Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn một số kinh nghiệm trong công tác huy động XHHGD ở trường mầm non bãi trành năm học 2015 2016 và 2016 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.5 KB, 19 trang )

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chon đề tài
Đất nước ta đang thời kỳ CNH-HĐH và hội nhập quốc tế, để đáp ứng
được yêu cầu cách mạng mới đó đòi hỏi phải có nguồn nhân lực đủ mạnh cả về
số lượng và chất lượng.Vì con người vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển của xã hội. Để làm được điều đó không có con đường nào tốt hơn
bằng công tác giáo dục. Chính vì vậy Đảng ta đã khẳng định “Giáo dục và Đào
tạo là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài” [1]; Nghị quyết Đại hội XI của Đảng một lần nữa đã tiếp tục khẳng
định vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo đồng thời xác định, định hướng
nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo. Đặc biệt, Nghị quyết số
29-NQ/TW, ngày 4-11-2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã chỉ rõ
“Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế” đã xác định rõ các quan điểm, mục tiêu phát triển giáo dục
và đào tạo trong thời gian tới; các giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển
giáo dục và đào tạo; định hướng các mục tiêu, đối tượng cần ưu tiên đầu tư từ
nguồn ngân sách nhà nước và đổi mới chính sách, cơ chế tài chính để huy động
sự tham gia đóng góp của xã hội vào phát triển giáo dục và đào tạo, góp phần
hoàn thành mục tiêu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo.
Để tạo hành lang pháp lý cho các nguồn lực của xã hội đầu tư nhiều hơn vào
giáo dục, đào tạo và tạo thuận lợi cho các cơ sở giáo dục được hưởng chính sách
ưu đãi xã hội; Chính phủ đã ban hành Nghị định số 69/2008/NĐ-CP về chính
sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy
nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường; Nghị định số 59/2014/NĐ-CP sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 69/2008/NĐ-CP cho phù hợp với tình
hình thực tiễn. Tất cả các chủ trương trên của Đảng nhằm thực hiện mục tiêu của
giáo dục và Đào tạo là phát triển con người toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể
chất, thẩm mỹ và năng lực nghề nghiệp... nhằm đáp ứng yêu cầu kinh tế xã hội
và tiến bộ khoa học công nghệ. Mục tiêu đó không thể tiến hành được nếu môi
trường gia đình và xã hội không lành mạnh, nếu kinh tế, khoa học công nghệ


không phát triển đến một trình độ nào đó. Chỉ có sự tham gia trực tiếp hay gián
tiếp của gia đình và xã hội mới tạo ra môi trường thuận tiện cho GD, khi đó GD
mới có điều kiện thực hiện mục tiêu một các tốt nhất. Phải khẳng định rằng phát
triển giáo dục là sự nghiệp của toàn xã hội, của nhà nước và mỗi cộng đồng, của
từng gia đình và mỗi người dân.
Trong những năm qua Đảng và nhà nước ta đã không ngừng đầu tư mọi
nguồn lực cho GD, tuy nhiên việc đầu tư chưa thể đáp ứng được theo yêu cầu
giáo dục đương đại. Do đó các điều kiện cần và đủ để đáp ứng cho GD chưa
ngang tầm với yêu cầu đặt ra, làm cho công tác GD gặp nhiều khó khăn bất cập,
CSVC-TTB thiếu thốn, sự phối hợp vào cuộc của các lực lương khác trong xã
hội chưa rõ nét, chưa thường xuyên, cơ bản là trông cậy vào nhà trường là chính,

1


chưa tạo được sức mạnh tổng hợp để đầu tư cho GD ...dẫn đến chất lượng GD
chưa cao, chưa ngang tầm với vị trí “ GD là quốc sách hàng đầu”...
Trường MN Bãi Trành nằm trong tình trạng này, do vậy nhà trường có
lịch sử phát triển nhiều năm mà CSVC-TTB thiếu thốn, cảnh quan môi trường
đơn điệu, chất lượng tuy có tăng lên tuy nhiên tăng chậm và thiếu sự bền vững,
chưa tương xứng với điều kiện kinh tế, dân trí, văn hóa mà địa phương hiện có.
Chính vì vậy tôi đã chọn “ Một số kinh nghiệm trong công tác huy động xã hội
hoá giáo dục ở trường mầm non Bãi Trành năm học 2015-2016 và 2016-2017”
làm đề tài nghiên cứu với hy vọng huy động được nhiều nguồn lực để phát triển
nhà trường, từng bước đáp ứng yêu cầu về nâng cao chất lượng chăm sóc nuôi
dưỡng giáo dục trẻ đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH và hội nhập quốc tế.
2.Mục đích nghiên cứu
Mục đích đề tại hướng tới là huy động các nguồn lực đầu tư cho việc nâng
cao chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục (CSNDGD) trẻ
3. Đối tượng nghiên cứu

Đề tài hướng tới là các giải pháp để huy động sự tham gia của các lực
lượng trong xã hội cho nhà trường
4.Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận, khảo sát, điều tra thực trạng, phân tích, so sánh,
tổng hợp, thống kê ...
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
XHHGD là huy động mọi nguồn lực đầu tư khác từ các lực lượng xã hội,
các cá nhân cho GD, thực hiện Nhà nước và nhân dân cùng làm để phát triển
GD. Công tác GD, đặc biệt là GD thế hệ trẻ được giao cho một thiết chế chuyên
biệt- thiết chế GD.Thiết chế này bao gồm hệ thống các ngành học, bậc học mà
đơn vị cơ sở là nhà trường. Nhà trường giữ vai trò chủ đạo trong công tác
XHHGD bên cạnh các lực lượng xã hội với vai trò riêng mang tính đặc thù của
từng lực lượng xã hội đó. Chúng ta đã biết đầu tư cho GD là đầu tư cho phát
triển, vì vậy Đảng và nhà nước ta thường xuyên có những chính sách và giải
pháp để thúc đẩy nền GD nước nhà. “ Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động
viên các tầng lớp nhân dân xây dựng nền GD quốc dân dưới sự quản lý của nhà
nước” [2]; XHHGD còn được chính phủ ta cụ thể hoá bằng “ Phương hướng và
chủ trương xã hội hoá công tác GD, y tế, văn hoá”[3]. Về phía ngành GD&ĐT
cũng đã có những quy định rất cụ thể về công tác XHHGD; "Mọi tổ chức, gia
đình và công dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp GD, phối hợp với nhà
trường thực hiện mục tiêu GD, xây dựng môi trường GD lành mạnh và an toàn"
[4].
Trong giai đoạn hiện nay XHHGD đã phát triển mạnh mẽ nhiều nơi trong
cả nước, đặc biệt là các vùng kinh tế phát triển. Điều đó càng chứng tỏ tính đúng
đắn của chủ trương này, nó như một giải pháp thực sự có hiệu quả cao trong
công tác phát triển GD &ĐT. Bởi lẽ chính nội dung đặc thù của XHHGD mang
bản chất rõ ràng: “ Bản chất của XHHGD là biến việc GD của một số người
2



thành việc GD của mọi người, là tạo thời cơ để mọi tầng lớp nhân dân tham gia
trực tiếp vào việc công tác GD trong một hệ thống điều khiển đựơc” [5]. Điều
này thể hiện rất rõ đặc điểm của XHHCTGD; Đó là:Việc huy động sức mạnh
tổng hợp của các ngành liên quan đến GD vào việc phát triển sự nghiệp GD. Sự
huy động này được làm thường xuyên theo một cơ chế vận hành xác định, được
xây dựng từ cấp trung ương đến địa phương trên cơ sở phát triển chiến lược GD
lâu dài cho cả nước cũng như cho mỗi địa phương, địa bàn dân cư nhất định.
Việc huy động các lực lượng trong cộng đồng tham gia vào công tác GD
trên nhiều lĩnh vực hoạt động, với nhiều hình thức đa dạng; Các lực lượng đó là:
Mặt trận Tổ quốc, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội cha mẹ học sinh,
Hội Khuyến học, Hội liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân...đặc biệt là gia đình, họ
tộc đang ngày càng đóng vai trò trực tiếp quan trọng trong công tác GD. Sự
tham gia của các lực lượng này sẽ làm cho GD gắn bó với cộng đồng, do cộng
đồng thực hiện và vì lợi ích cộng đồng.
XHHGD còn là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về
nhân lực, vật lực, tài lực trong xã hội, phát huy và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực từ nhân dân, tạo điều kiện cho GD phát triển. Đây là giải pháp lâu dài
vừa có tính thời sự, vừa mang tính chiến lược trong điều kiện nhà nước ta chưa
có đủ kinh phí cần thiết đầu tư cho các hoạt động GD ngang tầm yêu cầu thời
đại đặt ra.
XHHGD chỉ có thể thực hiện thành công khi có sự lãnh đạo trực tiếp,
thường xuyên của Đảng, sự quản lý chặt chẽ của nhà nước và vai trò chủ đạo
nòng cốt là của ngành GD. Trên thế giới XHHGD được sử dụng bằng thuật ngữ
“ Sự tham gia của cộng đồng vào GD”; Rõ ràng XHHGD là một thuật ngữ được
sử dụng rộng rãi trên thế giới.
2. Thực trạng của công tác XHHGD trước khi áp dụng đề tài
2.1. Đặc điểm tình hình
Trường MN Bãi Trành đóng trên địa bàn xã Bãi Trành huyện Như Xuân,
là xã thuộc chương trình 30 a của Chính phủ; Tổng số hộ 1.258, với 5.488 nhân

khẩu. Nhà trường được thành lập từ năm 1991; Cán bộ quản lý của trường đã 2
lần thay đổi Hiệu trưởng. Qua 24 năm xây dựng và trưởng thành trường đã
chuyển địa điểm 2 lần, nhà trường đã có nhiều cố gắng trong quản lý chỉ đạo
nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Hàng năm chất lượng mũi nhọn của
trường luôn đạt được ở mức khá trở lên.Tuy nhiên nhà trường vẫn chưa tạo được
ngôi trường thân thiện- xanh- sạch- đẹp.Trong quá trình xây dựng và trưởng
thành nhà trường đã chịu những tác động như sau:
2.2.Thuận lợi
Công tác XHHGD của nhà trường đã được Đảng,chính quyền địa phương,
Phòng GD&ĐT, UBND huyện quan tâm, bằng việc ra các văn bản hướng dẫn
thực hiện XHHGD; Thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra các nhà trường thực hiện
công tác XHHGD đúng đường lối của Đảng, nhà nước; Công tác XHHGD đã và
đang ngày càng thấm nhuần sâu rộng hơn trong cấp uỷ Đảng, chính quyền và
toàn thể nhân dân, nhất là lực lượng cán bộ quản lý nhà trường của các bậc học.
3


Đội ngũ CBGVNV cơ bản trẻ, khỏe,100 % đã đạt đạt trình độ chuẩn trở
lên, đa số CBGVNV yêu nghề, luôn bám lớp, bám trường, đoàn kết; Môi trường
GD lành mạnh; Các đồng chí trong Ban giám hiệu đều là những người năng
động, sáng tạo, tận tụy, tâm huyết, luôn đi đầu trong mọi phong trào thi đua.
Hàng năm nhà trường đều có giáo viên dạy giỏi, học sinh giỏi cấp huyện, có
năm đã có học sinh và giáo viên giỏi cấp tỉnh.
2.3. Khó khăn
Sự nhận thức về XHHGD của một bộ phận không nhỏ cán bộ ban ngành
đoàn thể và nhân dân ở địa phương chưa thật sự sâu sắc, có khi còn mơ hồ cho
rằng XHHGD là nếu có tiền thì ủng hộ một ít, nếu không có thì thôi, tất cả là
trách nhiệm của nhà nước và của các nhà trường. Một số ít người hiểu đúng về
vấn đề XHHGD thì lực bất tòng tâm, vật chất không có; không có điều kiện
tham gia hội họp ở những chỗ, những nơi có thể góp ý tuyên truyền được cho

GD. Một số cán bộ xã, cán bộ thôn bản có hiểu biết nhất định về XHHGD thì
thiếu phương pháp tuyên truyền do năng lực thuyết trình còn hạn chế, nhất là
các cán bộ đoàn thể ở xã, ở thôn bản mà ở đó họ là lực lựợng chủ chốt…. Tất cả
các vấn đề trên đều ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả công tác
chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ, nhất là trẻ mầm non vì bậc học mầm non là
bậc học còn non trẻ so với các bậc học trên, là bậc học đòi hỏi đầu tư CSVCTTB phải đồng bộ và tỷ mỉ trong khi nhà nước ta chưa đủ sức đáp ứng được
theo yêu cầu đặt ra. Đòi hỏi phải có sự đầu tư từ nhiều phía đặc biệt là các nguồn
lực từ trong nhân dân, các thành phần kinh tế, các tổ chức, cá nhân, doanh
nghiệp…
2.4. Nguyên nhân của những thực trạng trên
Công tác tham mưu và tuyên truyền về XHHGD chưa thường xuyên. Các
hình thức XHHGD chưa phong phú, đa dạng.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhân dân địa phương, trong đó
có cả giáo viên, nhân viên của trường chưa thật sự quan tâm đến công tác
XHHGD, một bộ phận khác lại nặng tư tưởng trông chờ ỷ lại vào nhà nước;
Một số phụ huynh chưa nhận thức đúng đắn vai trò của gia đình trong việc phối
hợp với nhà trường để CSGD trẻ….
2.5. Kết quả của thực trạng
CSVC thiếu thốn; 58,7% số phòng học bị xuống cấp mạnh. TTB thiếu về
số lượng và thiếu sự đồng bộ, cảnh quan môi trường giáo dục vừa chật hẹp vừa
đơn điệu. Tỷ lệ trẻ ra lớp so với trẻ có trên địa bàn 61,9%
Tỷ lệ huy động trẻ nhà trẻ đạt 25,2 %; Mẫu giáo dưới 74,9 %.
Hàng năm thường có trên 10% trẻ trong địa bàn đi học ở trường lân cận
Tỷ lệ trẻ bán trú đạt 46,7% so với tổng số trẻ ra lớp.
Tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng về cân nặng 8,2 %
Tỷ lệ trẻ thấp còi về chiều cao năm thấp nhất là 8,5 %
Tỷ lệ trẻ chuyên cần 86,7 % trẻ 5 tuổi là 88,4 %, trẻ dưới 5 tuổi là 81,1 %
Trẻ xếp loại Đạt chuẩn kiến thức theo độ tuổi 95,8%
Trẻ đạt loại khá trở lên 48,9 %.
4



Sự chênh lệch chất lượng giữa khu chính và các khu lẻ cao
Tỷ lệ GV đạt loại khá trở lên theo chuẩn nghề nghiệp 70,3 %.
Chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ năm cao, năm thấp, thiếu tính bền
vững..
Viên chức hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên 68,8 %. Danh hiệu lao động
tiên tiến 74,1 %. Xuất phát từ thực trạng chung này nhà trường đã áp dụng một
số giải pháp để thực hiện công tác XHHGD tại trường như sau:
3.Các giải pháp thực hiện xã hôi hoá giáo dục
Giải pháp thứ nhất: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nghiên cứu lý
luận, nâng cao nhận thức về công tác xã hội hóa giáo dục
Để làm tốt công tác XHHGD cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng
cao nhận thức về xã hội hóa giáo dục. Trong nhà trường, tham gia vào công tác
xã hội hóa giáo dục là các tổ chức, các cán bộ, giáo viên, nhân viên. Vì vậy, để
làm tốt công tác xã hội hóa, nhà trường phổ biến tới cán bộ, giáo, nhân viên một
số văn bản như: Nghị quyết số 90/CP ngày 21/8/1997- CP “Về phương hướng và
chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa”; Nghị định số
73/1999/NĐ-CP, Thông tư số 29 của BGD&ĐT “Quy định về tài trợ cho các cơ
sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân” và một số văn bản hướng dẫn
của tỉnh về việc huy động XHHGD..giúp CBGV-NV hiểu được các nội dung về
công tác xã hội hóa đồng thời giáo viên nhận thức sâu sắc hơn các vấn đề như:
+ Mục đích của công tác XHHGD là để xây dựng cộng đồng trách nhiệm
của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải thiện môi trường kinh tế, xã
hội lành mạnh và thuận lợi cho các hoạt động giáo dục của nhà trường. Công tác
này cũng góp phần mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác tiềm năng về nhân lực,
vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
của nhân dân, tạo điều kiện cho các hoạt động giáo dục phát triển nhanh hơn, có
chất lượng cao hơn. Đây là chính sách lâu dài, là phương châm thực hiện chính
sách xã hội của Đảng và nhà nước bởi vì giáo dục là sự nghiệp lâu dài của toàn

xã hội. Sự nghiệp giáo dục sẽ không ngừng phát triển mạnh mẽ với nguồn lực to
lớn của toàn dân. Thực hiện XHHGD cũng chính là huy động cộng đồng cùng
tham gia xây dựng và phát triển giáo dục.
+ Nguyên tắc tiến hành công tác xã hội hoá giáo dục:
Nguyên tắc về lợi ích hai chiều: Mỗi hoạt động hợp tác, phối hợp đều
phải xuất phát từ nhu cầu và lợi ích của hai phía: Nhà trường và cộng đồng. Cần
quán triệt nguyên tắc lợi ích 2 chiều trong việc triển khai các biện pháp cụ thể
phải đảm bảo rằng kết quả của việc xã hội hóa giáo dục không chỉ mang lại lợi
ích cho giáo dục, cho nhà trường mà còn mang lại lợi ích thiết thực cho những
người tham gia, cho cộng đồng, cho địa phương thì biện pháp đó mới khả thi và
có sức sống.
5


Nguyên tắc tình cảm, tự nguyện hay nguyên tắc “ đồng thuận”: Nguyên
tắc này coi trọng việc làm sao để người được huy động chia sẻ đồng tâm, nhất
trí, tự nguyện và đồng thuận với chủ trương xã hội hóa của nhà trường, không
được áp đặt hoặc ép buộc, không được cào bằng, bình quân chủ nghĩa
Nguyên tắc về chức năng nhiệm vụ: Để khai thác, phát huy khuyến khích
các lực lượng xã hội, các tổ chức tham gia vào một hoạt động nào đó phải phát
hiện và nhằm đúng chức năng, trách nhiệm của đối tác để thực hiện một cách
hợp lý, hiệu quả kế hoạch của nhà trường.
Nguyên tắc dân chủ: Tạo môi trường công khai, dân chủ cho mọi tầng
lớp của cộng đồng hiểu giáo dục hơn, hiểu nhà trường hơn, có điều kiện để
“Biết, bàn, làm, kiểm tra” các hoạt động, tạo điều kiện cho mối quan hệ nhà
trường - gia đình - xã hội phát triển toàn diện và mang lại hiệu quả thiết thực.
Nguyên tắc phù hợp, thích ứng hay nguyên tắc “mềm dẻo”: Phải biết
chọn lựa thời gian thích hợp nhất để đưa ra chủ trương xã hội hóa giáo dục, cần
cân nhắc huy động thế nào cho hợp lý.
Nguyên tắc kết hợp ngành - lãnh thổ: Chủ trương huy động cộng đồng

và xã hội hoá triển khai trong thực tế rất cần sự phối hợp nhịp nhàng giữa địa
phương và ngành giáo dục.
Giải pháp thứ hai: Tổ chức các buổi họp phụ huynh có hiệu quả.
Họp phụ huynh là việc làm bắt buộc của các cấp học, nhất là đối với bậc
học MN bởi đặc thù của trẻ tuổi MN là chưa thể đủ sức để hiểu và chuyển tải
được các vấn đề liên quan tới cha mẹ. Chính vì vậy nhà trường đã tiến hành họp
phụ huynh 3 lần trong năm học : Đầu năm học, giữa năm học và cuối năm học.
Nội dung của các lần tổ chức họp xoay quanh vấn đề CSNDGD trẻ của nhà
trường; Vấn đề phối hợp của phụ huynh ra sao để kết quả CSNDGD trẻ đạt kết
quả cao; Ngược lại nhà trường cần làm như thế nào để giúp phụ huynh yên tâm
gửi con đến trường MN mà không phải than phiền lo lắng về sức khoẻ, trí tuệ,
tình cảm, đạo đức của con. Quá trình họp nhà trường đã cố gắng tập trung vào
một số nội dung chính đó là:
Phổ biến kế hoạch tuyển sinh, mục tiêu, nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ.
Chế độ sinh hoạt của trẻ trong thời gian ở trường, các nội quy cần thiết
phải thông báo cho phụ huynh biết và phối hợp với nhà trường.... Các chỉ tiêu
phấn đấu trong năm học cần đạt.Thống nhất một số nội dung, phương pháp
trong việc CSNDGD trẻ ở nhà, ở trường và ngoài xã hội.
Tuyên truyền về vai trò ý nghĩa của việc cho trẻ đi học MN đúng độ tuổi,
đi học chuyên cần, ý nghĩa sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi mầm non đối với
toàn bộ quá trình phát triển sau này của trẻ và đối với sự phát triển chung của xã
hội.
6


Tập trung tuyên truyền các kiến thức CSNDGD trẻ theo khoa học: Vệ
sinh phòng một số bệnh thường gặp ở trẻ, lịch tiêm chủng, chế độ dinh dưỡng,
cách cho trẻ ăn khoa học hợp lý, vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh cá nhân,
một số nội dung dạy trẻ nề nếp vệ sinh văn minh trong học tập, vui chơi, ăn ngủ,
giao tiếp bà ứng xử thông thường trong cuộc sống, một số cách xử lý khi trẻ bị

tai nạn thương tích, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi vào
trường phổ thông …Thông báo các quy định về tư trang, đồ dùng học tập của trẻ
khi đến trường.
Triển khai các điều kiện cần và đủ để chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ;
các khoản đóng góp thỏa thuận( thu hộ và chi hộ) để phục vụ trẻ có tính chất
làm thay cha mẹ trẻ; dự toán các khoản, mục cần đầu tư để làm mới, tu sửa nâng
cấp về CSVC-TTB; mục đích thu và chi, đối tượng thụ hưởng của từng khoản
đều được công bố cụ thể, rõ ràng trước ít nhất là 1 tuần trong tập thể lãnh đạo
nhà trường và Ban đại diện cha mẹ học sinh cùng cán bộ giáo viên nhân viên
trong đơn vị, sau đó dán công khai ít nhất 1 tuần nữa tại địa điểm tất cả phụ
huynh có thể đọc được để nghe phản hồi dư luận; sau đó trình xin chủ trương
với địa phương, được địa phương phê duyệt chủ trương sau đó triển khai đến
phụ huynh bằng văn bản chi tiết, cụ thể. Vấn đề đóng góp XHHGD nhà trường
kêu gọi phụ huynh bàn bạc, tự nguyện tham gia ủng hộ theo khả năng từng gia
đình, không cào bằng về số lượng, không ép buộc đối tượng, cách thức tham gia
theo hướng mở, linh hoạt sao cho phù hợp với khả năng của từng gia đình; có
thể là ngày công lao động, hiện vật hoặc tiền mặt, việc đóng góp XHHGD được
chia thành nhiều đợt trong năm học để tạo điều kiện cho những gia đình khó
khăn cũng có cơ hội tham gia.. Sau khi được phụ huynh bàn bạc thống nhất, biểu
quyết cao thì nhà trường thảo thư kêu gọi gửi đến tất cả phụ huynh, ban ngành,
đoàn thể, các cơ quan đóng trên địa bàn, các nhà hảo tâm. Đối với phụ huynh
việc tham gia ủng hộ sẽ gửi qua giáo viên chủ nhiệm, đối với các cơ quan, nhà
hảo tâm bên ngoài nhà trường phối hợp với Ban đại diện cha mẹ học sinh thành
lập đoàn đi vận động ủng hộ, tất cả danh sách tham gia ủng hộ XHHGD đều
được ghi tên và ký xác nhận vào danh sách.
Trong các cuộc họp giữa năm và cuối năm nhà trường đều có công bố kết
quả nuôi dưỡng, học tập, rèn luyện của trẻ ở trường, công khai các khoản đã thu
được và các nội dung đã chi để phụ tham gia vào việc quản lý sử dụng các
nguồn kinh phí huy động từ XHHGD, nghe phụ huynh trao đổi tình hình sinh
hoạt của trẻ ở nhà. Làm rõ những nội dung phụ huynh còn băn khoăn thắc mắc,

tao ra sự thống nhất cao giữa nhà trường và phụ huynh. Biểu dương, cám ơn các
cá nhân, tổ chức đã tham công sức tham gia đóng góp ủng hộ cho trường....
Quá trình họp phụ huynh nhà trường luôn dành thời gian hợp lý để phụ
huynh tham gia tham luận một số kinh nghiệm xoay quanh các vấn đề sau:
Những biện pháp và kết quả trong sự phối hợp giữa phụ huynh với nhà
trường trong việc quản lý, chăm sóc giáo dục trẻ. Vai trò tác dụng của gia đình
trong việc hình thành và phát triển nhân cách trrẻ. Kinh nghiệm chăm sóc nuôi
dưỡng giáo dục trẻ (CSNDGD) trẻ ở gia đình sao cho trẻ ngoan, khoẻ mạnh và
7


thông minh. Những khó khăn gặp phải trong việc hiểu và chăm sóc nuôi dưỡng
giáo dục trẻ ở gia đình. Những đóng góp của phụ huynh về các ưu điểm, nhược
điểm của nhà trường. Nhờ đó mà phụ huynh có cơ hội nắm rõ hơn, sâu sắc hơn
về quan điểm GD của Đảng và vai trò, vị trí của giáo dục MN, về trách nhiệm
của gia đình trong CSNDGD trẻ. Từ đây đã tạo điều kiện rất lớn cho nhà trường
tiến hành nhiệm vu một cách thuận lợi hơn, kết quả được nâng dần lên.
Giải pháp thứ Ba: Làm tốt công tác tham mưu cho cấp uỷ Đảng,
chính quyền giúp địa phương xây dựng kế hoạch phát triển giáo dục MN.
Là một trường MN đóng trên đại bàn miền núi, kinh tế xã hội còn nhiều
bất cập, để cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương nắm bắt được tình hình
chung, từ đó đề ra định hướng lãnh chỉ đạo công tác GDMN, nhà trường đã báo
cáo tổng kết tình hình hoạt động của trường một cách khách quan, nghiêm túc để
thấy được những ưu, nhược điểm của trường đồng thời chỉ ra được những
nguyên nhân để phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm.Trên cơ sở mục tiêu
GD của Đảng, Nhà nước nói chung; Kế hoạch phát triển GD từng năm học của
tỉnh, của huyện, tình hình thực tế của địa phương, của nhà trường nói riêng, cấp
uỷ Đảng, chính quyền địa phương đã ban hành Nghị quyết, xây dựng chương
trình hành động thực hiện kế hoạch phát triển GD xã nhà phù hợp với điều kiện
của địa phương. Từ đó chương trình hành động của Đảng, chính quyền, đoàn

thể, thôn bản, nhà trường đã được xây dựng và thông báo rộng rãi trên các diễn
đàn, hội nghị và đặc biệt trên phương tiện thông tin đại chúng của xã; Từ đây
phụ huynh, nhân dân, các lực lượng khác trong địa bàn nhanh chóng năm bắt
được các mục tiêu,nhiệm vụ, giải pháp để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc nuôi
dưỡng gíáo dục trẻ của nhà trường.
Khi tham mưu BGH đã cố gắng làm cho địa phương nắm bắt được những
việc cần làm trước mắt cũng như lâu dài. Những giải pháp tạm thời, giải pháp
chiến lược, chọn việc để bắt đầu, nội dung tham mưu cần được đưa vào Nghị
quyết Hội đồng nhân xã. Khi sơ kết, tổng kết đánh giá các hoạt động của tập
thể, cá nhân tôi đã tham mưu cho cấp uỷ Đảng thường xuyên đánh giá chất
lượng thực hiện công tác phối hợp về công tác GDMN.
Để chuẩn bị tham mưu một vấn đề gì, tôi bao giờ cũng làm việc trước với
ban thường vụ Đảng uỷ, Hội đồng nhân dân, UBND, để khi có Nghị quyết ra
các lực lượng này là lược lượng tiên phong, sẵn sàng ủng hộ trước, do đó các lực
lượng còn lại được củng cố thêm lòng tin để tham gia, chính các cán bộ thôn
bản là những tuyên truyền viên đắc lực cho XHHGD, vì họ cùng ăn, cùng ở,
cùng làm với dân, hiểu dân, dễ vận động, tuyên truyền hơn.
Giải pháp thứ tư: Tuyên truyền cho toàn xã hội nhận thức đúng đắn
vai trò có ý nghĩa quyết định của GD đối với sự phát triển của xã hội.
XHHGD được nhiều đơn vị trường học tiến hành, có nơi đã thu được
những kết quả tốt, có nơi mới chỉ dùng lại ở lý thuyết, ở Nghị quyết Hội đồng
nhân dân mà chưa đi vào cuộc sống. Nguyên nhân của XHHGD đều bắt đầu từ
nhận thức. Do vậy tôi tìm nhiều cách làm cho mọi tầng lớp nhân dân hiểu đúng
đắn về công tác XHHGD, hiểu được sự cần thiết phải tham gia, nâng lên tầm ý
8


thức để tự giác, chủ động, làm chủ công việc cần làm và có tình cảm để tham
gia. Nhận thức này được xây dựng từ thấp lên cao qua các hình thức:
Trò chuyện, trao đổi, tham luận... qua các cuộc họp Đảng uỷ, HĐND,

UNND, họp ban ngành đoàn thể, họp phụ huynh, khai giảng, sơ kết, tổng kết
năm học, hội thi ở trường, ngày tiêm chủng, lễ hội ở thôn bản...nhưng quan
trọng hơn là tuyên truyền bằng việc làm cụ thể, lợi ích thực tế, tấm gương tốt
gần gũi về những tổ chức, cá nhân đã tham gia ủng hộ XHHGD cho trường; Ví
dụ như: Ông Nguyễn Thanh Hùng ủng hộ 1.000.000đ; Ông Lê Quang Thuận
ủng hộ 3 cái quạt trần, bà Lê Thị Na ủng hộ 4 chậu cây cảnh; ông Đỗ Ngọc
Đoan ủng hộ 3m3 cát; ông Lê Thanh Bình ủng hộ 1 xe trâu phân chuồng, phụ
huynh khu lẻ Chôi Trờn ủng hộ 56 ngày công làm sân chơi, Bà Hà Thị Vân ủng
hộ 4 cái ghế gỗ cho trẻ ngồi, phụ huynh các khu khác ủng hộ cây hoa, cảnh và
công để cải tạo cảnh quan...
Thuyết phục trực tiếp và trong từng hoạt động, thuyết phục bằng tổ chức
và bằng vai trò cá nhân. Muốn vận động được cần gắn liền với tính lợi ích, gắn
với chức năng nhiệm vụ, về những quy định mang tính pháp luật, về tình cảm và
truyền thống, về dòng tộc, họ hàng. Để làm được việc này tôi đã cung cấp thông
tin đầy đủ, chính xác về đường lối, chính sách, chế độ, chủ trương, kế hoạch,
thực trạng, mục đích yêu cầu, kết quả cần đạt, thuận lợi và khó khăn, kinh phí
hiện có và các nguồn lực, nội lực của nhà trường để các lực lượng xã hội hiểu rõ
ràng, tường tận.Từ đó tổ chức bàn bạc, chủ động trong quá trình thực hiện và
cuối cùng mới có thể kiểm tra, đánh giá được.
Giải pháp thứ năm: Vận động các lực lượng xã hội chăm lo cho công
tác GD Mầm Non.
Là một trường Mầm non có nhiều điểm lẻ, nằm trên chiều dài gần 8 km,
đời sống bấp bênh trong khi nhu cầu công việc và đầu tư trang thiết bị đồ dùng
đồ chơi rất lớn, kinh phí nhà nước cấp thường xuyên không đủ đáp ứng 50% nhu
cầu hoạt động.Vì vậy nhà trường đã ký cam kết với các thôn, các ngành đoàn thể
về những hoạt động hỗ trợ cho trường MN.
Phối hợp với HĐND, UBND xã để lo xây dựng cơ sở vật chất cho các
điểm trường. Bí thư chi bộ, thôn trưởng ở thôn nào vận động bà con trong thôn
đó chăm lo công tác bảo vệ cơ sở vật chất, xây dựng các công trình phù trợ như
nhà vệ sinh, bể nước, xây tường rào, trồng cây xanh thay tường rào; trồng và

chăm sóc cây xanh, hoa cây cảnh, đầu tư mua sắm trang thiết bị bên trong cho
các cháu học hành, vui chơi như giá góc, bàn ghế, quạt điện, đường dây điện, ru
mi nê đựng nước uống, thùng, xô chậu, chiếu cho trẻ ngồi học, đồ chơi, máy
chiếu, ti vi, đồ chơi.....
Phối hợp với mặt trận tổ quốc trong công tác tuyên truyền vận động trẻ ra
lớp đúng độ tuổi, chú trọng nhất là trẻ 5 tuổi, trẻ nhà trẻ; huy động trẻ tham gia
ăn bán trú, duy trì sĩ số trẻ chuyên cần...
Phối hợp với đoàn xã về việc hoạt động đội thiếu niên, nhi đồng ở các
thôn, tạo môi trường hoạt động lành mạnh, ấm cúng theo độ tuổi như: Tổ chức
cắm trại hè cho các cháu mẫu giáo tham gia văn nghệ chào mừng, tổ chức tốt
9


ngày 01/06, ngày tết trung thu.....đó là những sân chơi bổ ích cho các cháu tham
gia, tạo nên sự thống nhất trong nội dung giáo dục lễ giáo giữa nhà trường, gia
đình và xã hội. Phối hợp với Hội liên hiệp phụ nữ, Hội nông dân vận động hội
viên có con cháu bỏ học giữa chừng quay lại trường lớp, cùng với nhà trường
tuyên truyền kiến thức chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ theo khoa học đến
cộng đồng, vận động phụ huynh đưa trẻ ăn ở bán trú tại trường, bán thực phẩm
an toàn cho bếp bán trú, tạo cho trẻ có cơ hội để được hưởng sự chăm sóc giáo
dục theo khoa học, giúp trẻ khỏe mạnh, chóng lớn, giảm dần tỷ lệ trẻ suy dinh
dưỡng trên địa bàn, tạo cho trẻ có cơ hội tham gia tích cực vào các hoạt động
qua đó mà phát triển nhân cách toàn diện.
Phối hợp với trạm y tế xã tổ chức cho trẻ khám sức khỏe cho trẻ, giáo
viên một năm học 2 lần, phát hiện sớm các bệnh nguy hiểm, điều trị kịp thời,
không để hậu quả đáng tiếc xảy ra. Tổ chức cho các cháu uống và tiêm vắc xin
đủ liều, đúng lịch, tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh cho các gia đình, cho phụ
huynh, cho trẻ...
Phối hợp thường xuyên với công an xã, công an thôn để bảo vệ tốt CSVC
ở các điểm trường, đảm bảo an ninh trật tự, ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực có

thể tấn công vào trường MN...
Phối hợp với dân quan tự vệ, ban đại diện cha mẹ học sinh để phòng
chống bão lụt khi cần thiết.
Tranh thủ sự ủng hộ của các cơ quan, doanh nghiệp đóng trên địa bàn,
các tổ chức, các cá nhân quan tâm đến công tác GDMN để xin hỗ trợ đầu tư
mọi mặt cho nhà trường. Ví dụ tham mưu với trường cấp 3 cho học sinh lao
động san mặt bằng của trường, trường cấp 2 cho học sinh góp cây cọc để rào
khuôn viên khu lẻ, phụ huynh tham gia lao động để xây dựng cảnh quan môi
trường, làm nhà để xe, ủng hộ cây hoa, cây cảnh cho các lớp trồng, tranh ảnh,
sách truyện thiếu nhi, đóng góp đồ chơi cho trẻ chơi, học liệu cho cô giảng bài,
kinh phí để mua sắm giá góc, trang trí phòng nhóm… Nhà thầu chỗ trợ vật liệu,
thợ xây hỗ trợ công để xây dựng sân khấu, bồn hoa…Các thôn thì ủng hộ đóng
góp để kéo đường điện, mua sắm quạt điện, xây nhà vệ sinh, làm sân chơi cho
các nhóm lớp ở tại các thôn đó.Tổng tiền mặt huy động được trong 2 năm học
đạt gần 243.160.000.000 đ. Số tiền so với xã hội tuy không lớn lắm nhưng nếu
để tất cả các việc đó chỉ mình nhà trường là điều không thể làm được. Trông vào
ngân sách nhà nước cấp thì không có; Mỗi cá nhân, tổ chức, đoàn thể một cách
giúp đỡ, góp gió thành bão, tạo được môi trường và tiềm lực rất lớn như một
đòn bẩy kích cầu cho công tác CSNDGD trẻ của nhà trường từng bước đi lên.
Đối với điều kiện một trường MN đóng trên địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó
khăn, nhà nước đầu tư thường xuyên không đủ thì đây quả là món quà hết sức
lớn lao và mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Giải pháp thứ năm: Bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ và phân
công hợp lý giáo viên chủ nhiệm làm cầu nối thường xuyên giữa trẻ với nhà
trường, giữa nhà trường với cộng đồng.

10


Nhà trường thường xuyên tổ chức cho cán bộ, giáo viên, nhân viên

(CBGVNV) học tập đầy đủ, kịp thời các Chỉ thị, Nghị quyết, chủ trương của
Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đặc biệt là các nội dung liên quan đến
nhiệm vụ giáo dục.Tổ chức học tập biên chế năm học; nhiệm vụ trọng tâm năm
học; ôn lại Điều lệ trường mầm non, Luật giáo dục, Luật Viên chức, Quyết định
02 của Bộ GD&ĐT quy định chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non, bộ chuẩn
phát triển trẻ 5 tuổi, kế hoạch phổ cập giáo dục trẻ mầm non 5 tuổi; Quy chế dân
chủ, quy định đạo đức nhà giáo… qua đó giúp CBGVNV nắm bắt được những
vấn đề cơ bản, định hướng được nhiệm vụ chính của từng người, giúp mọi người
chủ động hơn trong công việc được giao.
Bên cạnh đó nhà trường còn bố trí cho giáo viên học lý luận chính trị,
nhận thức về Đảng; Chỉ đạo bồi dưỡng chuyên môn tập trung, một tháng tổ chức
2 lần sinh hoạt chuyên môn, tập trung giải quyết những khó khăn vướng mắc
của giáo viên. Bồi dưỡng cho giáo viên những vấn đề còn non yếu, thảo luận
trao đổi những kinh nghiệm trong giảng dạy, các vấn đề cần ôn lại , tiếp tục thực
hiện trong năm học.
Tổ chức dạy mẫu các hoạt động chung, hoạt động góc để giáo viên tham
khảo học hỏi, rút kinh nghiệm. Hàng tháng ban giám hiệu phân công nhau thăm
lớp, dự giờ, bồi dưỡng giúp đỡ khắc phục những điểm yếu cho từng giáo viên,
giúp giáo viên thực hiện việc giảng dạy đúng yêu cầu và có chất lượng hơn.
Trong năm học trường đã tăng cường công tác kiểm tra nội bộ trường học,
xem đây là một khâu quan trọng của công tác quản lý, kiểm tra việc chấp hành
quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, kiếm tra tay
nghề, việc thực hiện quy chế chuyên môn, công tác chủ nhiệm, công tác phối
hợp, kết quả CSNDGD… trong năm trường đã kiểm tra toàn diện 100 % số
Giáo viên đứng lớp; Dự giờ bình quân 11 hoạt động/ giáo viên. Ban giám hiêu
dự giờ = 231 hoạt động giáo dục và chăm sóc nuôi dưỡng trẻ. Qua thanh kiểm
tra các sai sót, tồn tại , vướng mắc đã được khắc phục kịp thời, những cố gắng ,
tiến bộ sáng tạo của giáo viên cũng được ghi nhận biểu dương kịp thời, động
viên tinh thần giáo viên thêm tự tin, phấn chấn trong công tác.
Trong nhà trường giáo viên(GV) chủ nhiệm là người ảnh hưởng nhiều

nhất đến trẻ, là nhân vật trung tâm liên kết các lực lượng GD, là người trực tiếp
xây dựng lớp. Do vậy tôi đã chú ý phân công giáo viên chủ nhiệm nhóm lớp
phù hợp. Cụ thể biết tiếng Thái thì giao chủ nhiệm lơp có nhiều trẻ là người dân
tộc Thái. GV biết tiếng Mường thì giao chủ nhiệm lớp có nhiều trẻ người
Mường…GV có tay nghề giỏi thì phân vào các lớp điểm để nhân rộng điển hình
tiên tiến cho GV khác học tập hoặc phân vào lớp khó khăn hơn để xây dựng
phong trào.Tôi đã trực tiếp bồi dưỡng GV một số thủ thuật làm công tác chủ
nhiệm như: Cách tìm hiểu trẻ, hoàn cảnh gia đình trẻ, phương pháp vận động
quần chúng, chia sẻ với phụ huynh, tuyên truyền các kiến thức về CSNDGD trẻ,
cách tổ chức các ngày lễ, ngày hội trong năm học cho trẻ, cách đánh giá trẻ, kinh
nghiệm bồi dưỡng trẻ học yếu, bồi dưỡng trẻ đi thi cấp huyện, cấp tỉnh, cách làm
cho phụ huynh tin tưởng, cách làm cho trẻ luôn yêu quý cô…khi trẻ yêu quý cô
11


giáo cũng đồng thời GV chiếm được tình cảm và sự tin tưởng của các bậc phụ
huynh vì chúng ta biết rằng tình cảm có quy luật lan truyền.Ở đây con yêu cô thì
cha mẹ quý cô, tin cô, sẵn sàng ủng hộ cô giáo mọi công việc liên quan đến việc
CSNDGD trẻ ở trường.
Mọi GV đều được nhà trường tạo điều kiện để có thể hoàn thành nhiệm
vụ được giao một cách tốt nhất. Đó chính là một hình thức tuyên truyền có tác
dụng cao nhất, hiệu quả nhất về vai trò ý nghĩa của bậc học MN đến cộng đồng.
Dân gian thường có câu tiếng lành đồn xa. Nghìn lời nói cũng không bằng một
việc làm.
Giải pháp thứ sáu: Xây dựng kỷ cương nề nếp làm việc; tiếp tục đổi
mới nội dung và phương pháp chăm sóc nuôi dưỡng giáo dục trẻ, thực hiện
tốt các phong trào thi đua; các cuộc vận động nhằm nâng cao chất lượng
CSNDGD trẻ toàn diện. Xây dựng trường học thân thiện- học sinh tích
cực.
Xa xưa ta đã từng nghe câu nói của ông bà để lại: “ Trăm nghe không

bằng một thấy”, chất lượng dạy và học vừa là mục tiêu vừa là phương tiện của
để thực hiện XHHGD ở các nhà trường nói chunh và trường mầm non nói riêng.
Thực hiện XHHGD nhằm nâng cao chất lượng CSNDGD trẻ, chất lượng
CSNDGD trẻ là yếu tố quan trọng nhất để nhà trường thuyết phục, thiết lập quan
hệ tốt với các lực lượng xã hội. Việc thực hiện tốt các phong trào thi đua, các
cuộc vận động cũng là để xây dựng “ Kỷ cương- tình thương- trách nhiệm”
trong nhà trường, đó là nội dung cốt lõi của các phong trào thi đua. Trong quá
trình chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ năm học tôi đã từng bước xây dựng và hoàn
chỉnh dần kỷ cương trường học bằng các biện pháp và các nội dung cụ thể quy
định cho từng đối tượng: Ban giám hiệu; giáo viên; trẻ.
Về kỷ cương quản lý: Nhà trường đã xác định chức trách cụ thể và quy
chế làm việc, quy chế phối hợp rõ ràng của hiệu trưởng, phó hiệu trưởng,tổ khối
chuyên môn, tổ hành chính..
Tăng cường kiểm tra nội bộ trường học, vận dụng linh hoạt các hình thức,
các nguyên tắc kiểm tra nội bộ trường học, từ đó có thể nắm bắt các thông tin
hai chiều một cách đầy đủ, kịp thời, có quyết định quản lý phù hợp, điều chính
các tồn tại yếu kém, bức xúc, nổi cộm làm cho công việc của trường tiến hành
đúng quy định, nhịp nhàng, ăn khớp .
Điều hành: Tôi đã cố gắng điều hành các hoạt động của trường theo đúng
nhiệm vụ quyền hạn đã được quy định, đặc biệt chú ý đến việc đưa mọi hoạt
động của nhà trường vào quy chế như Luật Giáo dục, Điều lệ trường MN. Thực
hiện nghiêm túc quy chế dân chủ trong trường học, phát huy trí tuệ tập thể, tính
làm chủ và sáng tạo của mọi thành viên thông qua vai trò của tổ chức Đảng,
công đoàn, đoàn thanh niên…
Về kỷ cương CSNDGD trẻ: Nhà trường đã bám vào Điều lệ trường MN
để cụ thể hóa từng mặt: Thời gian làm việc, chuẩn bị bài soạn, đồ dùng dạy học
trước khi lên lớp, tinh thần thái độ phục vụ trẻ, tinh thần phối hợp với đồng

12



nghiệp trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, tính kỷ luật, tính tự giác, ý thức tự
học hỏi nâng cao nhận thức mọi mặt, tư thế tác phong sư phạm…
Về kỷ cương học tập và vui chơi: Nhà trường phổ biến rất cụ thể cho
phụ huynh và GV biết phải thường xuyên tổ chức và cho trẻ tham gia vào các
hoạt động qua đó nhắc nhở trẻ, giúp trẻ có cơ hội rèn luyện các yêu cầu cơ bản
về mọi mặt như: Lễ phép, ngoan ngoãn, đoàn kết, yêu cô, yêu bạn, giữ gìn vệ
sinh chung, giữ vệ sinh thân thể sạch sẽ, có ý thức bảo vệ môi trường, không vứt
rác bừa bãi, biết quan tâm đến nhiệm vụ chung, có thói quen văn minh trong
giao tiếp và sinh hoạt như: Nói năng từ tốn, thưa gửi, dạ vâng, không nói trống
không, không gật đầu, biết cảm ơn, xin lỗi đúng lúc…Thường xuyên phối hợp
thực hiện tốt cả ở gia đình và ở trường sẽ hình thành ở trẻ kỹ năng sống có văn
hoá, văn minh, đó là những nét tính cách làm cho nhân cách của trẻ phát triển
toàn diện hơn. Tạo được sự khác biệt rõ ràng giữa trẻ được đi học MN và những
trẻ chưa được đi học MN. Đó cũng là một cách để tuyên truyền về chất lượng
hoạt động của nhà trường trong xã hội một cách tốt nhất.
Song song với công tác xây dựng nề nếp, kỷ cương, nhà trường còn đặc
biệt chú ý đến khâu chỉ đạo đổi mới nội dung, phương pháp CSNDGD trẻ như :
BGH chỉ đạo đôn đốc GV áp dụng nội dung các chuyên đề đổi mới nội dung
phương pháp mới nhất vào quá trình CSNDGD trẻ. Quá trình thực hiện chỉ đạo
cho GV lựa chọn các phương pháp linh hoạt, sáng tạo sao cho phù hợp với điều
kiện của địa phương và thực tế nhận thức của trẻ trong từng lớp, từng bài học cụ
thể. Bên cạnh đó trường đã tăng cường chỉ đạo GV thiết kế và nhà trường đầu
tư kinh phí để xây dựng môi trường hoạt động phong phú, tạo sự hấp dẫn mới lạ
cho trẻ trong mỗi lần khám phá. Đối với trẻ mỗi ngày đến trường là một ngày
vui.
Việc thực hiện các cuộc vận động, chủ đề của mỗi năm học đều được nhà
trường tổ chức triển khai và thực hiện một cách nghiêm túc. Bắt đầu từ việc tiếp
thu sau đó là thành lập ban chỉ đạo, triển khai đền CBGVNV, phối hợp với
BCHCĐ xây dựng chương trình hành động, phân công nhiệm vụ cho từng thành

viên trong ban chỉ đạo, tổ chức thực hiện theo nội dung, kế hoạch đã định, tiến
hành kiểm trâ đánh giá, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm kịp thời; Do vậy việc
thực hiện cuộc vận động“ Xây dựng trường học thân thiện-học sinh tích cực”,
cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách HCM” đều
được tổ chức thực hiện và từng bước đem lại kết quả đáng phấn khởi.
Tất cả các hoạt động trên đã góp phần thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ
chính trị của nhà trường ngày càng đi vào nề nếp, chất lượng và hiệu quả. Uy tín
của nhà trường đang được nâng lên rõ rệt. Điều đó là nguồn động viên rất lớn
cho CBGVNV nhà trường phấn đấu hơn trong công tác.
Giải pháp thứ bảy: Người cán bộ quản lý phải nhất thiết hiểu biết sâu
rộng về nghệ thuật giao tiếp
Để làm tốt công tác XHHGD tôi đã hết sức cố gắng để hiểu biết và nắm
bắt, vận dụng tốt nghệ thuật giao tiếp. Là người quản lý tôi thường xuyên rèn
luyện, trau dồi học hỏi về nó. Bởi lẽ người cán bộ quản lý có hiểu sâu sắc đặc
13


điểm của cá nhân, tập thể trong cộng đồng, những cá nhân, tập thể có liên quan
thì mới có thể thuyết phục, thiết lập quan hệ, biết tổ chức hội họp, toạ đàm, gặp
gỡ riêng, thăm hỏi, chúc mừng, biết sử dụng các phương tiện quảng cáo thông
tin như: Công văn, thư, thông báo..Quá trình giao tiếp phải có đủ tự tin, đủ lý lẽ,
có sức hấp dẫn thu hút người nghe. Có như vậy mới đủ sức thuyết phục cá nhân,
tập thể tin mình, dám ủng hộ mình và tuyên truyền, cổ vũ cho những người khác
cùng ủng hộ mình. Quá trình giao tiếp hoặc đi tham mưu tôi đã tự xác định trước
cho bản thân một số nguyên tắc đó là: Phải biết mình là ai? Mình đang nói với
ai? Họ có thể giúp mình ở phần việc nào? mình sẽ tham mưu gì? Nói những gì?
Nói như thế nào? Bắt đầu từ đâu? Khi giao tiếp tôi luôn quan sát thái độ của
người được giao tiếp. Họ đang vui hay đang buồn? Đang điềm đạm hay bực
tức…họ phản ứng như thế nào khi được giao tiếp hay được mình tham mưu…
Đây cả là một nghệ thuật nên tôi đã hết sức linh hoạt và sáng tạo, nhạy

bén nhiều lúc phải hết sức kiên trì nhẫn nại, có khi phải nhún nhường, song tất
cả các công việc đó đều là nhiệm vụ của người quản lý trường học đặc biệt là
quản lý nhà trường MN, loại hình trường học có nhiều đặc biệt và phụ thuộc
nhiều thứ ở cộng đồng.Tất cả cho việc XHHGD đạt kết quả như mong muốn
nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ CSNDGD trẻ mầm non.
Để làm tốt được XHHGD còn có rất nhiều giải pháp, biện pháp thực hiện,
tuy nhiên đây là những giải pháp chính, giải pháp nòng cốt mà tôi đã vận dụng
trong thời gian qua. Quá trình thực hiện tôi đã áp dụng các giải pháp một cách
linh hoạt, mềm dẻo phù hợp với đặc điểm chung của địa phương và đặc điểm
riêng của từng thôn bản, từng tổ chức, cá nhân và tình hình của nhà trường. Nhờ
đó mỗi giải pháp đều phát huy được thế mạnh và tác dụng riêng tạo nên sức
mạnh tổng hơp: Sức mạnh của XHHGD trong trường MN, làm cho các hoạt
động của nhà trường được tiến hành thuận lợi hơn và từng bước đạt được kết
quả tốt đẹp.Cụ thể được thể hiện như sau:
4. Kết quả đạt được sau khi áp dụng các giải pháp
Mọi công việc của nhà trường đã được tất cả các lực lượng ở địa phương
tham gia tích cực.Từ việc huy động trẻ ra lớp, trẻ bán trú, duy trì tốt sĩ số, tỷ lệ
trẻ chuyên cần, công tác phổ cập GDMN trẻ 5 tuổi, chăm sóc giáo dục trẻ theo
khoa học, giáo dục vệ sinh phòng bệnh, khám sức khỏe, tham gia các ngày hội,
lễ, hội thi ở trường, giáo dục kỹ năng sống….đến việc tham gia hiến kế cho nhà
trường trong quản lý GD, ủng hộ, cổ vũ về mặt tinh thần, vật chất, ngày công lao
động để xây dựng cảnh quan môi trường cũng được đông đảo tổ chức, cá nhân
nhiệt tình ủng hộ.Trong 2 năm trường đã nhận được sự ủng hộ 775 ngày công,
nhiều hiện vật, và 243.160.000 đ để tu sữa chữa nhỏ CSVC, mua sắm bổ sung
trang thiết bị và xây dựng các công trình phù trợ như: Sân chơi bồn hoa, cổng
trường và nhà vệ sinh tự hoại khu lẻ; Vườn cổ tích, hệ thống vòi phun nước tự
động cho vườn cổ tích, vườn rau khu trung tâm..Trong lúc ngân sách nhà nước
chưa thể đáp ứng đủ cho các nhu cầu của GD thì nguồn lực này càng trở nên vô
giá. Đây là một giải pháp tôi xác định phải làm lâu dài. Nhờ vậy mọi điều kiện


14


hoạt động của đơn vị từng bước được cải thiện, đó là động lực thúc đẩy việc
nâng cao chất lượng CSGD trẻ.Cụ thể
Về cơ sở vật chất- trang thiết bị phục vụ công tác CSNDGD trẻ:
Nhờ làm tốt công tác XHHGD mà nhà trường đã huy động sự đóng góp,
ủng hộ tích cực trong việc XDCSVC; mua sắm TTB-đồ dùng, vật dụng cho trẻ
học tập, vui chơi ăn ngủ…tu sửa phòng học xuống cấp nặng, xây dựng công
trình phù trợ, đền bù giải phóng đất đai mở rộng khuôn viên; trường lớp khang
trang, sạch đẹp, thân thiện từ khu chính đến khu lẻ, đầy đủ các phòng học,
phòng chức năng; công trình phù trợ, nhờ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả mọi
hoạt động của trường.
Huy động trẻ ra lớp và duy trì sĩ số
Tiêu chí
Năm học
Năm học
Tăng (+)
2014-2015
2016-2017
Giảm (-)tỷ lệ %
Tỷ lệ % huy động trẻ
100
107,5
+ 7,5
ra lớp so với kế hoạch
Cháu nhà trẻ ra lớp so
25,2
32,1
+ 8,9

với điều tra
Tỷ lệ trẻ ra lớp so với
61,9
67,3
+ 5,4
số trẻ có trong địa bàn
Tỷ lệ trẻ chuyên cần
88,4
98,9
+10,5
của trẻ 5T
Tỷ lệ trẻ chuyên cần
81,1
88,3
+ 7,2
của trẻ dưới 5 tuổi
Tỷ lệ trẻ bán trú so với
46,7
85,2
+38,5
tổng số trẻ ra lớp
Chất lượng chăm sóc giáo dục đại trà trên trẻ
Chất
lượng
nuôi
Năm học
Năm học
Tăng (+)
dưỡng
2014-2015

2016-2017
Giảm (-)tỷ lệ %
Tỷ lệ trẻ suy dinh
8,2
6,1
- 2,1
dưỡng về cân nặng
Tỷ lệ trẻ thấp còi về
8,5
6,3
-2,3
chiều cao
Chất lượng giáo dục
Đạt chuẩn kiến thức
theo độ tuổi
Đạt khá tốt

95,8

99,7

+ 3,9

48,9

73,1

+24,2

Đạt trung bình


46,9

26,7

- 20,2

Chưa đạt

4,2

0,2

-4

15


Chất lượng đội ngũ
Nội dung
Giáo viên có giờ dạy giỏi
Tỷ lệ CBGV tham gia viết
SKKN
Loại Khá và Xuất sắc theo
chuẩn NN GVMN
Loại trung bình

Năm học
2014-2015
55,6


Năm học
2016-2017
74,1

Tăng (+)
Giảm (-)tỷ lệ %
+ 18,5

37,5

50

+ 12,5

70,3

88,9

+ 18,6

29,7

11,1

- 18,6

Viên chức xếp loại hoàn
68,8
90,6

+21,8
thành tốt nhiệm vụ trở lên
Viên chức xếp loại hoàn
31,2
9,4
- 21,8
thành nhiệm vụ
Danh hiệu Lao động tiên
74,1
90,6
+16,5
tiến
Từ kết quả đó đã góp phần cải thiện điều kiện làm việc của bộ máy, điều
kiện CSNDGD trẻ và các hoạt động khác trong nhà trường theo chiều hướng
tích cực, CBGV thấy vui vẻ hơn khi thực hiện nhiệm vụ, phụ huynh tin tưởng
hơn khi gửi con đến trường, bắt đầu có một số phụ huynh ở các xã lân cận đưa
con đến xin học ở trường nhà, phụ huynh xã nhà không có ai đưa con đi học ở
xã khác; Môi trường cảnh quan trong trường được cải thiện khang trang hơn, các
điểm trường đều được rào khuôn viên, trồng cây xanh, khu trung tâm đã được
xây tường rào, có cổng, biển trường đúng quy cách, môi trường hoạt động của
trẻ ngày càng phong phú, đa dạng theo hướng xanh- sạch-đẹp,an toàn. Có được
kết quả đó là nhờ vào sự ủng hộ đóng góp tích cực của hàng nghìn công lao
động do phụ huynh trường nhà và học sinh cấp 2, cấp 3 xã Bãi Trành đã giúp đỡ;
Cùng với đó là sự hỗ trợ kinh phí của doanh nghiệp xây dựng Dương Minh, các
đoàn thể, cơ quan trong địa bàn cùng các bậc phụ huynh đóng góp, sự phối hợp
chặt chẽ của hội cha mẹ học sinh trong mọi hoạt động của nhà trường. Bên cạnh
đó là nguồn kinh phí đầu tư rất lớn của ngành GD&ĐTcùng với nguồn ngân
sách Huyện đã tạo nên sự thay da đổi thịt cho nhà trường trong năm học qua.
Tổng kinh phí và nhân lực huy động được quy ra tiền = 2.322.160.000đồng,
trong đó ngân sách xã là 1.800.000.000 để đền bù đất, 279.000.000 để mua thiết

bị; nhân dân, phụ huynh cá nhân, đoàn thể, tổ chức khác ủng hộ là 243.160.
000.000 đồng để xây dựng công trình phù trợ, cải tạo khuôn viên, cảnh quan.Tất
cả sự cố gắng đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhà trường tổ chức thực hiện
việc nâng cao chất lượng CSNDGD trẻ đạt kết quả tốt, hiệu quả cao và bền
vững. Giúp nhà trường duy trì, củng cố nâng cao chất lượng của trường MN đạt
chuẩn quốc gia mức độ 1, xây dựng thành công 4/5 tiêu chuẩn của trường MN

16


đạt chuẩn quốc gia mức độ 2 và được Sở GD&ĐT Thanh Hóa công nhận trường
đạt chuẩn chất lượng GD cấp độ 3 .
III. KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Quá trình thực hiện XHHGD của nhà trường đã đem lại hiệu quả thiết
thực; Nhờ làm tốt XHHGD đã vận động và tổ chức được sự tham gia rộng rãi
của mọi tầng lớp nhân dân, của toàn xã hội vào sự phát triển của sự nghiệp
GDMN xã nhà, từng bước nâng cao mức hưởng thụ về giáo dục MN và sự phát
triển chung của toàn xã hội. XHHGD luôn khẳng định vị trí chiến lược của nó
trong quá trình phát triển chung của bất cứ một quốc gia nào trong xu thế phát
triển ngày nay và mãi mãi về sau. Nhất là đối với nước ta đang trong giai đoạn
tập trung mọi tiềm lực cho công cuộc Công nghiệp hoá -Hiện đại hoá đất
nước.Vì XHHGD góp phần đắc lực nâng cao chất lượng GD&ĐT, tạo ra một xã
hội học tập góp phần “ nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”
[5] cho đất nước, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, chính trị, văn hoá- xã
hội, an ninh, quốc phòng ngày càng vững mạnh, bền vững. Qua quá trình nghiên
cứu trên, tôi tự rút ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
Khi xây dựng kế hoạch phát triển nhà trường, nhất thiết phải có kế hoạch
huy động XHHGD, cần xác định rõ vai trò tích cực của cộng đồng trong việc
quyết định những yêu cầu về nguồn lực. Nhà trường phải có kế hoạch chương

trình hành động về XHHGD, phải làm cho cộng đồng thấm nhuần sâu sắc được
chủ trương XHHGD, biến mục tiêu phấn đấu của nhà trường cũng là mục tiêu
phấn đấu của cộng đồng.
Hiệu trưởng nhà trường cần xây dựng kế hoạch XHHGD sát đúng với
điều kiện hiện có của địa phương. Tích cực tham mưu cho lãnh đạo địa phương
và các ban ngành đoàn thể về nhiệm vụ XHHGD trong cả giai đoạn, trong từng
năm học; Tham mưu kế hoạch XHHGD tổng thể các nhiệm vụ, cụ thể từng công
việc, phân kỳ để tham mưu. Tổ chức thực hiện XHHGD phải mềm dẻo, từ tốn;
linh hoạt, khéo léo; không nóng vội, ôm đồm một lúc quá nhiều việc gây quá tải
về khả năng đáp ứng sẽ phản tác dụng.
HT phải là người có bản lính chính trị vững vàng, Kiến thức, kỹ năng
quản lý giỏi, khả năng phân tích, nắm bắt tình hình; biết dự đoán, dự báo nhanh.
Biết nắm bắt thời cơ. Có khả năng làm chủ hoàn cảnh, xử lý tốt các vấn đề phát
sinh, có tâm huyết, chính kiến rõ ràng, năng động, nhạy bén, giám nghĩ giám
làm, táo bạo và quyết tâm thay đổi, giám đương đầu với những khó khăn thách
thức đặt ra trong quá trình làm công tác XHHGD, giám chịu trách nhiệm trước
Đảng, chính quyền và nhân dân địa phương cũng như trước ngành Giáo dục cấp
trên. Biết bố trí sắp xếp những việc cần XHHGD ngay, việc phải XHHGD lâu
dài, dần dần, những việc cần XHHGD đồng thời tiến hành một lúc, các điều
kiện cần và đủ để tiến hành XHHGD có thể cho hiệu quả tốt, từ đó lựa chọn kết
hợp mềm dẻo, linh hoạt trong quá trình tổ chức thực hiện để đạt được mục đích
đặt ra. Người cán bộ quản lý phải không ngừng học hỏi trau dồi kiến thức, phẩm
chất, năng lực và nghệ thuật quản lý, kỹ năng thuyết trình, giao tiếp.
17


XHHGD ở trường MN chỉ thực sự có hiệu quả khi đảm bảo chất lượng
CSNDGD trẻ và đảm bảo công khai minh bạch đầy đủ, kịp thời trước toàn dân;
Đặc biệt là phải quản lý, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực huy động được có
như vậy mới có thể làm tốt công tác huy động XHHGD.

Quá trình vận dụng các giải pháp để thực hiện XHHGD trong nhà trường
thời gian qua đã giúp nhà trường nhanh chóng khắc phục các yếu điểm đang tồn
tại ở địa phương và nhà trường, phát huy tốt hơn các kết quả đã đạt được trong
những năm học trước, giúp nhà trường hoàn thành mục tiêu xây dựng trường đạt
chuẩn quốc gia mức độ 1. Bên cạnh đó kết quả công tác XHHGD còn giúp cho
nhà trường có đủ điều kiện, tiêu chuẩn để được đánh giá ngoài chất lượng giáo
dục và được Sở GD&ĐT Thanh Hóa cấp giấy chứng nhận trường MN Bãi Trành
đạt chuẩn chất lượng giáo dục cấp độ 3; Đó là kết quả của việc tôi đã vận dụng
linh hoạt sáng tạo một lúc nhiều giải pháp để thực hiện XHHGD; Các giải pháp
đã áp dụng trên hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với điều kiện thực tế của địa
phương, của nhà trường. Từ kinh nghiệm thực tế của trường MN Bãi Trành có
thể vận dụng được cho những trường có điều kiện tương tự, không chỉ trước mắt
mà có thể vận dụng được lâu dài, mang lại hiệu quả và giá trị bền vững, đặc biệt
trong điều kiện nguồn tài chính của nhà nước còn hạn hẹp và nhu cầu đầu tư cho
sự nghiêp giáo dục ngày càng cao.
Trong quá trình quản lý trường MN, bản thân tôi nhận thấy việc triển khai
công tác XHHGD là vấn đề vô cùng quan trọng, đảm bảo cho nhà trường có
thêm điều kiện tốt để phát triển vững chắc. Chính vì vậy tôi luôn quan tâm áp
dụng công tác XHHGD trong mọi hoạt động của nhà trường. Nhờ đó chất lượng
mọi hoạt động nói chung của trường năm sau đạt cao hơn năm trước, đáp ứng
được yêu cầu mục tiêu bậc học đặt ra, thực hiện tốt mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội, an ninh quốc phòng tại địa phương. Uy tín và vị thế của nhà trường ngày
càng được nâng lên, góp một phần nhỏ bé trong việc xây dựng "Nông thôn mới"
tại địa phương xã Bãi Trành cũng như huyện Như Xuân ngày càng giàu đẹp,
văn minh, bền vững; Cũng chính là chúng ta đang thực hiện "Đổi mới căn bản
và toàn diện GD&ĐT, đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH trong điều kiện kinh tế thị
trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế" [6] và thực hiện tốt các phong
trào thi đua do ngành phát động và cuộc vận động “ Học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” [7]
2. Kiến nghị đề xuất

Đối với UBND huyện
Việc ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện công tác XHHGD cần thực
hiện ngay sau khi Sở GD&ĐT ban hành để các trường thực hiện kịp thời và phát
huy tốt hiệu quả của công tác XHHGD.
Đối với địa phương
Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức trong
toàn xã hội về quan điểm "GD là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của mọi
nhà, mọi người, mọi tổ chức cá nhân, là việc làm thường xuyên, liên tục suốt

18


đời". Không nên xem nhiệm vụ XHHGD là của nhà nước, của riêng ngành giáo
dục.
Làm tốt hơn nữa công tác XHHGD để có thêm nhiều nguồn lực hỗ trợ cho
các trường học.
Trên đây là một kinh nghiệm của cá nhân tôi đã áp dụng trong quá trình
thực hiện công tác XHHGD tại trường MN Bãi Trành, kính mong được Hội
đồng khoa học cấp trên, bạn đọc đang quan tâm đến vấn đề này góp ý để giúp
tôi có thể hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao./.
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ

Bãi Trành, ngày 10 tháng 03 năm 2017
Tôi xin cam kết bản SKKN là của chính bản
thân, không coppy, sao chép của người khác.
Người viết SKKN

Vương Thị Quang
Hứa Thị Ái


19



×