Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.34 KB, 21 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH THANH HĨA

PHỊNG GD & ĐT THÀNH PHỐ THANH HÓA
-------------------***---------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 5
PHÂN BIỆT TỪ ĐỒNG ÂM VÀ TỪ NHIỀU NGHĨA

Người thực hiện : Lê Thị Thúy
Chức vụ

: Giáo viên

Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Thiệu Dương
SKKN thuộc lĩnh vực ( môn ) : Tiếng Việt

THANH HÓA NĂM 2017

1


MỤC LỤC
Trang
A :MỞ ĐẦU:

1

1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm.
2. Mục đích nghiên cứu.



2

3. Đối tượng nghiên cứu.

2

4. Phương pháp nghiên cứu.

2

B : NỘI DUNG:
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.

3

2. Thực trạng dạy và học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trước khi áp dụng

3

sáng kiến.
3. Các biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa:

6

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:

17

C: KẾT LUẬN:


18

1. Kết luận:

18

2. Kiến nghị đề xuất:

18

D: KẾT LUẬN:

21

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn sáng kiến kinh nghiệm.
2


Người ta thường nói: “Phong ba bão táp khơng bằng ngữ pháp Việt Nam”.
Quả đúng như vậy! Trong chương trình Tiểu học, mơn Tiếng Việt giữ một vị trí
đặc biệt quan trọng chiếm thời lượng nhiều nhất. Bởi vì nó vừa là môn khoa học,
vừa là môn công cụ giúp học sinh có kĩ năng lĩnh hội những kiến thức của các
môn học khác. Một trong những phân môn rèn cho học sinh kĩ năng nói viết
thành câu là mơn học Luyện từ và câu. Mạch kiến thức Luyện từ và câu được
mở rộng và nâng cao dần cho học sinh Tiểu học từ lớp 2 đến lớp 5. Trong nội
dung chương trình mơn học Luyện từ và câu lớp 5 học sinh được học về các lớp
từ. Đó là các từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Mảng
kiến thức này khá trừu tượng đối với học sinh. Tài liệu tham khảo dành cho giáo

viên và học sinh Tiểu học về các lớp từ cũng ít. Nội dung chương trình lại giảm
tải đi một số bài (Như bài: "Dùng từ đồng âm để chơi chữ") nhưng thực tế sử
dụng các từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong các văn cảnh, trong cách nói của
người Việt Nam lại nhiều. Trong q trình dạy học, tơi thường nhận thấy các em
học sinh sau khi học hai bài “Từ trái nghĩa”, “Từ đồng nghĩa” thì các em dễ
dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm các từ đồng nghĩa cũng khơng mấy khó
khăn. Song sau khi học hai bài “Từ đồng âm”, “Từ nhiều nghĩa” thì các em
bắt đầu có sự nhầm lẫn và khả năng phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa mà
mấu chốt là xác định được nghĩa gốc và nghĩa chuyển trong từ nhiều nghĩa còn
rất lúng túng, làm sai nhiều. Vì vậy, dạy như thế nào để học sinh hiểu và sử dụng
đúng các từ đồng âm, từ nhiều nghĩa quả là không dễ. Trăn trở về vấn đề này,
qua những năm giảng dạy lớp 5 và bồi dưỡng học sinh giỏi, bản thân tôi đã trao
đổi cùng với đồng nghiệp, tổ chun mơn trong nhà trường tìm tịi và thử
nghiệm một số biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 5 nhận ra đâu là hiện tượng
đồng âm, đâu là hiện tượng nhiều nghĩa. Thực tế áp dụng vào giảng dạy đã đem
đến những hiệu quả thiết thực trong. Chính vì vậy mà tơi chọn đề tàì“Một số
biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa” để viết sáng kiến kinh nghiệm cho năm học này.
2. Mục đích nghiên cứu.
3


Tơi nghiên cứu vấn đề này nhằm hệ thống hóa nội dung, kiến thức về từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa trong chương trình Luyện từ và câu lớp 5. Từ đó đề ra
một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt, nhận diện được hiện tượng đồng
âm, hiện tượng nhiều nghĩa trong các văn cảnh cụ thể với mục đích góp một
tiếng nói chung nâng cao chất lượng dạy học Tiếng Việt trong nhà trường.
3. Đối tượng nghiên cứu.
Với đề tài này tôi tập trung nghiên cứu về khái niệm từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa; sự giống và khác nhau giữa từ đồng âm, từ nhiều nghĩa; cách phân biệt,

nhận diện được từ đồng âm, từ nhều nghĩa và luyện sử dụng từ đặt câu cũng như
cảm nhận được giá trị nghệ thuật của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, tôi đã sử dụng một số phương pháp chủ
yếu sau:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lí thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.

B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm:

4


Một trong những nguyên tắc cơ bản của dạy Tiếng Việt là dạy học thông
qua giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp, đặc biệt giao tiếp bằng ngôn ngữ là công
cụ để học sinh tiếp cận, rèn luyện và phát triển khả năng sử dụng từ Tiếng Việt.
Từ là đơn vị trung tâm của ngơn ngữ, vai trị của từ trong hệ thống ngôn ngữ quy
định tầm quan trọng của việc dạy từ ngữ ở Tiểu học. Nếu như không có vốn từ
đầy đủ thì khơng thể sử dụng ngơn ngữ như một cơng cụ giao tiếp được. Vì vậy
việc cung cấp kiến thức lý thuyết về từ cũng như kỹ năng nắm nghĩa, sử dụng từ
cho học sinh Tiểu học là rất quan trọng. Mặt khác, ngôn ngữ Tiếng Việt của
chúng ta thực sự phong phú và nhiều mảng kiến thức khó. Một trong những nội
dung khó đó là phần nghĩa của từ.
Trong chương trình mơn Tiếng Việt lớp 5, nội dung nghĩa của từ được tập
trung biên soạn có hệ thống trong phần Luyện từ và câu. Để giúp học sinh phân
biệt được từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, tôi tập trung hướng dẫn học sinh phân
biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển trong từ nhiều nghĩa. Nghĩa gốc và nghĩa chuyển
trong từ nhiều nghĩa là một hiện tượng độc đáo của tiếng Việt, góp phần làm

cho tiếng Việt thêm phong phú và mang đậm một nét đặc sắc riêng mà không
thể lẫn với một thứ ngôn ngữ nào khác. Nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều
nghĩa đã được SGK Tiếng Việt 5 tập 1 nêu trong khi dạy về từ nhiều nghĩa
nhưng khi xác định và phân biệt trong văn bản cụ thể thì có nhiều trường hợp
giáo viên cũng như học sinh vẫn nhầm lẫn. Để khắc phục vấn đề trên, tôi thiết
nghĩ cần phải nắm vững những quy luật cơ bản trong Tiếng Việt.
- Quy luật nhận thức của con người: Quá trình nhận thức của con người
bao gồm hai mặt: cảm tính và lý tính. Trong đó nhận thức cảm tính là nhận thức
đầu tiên. Điều này có nghĩa là tư duy của con người bao giờ cũng đi từ cụ thể,
trực quan, cảm tính đến trừu tượng lý tính. Dựa vào quy luật trên, ta có thể rút ra
thủ pháp nhận diện, phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển của một từ như sau:
Trong hai nghĩa của từ, nếu nghĩa nào cụ thể hơn (tức là với nghĩa này, từ chỉ có
hiện tượng trực quan cảm tính) thì đó là nghĩa gốc. Nghĩa nào có tính chất trừu
tượng hơn (chỉ hiện tượng trừu tượng thuộc nhận thức lý tính), thì đó là nghĩa
chuyển.
Ví dụ: Nghĩa của từ “chín” khi nói về quả, hạt hoặc hoa là nghĩa chính, cịn khi
nói về sự suy nghĩ của con người thì đó là nghĩa chuyển.
Quy luật chuyển nghĩa của từ: Tất cả các sự chuyển nghĩa có tính chất ẩn dụ
trong ngơn ngữ đều xuất phát từ những thuộc tính của con người và từ hiện thực
gần gũi nhất đối với con người đến toàn bộ thế giới còn lại. Dựa vào quy luật
này, ta có thể thấy: Trong hai ý nghĩa của một từ, nghĩa nào nói đến bản thân con
người, động vật hoặc nói về các hành động, tính chất của con người thì thường
5


là nghĩa có trước (nghĩa gốc) cịn nghĩa nói về các hiện tượng khác còn lại
thường là nghĩa chuyển. Người ta thường chuyển nghĩa của từ so với nghĩa gốc
bằng cách thêm hoặc bớt nét nghĩa.
Ví dụ: “răng” trong răng người, răng chuột là nghĩa chính.
“răng” trong răng bừa, răng cào là nghĩa chuyển.

2. Thực trạng dạy và học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trước khi áp dụng
sáng kiến.
Trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, trong quá trình giảng dạy mảng
kiến thức từ đồng âm và từ nhiều nghĩa ở lớp 5 tơi nhận thấy:
- Về phía giáo viên: Trong quá trình dạy học các bài này, mỗi giáo viên
đều làm đúng vai trò người hướng dẫn, tổ chức cho học sinh tích cực lĩnh hội
kiến thức. Tuy nhiên, chưa thực sự chú trọng đến xác định nghĩa gốc và nghĩa
chuyển trong từ nhiều nghĩa khi dạy học sinh phân biệt từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa trong các bài học. Do đó, sau các bài học học sinh chỉ nắm được kiến thức
về nội dung học một cách tách bạch. Đôi khi giảng dạy nội dung này, giáo viên
cịn khó khăn khi lấy thêm một số ví dụ cụ thể từ bên ngoài SGK để minh họa
phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
- Về phía học sinh: Học sinh không nắm chắc khái niệm nghĩa gốc, nghĩa
chuyển của từ, không hiểu thế nào là từ một nghĩa, thế nào là từ nhiều nghĩa.
Trong thực tế học sinh làm các bài tập về phân biệt và tìm các từ có quan hệ
đồng âm, các nghĩa của từ nhiều nghĩa trong một số văn cảnh thì đa số học sinh
lúng túng và làm bài chưa đạt yêu cầu.
* Kết quả thực trạng của việc dạy và học phân biệt từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa ở trường Tiểu học Thiệu Dương:
Năm học 2016 – 2017 tôi được phân công phụ trách lớp 5Đ. Ngay ở
những tuần học đầu tiên tôi đã tiến hành kiểm tra về kĩ năng phân biệt nghĩa gốc
và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa , thống kê và phân loại lỗi của các em cụ thể
như sau:
Bài 1: Trong các từ gạch chân ở các dòng sau, từ nào được dùng theo nghĩa gốc,
từ nào được dùng theo nghĩa chuyển?
a) Không nên ăn1 quả xanh.
b) Tàu vào bến ăn2 than.
c) Càng đi xa tơi càng nhớ nhà1.
d) Nhà2 tơi ở đầu xóm.
Kết quả: Nhiều học sinh xác định sai. Tập trung vào 2 lỗi cơ bản sau:

- Học sinh xác định từ ăn2 được dùng theo nghĩa gốc (ăn = lấy, bỏ vào)
- Học sinh khẳng định từ nhà1 được dùng theo nghĩa gốc (nhà = nơi ở)
6


Bài 2: Em hãy đặt một câu theo nghĩa gốc, một câu theo nghĩa chuyển của từ đi.
Kết quả: Học sinh chủ yếu mắc lỗi diễn đạt ý không rõ ràng cụ thể. Vì
thế, người đọc khó xác định “từ trong văn cảnh” được dùng theo nghĩa gốc hay
nghĩa chuyển. Nhiều học sinh đã làm bài tập như sau:
- Trường hợp 1:
a) Cu Bin đã đi.
(nghĩa gốc)
b) Ông em đã đi.
(nghĩa chuyển)
Đúng ra, trong trường hợp này, các em phải đặt từ “đi” trong văn bản cụ
thể hơn:
a) Cu Bin đã đi1 đựơc vài bước.
(nghĩa gốc)
2
b) Vì bệnh nặng, ơng em đã đi hôm qua.
(nghĩa chuyển)
(đi1: tự di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác bằng những bước chân nhấc lên, đặt
xuống liên tiếp.)
(đi2: mất, chết, qua đời.)
- Trường hợp 2:
a) Em đi1 học sớm mỗi ngày.
(nghĩa gốc)
b) Bố tôi đã đi2 cơng tác .
(nghĩa chuyển)
Cịn ở trường hợp này, lẽ ra từ đi1 phải được hiểu theo nghĩa chuyển (hay

có thể gọi đó là nghĩa chuyển dần từ nghĩa gốc sang nghĩa chuyển)
Bài 3: Đặt câu theo những nghĩa khác nhau của từ chín và cho biết từ nào được
dùng theo nghĩa gốc, từ nào được dùng theo nghĩa chuyển?
Kết quả: Nhiều học sinh đã làm như sau:
a) Bài thi cuối kì, em được chín1 mơn tốn.
( nghĩa gốc)
b) Bạn nên suy nghĩ cho chín2 rồi hãy nói.
(nghĩa chuyển)
Thực ra, hai từ “chín” ở 2 câu trên khơng phải là từ nhiều nghĩa mà chúng
là những từ đồng âm, vì nghĩa của hai từ này khơng hề có mối liên hệ với nhau.
(chín1: số tự nhiên đứng liền sau số 8)
(chín2: suy nghĩ kĩ để đạt hiệu quả cao)
Bài 4: Các từ in đậm trong câu thơ sau là hiện tượng từ đồng âm hay từ nhiều
nghĩa?
Rằm xuân1 lồng lộng trăng soi
Sông xuân2 nước lẫn màu trời thêm xuân3.
Kết quả: Nhiều học sinh hiểu nhầm xuân 1 cũng giống xuân2 và xuân3
(tươi đẹp, sáng trong, đầy sức sống) nên xác định sai cho rằng là hiện tượng
đồng âm. Thực chất, từ xuân1 chỉ mùa đầu tiên, tươi đẹp, đầy sức sống của một
năm.(nghĩa gốc), còn xuân2 và xuân3 mới chỉ đặc điểm của sông, của trời:tươi
đẹp, sáng trong, đầy sức sống (nghĩa chuyển). Như vậy đây phải là hiện tượng từ
7


nhiều nghĩa vì nghĩa của các từ xn có điểm giống nhau: tươi đẹp, đầy sức
sống.
Bài 5: a) Đặt một câu có hai từ non đồng âm với nhau.
b) Đặt một câu có hai từ cổ là hiện tượng từ nhiều nghĩa.
Kết quả: Với bài tập dạng này học sinh không làm đúng yêu cầu. Hầu hết
các em đặt thành các câu khác nhau, mỗi câu chứa một từ.

Tổng hợp kết quả:
TSHS
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
SL
TL
SL
TL
SL
TL
31
7
22,6%
17
54,8%
7
22,6%
Trước thực trạng học sinh chưa phân biệt được nghĩa gốc, nghĩa chuyển
và vận dụng đặt câu cịn sai nhiều như trên, tơi thực sự trăn trở vấn đề cần dạy
như thế nào để học sinh nắm vững mảng kiến thức này.
3. Các biện pháp phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
Trước thực trạng trên, để góp phần vào việc giúp học sinh phân biệt được
từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, tôi đã thực hiện một số biện pháp cơ bản
sau:
- Dạy cho học sinh nắm vững khái niệm về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
- So sánh từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
- Nhận biết được từ một nghĩa và từ nhiều nghĩa.
- Phát hiện ra mối liên hệ giữa nghĩa chuyển với nghĩa gốc của từ nhiều nghĩa.
- Phân biệt hiện tượng đồng âm với hiện tượng nhiều nghĩa trong các văn cảnh

cụ thể.
- Đặt câu phân biệt nghĩa của các từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
- Cảm nhận tác dụng của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong cảm thụ văn học.
3.1. Cung cấp khái niệm về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Trước hết, khi dạy bài "Từ đồng âm", "Từ nhiều nghĩa" tôi đã chú trọng
đến việc dạy cho học sinh nắm vững khái niệm về hai loại từ này. Cụ thể:
- Từ đồng âm: Từ đồng âm là những từ giống nhau về âm nhưng khác nhau về
nghĩa (SGK Tiếng Việt 5 - tập 1 - trang 51)
Từ đồng âm được dạy trong 1 tiết ở tuần 5, các em được học khái niệm về
từ đồng âm. Các bài tập về từ đồng âm chủ yếu giúp học sinh phân biệt nghĩa
các từ đồng âm, đặt câu phân biệt các từ đồng âm. Bài “Dùng từ đồng âm để
chơi chữ” đã được giảm tải, vì thế thời lượng dạy nội dung này cịn ít. Muốn
hiểu được nghĩa của các từ đồng âm, cần đặt các từ đó vào lời nói hoặc câu văn
cụ thể.

8


- Từ nhiều nghĩa: Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số
nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ với
nhau. (SGK Tiếng Việt 5 - Tập 1 - Trang 67)
Từ nhiều nghĩa được dạy trong 3 tiết ở tuần 7 và tuần 8. Học sinh được
học khái niệm về từ nhiều nghĩa. Các bài tập chủ yếu là phân biệt các từ mang
nghĩa gốc và nghĩa chuyển, đặt câu phân biệt nghĩa. Nêu các nét nghĩa khác
nhau của một từ.
Trong phân môn Luyện từ và câu lớp 5, các bài học về khái niệm từ đồng
âm, và từ nhiều nghĩa đều có cấu trúc bài học gồm ba phần: Nhận xét, Ghi nhớ,
Luyện tập.
- Nhận xét: là phần cung cấp ngữ liệu và nêu câu hỏi (bài tập) gợi ý cho học sinh
phân tích nhằm rút ra kiến thức lí thuyết. Theo quan điểm tích hợp, ngữ liệu

thường được rút ra từ những bài tập đọc mà học sinh đã học. Các ngữ liệu đều
mang tính điển hình cao và có số lượng chữ hạn chế để đảm bảo tính hiệu quả
của việc phân tích và khơng làm mất thời gian học tập.
- Ghi nhớ: là phần chốt lại những điểm chính yếu về kiến thức được rút ra từ
việc phân tích ngữ liệu. Học sinh cần nắm vững những kiến thức này.
- Luyện tập: là phần bài tập nhằm củng cố và vận dụng kiến thức đã học.
Sau mỗi bài học lí thuyết về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, tôi đều yêu cầu
học sinh chép nội dung ghi nhớ vào Sổ tay Tiếng Việt và học thuộc.
Đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa tôi luôn yêu
cầu học sinh nhắc lại khái niệm về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa để giúp học sinh
ghi nhớ sâu hơn.
3.2. So sánh từ đồng âm và từ nhiều nghĩa:
Khi học sinh đã được học và nắm vững khái niệm từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa, tôi bắt đầu yêu cầu học sinh kẻ bảng so sánh sự giống và khác nhau giữa
từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
- Giống nhau: Phát âm giống nhau. (Tức hình thức thể hiện trên chữ viết giống
nhau).
- Khác nhau:
+ Từ đồng âm: Nghĩa hoàn toàn khác nhau.
+ Từ nhiều nghĩa: Có điểm giống nhau về nghĩa.
Như vậy, từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có đặc điểm và hình thức
giống nhau, đọc giống nhau, viết cũng giống nhau chỉ khác nhau về ý nghĩa.
Ví dụ 1: Con ruồi đậu1 mâm xôi đậu2.
đậu1 : là một hoạt động. (Động từ)
đậu2 : là tên một loại hạt dùng để thôi xôi. (Danh từ)
9


Hai từ đậu phát âm giống nhau nhưng nghĩa của chúng khơng có dính
dáng, liên quan gì đến nhau. Tức là nghĩa hoàn toàn khác nhau. Như vậy, đậu1

và đậu2 là từ đồng âm.
Ví dụ 2: Chân1 anh đi khắp chân2 trời góc bể.
chân1: là bộ phận cuối cùng của cơ thể, giúp nâng đỡ cơ thể, giúp cơ thể
di chuyển.
chân2: là bộ phận cuối cùng của sự vật.
Hai từ chân phát âm giống nhau, đồng thời chúng có nét nghĩa giống
nhau (Đều là bộ phận cuối của sự vật). Như vậy, chân1 và chân2 là từ nhiều
nghĩa.
Ví dụ 3: Chúng tôi ngồi vào bàn1 để bàn2 công việc.
bàn1: chỉ một đồ vật có mặt phẳng, chân đứng để đồ đạc hoặc làm việc.
(Danh từ).
bàn2 : chỉ sự trao đổi ý kiến.(Động từ)
Hai từ bàn xét về hình thức ngữ âm thì hồn tồn giống nhau cịn nghĩa
thì hồn tồn khác nhau. Như vậy, bàn1 và bàn2 là từ đồng âm.
Để giúp học sinh không nhầm lẫn giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa tôi
đã dạy cho học sinh dựa vào một số dấu hiệu phân biệt qua bảng tóm tắt sau :
Dấu
hiệu
phân
biệt

Từ đồng âm

Từ nhiều nghĩa

- Đọc giống nhau, viết giống
- Đọc giống nhau, viết giống nhau
Giống
nhau.
- Dựa vào văn cảnh để xác định nghĩa

nhau
- Dựa vào văn cảnh để xác định
của từ.
nghĩa của từ.
Khác
- Thường khác từ loại
- Ln ln cùng từ loại
nhau
Ví dụ:
Ví dụ:
1
Chúng nó tranh nhau quả bóng.
Lan ăn1 cơm.
ĐT
ĐT
2
Mọi người đang xem tranh .
Xe ăn2 hàng ở cảng.
DT
ĐT
* Nếu cùng từ loại thì phần lớn là danh
từ.
Ví dụ:
10


Tấm vải1 này dày quá.
DT
Năm nay quê em được mùa vải2.
DT

- Các từ đồng âm có nghĩa khác xa
nhau.
- Một số từ đồng âm xuất hiện từ quy
luật chuyển từ loại.

- Giữa nghĩa gốc và nghĩa
chuyển của từ ln có mối quan
hệ về nghĩa.
- Tất cả nghĩa chuyển đều xuất
phát từ quy luật chuyển nghĩa
của từ.
Ví dụ:
Ngơi nhà1 vừa mới xây xong.
Cà nhà2 vui vẻ trò chuyện .
nhà1: chỉ nơi ở.
nhà2: Chỉ những người sống
trong nơi ở đó.

Ví dụ:
Bố đẽo cày1.
Bố đang cày2 ngoài đồng.
Cày1: Danh từ chỉ 1 loại nông cụ.
Cày2: Động từ dùng chỉ cày để lật đất
lên (chuyển loại từ danh từ sang động
từ)
3.3 Nhận biết từ một nghĩa và nhiều nghĩa.
Muốn hiểu rõ hơn khái niệm về từ nhiều nghĩa ta có thể so sánh từ nhiều
nghĩa với từ một nghĩa. Từ nào là tên gọi của một sự vật, hiện tượng biểu đạt
một khái niệm thì từ ấy chỉ có một nghĩa. Từ nào là tên gọi của nhiều sự vật,
hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm thì từ ấy là từ nhiều nghĩa.

Để học sinh nhận biết thế nào là một nghĩa, thế nào là từ nhiều nghĩa. Trước
hết giáo viên có thể cho học sinh ví dụ để phân biệt từ có một nghĩa.
Ví dụ 1: xe đạp : chỉ loại xe người đi, có 2 bánh, dùng sức người đạp cho quay
bánh. Đây là nghĩa duy nhất của từ xe đạp.Vậy từ xe đạp là từ chỉ có một nghĩa.
Ví dụ 2: Với từ “ăn’’:
- ăn cơm : Cho vào cơ thể thức nuôi sống (nghĩa gốc).
- ăn cưới : Ăn uống nhân dịp cưới.
- (da) ăn nắng :Da hấp thụ ánh nắng cho thấm vào, nhiễm vào.
- ăn ảnh : Vẻ đẹp được tôn lên trong ảnh.
- (tàu) ăn hàng : Tiếp nhận hàng để chuyên chở.
- (sông) ăn ra biển : Lan ra, hướng đến biển.
- (sơn) ăn mặt : Làm huỷ hoại dần từng phần.
.....
Như vậy, từ “ăn” là một từ nhiều nghĩa .
Với cách hướng dẫn nhận diện này, các em sẽ phân biệt từ một nghĩa và

11


từ nhiều nghĩa một cách dễ dàng hơn, trước khi dẫn đến hình thành khái niệm
nghĩa gốc, nghĩa chuyển trong từ nhiều nghĩa.
3.4 Phát hiện ra mối liên hệ ý nghĩa giữa nghĩa chuyển với nghĩa gốc của từ
nhiều nghĩa.
Trước hết cần giới thiệu cho học sinh biết về nghĩa của từ.
- Mỗi từ bao giờ cũng có một nghĩa chính, nghĩa gốc (cịn gọi là nghĩa đen).
Nghĩa gốc là nghĩa trực tiếp, gần gũi, quen thuộc, dễ hiểu. Nghĩa gốc khơng
hoặc ít phụ thuộc vào văn cảnh.
- Ngồi ra một số từ cịn có thêm các nghĩa khác. Các nghĩa này có sau
(nghĩa chuyển, nghĩa ẩn dụ), được suy ra từ nghĩa gốc.
- Muốn hiểu nghĩa chính xác của một từ được dùng, phải tìm nghĩa trong văn

cảnh.
- Ngồi ra, cũng có một số từ mang tính chất trung gian giữa nghĩa gốc và
nghĩa chuyển hoặc đang chuyển dần từ nghĩa gốc sang nghĩa chuyển.
Ví dụ 1 : Tơi đi sang nhà hàng xóm.
Trong ví dụ này từ đi có nghĩa là chỉ (người) tự di chuyển từ nơi này đến nơi
khác, khơng kể bằng cái gì. Nghĩa này của từ đi khơng hồn tồn giống nghĩa
gốc (hoạt động của 2 bàn chân di chuyển từ nơi này đến nơi khác). Nhưng nó
vẫn có mối quan hệ với nghĩa gốc (di chuyển từ nơi này đến nơi khác ).
Theo tài liệu “Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học” (Tác
giả Lê Hữu Tỉnh - Trần Mạnh Hưởng), Khái niệm nghĩa gốc - nghĩa chuyển của
một từ nhiều nghĩa được hiểu như sau:
+ Nghĩa gốc: Là nghĩa cơ bản, là nền tảng cho sự phát triển nghĩa của từ.
Trong từ điển, nghĩa gốc được nói đến đầu tiên.
+ Nghĩa chuyển: Là loại nghĩa được hình thành từ nghĩa gốc, có mối quan
hệ mật thiết với nghĩa gốc. Trong từ điển, nghĩa chuyển được nói đến sau nghĩa
gốc.
Khi gặp hai hoặc nhiều nghĩa của từ trong văn cảnh, muốn biết từ đó dùng
theo nghĩa gốc hay nghĩa chuyển, tôi đã hướng dẫn học sinh thông qua cách
nhận biết trực quan như sau:
- Từ nào có ý nghĩa cụ thể hơn: Nghĩa của từ chỉ những sự vật, hiện tượng
hoặc tính chất, hành động cụ thể, mà các em có thể cảm nhận được bằng giác
quan thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc.
- Từ nào có nghĩa trừu tượng hơn: nghĩa của từ chỉ những sự vật, hiện tượng
hoặc hành động, tính chất mà các em khơng thể cảm nhận bằng giác quan thì từ
đó được dùng theo nghĩa chuyển.
1 nghÜa gèc (nghÜa ®en)
12




víi

cã mèi liªn hƯ

1 hoặc nhiều nghĩa chuyển ( nghĩa bóng)
nhau
Nếu cả hai nghĩa đều cụ thể, khó phân biệt được nghĩa nào cụ thể hơn, nghĩa
nào trừu tượng hơn, thì có thể hướng dẫn học sinh dựa vào các dấu hiệu sau:
- Nếu nghĩa của từ nào nói đến bản thân con người (hoặc động vật), hoặc tính
chất, hành động của con người thì từ đó được dùng theo nghĩa gốc.
- Nếu nghĩa của từ nói đến các đồ vật, vật có hình dáng, tính chất, hành động
gần giống con người thì từ đó được dùng theo nghĩa chuyển.
Các từ mang nghĩa gốc thì nêu được nghĩa khác nhau nhưng phải bằng cách
diễn giải. Còn phần nhiều các từ mang nghĩa chuyển thì nêu nghĩa bằng cách
thay thế bằng một từ khác (mang nghĩa phụ).
Ví dụ 2:
Mùa xuân1 là tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân2.
Ta thấy rằng: xuân2 được dùng theo nghĩa chuyển vì xuân có thể thay thế
bằng tươi đẹp.
Ví dụ 3:
Chân1 anh đi khắp chân2 trời góc bể.
chân1: là bộ phận cuối cùng của cơ thể, giúp nâng đỡ cơ thể, giúp cơ thể
di chuyển (mang nghĩa gốc).
chân2: là bộ phận cuối cùng của sự vật (mang nghĩa chuyển).
Ví dụ 4: a) Bữa tối, nhà em thường ăn1 cơm muộn.
b) Xe này ăn2 xăng quá!
c) Mẹ tôi là người làm công ăn3 lương.
- ăn1: chỉ hoạt động từ đưa thức ăn vào miệng. Hành động “ăn” trong câu a, là
hành động cụ thể (dùng miệng để ăn). Từ ăn1 được dùng theo nghĩa gốc.

- ăn2: chỉ hoạt động tiêu thụ năng lượng để máy móc hoạt động. Hành động “ăn”
trong câu b, là hành động trừu tượng (không dùng miệng). Nên từ ăn 2 được dùng
theo nghĩa chuyển.
- ăn3 : là hành động trừu tượng (không dùng miệng). Từ ăn 3 được dùng theo
nghĩa chuyển.
Như vậy, từ “ăn” nào chỉ hành động cụ thể (dùng miệng để ăn) thì từ đó
được dùng theo nghĩa gốc. Từ “ăn” chỉ hành động (không dùng miệng) là những
Từ dùng theo nghĩa chuyển.
Ví dụ 5: Từ tai.
a) Lắng tai1 nghe lấy những lời mẹ cha.
b) Chiếc ấm này, tai2 đã sứt.
13


- tai1: cơ quan hai bên đầu người, động vật. Từ “tai” dùng chỉ bộ phận cơ thể
người. Từ tai1 được dùng theo nghĩa gốc.
- tai2: bộ phận của vật có hình dáng giống cái tai. Từ “tai” chỉ bộ phận của vật.
Từ tai2 được dùng theo nghĩa chuyển.
Qua các minh chứng trên, tôi đã khắc chốt lại cho học sinh nắm vững mối
liên hệ giữa nghĩa của từ trong các văn cảnh cụ thể: Từ đồng âm là nhiều từ
nhưng nghĩa các từ trong văn cảnh đều là nghĩa gốc (cịn gọi là nghĩa chính).
Cịn từ nhiều nghĩa thì chỉ là một từ có một nghĩa gốc cịn các nghĩa khác là
nghĩa chuyển từ nghĩa gốc.
3.5. Phân biệt hiện tượng đồng âm với hiện tượng nhiều nghĩa trong các văn
cảnh cụ thể.
Trên cơ sở những dấu hiệu phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa, cách
nhận biết và mối liên hệ giữa nghĩa của từ nêu trên tôi hướng dẫn học sinh phát
hiện đâu là hiện tượng đồng âm, đâu là hiện tượng nhiều nghĩa trong các văn
cảnh cụ thể.
Ví dụ 1: Trong các từ gạch chân dưới đây, từ nào là từ đồng âm, từ nào là từ

nhiều nghĩa?
a)Vàng :
- Giá vàng trong nước tăng đột biến. Từ nhiều nghĩa (nghĩa gốc)
- Tấm lòng vàng. Từ nhiều nghĩa (nghĩa chuyển)
- Chiếc lá vàng rơi xuống sân trường. Từ đồng âm
b) Bay :
- Bác thợ nề đang cầm bay trát tường. Từ đồng âm
- Đàn cò đang bay trên trời. Từ nhiều nghĩa (nghĩa gốc)
- Đạn bay vèo vèo. Từ nhiều nghĩa ( nghĩa chuyển)
- Chiếc áo đã bay màu. Từ nhiều nghĩa (nghĩa chuyển)
Ví dụ 2: Các từ in đậm trong các trường hợp sau, đâu là hiện tượng từ đồng âm,
đâu là hiện tượng từ nhiều nghĩa? Tại sao?
Cái gậy có một chân1
Biết giúp bà khỏi ngã.
Chiếc com-pa bố vẽ
Có chân2 đứng chân3 quay.
Cái kiềng đun hằng ngày
Ba chân4 xòe trong lửa.
Chẳng bao giờ đi cả
Là chiếc bàn bốn chân5.
Riêng cái võng Trường Sơn
14


Không chân6 đi khắp nước.
Với bài tập này tôi hướng dẫn học sinh đọc và cảm nhận đoạn thơ, tìm
hiểu nghĩa của các từ chân trong trừng ý thơ để nhận ra:
- chân6 chỉ bộ phận dưới cùng dùng để di chuyển.
- Các từ chân còn lại đều chỉ bộ phận đưới cùng để nâng đỡ sự vật.
Như vậy, đây là hiện tượng từ nhiều nghĩa vì chân6 là nghĩa gốc, các từ

cịn lại là nghĩa chuyển nó đều có nét nghĩa giống nhau là đều chỉ bộ phận cuối
cùng nâng đỡ cơ thể, sự vật.
Ví dụ 3: Tìm nghĩa của các từ cam trong đoạn thơ sau và cho biết đây là hiện
tượng từ nhiều nghĩa hay từ đồng âm? Tại sao?
Cảm ơn bà biếu gói cam1
Nhận thì khơng đúng, từ làm sao đây?
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Phải chăng khổ tận đến ngày cam2 lai?
Tương tự như ví dụ trên, tôi cũng cho học sinh đọc và cảm nhận đoạn thơ
và tìm hiểu nghĩa của các từ cam.
- cam1 chỉ tên một loại quả.
- cam2 chỉ niềm hạnh phúc, sung sướng.
Như vậy, đây là hiện tượng từ đồng âm vì cam1 và cam2 chỉ giống nhau
về âm cịn nghĩa khác hẳn nhau.
3.6. Đặt câu phân biệt nghĩa của các từ đồng âm và từ nhiều nghĩa
Một trong những kĩ năng quan trọng khi dạy phân môn Luyện từ và câu là
dạy cho học sinh biết sử dụng từ để đặt câu. Để rèn luyện kĩ năng đó, khi dạy
học sinh phân biệt nghĩa của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa tôi đã cho học sinh làm
các bài tập đặt câu phân biệt nghĩa. Muốn đặt đúng câu có từ cho sẵn được dùng
theo nét nghĩa nào thì học sinh phải hiểu và đặt được câu vào các văn cảnh cụ
thể. .
Ví dụ 1: Đặt câu phân biệt nghĩa các từ đồng âm: đậu, chín, bác.
- Trở lại với ví dụ đã nêu ở phần trước, để hiểu nghĩa của từ đậu trong vai trị
của từ đồng âm tơi đã hướng dẫn học sinh đặt một câu có cả hai từ đậu đồng âm
với nhau như sau:
Ruồi đậu1 mâm xôi đậu2.
Trong văn cảnh này từ đậu1 là động từ có nghĩa con ruồi nó dừng lại ở
trên mâm xơi. Cịn từ đậu2 là danh từ chỉ xơi đậu được nấu từ nếp và loại đậu
nào đó.
- Từ chín trong câu:

Một nghề cho chín1 cịn hơn chín2 nghề.
15


Từ chín1 là động từ chỉ sự tinh thơng một nghề nào đó. Cịn từ chín2 là số
từ (có nghĩa là chỉ số 9).
- Từ bị trong câu:
Bé thì bị1, cịn con bị2 lại đi.
Từ bị1 là động từ có nghĩa là hoạt động của em bé di chuyển vị trí ở
tư thế nằm sấp, cử động cả tay chân. Cịn từ bị2 là danh từ chỉ lồi động vật
nhai lại, sừng rỗng ngắn, chân có hai móng, ni để lấy sức kéo, ăn thịt hay lấy
sữa.
- Từ bác trong câu:
Đừng vội bác1 ý kiến của bác2.
Từ bác1 có nghĩa là khơng chấp nhận. Cịn từ bác2 là từ để gọi nhau giữa
người nhiều tuổi.
Ví dụ 2: Đặt câu phân biệt nghĩa các từ nhiều nghĩa: đường, chân.
Để phân biệt các nét nghĩa khác nhau của từ nhiều nghĩa đường, tơi hướng
dẫn học sinh tìm các nét nghĩa khác nhau của từ.
- Từ đường trong câu:
+ Lối đi nối liền hai hay nhiều điểm (đường quốc lộ).
Ví dụ: Ngồi đường xe cộ đi lại nườm nượp.
+ Phương tiện truyền đi, chuyển đi cái gì đó (đường ống dẫn nước; đường
điện thoại; đường thuỷ).
Ví dụ: Thời tiết xấu nên đường truyền kém.
+ Lối đi của vật chuyển động (đường tên bay).
Ví dụ: Đường tên bay vút qua trước mặt.
- Từ chân:
+ Bộ phận dưới cùng của cơ thể người, động vật, dùng để đi đứng (dừng
bước chân; đi xa mỏi chân).

Ví dụ: Anh ấy bị thương ở chân.
+ Bộ phận dưới cùng của một số đồ dùng (chân ghế; chân giường; chân
kiềng ...).
Ví dụ: Chân ghế này rất chắc chắn.
+ Cương vị, phận sự của một người (có chân trong hội đồng nhân dân
tỉnh; chân thư ký).
Ví dụ: Anh ta có một chân trong hội đồng nhân dân khóa này.
Ví dụ 3: Tìm nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ ngọt. Lấy ví dụ minh họa.
- Nghĩa gốc: Quả cam này rất ngọt. (Chỉ một vị giống như vị của đường, ngon
và hấp dẫn).
- Nghĩa chuyển:
16


+ Chị ấy nói ngọt thật. (Chỉ cảm giác êm ái, dễ chịu, hấp dẫn của âm thanh)
+ Trời hôm nay rét ngọt. (Chỉ cảm giác mạnh đậm)
Ví dụ 4: Dùng các từ dưới đây để đặt câu (một câu theo nghĩa gốc, một câu theo
nghĩa chuyển) : nhà, đi
Sau khi hiểu rõ yêu cầu của đề, học sinh có thể làm như sau:
a) - Ngôi nhà đẹp quá. (Nghĩa gốc)
- Nhà tôi đi vắng. (Nghĩa chuyển)
b) - Em bé đang tập đi.(Nghĩa gốc)
- Tơi đi du lịch.(Nghĩa chuyển)
Ví dụ 5: Đặt câu theo yêu cầu:
- Một câu có bốn từ cuốc đồng âm với nhau.
- Một câu có ba từ ăn là hiện tượng nhiều nghĩa.
Trước hết tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu các nét nghĩa khác nhau của từ
cuốc và từ ăn:
a) Với từ cuốc:
- cuốc1: đi bộ.

- cuốc2: tên một đồ vật dùng để cuốc đất.
- cuốc3: tên một hoạt động.
- cuốc4: tên con chim cuốc.
Từ đó, tơi cho các em tập đặt câu theo các nét nghĩa trên. Chẳng hạn:
Ơng tơi cuốc1 bộ vác cuốc2 ra đồng cuốc3 đất, ông bắt được một con chim
cuốc4.
b) Với từ ăn:
- ăn1: hoạt động đưa thức ăn vào miệng.
- ăn2: đông khách đến.(chỉ sự tiếp nhận)
- ăn3: lấy than.(chỉ sự tiếp nhận)
Từ đó, tơi cho các em tập đặt câu theo các nét nghĩa trên. Chẳng hạn:
Khi chúng tôi đang ăn1 trưa trong một nhà hàng ăn2 khách bên bến cảng thì
tàu về ăn3 than.
Như vậy, nếu dạy cho mỗi học sinh nắm vững những dấu hiệu phân biệt từ
đồng âm với từ nhiều nghĩa và rèn kỹ năng đặt câu phân biệt các hiện tượng từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa qua các bài tập thì chắc chắn học sinh sẽ ít nhầm lẫn
khi phân biệt từ đồng âm với từ nhiều nghĩa.
3.7. Cảm nhận tác dụng của từ đồng âm, từ nhiều nghĩa trong cảm thụ văn
học.
Đôi khi sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa tạo nên hiệu quả nghệ thuật
nhất định, tạo nên sức hấp dẫn của một bài văn, bài thơ. Đối với những học sinh
có năng khiếu Tiếng Việt tơi đã hướng dẫn các em phân biệt từ đồng âm, từ
17


nhiều nghĩa qua các bài tập cảm thụ văn học.
Ví dụ: Hãy chỉ ra hiện tượng từ nhiều nghĩa trong đoạn thơ sau và nêu cái hay
của việc dùng hiện tượng từ nhiều nghĩa đó.
Tơi muốn ngày nào lớp cũng đơng vui
Dẫu tháng ba cịn đi qua năm học

Mỗi khoảng trống trên bàn - có em vắng mặt
Là bao nhiêu khoảng trống ở trong tôi...
(Tháng ba đến lớp – Thanh Ứng)
Với bài tập này tôi hướng dẫn các em cảm nhận được: Bài thơ sáng tác
trong những ngày giáp hạt tháng ba, khơng cịn thóc gạo để ăn nên thực trạng ở
miền núi là học sinh nghỉ học ngày một nhiều. Hiểu được bối cảnh sáng tác các
em sẽ hiểu được giá trị của từ nhiều nghĩa trong bài là từ khoảng trống.
- khoảng trống1: là chỗ khuyết, vắng học sinh.
- khoảng trống2: là sự trống trải, hụt hẫng ở trong lòng.
Như vậy, việc sử dụng từ nhiều nghĩa khoảng trống nhà thơ Thanh Ứng
đã làm nổi bật nỗi xót xa, nỗi buồn trước hiện tượng học sinh miền núi nghỉ học
ngày càng nhiều vì đói. Điều đó cho thấy tấm lịng u thương học trị tha thiết
của thầy cơ giáo đối với các em học sinh ở một vùng quê nghèo.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Qua thời gian giảng dạy tôi thực hiện các phương pháp trên, tơi nhận thấy
các em có tiến bộ hẳn, phân biệt được từ đồng âm từ nhiều nghĩa. Cuối năm học,
tôi đã khảo sát lại 31 em ở lớp 5Đ kết quả cụ thể như sau.
TSHS
Hồn thành tốt
Hồn thành
Chưa hồn thành
SL
TL
SL
TL
SL
TL
31
12
38,7%

19
61,3%
0
0
Nhìn vào bảng trên ta thấy các em đã có tiến bộ rõ rệt. Các em có ý thức
trau dồi kiến thức. Trường hợp cịn lại có nhiều em chậm tiến, học trước quên
sau như phụ huynh các em vẫn phàn nàn. Tơi vẫn tiếp tục tìm tịi, học hỏi, tìm
hiểu thêm ở sách báo, bạn bè, đồng nghiệp để tìm ra biện pháp khắc phục, vì học
tập là nhiệm vụ hàng đầu của học sinh trong trường, cũng là nhiệm vụ trọng tâm
của mỗi giáo viên giảng dạy trong trường Tiểu học.

C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:

18


Sau khi áp dụng những biện pháp nêu trên vào thực tế giảng dạy, tôi nhận
thấy học sinh lớp 5 trường Tiểu học Thiệu Dương chúng tôi đã xác định đúng
nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa. Biết phân biệt hiện tượng đồng
âm với hiện tượng nhiều nghĩa. Kết quả khảo sát thu được cho thấy khả năng
tiếp thu và chất lượng học tập của học sinh về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đã
nâng lên rõ rệt. Qua đó góp phần nâng chất lượng mơn học Tiếng Việt nói riêng
và chất lượng dạy học trong nhà trường nói chung.
Theo tơi, để đạt được kết quả tốt, giáo viên khi dạy học sinh lớp 5 phân
biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cần làm tốt một số việc sau:
- Dạy cho học sinh nắm vững các bài lí thuyết sau đó mới luyện tập.
- Giúp học sinh phân biệt và xác định đúng được yêu cầu của bài tập.
- Giúp học sinh xác định rõ các đặc điểm, cấu tạo của từ về hình thức và
bản chất.

- Tạo điều kiện để cho học sinh bộc lộ cách hiểu của mình, hướng dẫn học
sinh phân biệt nghĩa sau đó mới đưa ra kết luận.
- Qua các bài tập học sinh thực hành về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa giáo
viên cần cho các em tự kiểm tra, kiểm tra lẫn nhau về kết quả mình đã làm được.
- Thực tế dạy học cho thấy, hiện nay các nhà trường không tổ chức bồi
dưỡng học sinh giỏi nên mảng kiến thức về phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển
trong từ nhiều nghĩa thực sự khó đối với học sinh. Với thời lượng các tiết học
chính khóa theo PPCT có hạn, để tạo điều kiện cho các em được luyện tập, củng
cố kiến thức thiết thực hơn giáo viên cần lựa chọn cẩn thận tài liệu và hệ thống
bài tập dạy cho học sinh của mình trong buổi 2.
Với sự nỗ lực nghiên cứu của bản thân, cùng với sự cộng tác giúp đỡ của
đồng nghiệp, tổ chuyên môn cũng như Ban giám hiệu nhà trường cùng với sự
hưởng ứng nhiệt tình, ham học hỏi của học sinh, việc ứng dụng sáng kiến kinh
nghiệm này vào thực tế giảng dạy đã thu được kết quả khả quan. Tôi thiết nghĩ
có thể phát triển mở rộng phạm vi nghiên cứu cũng như áp dụng giảng dạy cho
học sinh lớp 5 ở các trường tiểu học trên địa bàn.
2. Kiến nghị:
- Nhà trường phối hợp cùng phụ huynh và địa phương đầu tư cơ sở vật
chất, trang bị máy chiếu cho các lớp học để giáo viên có thể thực hiện dạy học
bằng giáo án điện tử đối với những tiết Luyện từ và câu nói riêng và các tiết của
các mơn học khác nói chung. Có như vậy giáo viên mới linh hoạt đưa được
nhiều hình ảnh trực quan vào bài dạy giúp học sinh nắm nghĩa từ và hiểu bài tốt
hơn.
19


- Phòng giáo dục nên tổ chức những buổi tập huấn nâng cao kiến thức,
chuyên môn và phương pháp giảng dạy cho giáo viên. Tăng cường tổ chức các
tiết dạy mẫu để giúp các giáo viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, nâng cao chất
lượng và hiệu quả giờ dạy phân mơn Luyện từ và câu nói riêng và chất lượng

mơn Tiếng Việt nói chung.
Trên đây là các biện pháp giỳp hc sinh phõn bit từ đồng âm và t
nhiu
ngha mà tôi đã đúc rút kinh nghiệm trong thực tế giảng dạy. Rất mong nhận
được những ý kiến đóng góp của các cấp lãnh đạo, bạn bè đồng nghiệp để
sáng kiến này ngày càng hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 6 tháng 3 năm 2017.
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết
khơng sao chép nội dung của người khác.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Người viết
ĐƠN VỊ
Lê Thị Thúy

D.TÀI LIỆU THAM KHẢO.
20


1. SGK Tiếng Việt 5 - Tập 1- NXB Giáo dục.
2. Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng Việt ở Tiểu học” (Tác giả Lê
Hữu Tỉnh - Trần Mạnh Hưởng - NXB Giáo dục Việt Nam)
3. Bồi dưỡng HS giỏi Tiếng Việt Tiểu học.(Tác giả: GS.TS. Lê Phương
Nga- NXB Giáo dục Việt Nam)
4. Từ và câu lớp 5 .(Tác giả: GS.TS. Lê Phương Nga- NXB Giáo dục Việt
Nam)

21




×