Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Một số biện pháp khắc phục những sáo mòn ở khâu đọc và hướng dẫn đọc trong dạy học văn THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.95 KB, 25 trang )

MỤC LỤC

Tran
g
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến
2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến
3. Các biện pháp đã thực hiện để giải quyết vấn đề
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Danh mục cácđề tài SKKN đã được đánh giá xếp loại

1
1
2
2
2
4
4
7
9
18
21


21
21

MỘT SỐ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC
NHỮNG SÁO MÒN Ở KHÂU ĐỌC VÀ HƯỚNG DẪN ĐỌC
TRONG DẠY HỌC VĂN THCS
I. MỞ ĐẦU:
1. Lí do chọn đề tài.
1


Đọc là một trong những hình thức hoạt động nhận thức của con người,
phản ánh năng lực tư duy bằng ngôn ngữ và thông qua ngôn ngữ. Riêng với văn
học, đọc tác phẩm là loại hoạt động giao tiếp. Đọc tác phẩm là hình thức hoạt
đặc thù của nhận thức văn học, nhằm tạo nên sự hoà đồng giữa tác giả và bạn
đọc, làm cho khoảng cách giữa tác phẩm với người đọc, giữa tác giả với học
sinh được rút ngắn lại. Đọc tác phẩm là biến chữ viết thành lời nói sinh động,
biến dòng chữ vô tình thành lời nói hữu tình, từ đó giúp học sinh đi sâu vào thế
giới hình tượng, thế giới cảm xúc, làm chúng hiện lên trong tâm tưởng học sinh,
từ đó các em cảm nhận được sự vật, hình ảnh, con người,…Việc đọc tác phẩm
được quy định bởi đặc trưng thể loại. Bằng việc đọc, học sinh có thể đối thoại
với tác giả để cố gắng đi tới cái tận cùng mà người sản sinh ra văn bản gửi gắm
vào các câu chữ, hình ảnh. Qua việc đọc tác phẩm, học sinh sẽ lĩnh hội được
hiện thực cuộc sống, lịch sử thông qua các hình tượng nghệ thuật, hiểu được
những vấn đề về con người, về cuộc sống, về lý tưởng.
Đọc tác phẩm trong nhà trường còn gắn liền với kỹ năng rèn luyện thị
giác, điều phối hơi thở, khả năng phát âm, luyện âm, luyện giọng, khả năng lắng
nghe giọng đọc mà thực ra là năng lực diễn tả, tái hiện và sáng tạo của chính
mình, sau những tòi hiện và diễn tả của tác giả để hiểu tác phẩm.
Trong nhà trường, đọc là một trong bốn kỹ năng cơ bản của mục tiêu dạy

học và là một khâu quan trọng trong quá trình dạy- học. Việc đọc tác phẩm có
tác dụng rất cao mang lại hiệu quả lớn trong quá trình dạy học bộ môn ngữ văn
ở trường THCS. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên Ngữ văn phải đổi mới phương
pháp dạy học nhất là khâu đọc và hướng dẫn đọc tác phẩm. Có như vậy mới góp
phần làm cho việc dạy học môn học này ngày càng trở nên hấp dẫn, tạo được sự
hứng thú cho người học.
Ngữ văn luôn luôn đóng vai trò là một trong những bộ môn chính yếu
trong trường THCS. Hơn thế nữa, với đặc thù riêng về sự chính xác tương đối,
sự phụ thuộc vào cảm xúc của người dạy và người học mà vấn đề dạy và học
Ngữ văn luôn được quan tâm đặc biệt. Mục tiêu chung của môn Ngữ văn là bồi
dưỡng năng lực Ngữ văn cho học sinh, bao gồm năng lực đọc, hiểu các văn bản
thông dụng (văn, thơ, truyện), năng lực viết một số văn bản thông dụng… Đồng
thời cung cấp một hệ thống tri thức phong phú về văn học. Học sinh luôn tiếp
xúc trước hết với văn bản và chính vì thế mà định hướng phương pháp đọc là vô
cùng cần thiết.
Hoạt động đọc của học sinh hiện nay đã trở thành trọng tâm khi bình giá,
phân tích, cắt nghĩa tác phẩm văn chương và học sinh là độc giả tác phẩm văn
học. Mỗi nền văn học, mỗi thể loại, giai đoạn văn học khác nhau lại cần có
những đặc trưng về kĩ năng đọc riêng.. Nguyễn Thanh Hùng đã viết “Dạy đọc là
nền tảng văn hóa cho người đọc” [3, tr.13]. Điều này đặc biệt đúng khi áp dụng
vào giảng dạy các tác phẩm văn học.
Khi xét nội dung của tác phẩm cần tìm hiểu một cách tương đối kĩ về
những kinh nghiệm văn hóa lịch sử, phát hiện được những mối tương đồng tạo
điều kiện cho học sinh chiếm lĩnh tác phẩm. Việc dạy đọc hiểu để khám phá, để
2


hiều đúng văn bản chính là một yêu cầu quan trọng trong quá trình giảng dạy
phần văn học.
Từ những lí do như trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Một số biện

pháp khắc phục những sáo mòn ở khâu đọc và hướng dẫn đọc trong dạy
học Văn THCS” để góp phần nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn .
2.Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ thực tế việc dạy học Ngữ văn ở THCS, tôi nghiên cứu đề tài
này nhằm mục đích:
- Nghiên cứu và đánh giá về thực trạng dạy và học ở khâu đọc và hướng dẫn đọc
trong dạy Văn ở trường THCS”. Nghiên cứu về lí thuyết phương pháp đọc văn
bản văn học.
- Cùng đồng nghiệp nhìn nhận, đánh giá đúng, tích cực, gia công cho giờ dạy
Ngữ văn, đặc biệt là khâu đọc và hướng dẫn đọc.
- Đề xuất một phương pháp dạy học tích cực phát huy được tính tích cực chủ
động sáng tạo của học sinh và giúp cho giáo viên có cơ sở giảng dạy tốt tác
phẩm văn chương trong chương trình Ngữ văn trong nhà trường THCS. Mục
đích cơ bản của đề tài này là hình thành phương pháp và qui trình dạy đọc tác
phẩm văn học SGK Ngữ văn. Qua đó, giáo viên có thể có cái nhìn bao quát về
quá trình giảng dạy đọc đối với tác phẩm văn học; đồng thời học sinh có được
phương pháp đọc cơ bản khi tiếp xúc với những văn bản, nhờ vậy tránh được
những cách hiểu sai lệch vấn đề trọng tâm trong các tác phẩm.
Từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn nói riêng và chất
lượng giáo dục, học tập nói chung.
3.Đối tượng nghiên cứu
Do điều kiện và thời gian nên phạm vi nghiên cứu của sáng kiến kinh
nghiệm chỉ gói gọn ở đối tượng học sinh khối 8 của trường và giáo viên dạy
Ngữ văn của trường.
Đồng thời đối tượng học sinh được thể nghiệm là 2 lớp 8A, 8B và giáo
viên Ngữ văn trường THCS Yên Trung năm học 2015 - 2016
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này tôi đó tiến hành áp dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
a. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế:

Khảo sát tình hình học tập phân môn văn học của học sinh lớp 8 trường
THCS Yên Trung. Đặc biệt là kết quả của học sinh qua giờ học văn bản trong
quá trình dạy học.
b. Phương pháp thống kê xử lí số liệu:
Thống kê tỉ lệ học sinh đọc ở đối tượng học sinh nghiên cứu (lớp 8A, 8B
trường THCS Yên Trung) và tỉ lệ giáo viên hướng dẫn đọc ở đối tượng giáo viên
nghiên cứu ( giáo viên Ngữ văn trường THCS Yên Trung )
c. Nghiên cứu tài liệu
Nghiên cứu tài liệu nghiệp vụ dạy học môn Ngữ văn 8, sách giáo khoa,
sách giáo viên, tài liệu tham khảo, ý kiến của các nhà nghiên cứu, các nhà quản
3


lí giáo dục, quản lí chuyên môn, các giáo viên giỏi trong lĩnh vực giảng dạy của
mình, của đồng nghiệp trong tỉnh, huyện và các trường bạn xung quanh, các bài
viết đăng trên các tạp chí khoa học.
d. Phân tích đối chiếu:
Phân tích đối chiếu giữa yêu cầu chuẩn kiến thức, kĩ năng đối với học sinh
lớp 8 bậc THCS với những bài đọc thực tế của học sinh, tìm ra những hạn chế
chủ yếu của học sinh khi đọc tác phẩm văn học.
e. Giả thiết khoa học
Đưa ra những giải pháp những đề xuất có tính khoa học để giáo viên vận
dụng vào việc rèn kĩ năng đọc tác phẩm văn học cho học sinh nhằm phát huy
khả năng tư duy, sáng tạo, tính tích cực trong giờ học của các em trước những
tác phẩm văn học.
g. Sử dụng mẫu:
Sau khi cung cấp kiến thức lí thuyết cho học sinh, sử dụng những cách
đọc mẫu thực hành giúp học sinh nhận biết, tự điều chỉnh cách đọc của mình cho
đúng, hợp lí.
h. Hỏi ý kiến chuyên gia, tham khảo kinh nghiệm của đồng nhiệp:

Thảo luận trao đổi sinh hoạt chuyên môn với đồng nghiệp qua buổi các
sinh hoạt chuyên môn, sau những lần dự giờ thăm lớp, dạy mẫu.
i. Phương pháp thu thập thông tin.

II.NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
1.1. Cơ sở lí luận của việc đọc và phương pháp hướng dẫn đọc
1.1. 1.Quan điểm về đọc tác phẩm văn chương
Đọc không chỉ là hoạt động nhận thức nội dung ý tưởng từ văn bản mà
còn là hoạt động trực quan sinh động, giàu cảm xúc, có tính trực giác và khái
4


quát trong nếm trải của con người. Vì thế chúng ta thấy xuất hiện kinh nghiệm
đọc và sự biến đổi cách thức và chất lượng người đọc. Đọc còn hoạt động mang
tính chất tâm lí, một hoạt động tinh thần của độc giả, bộc lộ rõ năng lực văn hóa
từng người.
Chúng ta đều hiểu rẳng không chỉ đọc văn bản mà còn đọc sách, chẳng
những đọc sách mà còn những tác phẩm văn chương. Tuy rằng văn bản, sách và
tác phẩm văn chương đều mang tính hoàn chỉnh về cấu trúc nhưng độ dài ngắn,
dung lượng và ý nghĩa, chức năng, bản chất, tác dụng của chúng là hết sức khác
nhau. Vì vậy, cách thức đọc chúng, phương pháp và biện pháp đọc chúng không
hoàn toàn đồng nhất.
Nói tóm lại, đọc tác phẩm văn chương là một quá trình phát hiện và khám
phá nội dung ý nghĩa xã hội, con người, thời đại trong cấu trúc hình tượng thẩm
mĩ của tác phẩm đan xen giữa hoạt động nhận thức, đánh giá và thưởng thức giá
trị đích thực tồn tại trong hình thức nghệ thuật độc đáo của tác phẩm.
1.1.2. Những thành tựu nghiên cứu hoạt động đọc tác phẩm văn chương
Trong lịch sử nhân loại, khi nào xuất hiện văn bản kí tự dưới hình thức cố
định thì bắt đầu có hoạt động đọc. Đọc là quá trình chuyển hóa nội dung ý nghĩa

từ ghi khắc sang âm thanh lời nói, âm vang trong óc.
Với tư cách là một môn học nhằm “phát triển cảm thụ nghệ thuật, hình
thành những thể nghiệm, những khuynh hướng và năng khiếu nghệ thuật cho
học sinh bằng phương diện nghệ thuật” [4, tr.38]. Quan niệm phân tích tác phẩm
văn học trong nhà trường là một quá trình sáng tạo, tác giả còn trình bày các
biện pháp bộc lộ và thúc đẩy sự đồng sáng tạo của người đọc, trong đó đọc diễn
cảm được xem là “biện pháp hoạt động đặc thù nhằm tăng cường sự đồng sáng
tạo của người đọc, tạo điều kiện cho sự đồng thể nghiệm và phát triển trí tưởng
tượng của người đọc” [4, tr.39]
Thực chất của quá trình đọc văn là quá trình phát hiện và tổng hợp những
tầng lớp ý nghĩa đã được nhà văn mã hóa trong một hệ thống kí hiệu ngôn ngữ
nghệ thuật. Mỗi giai đoạn của quá trình ấy lại đặt ra những nhiệm vụ nhất định
cần phải giải quyết. Vì vậy hoạt động đọc sẽ được vận dụng dưới nhiều hình
thức phong phú, đa dạng, linh hoạt, hơn một cách duy nhất nào đó.
Đọc văn vừa là tiền đề cơ bản, vừa là kết quả xác thực của việc hiểu văn.
Có đọc mới hiểu và có hiểu thì mới đọc tiếp được tác phẩm văn chương mà
không làm tiêu tan những giá trị và ý nghĩa của nó. Các công trình nghiên cứu
của Nguyễn Thanh Hùng đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc của tác giả đến vấn đề
phức tạp này: nhìn nhận trí tưởng tượng, khả năng liên tưởng như là chìa khóa
mở ra thế giới nghệ thuật phong phú, sinh động của tác phẩm văn chương đồng
thời năng lực liên tưởng, tưởng tượng thông qua ngôn ngữ nghệ thuật là dấu
hiệu chất lượng của đọc văn. Tác giả viết: “Sự phát triển của quá trình đọc được
vận động trong hoạt động liên tưởng, tưởng tượng và giải thích nghệ thuật”.
Theo tác giả, việc đọc hiểu văn bản góp phần hình thành và củng cố, phát triển
năng lực nắm vững và sử dụng tiếng Việt thành thạo. Đồng thời “năng lực văn
hóa có ý nghĩa cơ bản đối với việc phát triển nhân cách , bởi vì phần lớn những
5


tri thức hiện đại được truyền thụ qua việc đọc”, hơn nữa việc đọc còn là

“phương tiện tinh thần nhiều loại khác nhau về quan điểm, thái độ, kinh nghiệm,
tri thức”. [ 5, tr.14].
Gần đây nhất, kế thừa và phát triển những thành tựu của lí thuyết tiếp
nhận, trong chuyên luận “Đọc và tiếp nhận văn chương”, Nguyễn Thanh Hùng
đã trả đọc về vị trí xứng đáng của nó trong quá trình khám phá chiều sâu của tác
phẩm văn chương. “Tiếp nhận văn học là một quá trình, vì nó chỉ thực sự diễn ra
theo một hoạt động duy nhất là đọc văn – một thứ văn bản được kiến tạo bằng
thời gian” [4, tr.16]. Thông qua quá trình đọc văn với những yêu cầu riêng của
một hoạt động tinh thần dựa trên một đối tượng thẩm mĩ, mục đích tiếp nhận là
hiểu được tác phẩm văn chương. Cũng theo đó mà tác giả này đã khẳng định:
“Đọc văn chương- một con người mới ra đời, đọc văn chương là lao động khoa
học, đọc văn chương là cách phát huy trực cảm, đọc văn chương là hoạt động
ngôn ngữ trong môi trường văn hóa thẩm mĩ, đọc văn chương là quá trình sáng
tạo, đọc văn chương là quá trình tiếp nhận nội sinh và ngoại sinh từ tác phẩm”
[4, trang 18].
Phan Trọng Luận cũng đã phân tích rõ tầm quan trọng của hoạt động đọc
trong chuyên luận “Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học”: “Đọc từ chữ đầu đến
chữ cuối, đọc cho âm vang, đọc để tri giác, cảm giác được bằng mắt bằng tai từ
ngữ, hình ảnh, chi tiết…” và “trong khi đọc, những tín hiệu ngôn ngữ, những
hình ảnh cuộc sống trong bài thơ hiện lên tuần tự sáng rõ dần”. Tác giả cũng chỉ
rõ vai trò của liên tưởng tưởng, tưởng tượng đối với hiệu quả cảm thụ của quá
trình đọc sách: “Đọc sách là liên tưởng, là hồi ức, là tưởng tượng. Sức hoạt động
của liên tưởng càng mạnh bao nhiêu thì sức cảm thụ càng sâu, càng nhạy bén
bấy nhiêu” [ 6, tr.57].
Đọc văn không những được vận dụng trong nhà trường mà còn được ứng
dụng rộng rãi trong giao tiếp văn hóa, trong tiếp nhận văn học, trong việc trao
đổi thông tin tri thức và đời sống tinh thần nhân loại. Những trang sách kì diệu
đã từng tỏa sáng tuổi thơ cơ cực, tăm tối của M. Gorki. Ông nói “Mỗi cuốn sách
đều là bậc thang nhỏ mà khi bước lên, tôi tách khỏi con thú để lên tới gần con
người”. Đọc sách trước hết là lao động trí tuệ mang lại niềm vui thanh khiết nhất

của tâm hồn, là sự tự giải phóng cá nhân ra khỏi những trói buộc của hoàn cảnh
để trí tuệ hóa và nhân đạo hóa con người ngày càng cao hơn.
1.1.3. Phương pháp đọc trong nhà trường THCS
Đọc là hoạt động mang tính chất đối diện một mình, tự lực với văn bản,
nó có cái hay là tập trung và tích đọng, lắng kết thầm lặng năng lực cá nhân.
Đây là hoạt động thu nạp và ứng dụng những kinh nghiệm đời sống, lịch sử,
kinh nghiệm nghệ thuật và kinh nghiệm văn hóa của mỗi cá thể. Đọc là lối đọc
để tự học suốt đời, nó vừa thúc đẩy ý chí và là biểu hiện thầm kín của lòng tự
trọng.
Đọc trong nhà trường rất cần phải có bài bản, phải có cơ sở lí thuyết và
phải luyện tập thành những kĩ năng cơ bản. Cách đọc trong nhà trường vừa là
tiền đề đọc hiểu của học sinh, vừa là kết quả đọc hiểu của giáo viên văn học.
6


Điều đáng nói về cách đọc trong nhà trường là phải chú trọng cung cấp cho học
sinh hệ thống tri thức đọc hiểu, cần mở rộng các hình thức đọc, phương pháp
đọc, kiểu đọc, mục đích, yêu cầu đọc đối với họ. Hứng thú đọc, động cơ đọc của
học sinh và sách tập đọc, bài đọc thêm, cần nghiên cứu và chỉ ra tác dụng tích
cực của chúng trong việc dạy đọc hiểu.
Đọc ban đầu từ đọc chữ, đọc câu, hiểu nghĩa của từ và sắc thái biểu cảm,
hiểu nghĩa của hình thức câu, mạch văn, bố cục và nắm được ý nghĩa chính cũng
như chủ đề tác phẩm. Lí giải là hiểu đặc sắc về nghệ thuât và ý nghĩa xã hội
nhân văn của tác phẩm trong ngữ cảnh của nó. Trong quá trình học đọc, học sinh
sẽ biết cách đọc để tích lũy kiến thức, đọc để lí giải, đọc để đánh giá và đọc sáng
tạo, phát hiện. Hình thức văn bản được lựa chọn nhằm đào tạo năng lực đọchiểu, qua đó vừa cung cấp tri thức văn học (lịch sử văn hóa, lí luận văn học, văn
hóa dân tộc) vừa giáo dục tư tưởng tình cảm, vừa rèn luyện kĩ năng đọc mà học
sinh có thể mang theo suốt đời.
Một trong ba mục tiêu của dạy học văn là rèn luyện khả năng đọc hiểu các
văn bản, đặc biệt là văn bản văn học, một loại văn bản khó nhằm tạo cho học

sinh biết đọc văn một cách có văn hóa, có phương pháp, không suy diễn tùy tiện,
dung tục. Năng lực đọc được thể hiện ở việc học sinh tự mình biết đọc, hiểu,
nắm được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
“Dạy đọc là dạy học sinh cách đọc ra nội dung trong những mối quan hệ
ngày càng bao quát trọn vẹn văn bản, từ đó hình thành được kĩ năng đọc và biết
vận dụng chúng trong cuộc sống có hiệu quả. [3, tr.34]
Trong nhà trường, hoạt động đọc của học sinh trở thành trung tâm khi tiếp
cận, phân tích, cắt nghĩa và bình giá tác phẩm văn chương, sẽ kéo theo sự đổi
mới tất yếu về phương pháp dạy của giáo viên. Trước tiên, giáo viên phải đưa
nội dung, yêu cầu đọc hiểu vào các mức độ đọc văn như: đọc đúng, đọc hay, đọc
diễn cảm, cân nhắc những hình thức nào của đọc văn như đọc thầm, đọc to, đọc
phân vai, đọc đối thoại, đọc bình chú, đọc tóm tắt, đọc dự đoán… Hơn nữa giáo
viên cũng cần trao đổi với học sinh mục đích đọc và những yêu cầu đọc hiểu khi
đề cập tới việc đọc để phát hiện ra những điều thú vị, hấp dẫn, đọc để tổ chức
lại, xây dựng lại tác phẩm theo hình thức mới rất cần cho kĩ năng đọc chỉnh thể
văn học, đọc để lấy thông tin cần thiết cho mình, đọc để nhận xét trên cơ sở tư
duy phê phán, đọc để ghi chép những nét chính cho quá trình thảo luận.
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Thực trạng:
Từ khi thực hiện đổi mới phương pháp thì việc dạy Ngữ văn ở trường
THCS đã có một số tiến bộ. Đó là nhiều giáo viên đã coi việc đọc như là một
phương pháp. Đọc được chú trọng về phương diện diễn cảm và cảm thụ chứ
không chỉ bó hẹp trong mục đích tập đọc hoặc tiếp xúc sơ bộ tác phẩm. Việc đọc
mẫu của giáo viên, đọc diễn cảm của học sinh, đọc trước khi phân tích, đọc để
bình, đọc – cảm nhận, đọc cá nhân, đọc phân vai,… đó được giáo viên có ý thức
sử dụng. Giáo viên cũng đã chú ý hướng dẫn cách đọc cho học sinh, giúp các em
có giọng đọc phù hợp với nội dung từng bài, giáo viên luyện được cho mình
7



giọng đọc tốt để đọc mẫu cho học sinh cảm nhận. Giáo viên coi việc đọc tác
phẩm là hình thức tiếp cận văn bản.
Nhưng bên cạnh những tiến bộ trên qua khảo sát dự giờ tôi thấy rằng còn
nhiều tiết dạy văn giáo viên tổ chức cho học sinh đọc rất ít, có trường hợp chỉ
cho học sinh đọc qua một lần văn bản ở đầu giờ học (ở văn bản ngắn) hoặc đọc
vài đoạn ngắn (ở văn bản dài) là được. Có tình trạng giáo viên hiểu lệch lạc đọc
sáng tạo là phương pháp lấy việc đọc làm chính. Bởi thế nhiều giáo viên cho học
sinh đọc tràn lan, giờ văn trở nên giờ đọc tác phẩm hạn chế tới việc cảm thụ tác
phẩm. Giờ văn trở nên tẻ nhạt, vô vị, đơn điệu. Đọc tràn lan, không định hướng
đó làm cho giờ dạy mất đi hoặc giảm thiểu hoạt động phân tích, do đó cũng
giảm đi tính tư tưởng và hiệu quả của giảng dạy. Giờ dạy cháy giáo án, nếu
không cũng chẳng còn bao nhiêu giá trị nhân văn. Nếu chỉ đọc thôi sẽ khó tìm
đến sự sâu kín, ý vị tinh vi, khó khám phá được những đặc sắc nghệ thuật. Tình
trạng giáo viên ngữ văn đọc thiếu diễn cảm thậm chí một số giáo viên đọc chưa
đạt yêu cầu bộc lộ ở việc ngắt nhịp không phù hợp với lôgíc của câu, nhấn giọng
ở trọng âm lôgíc chưa đúng từ ngữ cần nhấn giọng đọc còn đều đều, việc luyện
đọc diễn cảm, uốn nắn sữa chữa cách đọc cho học sinh còn ít chưa có hiệu quả.
Mặt khác việc đọc tác phẩm còn triển khai đơn giản.Dường như mục đích
của đọc và hình thức của đọc chưa được xác định rõ ( Khi nào thì đọc? đọc như
thế nào? Thế nào là đọc - bình, đọc- thưởng thức ? Thế nào là đọc – cảm thụ?
Thực hiện chúng như thế nào? Thực hiện vào lúc nào?). Vì thế giáo viên không
có sự sáng tạo mà chỉ thực hiện khâu đọc và hướng dẫn đọc một cách sáo mòn
theo quy trình 4 bước của SGV hoặc sách hướng dẫn đó là:
Bước 1: Giáo viên nêu yêu cầu đọc, hướng dẫn đọc (theo SGK hoặc Sách hướng
dẫn giáo viên).
Bước 2: Giáo viên đọc mẫu (có thể gọi một học sinh đọc).
Bước 3: Gọi một học sinh đọc thể nghiệm theo yêu cầu.
Bước 4: Gọi một học sinh nhận xét cách đọc của bạn.
Qua dự giờ đồng nghiệp tôi thấy giáo viên áp dụng quy trình trên và thực
hiện như sau:

Ví dụ: Dạy bài : Nước Đại Việt ta (Trích Bình Ngô Đại Cáo) của tác giả
Nguyễn Trãi - Ngữ văn 8 tập 2
- GV nêu yêu cầu đọc: Đọc với giọng hùng hồn tha thiết
- GV đọc mẫu ( nhưng GV đọc chưa thể hiện được ý đồ của tác phẩm)
- GV yêu cầu 1 HS đọc
- GV yêu cầu HS khác nhận xét và đọc lại.
Theo các bước trên, đa số các đồng chí đi dự giờ đều nhận xét trong buổi
họp tổ chuyên môn là phần đọc và phần hướng dẫn đọc của giờ dạy trên đó đúng
phương pháp và thực hiện đúng yêu cầu bộ môn .
Nhưng tôi mạnh dạn khẳng định rằng: Đúng thì có đúng song đã sáo mòn
rồi và sáo mòn theo một kiểu mới! Tại sao lại sáo mòn? Vì rằng:
+ Bản thân giáo viên đọc mẫu bài văn chưa hẳn đó thực sự hay và diễn cảm.
Còn đọc sai ngữ âm, ngắt nhịp.
8


+ Giáo viên nêu yêu cầu đọc trước khi đọc là áp đặt. Chưa hẳn phần nêu yêu cầu
đọc của giáo viên đó đủ gợi cảm xúc cho học sinh trước một tác phẩm (điều này
trái với tư tưởng dạy học mới).
+ Gọi HS nhận xét bạn ( trong khi HS đó chưa có điều kiện hiểu kỹ tác phẩm thì
dẫn tới nhận xét lệch lạc, chỉ khen chung chung).
+ Việc GV đã tách đọc thành một mục riêng là giả tạo,vì trong phần phân tích
phải có phần đọc – hiểu.
Những cách dạy sáo mòn trên dẫn đến học sinh không thích học văn,
không thuộc thơ và cảm thụ văn còn hời hợt.
2. 2.Kết quả của thực trạng
Từ thực trạng trên tôi đó tổ chức khảo sát giáo viên dạy Ngữ văn và học
sinh ở trường khối 8 THCS Yên Trung vào thời điểm tháng 9 năm 2015 và kết
quả như sau:
a. Về giáo viên.


Tên trường điều tra

THCS Yên Trung
b. Về học sinh
Lớp
8A
8B
K8

Tổng số
đối tưởng
32
26
58

Số đối
tượng
điều tra
4

Đọc đúng
SL
5
4
9

TL
15,6
15,4

15,5

Giáo viên đọc và
hướng dẫn đọc có
sáng tạo
SL
1
Đọc diễn
cảm
SL
TL
2
6,3
2
7,7
4
7

TL
25%

Giáo viên đọc và
hướng dẫn đọc theo
kiểu sáo mòn
SL
3

Đọc chưa
đúng
SL

TL
15
46,9
11
42,3
26
44,6

TL
75%

Đọc chưa diễn
cảm
SL
TL
10
31,2
9
34,6
19
32,9

Qua kết quả điều tra trên tôi nhận thấy một trong những nguyên nhân dẫn
đến chất lượng dạy học văn chưa cao là do giáo viên thực hiện chưa tốt khâu đọc
và hướng dẫn đọc nên học sinh cảm thụ tác phẩm còn hời hợt.Vì vậy tôi mạnh
dạn đưa ra một số biện pháp cụ thể khắc phục những sáo mòn ở khâu đọc và
hướng dẫn đọc trong dạy Văn ở trường THCS để góp phần nâng cao chất lượng
dạy học môn Ngữ văn.
3. Các biện pháp khắc phục những sáo mòn ở khâu đọc và hướng dẫn đọc
trong dạy học văn THCS

3.1. Cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản về hoạt động đọc văn
3.1.1. Mục đích của hoạt động đọc văn: Tiếp nhận và bộc lộ kết quả tiếp nhận
tác phẩm
- Đọc văn để tiếp nhận, lĩnh hội, đọc văn để hiểu và cảm nhận văn, có ấn tượng
và định hình biểu tượng về tác phẩm văn. Người đọc văn phải làm sống lại hình

9


tượng nghệ thuật từ văn bản tác phẩm rồi chuyển hình tượng đó vào trong đàu
trở thành biểu tượng, ấn tượng của mình.
- Đọc văn để bộc lộ, trình bày kết quả cảm hiểu của mình với người khác và với
chính mình. Hai mục đích này hỗ trợ cho nhau, chuyển hóa sang nhau tạo ra sự
phát triển liên tục.
3.1.2.Nhiệm vụ của hoạt động đọc văn
- Đọc văn là xử lí văn bản để đi tới nội dung nghệ thuật của tác phẩm.
Đọc văn là phân tích văn bản, làm chủ cấu trúc của văn bản. Người đọc
phải nhận diện văn bản những đoạn miêu tả, tường thuật, kể chuyện, những đoạn
trữ tình, triết lí, chính luận, nhận diện dòng thơ, khổ thơ, vần luật thơ.
Người đọc phải hình dung ra chủ thể của văn bản, đang bao trumfcais
nhìn, tình cảm, tâm trạng của mình lên tác phẩm. Người đọc hình dung ra thế
giới trong tác phẩm rất phong phú, thế giới đó đang cất lên tiếng nói của mình,
thể hiện mình.
- Đọc văn là theo dõi kết cấu, theo dõi mạch phát triển của tác phẩm, mạch vận
động của cảm xúc, tìm ra lôgic của các phần trong tác phẩm.
- Đọc văn là hình dung, tưởng tượng và tiếp nhận thông tin ẩn chứa trong văn
bản
- Đọc văn là hành vi giao tiếp. Đọc tiếp nhận , người đọc giao tiếp với nhà văn,
giao tiếp với thế giới nghệ thuật, với nhân vật.
- Đọc văn là lao động tổng hợp, sáng tạo. Đọc phải huy động đồng thời nhiều

năng lực của các giác quan, khả năng phát âm, hình dung tưởng tượng, phán
đoán, liên tưởng, suy luận, nắm vững các biện pháp tu từ, các phong cách ngôn
ngữ, năng lực về văn hóa, cắt nghĩa ngôn ngữ, điển cố, tái tạo thế giới nghệ
thuật.
3.1.3. Các hành động và thao tác thuộc hoạt động đọc văn.
- Hành động xác định vai trò chủ thể của học sinh:
+ Đóng vai như tác giả của tác phẩm, như người theo dõi chứng kiến , biết toàn
bộ sự việc diễn ra trong tác phẩm.
+ Đóng vai như bạn đọc lí tưởng của tác phẩm, đọc để hiểu , đọc để nghiền
ngẫm, đọc để thưởng thức, đọc để tìm cảm giác ấn tượng, đọc tự cắt nghĩa, tự lí
giải các chi tiết.
+ Đóng vai như một người kể chuyện. Dựa vào văn bản tác phẩm truyền đạt nội
dung cho người nghe.
+ Đóng vai như một người biểu diễn. Đọc diễn cảm, đọc theo giọng nhân vật,
đọc nghệ thuật, ngâm, hát, đọc theo vai nhân vật.
- Hành động đọc tiếp nhận :
+ Đọc tác phẩm để nhận biết
+ Đọc tác phẩm để biết nhân vật chính được kể từ khi nào đến khi nào
+ Đọc tác phẩm hình dung ra nhân vật người kể chuyện rồi miêu tả lại ( Là ai?
cương vị nào? đứng ở vị trí nào để quan sát ghi chép?)
+ Đọc tác phẩm, tiếp nhận văn bản

10


Thơ: thể thơ, gieo vần, tiết tấu, nhịp, giọng điệu, kết cấu, chủ thể tữ tình,
thời gian, không gian.
Truyện: thời gian, nhân vật, cốt truyện, tình huống, ngôi kể, nghệ thuật kể
chuyện, các biện pháp nghệ thuật trong lời kể..
c, Hành động bộc lộ:

- Đọc bộc lộ thể hiện kết quả tiếp nhận, truyền đạt kết quả tiếp nhận và cảm thụ
đến người khác tự chiêm ngưỡng khả năng bộc lộ của mình thông qua đọc.
- Đọc bộc lộ nhằm kiểm soát kết quả đọc tiếp nhận và rền luyện kĩ năng đọc.
Phát động được nhu cầu đọc bộc lộ trong học sinh là chứng tỏ học sinh đã hiểu
tác phẩm, rung cảm với tác phẩm, thu hoạch được những điều mới lạ thú vị từ
tác phẩm.
d, Các dạng đọc:
- Đọc to, đọc nhỏ, đọc thầm:
- Đọc từng phần, đọc cả bài. Đọc trước khi tìm hiểu bài để có ấn tượng chung.
Đọc trong quá trình phân tích, đọc sau khi phân tích, đọc bộc lộ, đọc diễn cảm,
đọc nghệ thuật.
3.2. Hướng dẫn một số kinh nghiệm khắc phục những sáo mòn trong khâu
đọc và hướng dẫn đọc.
3.2.1. Việc đọc và hướng dẫn học sinh đọc, giờ dạy văn không áp đặt máy móc,
cứng nhắc theo một quy trình nhất định.
Vì yêu cầu của dạy học văn theo tinh thần đổi mới phương pháp là: không
áp đặt, không làm thay, không suy nghĩ và cảm thụ thay cho học sinh, học sinh
được tôn trọng, được nhìn nhận như là chủ thể sáng tạo, được đánh giá như là
những bạn đọc có văn hoá, có thể tham gia tích cực vào quá trình tìm hiểu, cảm
thụ, bình giá và chiêm nghiệm tác phẩm. Nếu giáo viên dạy văn mà áp dụng sáo
mòn, máy móc theo quy trình 4 bước ở khâu đọc và hướng dẫn đọc như đã nêu ở
phần thực trạng thì làm cho giờ học trở nên sơ cứng, nhàm chán, làm mất đi sự
phát hiện mới mẻ và khám phá về văn chương mà giáo viên cần tôn trọng tính
chủ động và sáng tạo của học sinh. Ví dụ: Một em học sinh đọc hả hê ở đoạn:
“Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”.
Hay khi giáo viên tách đọc thành một mục là giả tạo vì đến phần phân tích
văn bản lại rất cần đọc để phân tích khai thác những cái hay, cái đẹp, cái sâu kín
mới hé lộ ra.
Ví dụ: Khi dạy bài Quê hương của Tế Hanh nếu giáo viên chỉ tổ chức cho học

sinh đọc bài thơ một lần ở đầu giờ thì học sinh sẽ không cảm nhận hết được vẻ
đẹp của quê hương và tình cảm yêu quê của tác giả mà chỉ khi có sự kết hợp đọc
trong phần phân tích mới làm rõ được nội dung của tác phẩm. Chẳng hạn như 2
câu thơ: “Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
Khắp dân làng tấp nập đón ghe về”

11


Qua việc đọc phân tích mới thấy được niềm vui lớn trong cảnh đón đoàn
thuyền trở về. Với âm thanh “ồn ào”, với trạng thái “tấp nập” đó tạo ra một
không khí vui vẻ, rộn ràng, đầm ấm, thoả mãn.
Vì vậy người giáo viên cần nghiên cứu kĩ văn bản để tổ chức linh hoạt,
phù hợp trong khâu đọc và hướng dẫn đọc tác phẩm mới mang lại hiệu quả cho
giờ dạy.
3.2.2. Đọc của giáo viên và học sinh cần xen kẽ một cách linh hoạt bổ sung cho
nhau cùng hướng tới mục đích phân tích và cảm thụ tác phẩm.
Trong giờ dạy học văn việc đọc của giáo viên và học sinh phối hợp, xen
kẽ một cách linh hoạt là rất cần thiết có như vậy mới làm cho học sinh tập trung
vào những ngữ liệu phân tích và việc đọc tốt xen kẽ của giáo viên giúp các em
có thể hình dung, tưởng tưởng, cảm nhận được nội dung nghệ thuật của tác
phẩm.
Ví dụ:
- Khi dạy đoạn thơ:
... "Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đó lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần, bao đời gây nền độc lâp
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên xưng đế một phương"

(Nguyễn Trãi)
Đoạn này nếu cho học sinh đọc xen kẽ khi phân tích thì giờ dạy mới khơi
dậy được ý đồ của tác phẩm - làm sống dậy cả một thời oanh liệt của dân tộc ta.
Khẳng định lòng tự hào, niềm tin kiêu hãnh của nhân dân ta trong quá trình phát
triển của lịch sử dân tộc. Nếu Trung Quốc có Bắc Đế thì Đại Việt có Nam Đế.
Điều đó sách trời đã ghi rõ. Giáo viên xen kẽ đọc:
''Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác ''
GV: Nhắc nhở học sinh chú ý cần tập trung ngữ điệu vào những từ nào?
Chẳng hạn cần chú ý các từ: ''từ trước'', ''vốn'', ''đã chia'',''cũng khác'',
''Đinh, Lý ,Trần''; ''Hán, Đường, Tống, Nguyên'' xưng ''Đế'' một phương.
Vì vậy giáo viên cần lựa chọn những ngữ liệu nào để yêu cầu học sinh
đọc, giáo viên đọc xen kẽ cho phù hợp để hướng tới mục đích phân tích và cảm
thụ tác phẩm cho học sinh là điều không thể thiếu trong khi dạy học văn.
3.2.3.Giáo viên cố gắng đọc thật tốt và chọn lọc phần đọc phù hợp với nội dung
cần khai thác
Con đường đi vào tác phẩm văn học nhất thiết phải từ đọc, gắn liền với
việc đọc. Vì vậy người giáo viên cần phải đọc cho đúng, cho diễn cảm.
3.2.3.1. Đọc đúng
Đọc đúng là đọc trung thành với văn bản. Đọc chính là phải ngừng nghỉ
đúng với nguyên tắc, phải thể hiện được cao độ, trường độ của từng âm thanh
không quá cường điệu hoặc tuỳ tiện trong giọng đọc.
12


Ví dụ:
- Khi dạy bài “Bạn đến chơi nhà” của Nguyễn Khuyến nếu khi đọc ngắt nhịp:
“Đầu trò tiếp khách// trầu// không có” thì mới diễn tả được đúng ý tưởng của
nhà thơ còn nếu khi đọc ngắt nhịp “Đầu trò tiếp khách// trầu không// có” thì sẽ
tạo cho người nghe hiểu không đúng ý tưởng của tác giả.

- Khi đoạn trích Lão Hạc: Khi đọc cần nhấn trọng âm lôgíc đúng từ ngữ cần
nhấn giọng với giọng phù hợp sẽ có tác dụng gợi cảm cao độ như khi đọc một
đoạn văn trong tác phẩm Lão Hạc: “Mặt lão đột nhiên co rúm lại. Những vết
nhăn xô lại với nhau ép cho nước mắt chảy ra. Cái đầu lão ngoẹo về một bên và
cái miệng móm mém của lão mếu như con nít. Lão hu hu khóc.
+ Nếu khi đọc nhấn mạnh vào những từ in đậm và kết hợp với giọng phù hợp thì
người nghe dễ hình dung ra cảnh tội nghiệp của lão Hạc mà còn cảm thông
thương xót cho lão trong cơn túng quẫn phải bán đi con chó, một nguồn vui,
niềm ai ủi duy nhất còn sót lại của mình.
Như vậy để học sinh đọc đúng tác phẩm cần cho học sinh đọc ở nhà trước
một vài lần để hiểu tác phẩm, hiểu được tư tưởng của tác giả vừa đọc vừa nhấn
sâu vào trí tưởng tượng của người nghe làm bật lên ở họ những hình ảnh và suy
nghĩ qua các âm thanh, qua giọng đọc.
3.2.3.2. Đọc diễn cảm
Đọc diễn cảm: cao hơn đọc đúng một bậc. Kiểu đọc này yêu cầu học sinh
phải biết phát huy chất giọng cho phù hợp với giọng điệu của tác giả. Đọc diễn
cảm chính là quá trình tự phân tích tác phẩm bằng âm thanh của người đọc, đem
lại cho âm thanh những quầng sáng ý nghĩa, làm cho chúng cũng “đi lại” “nhốn
nháo”, cũng tranh luận, như ý định của tác giả, làm rung động người nghe và
khơi dậy được họ khát vọng được tìm hiểu, được phân tích tác phẩm. Đọc diễn
cảm sẽ giúp người đọc hình dung ra giọng kể, tả, trần thuật, đối thoại,... làm nổi
lên những cung bậc tình cảm. Đọc diễn cảm sẽ kích thích quá trình tâm lý cảm
thụ tác phẩm của học sinh.
Như vậy đọc đúng, diễn cảm tốt là tạo điều kiện thuận lợi cho việc phân
tích tác phẩm. Vì thế người giáo viên cần rèn kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm
cho cả giáo viên và học sinh.
3.2.4. Có thể sử dụng hướng dẫn trong sách giáo khoa, sách giáo viên để gợi sự
đánh giá và nhận xét chứ không coi như một khuôn mẫu bắt buộc.
Việc giáo viên – học sinh nhận xét, đánh giá việc đọc của học sinh là một
yêu cầu quan trọng để từ đó uốn nắn sữa chữa cho học sinh cách đọc cho đúng,

cho hay. Vì đọc đúng mới hiểu đúng được tác phẩm. Nhưng nếu sử dụng phần
Hướng dẫn đọc trong sách giáo khoa, sách giáo viên để đánh giá về việc đọc của
học sinh mà có những hướng dẫn không phù hợp sẽ dẫn đến thui chột sự cảm
thụ độc đáo tác phẩm của học sinh.
Chẳng hạn, trong một giờ văn lớp 7, mặc dù sách giáo khoa hướng dẫn
rằng “đọc đoạn nói về cái chết của Lượm : cần hạ thấp giọng, đọc với giọng điệu
nghiêm trang, cảm động nhưng không quá buồn, nhưng có em học sinh sau khi

13


hạ thấp giọng đọc 2 câu: “Ra thế, Lượm ơi” lại cất cao giọng đọc vui vẻ hăm
hở, say mê làm nhiệm vụ của Lượm.
“Vụt qua mặt trận
Đạn bay vèo vèo
Thư đề thượng khẩn
Sợ chi hiểm nghèo”
Trong nhiệt tình của giọng đọc còn vang lên cả niềm kiêu hãnh và tự hào
về người bạn nhỏ xứ Huế của mình. Những hiện tượng đọc không theo chỉ dẫn
của SGK thể hiện sự cảm thụ độc đáo như thế cần được phát hiện và khuyến
khích, chứ không phải phê phán hoặc bắt lỗi vì “không đúng theo chỉ dẫn của
SGK”.
3.3. Thực nghiệm:
Bản thân tôi đó dạy thực nghiệm môn Ngữ văn lớp 8
Tiết 105+106
VĂN BẢN
THUẾ MÁU
( Trích Bản án chế độ thực dân Pháp)
Nguyễn Ái Quốc
I – MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT

- Hiểu được bản chất giả dối, tàn bạo của chính quyền thực dân Pháp.
- Thấy rõ tính chiến đấu, lập luận sắc bén cùng nghệ thuật trào phúng trong văn
chính luận của Nguyễn Ái Quốc.
Lưu ý: Học sinh đã học về tác phẩm thơ của Hồ Chí Minh ở lớp 7.
II – TRỌNG TÂM KIẾN THỨC, KỸ NĂNG
1. Kiến thức
- Bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của thực dân Pháp và số phận bi phảm của những
người dân thuộc địa bị bóc lột, bị dùng làm bia đỡ đạn trong các cuộc chiến
tranh phi nghĩa phản ánh trong văn bản.
- Nghệ thuật lập luận và nghệ thuật trào phúng sắc sảo trong văn chính luận của
Nguyễn Ái Quốc.
2. Kỹ năng:
- Đọc – hiểu văn chính luận hiện đại, nhận ra và phân tích được nghệ thuận trào
phúng sắc bén trong một văn bản chính luận.
- Học cách đưa yếu tố biểu cảm vào bài văn nghị luận.
3.Thái độ:
- Giáo dục thái độ sống đúng đắn, tích cực.
III. CHUẨN BỊ:
GV : Giáo án , SGK, SGV, Tài liệu tham khảo .
HS : Sách vở, ĐDHT.
IV.PHƯƠNG PHÁP:
Gợi mở, vấn đáp, nêu vấn đề, đọc diễn cảm, giảng bình .
D. TIẾN TRÌNH GIỜ DẠY
1.Tổ chức:
2.Kiểm tra bài cũ:
3.Bài mới:
14


Hoạt dộng 1: I. Tìm hiểu chung

1. Tác phẩm
GV cho HS giới thiệu về tác phẩm
GV chuẩn kiến thức
- Thời gian, hoàn cảnh sáng tác
+ Bản án CĐTD Pháp: 12 chương ( 1922 - 1925)
+ Xuất bản tại Pa-ri: 1925, tại Hà Nội : 1946
- Thể loại, kết cấu của tác phẩm
+ Thể loại:
Phóng sự - chính luận.
+ Kiểu VB: VB nghị luận
2. Đoạn trích:
- Vị trí của đoạn trích?
+ Chương 1.
- Trong VB này, còn thấy sự đan xen của các yếu tố thuộc phương thức biểu đạt
nào khác?
+ Yếu tố tự sự, biểu cảm
- Em hãy giải thích ý nghĩa nhan đề Thuế máu?
( Thuế đóng bằng xương máu, tính mạng con người. Nhan đề bằng hình ảnh, gợi
đau thương, căm thù, tố cáo tính vô nhân đạo của chủ nghĩa thực dân)
3. Đọc tìm hiểu bố cục:
Trong phần đọc và hướng dẫn đọc tôi thực hiện như sau :
Bước 1: Qua việc đọc tác phẩm ở nhà yêu cầu học sinh nêu đọc tác phẩm với
giọng như thế nào?
(Hướng học sinh trả lời: giọng mỉa mai, giễu cợt, cay đắng, xót xa )
Câu hỏi 2: Yêu cầu học sinh khác có ý kiến bổ sung?
(HS: Pha chất trào phúng, châm biếm)
Bước 2: Giáo viên chốt lại yêu cầu đọc.
* Giọng : Khi mỉa mai, châm biếm; khi đau xót, đồng cảm; khi căm hờn, phẫn
nộ; khi giễu nại trào phúng; khi bác bỏ, mạnh mẽ. Nhấn mạnh và kéo dài một số
từ ngữ, hình ảnh thể hiện mâu thuẫn trào phúng: “giỏi lắm thì cũng”, “chiến

tranh vui tươi”....
Bước 3: Giáo viên đọc mẫu thật tốt đoạn 1,2 và cho học sinh khá đọc đến hết
chương.
Bước 4: Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc, phân tích văn bản:
Hoạt dộng 2: Phần I: Chiến tranh và người bản xứ.
- Tác giả trình luận điểm bằng những luận cứ nào?
+ Người bản xứ đi phơi thây trên các bãi chiến trường.
+ Người bản xứ bị đầu độc trong các xưởng thuốc súng ở hậu phương
+ Những người bản xứ không còn được trở về ( 8 vạn).
- So sánh thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa ở 2
thời điểm: trước và khi có chiến tranh?

15


+ Trước chiến tranh: Họ bị xem là giống người hạ đẳng, bị đánh đập, và bị đối
xử như xúc vật.
+ Khi có chiến tranh: Họ được các quan trị tâng bốc, vỗ về, được phong cho
danh hiệu cao quí.
- Tại sao những người bản xứ lại được đối xử như vậy?
+ Vì thực dân Pháp muốn che giấu dã tâm lợi dụng xương máu của họ trong
cuộc chiến cho quyền lợi của Pháp. Đó là thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của chính quyền
thực dân để bắt đầu biến họ thành những vật hi sinh.
- GV: Yêu cầu học sinh chỉ ra: Hình ảnh người lính bản xứ trên các chiến
trường được tập trung miêu tả bằng những từ ngữ nào? giọng đọc của các từ
ngữ ấy?
- HS: Đọc nhấn giọng, dằn giọng các từ ngữ: "bẩn thỉu", "giỏi lắm thì","chỉ
biết", "đùng một cái ".
- GV: Thái độ cai trị của Thực dân Pháp đối người bản xứ được tập trung vào
những từ ngữ nào? giọng đọc các từ ngữ ấy?

- HS: Các từ: "những đứa con yêu ", "những người bạn hiền", "chiến sĩ bảo
vệ công lý và tự do". Giọng đọc mỉa mai, sâu cay gợi sự âu yếm giả bộ, chất
trào phúng, vang lên sự che dấu dã tâm lừa bịp bỉ ổi, chúng lợi dụng xương
máu của người bản xứ cho quyền lợi của nước Pháp.
- Các từ đặt trong dấu ngoặc kép với dụng ý gì?
+ mỉa mai, châm biếm sự giả dối, thâm độc của chế độ thực dân.
- Để làm rõ cái giá phải trả cho cái vinh dự đột ngột ấy , tác giả đã đưa ra những
chứng cứ và lời bình như thế nào?
+ "Nhưng họ……thống chế."
GV: Đọc xen kẽ đoạn "nhưng họ đã phải trả bằng một cái giá khá đắt cái vinh
dự đột ngột ấy, vì để bảo vệ cho cái công lí và tự do mà chính họ không được
hưởng một tí nào, họ đã phải đột ngột xa lìa vợ con, rời bỏ mảnh ruộng, hay
đàn cừu của họ, để vượt đại dương, đi phơi thây trên các bãi chiến trường Châu
Âu ".
- Cho HS đọc tiếp đoạn: "trong một lúc vượt biển, nhiều người bản xứ ... đó
dược xuống tận đáy biển để bảo vệ tổ quốc cho loài thuỷ quái. Một số khác đó
bỏ xác tại những chiến trường hoang vu thơ mộng ... một số khác nữa thì đưa
thân cho người ta tàn sát bên bờ sông Mác- nơ, hoặc trong các bãi đầm lầy
miền Săm- pa-nhơ, để lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế của các cấp
chỉ huy, lấy xương mình trạm lên những chiếc gậy của các ngài thống chế".
Em học sinh đọc rất diễn cảm, giọng xót xa tràn nước mắt làm cho cả lớp bùi
ngùi thương xót thay cho người bản xứ.
- Nhận xét gì về cách đưa dẫn chứng và lời bình của tác giả?
+ Sử dụng yếu tố tự sự dưới hình thức liệt kê liên tục các tư liệu hiện thực có
thật ( nhiều người, một số người khác,….)
+ Hình tượng hoá các chứng cứ và lời bình dưới dạng các hình ảnh biểu tượng 
Tăng tính xác thực của các luận cứ.
- Dẫn chứng và lời bình của tác giả được khái quát bằng sự việc nào?
16



+ " Những người làm kiệt sức……hơi ngạt vậy."
- Cách cấu tạo lời văn trong đoạn này có gì đặc biệt?
+ Cả luận cứ được diễn đạt chỉ bằng 1 câu văn với nhiều dấu ngắt ý; dùng hình
ảnh biểu tượng, kết hợp đưa dẫn chứng với bày tỏ thái độ tố cáo.
- Có tác dụng như thế nào?
+ Lượng thông tin cao, nhanh, truyền cảm. Tuy họ không trực tiếp ra mặt trận
nhưng cũng phải chịu nhều bệnh tật và cái chết đau đớn.
GV: Hướng dẫn học sinh đọc đoạn: "cuối cùng ở hậu phương, những người làm
kiệt sức ... lại nhiễm phải luồng khí độc đỏ ối của người Pháp, .... những kẻ
khốn khổ ấy cũng đó khạc ra từng miếng phổi, chẳng khác gì hít phải hơi ngạt
vậy"
"Tổng thể có bảy mươi vạn người bản xứ đó đặt chân lên đất Pháp, và
trong số ấy, tám vạn người không bao giờ trông thấy mặt trời trên quê hương
đất nước mình nữa".
HS: Học sinh đọc hết sức cảm động, những con số như biết nói đang diễn ra
trước mắt người đọc cảnh chết thê thảm, số phận bi thương của những người
lính bản xứ.Những hình ảnh biểu tượng như đang được phơi bầy, thật thuyết
phục người đọc, người nghe gợi cảm xúc.
+ Cả đoạn là 1 câu văn, chứng cứ là con số thống kê, dùng hình ảnh biểu tượng (
8 vạn….nữa.)
+ lời văn mang thông tin chính xác về số phận của những người bản xứ, thuyết
phục người đọc ở sự thật không thể bác bỏ được.
Hoạt động : Phần II: Chế độ lính tình nguyện
Học sinh đọc phần 2
Theo dõi đoạn văn trình bày các luận cứ trên, em hãy tóm tắt các thủ đoạn xoay
sở từ việc bắt lính tình nguyện.
+ Đầu tiên tóm những người nghèo, khoẻ. Sau đó đến con nhà giàu nếu không
muốn đi xa thì xì tiền.
+ Những vụ lũng nhạm trong việc bắt lính:

Lùng ráp, vây bắt, cưỡng bức.
Doạ nạt, xoay sở kiếm tiền
Trói, xích, nhốt, đàn áp dã man
- Tại sao tác giả lại gọi đó là những vụ lũng nhạm hất sức trắng trợn?
+ Ăn tiền công khai từ việc tuyển quân, tự do kiếm tiền
+ Từ đó, cho thấy thấy thực trạng chế độ lính tình nguyện như thế nào?
+ Là cơ hội làm giàu của bọn quan chức trên tính mạng của người bản xứ.
+ Là cơ hội để củng cố địa vị, thăng quan tiến chức, tỏ lòng trung thành.
- Trước thực trạng đó, những người bản xứ có thái độ gì? Phản ứng của họ có gì
khác thường?
+ Phản ứng của những người bị bắt đi lính:
Tìm cách trốn thoát
Gây bệnh nguy hiểm

17


GV: Đọc đoạn: " Còn những nào thấy không thể thoát khỏi...nhiễm phải những
bệnh nặng nhất, mà thông thường hơn cả là bệnh đau mắt toét chảy mủ, gây ra
bằng cách xát vào mắt nhiều thứ chất độc, từ vôi sống đến mủ bệnh lậu".
- Phủ toàn quyền Đông Dương đã tuyên bố điều gì?
GV: Cho HS đọc tiếp đoạn " Các bạn đã tấp nập đầu quân,…. như lính thợ".
Em học sinh đọc rất diễn cảm, giọng mỉa mai, châm biếm đã vạch trần sự thật
về chế độ lính tình nguyện
- Thực tế, sự thật nào về chế độ lính tình nguyện được phơi bày
+ Tốp thì bị xích tay, tốp thì bị nhốt .
 Những chứng cứ trên, càng bộc lộ sự trơ trẽn, bịp bợm; đồng thời vạch trần thủ
đoạn lừa gạt tàn nhẫn của chính quyền thực dân đối với người dân bản xứ
- Thái độ của tác giả khi nói về chế độ này như thế nào?
+ Tôn trọng sự thật khách quan qua các chứng cứ cụ thể.

Hoạt dộng 4: Phần III: Kết quả của sự hi sinh
HS theo dõi tiếp phần 3
- Kết quả của sự hi sinh của người bản xứ trong cuộc chiến tranh
- Những người từng hi sinh xương máu, từng được tâng bốc trước đây:
+ Trở lại giống người bẩn thỉu, bị bóc lột của cải, bị đánh đập vô cớ, bị đối xử
tàn nhẫn như các con vật.
+ Nhận được cái phủi tay
+ Khi chiến tranh chấm dứt, những lời tuyên bố tình tứ của các ngài cầm quyền
bỗng dưng im bặt như có phép lạ.
+ Đối với người dân nước thuộc địa, sự hi sinh chẳng hề mang lại cho họ ích lợi
gì bởi chế độ bản xứ không hề biết đến chính nghĩa của công lí.
+ Bộ mặt trơ tráo, tàn nhẫn của chính quyền thực dân bộc lộ trắng trợn khi tước
đoạt hết của cải mà những người lính thuộc địa mua sắm được, đánh đập họ vô
cớ... bỉ ổi hơn, chính quyền thực dân không ngần ngại đầu độc cả một dân tộc để
vơ vét cho đầy túi, khi cấp môn bài bán thuốc phiện.
GV: Yêu cầu học sinh chỉ ra: Thái độ của chính quyền thực dân Pháp đối người
bản xứ sau chiến tranh được tập trung vào những từ ngữ nào? giọng đọc các từ
ngữ ấy?
HS: Đọc đoạn:“Để ghi nhớ công lao của người lính An Nam, chẳng phải... đó
sao”. Đọc diễn cảm, nhấn giọng, dằn giọng các từ ngữ: "chẳng phải", "đó
sao", giọng điệu vừa đanh thép, vừa mỉa mai chua chát đã vạch trần bộ mặt
tàn bạo, đê tiên của chúng
- Em có nhận xét gì về bố cục các phần trong chương?
+ bố cục: 3 phần theo trình tự thời gian: trước, trong và sau khi xảy ra chiến
tranh thế giới thứ nhất. Với cách sắp xếp này, bộ mặt giả nhân giả nghĩa, bản
chất tàn bạo của chính quyền thực dân xung quanh việc bóc lột “thuế máu” đã
được phơi bày. Mặt khác, số phận thảm thương của người dân nô lệ xứ thuộc địa
cũng được miêu tả một cách cụ thể, sinh đông.
- Phân tích nghệ thuật châm biếm, đả kích sắc ảo, tài tình của tác giả thể hiện
qua cách xây dựng hình ảnh, giọng điệu.

18


+ Cách xây dựng hình ảnh: đi phơi thây trên các bãi chiến trường châu Âu;
xuống tận đáy biển để bảo về tổ quốc của các loài thủy quái,...
+ Giọng điệu vừa đanh thép, vừa mỉa mai chua chát
+ Dùng từ ngữ: sáng tạo, châm biếm sắc ảo: cuộc chiến tranh vui tươi, thuế máu,
những đứa con yêu, những người bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ tự do và công lí, vật
liệu biết nói, lính tình nguyện, khạc ra từng miếng phổi, ngấy thịt đen, thịt vàng,
máu tưới những vòng nguyệt quế, xương chạm nên những chiếc gậy chỉ huy...
- Nhận xét về yế tố biểu cảm trong đoạn trích được học?
+ Bộc lộ trên hai măt: căm thù và đau xót
* Căm thù bọn thực dân dã man, vô nhân đạo và đau xót trước số phận bi đát,
thảm thương của người dân thuộc địa bị bóc lột bằng thuế máu.
*Yếu tố biểu cảm được biểu hiện sâu sắc và thấm thía qua nhiều hình ảnh, giọng
điệu có sức lay động lớn và sức tố cáo mạnh mẽ.
 Sắc thái trữ tình – chính luận- trào phúng.
Hoạt dộng 4: Tổng kết
GV: Từ việc hướng dẫn học sinh đọc, phân tích, giáo viên hướng dẫn học sinh
tổng hợp, đánh giá giá trị nội dung, nghệ thuật của chương truyện.
Hướng học sinh rút ra kết luận sau:
+ Nghệ thuật:
- Trong chương truyện tác giả đã dùng phép lập luận tương phản (nghệ thuật
tạo dựng những mâu thuẫn trào phúng). Đó là nghệ thuật gây cười mang ý
nghĩa phê phán bản chất dã man tàn bạo của thực dân Pháp mâu thuẫn với lời
lẽ thủ đoạn của chúng.
- Giọng văn khi thì mỉa mai, châm biếm sâu cay khi thì đanh thép, thống thiết.
- Từ ngữ chứng cứ xác thực, ngòi bút trào phúng sắc bén.
+ Nội dung:
- Qua chương chuyện tác giả đã vạch trần bản chất xấu xa bỉ ổi của bọn thực

dân Pháp.Bộc lộ niềm thương cảm xót xa cho những người dân nô lệ bị lợi dụng
bóc lột.
4. Củng cố:
Đọc lại đoạn văn 1. ( 1 HS nhận xét cách đọc của bạn)
Em có nhận xét gì về cách lập luận của tác giả ở đoạn 1?
Nhận xét yếu tố biểu cảm trong đoạn trích được học?
5. Hướng dẫn HS về nhà:
Đọc diễn cảm văn bản
Học bài , xem lại nội dung bài giảng, học nội dung và nghệ thuật của văn bản.
Soạn: Đi bộ ngao du.

4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
4.1. Đối với hoạt động giáo dục:
19


Sáng kiến của tôi được áp dụng trong thực tế giảng dạy sẽ có tác dụng
giúp giáo viên Ngữ văn đối chiếu giữa lí luận với thực thế chất lượng bộ môn
của mình giảng dạy, đặc biệt là chất lượng đọc của học sinh lớp mình phụ trách,
vận dụng những giải pháp tối ưu để nâng cao chất lượng, giải quyết một phần
tình hình học sinh học yếu kém và ngại đọc văn, nhớ và thuộc tác phẩm văn học
như hiện nay. Vì vậy, đề tài không chỉ có ích cho tôi mà cũng rất cần thiết cho
giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn 8 đang quan tâm đền vấn đề này.
4.2. Đối với bản thân:
Qua thời gian thực nghiệm, tôi bước đầu đánh giá được thực trạng giảng
dạy tác phẩm văn xuôi trong nhà trường THCS. Trước hết, tôi nhận định rõ
những khó khăn cơ bản trong công tác giảng dạy của giáo viên đối với khâu đọc
những tác phẩm văn học đã dẫn đến những hạn chế trong quá trình giảng dạy
môn Ngữ văn. Điều này làm cho quá trình học sinh hiểu tác phẩm, tư tưởng, ý
nghĩa tác phẩm mất đi sự hứng thú khám phá phân tích tác phẩm ở học sinh.

Sau một năm rút kinh nghiệm và thay đổi, áp dụng những giải pháp nêu
trên tôi nhận thấy chất lượng dạy và học văn ở học sinh khối 8 đã được nâng cao
rõ rệt. Với cương vị là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy, tôi thấy mình
vững vàng hơn trong chuyên môn; tự tin say mê hơn với sự nghiệp trồng người.
Ai đó đó từng nói “Nghiệp dạy văn là khổ: Đã mang lấy nghiệp vào thân – Cũng
đừng trách lẫn trời gần trời xa” nhưng tôi chẳng thấy khổ chút nào mà ngược lại,
tôi thấy sung sướng, hạnh phúc được cống hiến, gúp sức mình làm đẹp cho đời
cho sự nghiệp giáo dục chung của đất nước.
4.3. Đối với đồng nghiệp:
Sáng kiến của tôi đó được thực nghiệm vào thực tế giảng dạy trong năm
học vừa qua và thu được kết quả rất khả quan. Qua trao đổi, thảo luận, dự giờ
thăm lớp và góp ý đề tài của tôi đó nhận được sự đánh giá cao của đồng nghiệp.
Đây cũng là một trong những biện pháp đổi mới phương pháp giảng dạy nâng
cao chất lượng học tập môn Ngữ văn nói chung và môn văn học nói riêng ở học
sinh.
4.4. Đối với nhà trường:
Có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được
môn Ngữ văn. Đó là môn học vừa hình thành nhân cách vừa bồi dưỡng tâm hồn,
vừa rèn luyện kĩ năng. Sau khi nghiên cứu, tham khảo sáng kiến kinh nghiệm
này, bản thân tôi - người dạy, những đồng nghiệp và người học đã có cái nhìn
mới mẻ, tích cực hơn về phương pháp dạy và đọc văn. Đối với các em học sinh,
các em bước đầu đó ý thức được tầm quan trọng của môn Ngữ văn, của việc đọc
thưởng thức các tác phẩm văn chương, thực hành một cách thành thạo, linh
hoạt. Số lượng học sinh có kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm đạt loại tốt, khá
nhiều. Học sinh phát huy tính chủ động tích cực trong giờ hoc, thích thực hành
đọc chứ không còn ngại như trước đây, thích tìm đọc các dẫn chứng thơ van
trong tác phẩm, giờ học sôi nổi hơn, học sinh được thực hành giao tiếp nhiều
hơn. Từ đó, kết quả học văn của các em đó tốt hơn; các em đã yêu thích, ham
mê môn học này hơn.
20



Theo dõi sát sao từng lớp, từng giáo viên qua dự giờ. Kết quả cho thấy rất
khả quan:
a. Về giáo viên.
Tên trường điều tra
THCS Yên Trung
b. Về học sinh:
Lớp
8A
8B
K8

Tổng số
đối tưởng
32
26
58

Số đối
tượng
điều tra
4

Đọc đúng
SL
13
11
24


TL
40,6
42,3
41,4

Giáo viên đọc và
hướng dẫn đọc có
sáng tạo
SL
3
Đọc diễn
cảm
SL
TL
10
31,3
9
34,6
19
32,8

TL
75%

Giáo viên đọc và
hướng dẫn đọc theo
kiểu sáo mòn
SL
1


Đọc chưa
diễn cảm
SL
TL
6
18,7
4
15,4
10
17,2

TL
25%
Đọc chưa
đúng
SL
TL
3
9,4
2
7,7
5
8,6

Bảng nhận xét đánh giá cho thấy kết quả dạy thực nghiệm hơn bài dạy đối
chứng. Như vậy sau khi dùng các biện pháp rèn luyện kỹ năng cho học sinh ở
khâu đọc và hướng dẫn đọc trên, học sinh đã có ý thức cao hơn trong việc đọc
tác phẩm văn chương. Vì thế tỷ lệ học sinh biết đọc đúng, đọc diễn cảm đã tăng
lên đáng kể.
- Lớp 8A: Số học sinh biết đọc đúng, đọc diễn cảm tăng 25%

- Lớp 8B: Số học sinh biết đọc đúng, đọc diễn cảm tăng 26,9%
- Cả khối :Số học sinh biết đọc đúng tăng 25,9% , đọc diễn cảm tăng 25,8 %
( đều tăng trên 20%)
Với kết quả thực nghiệm chứng tỏ giờ dạy Ngữ văn theo hứng dẫn đọc
nêu trên cho kết quả cao hơn, phát huy được tính tích cực chủ động sáng tạo của
học sinh nâng cao hiệu quả giờ học.

III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
21


Sau một thời gian nghiên cứu lí thuyết, kết hợp với quá trình thực nghiệm
và quan sát giảng dạy áp dụng một số một số biện pháp khắc phục những sáo
mòn ở khâu đọc và hướng dẫn đọc trong dạy Văn ở trường THCS. Với đề tài
này, tôi đã đạt được những kết quả quả rõ rệt. Để nâng cao chất lượng dạy học
môn ngữ văn THCS đặc biệt ở khâu đọc và hướng dẫn đọc được tốt. Tôi đã rút
ra một số bài học kinh nghiệm như sau:
- Muốn thực hiện khâu đọc và hướng dẫn đọc ở trường THCS được tốt người
giáo viên cần nắm được đặc trưng của bộ môn và phương pháp phù hợp với đặc
trưng bộ môn, vận dụng khâu đọc và hướng dẫn đọc ở mỗi bài một cách linh
hoạt tránh sơ cứng, sáo mòn một cách nhàm chán.
- Tạo ra những thủ pháp mới, những sáng tạo trong từng tiết dạy trong khâu đọc
và hướng dẫn đọc để tạo sự lôi cuốn, thu hút học sinh tích cực trong tiết học.
Không áp đặt máy móc qui trình nào để tạo sự hấp dẫn giả tạo, sự cố tình vận
dụng phương pháp mới, làm mất thời gian, vô bổ kém hiệu quả đối với việc triển
khai hướng dẫn học sinh khai thác nội dung bài học và cảm thụ tác phẩm văn
chương.
- Trong thực tế giờ dạy văn không thể không đọc và hướng dẫn đọc nhưng
ngược lại không nên đọc quá nhiều, đọc tràn lan mà quên đi cái đích của giờ

văn.
- Người giáo viên cần tổ chức việc đọc giữa giáo viên – học sinh kết hợp xen
kẽ, linh hoạt bổ sung cho nhau cùng hướng tới mục đích phân tích và cảm thụ
tác phẩm.
- Giáo viên ngữ văn không ngừng tự học, tự bồi dưỡng để đọc cho đúng, cho
sáng tạo, để khắc phục những gì khuôn sáo mà lâu nay mắc phải trong giờ dạy
học văn.
- Đối với học sinh cần tích cực luyện đọc các tác phẩm cho đúng, diễn cảm đọc
cho hay cho phù hợp với từng thể loại. Ngoài hình thức đọc thành tiếng và đọc –
hiểu trên lớp, cần tự đọc cá nhân ngoài lớp học bởi chỉ có hoạt động đó mới có
khả năng tạo ra tưởng tượng, hướng nội và tự do ở mức cao nhất.
2. Kiến nghị
2.1.Đối với phụ huynh
- Quan tâm hơn đến việc học hành của con em mình. Hướng dẫn và tạo cho con
thói quen đọc sách ở nhà, chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Đây cũng là con đường
thuận lợi đề các em học tập tốt giờ học trên lớp
2.2. Đối với phòng giáo dục:
- Tổ chức hội thảo chuyên đề cho giáo viên bộ môn Ngữ văn trong từng năm để
giáo viên có dịp trao đổi kinh nghiệm, bàn luận tìm ra biện pháp tối ưu, tích cực
nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn
2.3.Đối với địa phương
- Quản lí chặt chẽ các điểm kinh doanh Internet và các điểm dịch vụ không lành
mạnh, làm ảnh hưởng đến chất lượng học tập của học sinh. Để các em có thể
thay đổi thói quen: Thay vào việc ngồi “giết” thời gian ở quán Internet các em
có thể dành thời gian đọc sách và học bài.
22


2.4 Đối với nhà trường:
- Các tổ chuyên môn, các nhà trường cần chỉ đạo và tạo điều kiện để thống nhất

kế hoạch dạy học theo tổ, nhóm chuyên môn. Đối với những văn bản dài cần
thảo luận để chọn ngữ liệu văn bản cần đọc thống nhất trong tất cả các khối lớp,
các giáo viên dạy ở khối đó đồng quan điểm trong khâu đọc và hướng dẫn đọc.
- Chỉ đạo kiểm tra đánh giá đổi mới việc thực hiện đổi mới phương pháp, chú ý
việc thực hiện khâu đọc và hướng dẫn đọc cho học sinh để đánh giá đúng mức
kết quả tiết dạy rút giáo viên không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp
vụ.
Trên đây là một số kinh nghiệm, do thời gian, điều kiện nghiên cứu còn
hạn chế, đề tài chỉ xin nêu ra một vài một số kinh nghiệm đúc rút qua kết quả
thực tế giảng dạy của bản thân để nâng cao hiệu quả giờ dạy ngữ văn nhất là
trong khâu đọc và hướng dẫn đọc.Việc trình bày còn mang tính chủ quan của
người viết nên chắc chắn có nhiều tranh luận.
Kính mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học và
quý đồng nghiệp để kinh nghiệm của tôi được tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn.

XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Yên Định, ngày 16 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
kinh nghiệm của mình viết, không sao
chép nội dung của nười khác
Người thực hiện

Vũ Thị Hiền

TÀI LIỆU THAM KHẢO

23



A. SÁCH
1.Bộ Giáo dục & Đào tạo, Phân phối chương trình môn Ngữ văn 8, SGV Ngữ
văn 8, NXB Giáo dục, 2007
2. Bộ Giáo dục & Đào tạo, Sách giáo khoa Ngữ văn 8, NXB Giáo dục, 2007;
3. Nguyễn Thanh Hùng (Chủ biên), Phương pháp dạy học ngữ văn trung học
phổ thông- những vấn đề cập nhật, NXB Đại học Sư phạm, 2007;
4. Nguyễn Thanh Hùng, Đọc và tiếp nhận văn chương, NXB Giáo dục, 2002
5. Nguyễn Thanh Hùng, Văn học tầm nhìn biến đổi, NXB Văn học, 1996;
6. Phan Trọng Luận (Chủ biên), Phương pháp dạy học văn, NXB ĐHQGHN,
1997;

DANH MỤC

24


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT

Họ và tên tác giả: Vũ Thị Hiền
Chức vụ và đơn vị công tác: Trường THCS Yên Trung

TT

Tên đề tài SKKN

1.

Một số biện pháprèn luyện kĩ

năng phân biệt từ ghép, từ láy

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
Năm học
giá xếp loại
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,
(A, B,
loại
Tỉnh...)
hoặc C)
Phòng GD
B
2014 - 2015
và ĐT

để nâng cao chất lượng dạy
2.

học Tiếng Việt
Một số kinh nghiệm rèn luyện
kĩ năng lập đề cương dạng bài

Phòng GD
và ĐT

A


2015 - 2016

nghị luận nhân vật cho học
sinh lớp 9 THCS

25


×