn bám, thối nát và phản động toàn diện. Phương thức sản

xuất tư bản chủ nghĩa càng phát triển thì giai cấp tư sản càng có điều kiện và chú
trọng việc tổ chức xây dựng bộ máy chính quyền nhà nước khổng lồ nhằm củng cố
quyền lực thống trị của chúng.
Bản chất của chính quyền nhà nước tư sản là do chính nội tại của xã hội tư
bản quyết định, bởi những cơ sở kinh tế, xã hội và tư tưởng. Cơ sở kinh tế của
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 21, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 1995, tr. 255.

21


chính quyền nhà nước tư sản là nền kinh tế dựa trên phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Cơ
sở xã hội của nhà nước tư sản là một kết cấu xã hội phức tạp, trong đó có hai giai
cấp cơ bản cùng tồn tại song song, nhưng lại khác nhau về địa vị, bản chất chính trị
và có lợi ích đối kháng nhau là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Trong đó, giai
cấp tư sản giữ vai trò thống trị. Mặc dù giai cấp tư sản chỉ chiếm thiểu số trong xã
hội, nhưng lại là giai cấp nắm hầu hết toàn bộ tư liệu sản xuất và chiếm đoạt những
nguồn tài sản lớn của xã hội, thực hiện sự bóc lột và áp bức tàn bạo đối với giai
cấp vô sản làm thuê. Còn giai cấp vô sản là lực lượng đông đảo, đồng thời là lực
lượng lao động chính trong xã hội tư bản. Về phương diện pháp lý, họ được tự do
nhưng không có tư liệu sản xuất, nên chỉ là những người làm thuê, phải bán sức lao
động cho giai cấp tư sản. Ngoài ra, trong xã hội tư bản còn nhiều tầng lớp khác
như nông dân, tiểu tư sản, trí thức…, nhưng không được thống nhất về tư tưởng và
lợi ích. Cơ sở tư tưởng của chuyên chính tư sản là hệ tư tưởng tư sản, bảo vệ cho
quyền, lợi ích, sự thống trị của giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản luôn tuyên truyền về
tư tưởng dân chủ đa nguyên, nhưng trên thực tế, họ luôn tìm mọi cách bảo đảm độc
tôn của ý thức hệ tư sản, ngăn cản mọi sự phát triển và tuyên truyền tư tưởng, tiến
bộ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.

Từ mục đích, bản chất của chính quyền nhà nước tư sản cho thấy, không bao
giờ chính quyền nhà nước ấy đại diện cho ý chí, nguyện vọng, đảm bảo quyền tự
do, dân chủ và lợi ích của giai cấp vô sản và đại đa số nhân dân. Chính quyền nhà
nước ấy cần phải được thay thế bằng một chính quyền cách mạng của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động. Bởi vậy, giành lấy chính quyền về tay giai cấp
công nhân, nhân dân lao động là vấn đề cơ bản, là điều kiện tiên quyết của cách
mạng xã hội chủ nghĩa - con đường hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản là đấu tranh
lật đổ chủ nghĩa tư bản, đập tan nhà nước tư sản, giành chính quyền và xây dựng
nhà nước chuyên chính vô sản - nhà nước kiểu mới. Nhà nước kiểu mới sẽ bảo vệ
quyền lợi của giai cấp vô sản và quần chúng nhân dân lao động. Hai ông nhấn
mạnh, “Bước thứ nhất của cách mạng, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” 1 và
tổ chức thành giai cấp thống trị để giành lấy dân chủ.
Để giai cấp công nhân thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng ấy, phải có
những tiền đề khách quan và điều kiện chủ quan. Xã hội hóa sản xuất là tiền đề
quan trọng hàng đầu thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn cơ bản trong lòng
1

C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 1995, tr. 615.

22


phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đó là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa
của lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất dựa trên tính chất tư nhân tư bản chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất. Khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa càng phát
triển, thì mâu thuẫn này càng tăng và đẩy tới đỉnh điểm. Mặc dù nhà nước của giai
cấp tư sản có sự điều chỉnh bằng các chính sách, biện pháp nhằm xoa dịu hoặc làm
giảm đi tính chất đối kháng của mâu thuẫn, song không thể che đậy được bản chất
của nhà nước tư sản. Mâu thuẫn lợi ích cơ bản giữa giai cấp công nhân với giai cấp

tư sản ngày càng tăng, không thể điều hòa được là động lực chủ yếu phải thay thế
chính quyền nhà nước tư sản bằng chính quyền của nhà nước vô sản, làm tiền đề
thực hiện các mục tiêu chính trị tiếp theo.
Những điều kiện chủ quan, trước hết giai cấp công nhân phải phát triển cả về
số lượng và chất lượng. Sự phát triển về chất của giai cấp công nhân được thể hiện
trên hai mặt: Năng lực làm chủ công nghệ hiện đại và ý thức giác ngộ giai cấp, dân
tộc. Giai cấp công nhân cần phải đạt tới trình độ giác ngộ cao về chính trị, nhất là
trình độ giác ngộ giai cấp. Họ phải trở thành “giai cấp dân tộc”, đại biểu cho lợi ích
chân chính của dân tộc, vươn lên địa vị lãnh đạo xã hội giải quyết các nhiệm vụ
của lịch sử đặt ra. Một điều kiện quan trọng nhất là giai cấp công nhân phải tổ chức
ra chính đảng của mình. Chính đảng ấy phải trưởng thành về chính trị, tư tưởng và
tổ chức để truyền bá, giác ngộ lý luận khoa học và cách mạng cho giai cấp công
nhân, đoàn kết, lãnh đạo “tổ chức những người vô sản thành giai cấp, lật đổ sự
thống trị của giai cấp tư sản, giai cấp vô sản giành lấy chính quyền” 1. Vị trí, vai trò
lãnh tụ chính trị và sức mạnh của đảng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với quần
chúng nhân dân, trong đó, trực tiếp và trung tâm nhất là mối liên hệ với giai cấp
công nhân.
Phương thức để giai cấp công nhân, nhân dân lao động tiến hành lật đổ
chính quyền nhà nước của giai cấp tư sản, giành chính quyền về tay mình là phải
sử dụng bạo lực cách mạng một cách triệt để. Sử dụng bạo lực cách mạng là quy
luật phổ biến trong các cuộc cách mạng xã hội, nhất là giai đoạn giành và giữ
chính quyền. Giai cấp công nhân sử dụng bạo lực cách mạng để giành chính quyền
chỉ là điều kiện, chứ không phải là mục đích, không phải là ý chí chủ quan, càng
không phải là nguyên nhân để sản sinh ra xã xã hội mới. C.Mác và Ph.Ăngghen đã
khẳng định: “Bạo lực còn là bà đỡ cho mọi xã hội cũ đang thai nghén một xã hội
mới; bạo lực là công cụ mà sự vận động xã hội dùng để tự mở đường cho mình và
đập tan những hình thức chính trị đã hóa đá và chết cứng” 2. Đối với cuộc cách
1
2


C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 1995, tr. 615.
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 20, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 1995, tr. 259.

23


mạng vô sản, V.I.Lênin đã khẳng định “không có cách mạng bạo lực thì không thể
thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản được” 1. Bởi lẽ, giai cấp tư sản
trong quá trình thống trị xã hội đã không từ một thủ đoạn nào sử dụng chính quyền
nhà nước để bóc lột, đàn áp phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động, nhằm củng cố, bảo vệ địa vị thống trị của chúng. Bản chất của giai cấp tư
sản là luôn sử dụng bạo lực phản cách mạng để trấn áp, đè bẹp các phong trào cách
mạng; chúng rất ngoan cố không bao giờ tự giác trao chính quyền cho giai cấp
công nhân, kể cả khi chính quyền ấy rệu rã, lung lay. Chủ nghĩa tư bản là một thế
lực quốc tế, có bộ máy quân sự khổng lồ và kinh nghiệm đàn áp cách mạng. Giai
cấp công nhân và các lực lượng cách mạng nếu chỉ sử dụng phương thức đấu tranh
chính trị, hoặc sử dụng bạo lực một cách nửa vời, không triệt để thì không thể đập
tan bộ máy quân sự khổng lồ ấy. Hơn nữa, khi bị đe dọa hoặc mất chính quyền thì
chúng điên cuồng chống trả và không từ một thủ đoạn nào để giữ lấy chính quyền.
Sử dụng bạo lực cách mạng có nhiều hình thức tùy theo hoàn cảnh lịch sử cụ
thể thay đổi. Đó là sự kết hợp giữa “bạo lực vũ trang” với “bạo lực chính trị”, giữa
đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, giữa phương pháp hòa bình và phương
pháp không hòa bình, trở thành phương thức chủ yếu của bạo lực cách mạng. Tuy
nhiên, trong đấu tranh giành chính quyền, phương pháp hòa bình là quý và hiếm,
nhưng có thể được vận dụng trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Giai cấp công
nhân không nhất thiết phải phá hủy toàn bộ bộ máy nhà nước cũ, chỉ cần phá hủy
cấu trúc cơ bản của nó; cần sử dụng có cải tạo những thể chế và bộ phận còn lại có
tác dụng tích cực để làm công cụ thực hiện sự chuyển hóa từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội. Bên cạnh đó, các lực lượng cách mạng phải thường xuyên nắm
bắt sự vận động các điều kiện khách quan, kết hợp chặt chẽ với các nhân tố chủ

quan. Đặc biệt, phải tạo ra tình thế và thời cơ để nổi dậy giành chính quyền. Giai
cấp công nhân và quần chúng cách mạng phải thực hiện tinh thần cách mạng tiến
công liên tục, kiên quyết, làm cho kẻ thù không kịp trở tay, không có cơ hội để
củng cố lại lực lượng, tập hợp sức mạnh của chúng.
Có thể nói, mục tiêu lý tưởng lật đổ chính quyền nhà nước của giai cấp tư
sản, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân, nhân dân lao động là một tất yếu
khách quan, phản ánh lô gic - lịch sử của quá trình kinh tế - xã hội và chính trị - xã
hội. Trên con đường đó, giai cấp công nhân phải luôn giữ vững vai trò lãnh đạo
cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản. Đảng cộng sản luôn nắm
vững sự vận động của các quy luật khách quan, những mâu thuẫn bản chất, đối
1

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nhà xuất bản Tiến bộ Matxcova. 2005, tr. 47.

24


kháng trong lòng xã hội; kịp thời nắm bắt tình thế, thời cơ cách mạng; tổ chức tập
hợp quần chúng tiến bộ, sử dụng các hình thức, phương pháp cách mạng phù hợp
giành chính quyền, thiết lập nhà nước xã hội chủ nghĩa, tạo tiền đề cho quá trình
hiện thực hóa các mục tiêu lý tưởng giai đoạn tiếp theo.
1.2.2. Tiến hành cải tạo, xây dựng, phát triển xã hội theo mục tiêu xã hội
chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động tổ chức đấu tranh lật đổ
chính quyền nhà nước tư sản, giành chính quyền về tay mình mới chỉ là mục tiêu
bước đầu. Mục tiêu tiếp theo, khó khăn, phức tạp hơn là phải ra sức củng cố, xây
dựng, bảo vệ và sử dụng chính quyền nhà nước ấy để tổ chức cải tạo xã hội cũ, xây
dựng, phát triển xã hội mới trên các lĩnh vực theo mục tiêu lý tưởng xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Thứ nhất: Giải phóng con người thoát khỏi áp bức bóc lột, bất công, mang

lại tự do, bình đẳng, hạnh phúc, tạo ra những tiền đề, điều kiện cơ bản cho con
người phát triển toàn diện.
Đây là giá trị cao nhất mà con đường hiện thực hóa lý tưởng cộng sản chủ
nghĩa hướng tới. Việc giành chính quyền, độc lập, tự do, dân chủ - giải phóng con
người về chính trị suy cho cùng cũng là để giải phóng con người về kinh tế, về đời
sống vật chất và tinh thần. Dù lúc đầu mới có chính quyền, trình độ kinh tế, mức
sống vật chất của nhân dân còn thấp, nhưng đã bước vào xây dựng chủ nghĩa xã
hội - giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, thì không còn áp bức, bóc lột, bất công
với tư cách một chế độ xã hội. Đây là những tiền đề chính trị, kinh tế khác về bản
chất so với các chế độ cũ để từng bước thực hiện giải phóng con người và phát
triển con người toàn diện.
Lý tưởng về giải phóng con người đã được phản ánh tập trung trong tác
phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, “Toàn bộ lôgic của Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản đều xuất phát từ yêu cầu giải phóng con người khỏi áp bức, bất công và
hướng tới mục đích nhân văn cao cả là mang lại ấm no, hạnh phúc và sự phát triển
toàn diện cho con người, cho nhân loại” 1. Trong tác phẩm này, đã khẳng định mục
tiêu cao cả nhất cần đạt đến là phát triển tự do cho tất cả mọi người. Phải “Thay
cho xã hội tư sản cũ, với nhưng giai cấp và đối kháng giai cấp của nó, sẽ xuất hiện
một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người”2. Ở đây, vấn đề giải phóng con người không chỉ
1

Nguyễn Ngọc Long (Chủ biên - 2009), Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai của chủ nghĩa xã hội hiện thực,
Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 72.
2
C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, năm 1995, tr. 628.

25



×