Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

SÁCH THAM KHẢO tìm HIỂU về BIỂN, đảo VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (756.22 KB, 121 trang )

Lời nói đầu
Thế kỷ XXI được các nhà chiến lược xem là "Thế kỷ của đại dương", bởi
cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số hiện nay, nguồn tài nguyên thiên
nhiên, nhất là tài nguyên không tái tạo được trên đất liền sẽ bị cạn kiệt sau vài
ba thập kỷ tới. Trong bối cảnh đó, các nước có biển, đặc biệt là các nước lớn
đều coi trọng xây dựng chiến lược biển, tăng cường tiềm lực mọi mặt để khai thác
và khống chế biển.
Đối với nước ta, biển đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền
thiêng liêng của Tổ quốc, cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát
triển. Lấn biển để dựng nước và thông qua biển để giữ nước là một nét độc đáo
của bản sắc văn hóa Việt Nam.
Biển, đảo nước ta có những ưu thế và vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng
đối với khu vực và trên thế giới. Việc xây dựng, quản lý, phát triển và bảo vệ
quyền lợi biển, đảo là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với việc gìn giữ toàn vẹn
chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước trong thời kỳ mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Cuốn sách "Tìm hiểu về biển, đảo Việt Nam" sẽ giúp bạn đọc thuận lợi khi
nghiên cứu, tìm hiểu những kiến thức cơ bản về biển, Luật biển của quốc tế và
Việt Nam; nhận rõ vai trò quan trọng, điều kiện tự nhiên và tiềm năng phát triển
của đảo, quần đảo, vịnh, vũng, các bãi biển ở nước ta trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.

Phần thứ nhất
Những vấn đề chung về biển,
đảo Việt Nam
I. pháp luật quốc tế và việt nam về biển
1. Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982
Luật biển quốc tế được hiểu một cách đơn giản nhất, là tổng hợp các quy
phạm pháp luật quốc tế điều chỉnh hoạt động của các quốc gia trên thế giới liên
quan đến biển.



Công ước quốc tế về Luật biển của Liên Hợp quốc
năm 1982, có hiệu lực năm 1994 và Việt Nam là thành viên của Công ước này
(Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã chính thức phê chuẩn
ngày 23 tháng 6 năm 1994), là một văn kiện quốc tế tổng hợp, toàn diện, bao
quát những vấn đề quan trọng nhất về chế độ pháp lý của biển và đại dương thế
giới, quy định những quyền và nghĩa vụ về nhiều mặt của mọi loại quốc gia (có
biển, không có biển, không phân biệt chế độ kinh tế, chính trị, xã hội cũng như
trình độ phát triển) đối với các vùng biển thuộc phạm vi quốc tế, cũng như
những vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia.
Theo Công ước 1982, Việt Nam có quyền ở 5 vùng biển với phạm vi và chế
độ pháp lý khác nhau. Đó là: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền
về kinh tế và thềm lục địa. Tháng 5 năm 1977, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ra Tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa. Tháng 11 năm 1982, Chính phủ ra Tuyên bố về đường
cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam. Hai văn bản quy phạm pháp
luật nói trên, mặc dù ban hành trước khi Công ước 1982 ra đời, nhưng đã phù
hợp với Công ước, thể hiện được chủ trương, chính sách của Nhà nước ta sớm
nắm bắt tinh thần và xu hướng trong tiến trình xây dựng Công ước từ trước đó.
Luật biển quốc tế luôn thay đổi và phát triển ngày càng hoàn thiện. Có thể
nói: Không gian mà con người sinh sống trên trái đất chủ yếu gồm ba phần: đất,
biển, trời. Lãnh thổ quốc gia trên đất liền, bao gồm đất liền, đảo, sông, suối, hồ
nội địa, vùng trời phía trên và lòng đất bên dưới nằm trong phạm vi các đường
biên giới quốc gia xác định qua thực tế quản lý hay điều ước quốc tế. Đường
biên giới trên đất liền về cơ bản được coi là bền vững và bất khả xâm phạm mặc
dù trên thực tế vẫn đang luôn luôn diễn ra các loại tranh chấp và có sự biến động
đường biên giới giữa nhiều quốc gia.
Giới hạn về độ cao của vùng trời thuộc lãnh thổ quốc gia cũng như độ sâu của
lòng đất bên dưới tuy không được xác định rõ rệt chính xác bao nhiêu cây số
nhưng với khả năng kỹ thuật của nhân loại hiện nay, mỗi quốc gia hoàn toàn có

thể thực hiện chủ quyền của mình trong những phạm vi nhất định tới giới hạn tối
đa là vành đai khí quyển nằm dưới quỹ đạo địa tĩnh và tới độ sâu cho phép thuộc
bề dày của vỏ trái đất ở bên dưới phần lãnh thổ của mình.
Riêng với vùng biển, trong thời gian gần đây có rất nhiều sự thay đổi về chất
đối với phạm vi và chế độ pháp lý của các vùng biển thuộc một nước ven biển,
vùng biển thuộc về đại dương cũng như phần đáy và lòng đất dưới đáy đại
dương không thuộc bất kỳ một quốc gia nào. Tuy nhiên, biển vẫn còn tồn tại một
nguyên tắc cơ bản của Luật biển là có đất (bờ biển) mới có biển. Có thể thấy các
thay đổi và phát triển của Luật biển diễn ra theo một tiến trình ba bước cơ bản
sau:
Thứ nhất, từ xa xưa cho đến tận giữa thế kỷ XX, các nước ven biển chỉ có
vùng biển hẹp (lãnh hải) thuộc chủ quyền rộng 3 hải lý (mỗi hải lý bằng
1.852m). Phía ngoài ranh giới lãnh hải 3 hải lý đều là biển công, ở đó mọi cá


nhân, tổ chức, tàu thuyền của mỗi nước được hưởng quyền tự do biển cả. Hầu
như không ai chia biển với ai cả, đường biên giới biển trong lãnh hải giữa các
nước thường được hình thành và tôn trọng theo tập quán.
Thứ hai, từ năm 1958 đến năm 1994, các nước ven biển có lãnh hải và vùng
tiếp giáp lãnh hải rộng không quá 12 hải lý, có vùng thềm lục địa trải dài dưới
biển ra không quá độ sâu 200m nước (theo các công ước của Liên Hợp quốc về
Luật biển năm 1958). Các nước láng giềng, kế cận hay đối diện nhau, căn cứ vào
luật, tự mình quy định phạm vi hoặc ranh giới vùng biển quốc gia, dẫn đến hậu
quả có sự chồng lấn và tranh chấp về biển. Luật biển quốc tế lúc đó quy định các
nước có vùng chồng lấn phải cùng nhau giải quyết vạch đường biên giới biển
(bao gồm biên giới biển trong lãnh hải, ranh giới biển trong vùng tiếp giáp và
thềm lục địa) trong vùng chồng lấn. Nguyên tắc hoạch định biên giới biển lúc đó
là qua thương lượng trên cơ sở pháp luật quốc tế và thường áp dụng nguyên tắc
đường trung tuyến.
Thứ ba, nước ta phê chuẩn Công ước 1982 vào năm 1994. Theo Công ước

này, một nước ven biển có năm vùng biển: nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh
hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng thềm lục địa. Với sự ra đời của Công ước
1982, trên thế giới các nước sẽ phải cùng nhau vạch khoảng 412 đường ranh giới
mới trên biển.
Như vậy, theo Công ước 1982, phạm vi vùng biển của nước ta được mở rộng
ra một cách đáng kể, từ vài chục nghìn km2 lên đến gần một triệu km2 với năm
vùng biển có phạm vi và chế độ pháp lý khác nhau. Nước Việt Nam không còn
thuần tuý có hình dạng hình chữ ''S'' nữa mà mở rộng ra hướng biển, không chỉ
có biên giới biển chung với Trung Quốc, Campuchia mà cả với hầu hết các nước
trong khu vực Đông Nam á như Philíppin, Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan.
Để có cơ sở nhận thức đúng đắn điều đó, trước hết chúng ta cần hiểu được
những khái niệm cơ bản sau đây:
- Đường cơ sở
Luật Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được
Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 17 tháng 6 năm 2003 và có hiệu
lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2004 quy định: Đường cơ sở là đường gãy khúc nối
liền các điểm được lựa chọn tại ngấn nước thủy triều thấp nhất dọc bờ biển và
các đảo gần bờ do Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác
định công bố.
Đường cơ sở là đường cơ bản, quốc gia ven biển có thể đơn phương xác định
dùng làm căn cứ để tính chiều rộng lãnh hải và các vùng biển khác.
Có hai loại đường cơ sở:
Thứ nhất, đường cơ sở thông thường: Sử dụng ngấn nước triều thấp nhất ven
bờ biển hoặc đảo.
Thứ hai, đường cơ sở thẳng: Nối các điểm hoặc đảo nhô ra nhất của bờ biển
lục địa hoặc đảo. Đường cơ sở thẳng áp dụng khi bờ biển quốc gia ven biển bị


chia cắt hoặc có chuỗi đảo gắn liền và chạy dọc theo bờ biển. Việt Nam có chuỗi
đảo dọc theo bờ biển được vận dụng để xác định đường cơ sở thẳng.

Năm 1982, Chính phủ Việt Nam ra tuyên bố xác định đường cơ sở thẳng ven
bờ lục địa Việt Nam, gồm 10 đoạn nối 11 điểm (trừ phần trong vịnh Bắc bộ và
vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và Campuchia do ta còn đàm phán phân định
biển với Trung Quốc lúc đó và chưa tiến hành đàm phán phân định biển với
Campuchia).
Việt Nam cũng không vạch đường cơ sở cho hai quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, vì hai quần đảo này không được hưởng quy chế quốc gia quần đảo
theo Điều 46 của Công ước này.
- Vùng nước nội thủy
Theo Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, nội thủy là vùng
biển nằm ở phía trong của đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải. Vùng nước
thuộc nội thủy có chế độ pháp lý như lãnh thổ trên đất liền. Tuy nhiên, chủ quyền
của quốc gia ven biển đối với nội thủy vẫn có sự khác biệt so với chủ quyền trên
lãnh thổ đất liền, vì quốc gia ven biển thực hiện quyền lực của mình trên vùng
nước nội thủy không phải đối với các cá nhân mà là đối với tàu thuyền - cộng
đồng có tổ chức và đáp ứng các quy tắc riêng biệt.
Vùng nước nội thủy bao gồm: các vùng nước cảng biển, các vũng tàu, cửa
sông, các vịnh, các vùng nước nằm giữa lãnh thổ đất liền và đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng lãnh hải.
Trong vùng nước nội thủy, quốc gia được quyền tự do thông thường của tàu
thuyền thương mại vào các cảng biển quốc tế và các quy định đối với tàu thuyền
nước ngoài; có thẩm quyền tài phán dân sự và thẩm quyền tài phán hình sự.
- Lãnh hải
Theo Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, lãnh hải là vùng
biển có chiều rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở, có chế độ pháp lý tương tự như
lãnh thổ đất liền. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới quốc gia trên biển.
Trong lãnh hải, tàu thuyền của các quốc gia khác được hưởng quyền qua lại
không gây hại và thường đi theo tuyến phân luồng giao thông biển của nước ven
biển.
Trong lãnh hải có những nội dung cần chú ý là:

+ Bản chất pháp lý của lãnh hải;
+ Chiều rộng lãnh hải;
+ Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải;
+ Quyền đi qua không gây hại;
+ Vấn đề phân định lãnh hải.
Xét về bản chất pháp lý: Thuật ngữ lãnh hải là sự kết hợp thành công giữa hai
từ lãnh thổ và biển. Lãnh hải là một vùng biển đệm giữa một bên là lãnh thổ do
quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ, ngoại trừ quyền ''đi
qua không gây hại'' của tàu thuyền nước ngoài theo nguyên tắc tự do hàng hải.


Luật biển coi lãnh hải như một ''lãnh thổ chìm'', một bộ phận hữu cơ của lãnh
thổ quốc gia, trên đó quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền riêng biệt về
phòng thủ quốc gia, về cảnh sát, thuế quan, đánh cá, khai thác tài nguyên thiên
nhiên, đấu tranh chống ô nhiễm, như quốc gia đó tiến hành trên lãnh thổ của
mình. Điều 2 của Công ước Giơnevơ năm 1958 về lãnh hải và vùng tiếp giáp,
cũng như Điều 2 của Công ước năm 1982 của Liên Hợp quốc về Luật biển ghi
rõ: ''Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội
thủy của mình,... đến một vùng biển tiếp liền, gọi là lãnh hải''. Tuy nhiên, việc
đồng hóa lãnh hải thành lãnh thổ không phải là tuyệt đối. Chủ quyền dành cho
quốc gia ven biển trên lãnh hải không phải là tuyệt đối như trên các vùng nước
nội thủy, do sự thừa nhận quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài
trong lãnh hải.
Chiều rộng lãnh hải: Hai hội nghị đầu tiên của Liên Hợp quốc về Luật biển đã
thất bại trong việc thống nhất hoá chiều rộng lãnh hải. Trước khi có Công ước
Luật biển năm 1982, tập quán chung áp dụng chiều rộng lãnh hải là ba hải lý.
Sau này, Điều 3 của Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 đã
thống nhất rằng, quốc gia ven biển có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải không
vượt quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Tới năm
1994 đã có 116 nước tuyên bố lãnh hải rộng 12 hải lý.

Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải: Việc xác định bề rộng thực tế
và ranh giới ngoài của lãnh hải phụ thuộc vào việc vạch đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải. Thông thường đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải
được căn theo ngấn nước thủy triều thấp nhất. Các đảo cách ven bờ có thể được
chọn làm điểm cơ sở để vạch đường cơ sở lãnh hải. Đường cơ sở lãnh hải là ranh
giới trong của lãnh hải.
Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 quy định, đường cơ sở
thông thường dùng để tính chiều rộng lãnh hải là ngấn nước triều thấp nhất dọc
theo bờ biển. Công ước cũng đưa ra ba điều kiện để áp dụng phương pháp
đường cơ sở thẳng, đó là: ở những nơi bờ biển khúc khuỷu, bị khoét sâu và lồi
lõm; ở những nơi có một chuỗi đảo chạy qua; ở những nơi có các điều kiện thiên
nhiên đặc biệt gây ra sự không ổn định của bờ biển như sự hiện diện của các
châu thổ. Nhưng đường cơ sở thẳng vạch ra này phải đi theo xu hướng chung
của bờ biển và không được cách xa bờ.
Như vậy, ranh giới ngoài của lãnh hải là đường chạy song song với đường cơ
sở và cách đều đường cơ sở một khoảng cách tối đa là 12 hải lý. Ranh giới ngoài
của lãnh hải được coi là đường biên giới quốc gia trên biển.
- Quyền đi qua không gây hại
Quyền đi qua không gây hại là một nguyên tắc tập quán của luật quốc tế,
được thừa nhận bằng thực tiễn của các quốc gia. Công ước Giơnevơ 1958 đã
pháp chế hoá quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải của quốc gia ven biển
cho tàu thuyền nước ngoài. Công ước cũng gián tiếp công nhận quyền đi qua
không gây hại cho tàu thuyền quân sự nước ngoài, vì nó có điều khoản cho phép
quốc gia ven biển được yêu cầu tàu thuyền quân sự nước ngoài rời khỏi lãnh hải
của mình trong trường hợp các tàu này vi phạm luật lệ của quốc gia ven biển.


Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 chỉ nhắc lại nội dung này.
Điều 30 của Công ước quy định rằng, nếu một tàu chiến không tôn trọng các luật
và quy định của quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua trong lãnh hải và

bất chấp yêu cầu phải tuân thủ các luật và quy định đó đã được thông báo cho
họ, thì quốc gia ven biển có thể yêu cầu chiếc tàu đó rời khỏi lãnh hải ngay lập
tức. Tàu ngầm thực hiện quyền đi qua không gây hại phải đi ở trạng thái nổi và
phải treo cờ quốc tịch.
Nghĩa của thuật ngữ ''đi qua'': Đi qua lãnh hải có nghĩa và bao gồm cả việc đi
qua lãnh hải mà không vào nội thủy, hoặc đi qua lãnh hải để vào nội thủy hoặc
cảng và rời nội thủy ra biển. Công ước Luật biển năm 1982, Điều 18 khoản 2 bổ
sung thêm việc đi qua phải là liên tục và nhanh chóng. Tuy nhiên, việc đi qua có
thể bao gồm cả việc dừng lại và thả neo, trong trường hợp gặp những sự cố
thông thường về hàng hải hoặc vì một trường hợp bất khả kháng hay mắc nạn
hoặc vì mục đích cứu giúp người, tàu thuyền hay phương tiện bay đang lâm
nguy hoặc mắc nạn.
Nghĩa của thuật ngữ ''đi qua không gây hại'' là các loại tàu thuyền nước ngoài
được quyền đi qua lãnh hải của quốc gia ven biển mà không cần phải xin phép
trước. Nhưng việc đi qua này là hành trình liên tục và không gây hại, không xâm
phạm tới chủ quyền, an ninh, lợi ích của quốc gia ven biển. Theo Điều 19 của
Công ước Luật biển năm 1982, tàu thuyền nước ngoài khi thực hiện quyền đi
qua không gây hại trong lãnh hải không được tiến hành một hoặc bất kỳ hoạt
động nào sau đây:
+ Đe dọa hoặc dùng vũ lực chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc
lập chính trị của quốc gia ven biển hay dùng mọi cách khác trái với các nguyên
tắc của luật pháp quốc tế đã được nêu trong Hiến chương Liên Hợp quốc;
+ Luyện tập hoặc diễn tập với bất kỳ kiểu loại vũ
khí nào;
+ Thu thập tình báo gây thiệt hại cho quốc phòng hay an ninh của quốc gia
ven biển;
+ Tuyên truyền nhằm làm hại đến quốc phòng hay an ninh của quốc gia ven
biển;
+ Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay;
+ Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện quân sự;

+ Xếp hoặc dỡ hàng hoá, tiền bạc hay đưa người lên xuống tàu trái với các
luật và quy định về hải quan, thuế khoá, y tế hoặc nhập cư của quốc gia ven
biển;
+ Gây ô nhiễm cố ý và nghiêm trọng, vi phạm Công ước;
+ Đánh bắt hải sản;
+ Nghiên cứu hay đo đạc;
+ Làm rối loạn hoạt động của mọi hệ thống giao thông liên lạc hoặc mọi
trang thiết bị hay công trình khác của quốc gia ven biển;
+ Mọi hoạt động khác không trực tiếp quan hệ đến việc đi qua.


Ngoài ra, quốc gia ven biển có quyền ấn định các tuyến đường, quy định việc
phân
chia
các
luồng
giao
thông
dành cho tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải của mình (Điều 21, 22 của Công
ước).
Tàu thuyền nước ngoài phải tuân thủ luật pháp của quốc gia ven biển về:
+ An toàn hàng hải, điều phối giao thông đường biển;
+ Bảo vệ các thiết bị công trình, dây cáp, ống dẫn ở biển;
+ Bảo tồn tài nguyên sinh vật biển, giữ gìn môi trường biển;
+ Hải quan, thuế khoá, y tế, nhập cư.
Như vậy, luật biển quốc tế và cụ thể là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật
biển năm 1982 ghi nhận quyền đi qua không gây hại của tàu thuyền của các
nước trong phạm vi lãnh hải của các quốc gia ven biển. Mặt khác, Công ước
Luật biển cũng thừa nhận quyền của quốc gia ven biển bằng luật quốc gia quy
định cụ thể chế độ pháp lý điều chỉnh hoạt động của tàu thuyền nước ngoài khi

đi qua lãnh hải nhằm đảm bảo chủ quyền, an ninh quốc gia và lợi ích của mình.
- Vùng tiếp giáp
Vùng tiếp giáp là vùng biển rộng 12 hải lý tiếp giáp và tính từ ranh giới ngoài
của lãnh hải. Trong vùng tiếp giáp, nước ven biển có quyền quy định biện pháp
ngăn ngừa và trừng trị các hành vi vi phạm đối với luật lệ về nhập cư, thuế khóa,
y tế xảy ra trong lãnh thổ hay lãnh hải của mình.
Đối với Việt Nam, Luật Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 17 tháng 6
năm 2003 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2004 quy định: Vùng tiếp
giáp lãnh hải là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải có chiều rộng mười hai
hải lý.
Công ước về lãnh hải và vùng tiếp giáp năm 1958, Điều 24 quy định quốc gia
ven biển có quyền tiến hành các hoạt động kiểm soát cần thiết tại vùng tiếp giáp,
nhằm:
+ Ngăn ngừa những vi phạm đối với các luật và quy định về hải quan, thuế
khoá, y tế hay nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;
+ Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên
lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của mình.
Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, Điều 33 nhắc lại nội
dung trên nhưng cần lưu ý, về bản chất pháp lý, vùng tiếp giáp lãnh hải được
quy định bởi Công ước năm 1958 là một phần của biển cả. Còn vùng tiếp giáp
lãnh hải được quy định bởi Công ước năm 1982 nằm trong vùng đặc quyền kinh
tế, có quy chế của một vùng sui generic (đặc biệt), không phải là một vùng biển
thuộc chủ quyền quốc gia và cũng không phải là vùng biển có quy chế tự do biển
cả.
Trong vùng tiếp giáp lãnh hải, Điều 303 Công ước của Liên Hợp quốc về
Luật biển năm 1982 đã mở rộng quyền của quốc gia ven biển đối với các hiện


vật có tính lịch sử và khảo cổ. Mọi sự trục vớt các hiện vật này từ đáy biển thuộc

vùng tiếp giáp lãnh hải mà không được phép của quốc gia ven biển, đều được
coi là vi phạm xảy ra trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải của quốc gia đó.
- Vùng đặc quyền kinh tế
Theo Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, vùng đặc quyền
kinh tế là vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở (trừ lãnh hải thì chiều
rộng là 188 hải lý). Trong vùng biển này, nước ven biển có quyền chủ quyền đối
với mọi loại tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh tế nhằm khai thác, sử
dụng các tài nguyên thiên nhiên đó, có quyền tài phán đối với các hoạt động
nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường biển, xây dựng và lắp đặt các công
trình và thiết bị nhân tạo. Các nước khác có quyền tự do bay, tự do hàng hải và
đặt dây cáp và ống dẫn ngầm.
Đối với nước ta, Luật Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 17 tháng 6 năm
2003 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2004 quy định: Vùng đặc quyền về
kinh tế là vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải và hợp với lãnh hải thành một
vùng biển rộng hai trăm hải lý tính từ đường cơ sở, trừ trường hợp điều ước
quốc tế giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan có
quy định khác.
Như vậy, vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm ở phía ngoài lãnh hải và
tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới một chế độ pháp lý riêng, theo đó các quyền chủ
quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển cũng như các quyền và các
quyền tự do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước
điều chỉnh.
Xét về bản chất pháp lý: Vùng đặc quyền kinh tế là một chế định pháp lý
mới,
riêng
biệt,
lần
đầu
tiên

được
ghi nhận trong Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982. Vùng đặc
quyền kinh tế là một vùng đặc biệt, trong đó quốc gia ven biển thực hiện thẩm
quyền riêng biệt của mình nhằm mục đích kinh tế, được quy định bởi Công ước,
mà không chia sẻ với các quốc gia khác.
Xét về chế độ pháp lý, trong vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển có
các quyền sau:
+ Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản
lý các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật của vùng nước bên
trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt
động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc
sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.
+ Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc:
Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình; nghiên cứu khoa
học về biển; bảo vệ và gìn giữ môi trường biển.
+ Các quyền và nghĩa vụ khác do Công ước quy định.


Trong vùng đặc quyền kinh tế, tất cả các quốc gia, dù có biển hay không có
biển, đều được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không, quyền tự do đặt
dây cáp và ống dẫn ngầm, cũng như quyền tự do sử dụng biển vào các mục đích
khác hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do này
và phù hợp với các quy định khác của Công ước, nhất là trong khuôn khổ việc
khai thác các tàu thuyền, phương tiện bay và dây cáp, ống dẫn ngầm.
Quốc gia ven biển quản lý các tài nguyên trong vùng đặc quyền kinh tế:
+ Đối với các tài nguyên không sinh vật, quốc gia ven biển tự khai thác hoặc
cho phép quốc gia khác khai thác cho mình, đặt dưới quyền kiểm soát của mình;
+ Đối với các tài nguyên sinh vật, quốc gia ven biển tự định ra tổng khối
lượng có thể đánh bắt được, tự đánh giá khả năng thực tế của mình trong việc
khai thác các tài nguyên sinh vật biển và ấn định số dư của quốc gia ven biển

cho phép các quốc gia khác, thông qua các điều ước hoặc những thoả thuận liên
quan, khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt này, có ưu tiên cho các
quốc gia không có biển hoặc các quốc gia bất lợi về mặt địa lý.
Ngoài ra, quốc gia ven biển có nghĩa vụ thi hành các biện pháp thích hợp về
bảo tồn và quản lý, nhằm làm cho việc duy trì các nguồn lợi sinh vật trong vùng
đặc quyền kinh tế của mình khỏi bị ảnh hưởng do khai thác quá mức. Công ước
Luật biển năm 1982 có ghi nhận một loạt điều khoản cụ thể quy định các quyền
và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển và các quốc gia khác trong việc bảo tồn
các loài sinh vật biển cụ thể như: các loài cá di cư xa; các loài có vú ở biển; các
đàn cá vào sông sinh sản; các loài cá ra biển sinh sản; các loài định cư.
- Thềm lục địa
Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 định nghĩa thềm lục địa
là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc gia
ven biển, trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia này cho
đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
lãnh hải 200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc gia này ở khoảng cách
gần hơn. Trong trường hợp khi bờ ngoài của rìa lục địa của một quốc gia ven
biển kéo dài tự nhiên vượt quá khoảng cách 200 hải lý tính từ đường cơ sở; quốc
gia ven biển này có thể xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa của mình tới
một khoảng cách không vượt quá 350 hải lý tính từ đường cơ sở hoặc cách
đường đẳng sâu 2.500m một khoảng cách không vượt quá 100 hải lý, với điều
kiện tuân thủ các quy định cụ thể về việc xác định ranh giới ngoài của thềm lục
địa trong Công ước Luật biển năm 1982 và phù hợp với các kiến nghị của ủy
ban Ranh giới thềm lục địa được thành lập trên cơ sở của Công ước.
Đối với Việt Nam, Luật Biên giới quốc gia của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 17 tháng 6
năm 2003 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2004 quy định: Thềm lục địa
là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa mở
rộng ra ngoài lãnh hải cho đến bờ ngoài của rìa lục địa mà Việt Nam là quốc gia
ven bờ có chủ quyền, quyền tài phán được xác định theo Công ước của Liên

Hợp quốc về Luật biển năm 1982, trừ trường hợp điều ước quốc tế giữa Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan có quy định khác.


Về mặt chế độ pháp lý của thềm lục địa:
+ Quốc gia ven biển thực hiện các quyền thuộc chủ quyền đối với thềm lục
địa về mặt thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình;
+ Những quyền chủ quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa của
mình là những đặc quyền, nghĩa là nếu quốc gia ven biển này không thăm dò
thềm lục địa hay không khai thác tài nguyên thiên nhiên của thềm lục địa (bao
gồm các tài nguyên không sinh vật và các tài nguyên sinh vật thuộc loài định
cư), thì không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy, nếu không có sự
thoả thuận rõ ràng của các quốc gia đó;
+ Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không phụ thuộc vào
sự chiếm hữu thật sự hay danh nghĩa, cũng như vào bất cứ tuyên bố rõ ràng nào;
+ Tất cả các quốc gia đều có quyền lắp đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở
thềm lục địa. Quốc gia đặt cáp hoặc ống dẫn ngầm phải thoả thuận với quốc gia
ven biển về tuyến đường đi của ống dẫn hoặc cáp;
+ Khi quốc gia ven biển tiến hành khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải lý kể
từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải thì phải có một khoản đóng góp
theo quy định của Công ước;
+ Các quyền của quốc gia ven biển đối với thềm lục địa không đụng chạm
đến chế độ pháp lý của vùng nước ở phía trên hay của vùng trời trên vùng nước
này;
+ Việc quốc gia ven biển thực hiện các quyền của mình đối với thềm lục địa
không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền và các tự do khác của các
quốc gia khác đã được Công ước thừa nhận, cũng không được cản trở việc thực
hiện các quyền này một cách không thể biện bạch được;
+ Quốc gia ven biển có đặc quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm
lục địa bất kỳ vào mục đích gì.

- Vịnh
Điều 7 của Công ước năm 1958 và Điều 10 Công ước của Liên Hợp quốc về
Luật biển năm 1982 định nghĩa: Vịnh là một vùng lõm sâu rõ rệt vào đất liền,
chiều sâu của vùng lõm đó so sánh với chiều rộng ở ngoài cửa của nó đến mức
là nước của vùng lõm đó được bờ biển bao quanh và vùng đó lõm sâu hơn là
một sự uốn cong của bờ biển, diện tích của vịnh ít nhất cũng bằng diện tích một
nửa hình tròn có đường kính là đường thẳng kẻ ngang qua cửa vào của vùng
lõm, đường khép cửa vào tự nhiên của cửa vịnh không vượt quá 24 hải lý.
Như vậy, vùng lõm chỉ được coi là một vịnh nếu thoả mãn hai điều kiện:
Thứ nhất, diện tích của vịnh ít nhất cũng bằng diện tích một nửa hình tròn có
đường kính là đường thẳng kẻ ngang qua cửa vào của vùng lõm. Theo Điều 10
khoản 3, diện tích của một vùng lõm được tính giữa ngấn nước triều thấp nhất
dọc theo bờ biển của vùng lõm và đường thẳng nối liền các ngấn nước triều thấp
nhất ở các điểm của cửa vào tự nhiên. Nếu do có các đảo mà một vùng lõm có
nhiều cửa vào thì nửa hình tròn nói trên có đường kính bằng tổng số chiều dài
các đoạn thẳng cắt ngang các cửa vào đó.


Thứ hai, đường khép cửa vào tự nhiên của cửa vịnh không vượt quá 24 hải lý.
Trong trường hợp ngược lại, thì cần phải vạch các đoạn cơ sở thẳng dài 24 hải lý
ở phía trong cửa vịnh sao cho phía trong của nó có một diện tích tối đa.
Vịnh có thể chỉ do một, hoặc do bờ biển của nhiều quốc gia bao bọc: mỗi
quốc gia quy định lãnh hải của mình trong vịnh. Các quốc gia có thể, bằng con
đường thoả thuận hoặc do toà án, công nhận chế độ đồng sở hữu vịnh. Vịnh Bắc
Bộ là vịnh nằm giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa; vịnh Thái Lan (còn gọi là vịnh Xiêm) là một biển nửa
kín, giới hạn bởi bờ biển của 4 nước: Thái Lan, Việt Nam, Malaixia và
campuchia.
Công ước năm 1982 không quy định về vịnh lịch sử hay vùng nước lịch sử,
tuy nhiên theo tập quán và thực tiễn quốc tế, một vịnh được coi là lịch sử khi có

sự:
+ Thực hiện chủ quyền một cách thực sự của quốc gia ven biển.
+ Thực hiện việc sử dụng vùng biển này một cách liên tục, hòa bình và lâu
dài.
+ Có sự chấp nhận, công khai hoặc sự im lặng không phản đối của các quốc
gia khác, nhất là các quốc gia láng giềng và có quyền lợi tại vùng biển này.
- Biển cả
Biển cả là vùng biển nằm ngoài các vùng biển thuộc phạm vi chủ quyền và
quyền tài phán quốc gia của các quốc gia ven biển. Thuật ngữ biển cả chỉ áp
dụng với cột nước bên trên đáy và lòng đất đáy đại dương.
Biển cả được để ngỏ cho tất cả các quốc gia, dù là những quốc gia có biển
hay không có biển. Trong vùng biển này, tất cả các quốc gia đều được hưởng các
quyền tự do như:
+ Tự do hàng hải;
+ Tự do hàng không;
+ Tự do đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm;
+ Tự do xây dựng các đảo nhân tạo và các thiết bị khác được pháp luật cho
phép;
+ Tự do đánh bắt hải sản;
+ Tự do nghiên cứu khoa học...
Các quốc gia thực hiện các quyền tự do biển cả trên cơ sở tôn trọng và lưu ý
tới lợi ích của cộng đồng quốc tế.
Để đảm bảo trật tự, an toàn cho các hoạt động ở biển cả và bảo tồn tài nguyên
sinh vật ở biển cả, Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 ghi
nhận một loạt những quy định về:
+ Quy chế pháp lý đối với các loại tàu thuyền hoạt động ở biển cả; quyền và
nghĩa vụ của quốc gia có tàu đối với tàu thuyền hoạt động ở biển cả;


+ Việc ngăn chặn và cấm các hoạt động chuyên chở nô lệ, buôn bán bất hợp

pháp ma tuý và các chất kích thích, cướp biển, phát sóng truyền thanh, truyền
hình bất hợp pháp từ biển cả hướng vào đất liền;
+ Sự hợp tác giữa các quốc gia trong việc khai thác, bảo tồn và quản lý tài
nguyên sinh vật ở biển cả.
Ngoài ra, cần chú ý đến quyền khám xét và quyền truy đuổi tàu thuyền nước
ngoài trong biển cả.
- Đáy đại dương
Đáy đại dương là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài các vùng
biển thuộc quyền tài phán quốc gia, được gọi là Vùng theo quy định Công ước
của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982.
+ Vùng và tài nguyên của Vùng bao gồm các tài nguyên khoáng sản ở thể
rắn, lỏng hoặc khí, kể cả các khối đa kim nằm ở đáy đại dương và trong lòng đất
dưới đáy - là di sản chung của nhân loại;
+ Việc thăm dò, khai thác tài nguyên của Vùng được tiến hành thông qua một
tổ chức quốc tế, gọi là Cơ quan quyền lực quốc tế (ta quen gọi là Cơ quan quyền
lực
Đáy đại dương). Cơ quan quyền lực quốc tế bảo đảm việc
phân chia công bằng, trên cơ sở không phân biệt đối xử,
những lợi ích tài chính và các lợi ích kinh tế khác do những hoạt động tiến hành
trong Vùng thông qua bộ máy của mình;
+ Cơ quan quyền lực có quyền định ra các quy tắc, quy định và thủ tục thích
hợp cho việc sử dụng Vùng vào mục đích hoà bình, ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường biển, bảo vệ sự sống của con người, bảo vệ và bảo tồn
các tài nguyên thiên nhiên của Vùng, phòng ngừa những thiệt hại đối với hệ
động vật và hệ thực vật.
- Quyền và nghĩa vụ của các quốc gia không có biển
Các quốc gia không có biển có quyền đi ra biển và đi từ biển vào để thực hiện
các quyền mà những quốc gia này được hưởng theo Công ước của Liên Hợp
quốc về Luật biển năm 1982, kể cả các quyền liên quan tới tự do trên biển cả và
liên quan đến những lợi ích phát sinh từ chế độ di sản chung của nhân loại;

Các quốc gia không có biển thực hiện quyền đi ra biển thông qua những thoả
thuận trực tiếp, phân khu vực hay khu vực với quốc gia láng giềng có biển được gọi là quốc gia quá cảnh;
Quốc gia quá cảnh có quyền định ra mọi biện pháp cần thiết để đảm bảo rằng
các quyền và các điều kiện thuận lợi được quy định trong Công ước vì lợi ích
của quốc gia không có biển không hề đụng chạm đến các quyền lợi chính đáng
của quốc gia quá cảnh.
- Chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán
Theo Công ước về Luật biển của Liên Hợp quốc năm 1982, chủ quyền của quốc
gia ven biển là quyền tối cao của quốc gia được thực hiện trong phạm vi vùng
biển của quốc gia đó. Các quốc gia ven biển có chủ quyền đối với vùng nước nội


thủy và lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời bên trên, vùng đáy biển và
lòng đất dưới đáy biển bên dưới các vùng nước đó.
Quyền chủ quyền là các quyền của quốc gia ven biển được hưởng trên cơ sở
chủ quyền đối với mọi loại tài nguyên thiên nhiên trong vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa của mình, cũng như đối với những hoạt động nhằm thăm dò và
khai thác vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của quốc gia đó vì mục đích
kinh tế, bao gồm cả việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu, gió.
Quyền tài phán là thẩm quyền riêng biệt của quốc gia ven biển được quy
định, cấp phép, giải quyết và xử lý đối với một số loại hình hoạt động, các đảo
nhân tạo, thiết bị và công trình trên biển, trong đó có việc lắp đặt và sử dụng các
đảo nhân tạo các thiết bị và công trình; nghiên cứu khoa học về biển, bảo vệ và
gìn giữ môi trường biển trong vùng đặc quyền kinh tế hay thềm lục địa của quốc
gia đó.
Ngoài các quyền đã liệt kê ở trên, trong vùng tiếp giáp lãnh hải, quốc gia ven
biển còn có một số thẩm quyền riêng biệt nhằm ngăn ngừa và trừng trị các vi
phạm đối với các quy định về hải quan, thuế khoá, nhập cư hay y tế trên lãnh thổ
hay trong lãnh hải của mình, cũng như thẩm quyền đối với các hiện vật lịch sử
và khảo cổ dưới đáy biển của khu vực này.

Theo Công ước về Luật biển của Liên Hợp quốc năm 1982, chủ quyền quốc gia
trên biển lại giảm dần từ đất liền ra hướng biển có nghĩa là: Các nước ven biển
có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối với vùng nội thủy (như trên đất liền), hoàn
toàn và đầy đủ đối với lãnh hải (trừ quyền tự do hàng hải không gây hại của tàu
thuyền các nước). Tại vùng tiếp giáp, các nước ven biển chỉ có thẩm quyền kiểm
tra, giám sát việc thi hành pháp luật liên quan đến hải quan, thuế khóa, nhập cư
và vệ sinh dịch tễ. Tại vùng đặc quyền kinh tế các nước ven biển chỉ có quyền
chủ quyền và quyền tài phán quốc gia với một số hoạt động nhất định, trong đó
có đặc quyền thăm dò, khai thác, bảo tồn và quản lý tài nguyên thiên nhiên, sinh
vật hoặc không sinh vật, nghiên cứu khoa học, lắp đặt các công trình nhân tạo...
cũng như những hoạt động khác vì mục đích kinh tế, nguồn lợi của biển. Trên
thềm lục địa các quốc gia ven biển có quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia
và độc quyền khai thác tài nguyên sinh vật thuộc đáy biển, khoáng sản thuộc
lòng đất dưới đáy biển.
2. Hệ thống pháp luật về biển của Việt Nam
Để bảo vệ chủ quyền vùng biển nước ta, ngày 12 tháng 5 năm 1977, Chính phủ
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tuyên bố về lãnh hải, vùng tiếp
giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Ngày 12 tháng 11 năm 1982, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam.
Quốc hội nước ta đã phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển
1982 vào ngày 23 tháng 6 năm 1994. Công ước này bắt đầu có hiệu lực từ ngày 16
tháng 11 năm 1994. Nhà nước ta đã chính thức hóa cơ sở pháp lý quốc tế về
phạm vi các vùng biển và thềm lục địa, tạo cơ sở pháp lý vững chắc trong cuộc
đấu tranh bảo vệ chủ quyền vùng biển và thềm lục địa, bảo vệ lợi ích quốc gia


trên các vùng biển, đảo. Đồng thời, thể hiện quyết tâm của Việt Nam cùng cộng
đồng quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển
và hợp tác trên biển.

Ngày 18 tháng 12 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định
số 161/2003/NĐ-CP về Quy chế khu vực biên giới biển gồm 5 chương, 37 điều quy định hoạt động của người, tàu thuyền Việt Nam, tàu thuyền nước ngoài
trong khu vực biên giới biển nhằm quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trên biển,
duy trì an ninh trật tự an toàn xã hội trong khu vực biên giới biển.
Trước nguy cơ cạn kiệt dần tài nguyên trên đất liền, sự bùng nổ dân số chưa
kiểm soát được và sự ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng, việc quan tâm
đến khai thác sử dụng biển hợp lý kết hợp chặt chẽ với bảo vệ quốc phòng - an
ninh trên biển và bảo vệ môi trường biển là vấn đề quan trọng để phát triển bền
vững. Những năm gần đây, Nhà nước ta tổ chức tốt việc khai thác biển, đặc biệt
là dầu khí, hải sản, giao thông vận tải phục vụ quốc kế dân sinh.
Hệ thống pháp luật về biển của Việt Nam có thể được phân loại theo các lĩnh
vực sau:
- Pháp luật về bảo vệ chủ quyền và an ninh trên biển (Ví dụ: Tuyên bố ngày
12-5-1977 của Chính phủ nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh hải,
vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam; Luật
Biên giới quốc gia - 2003...).
- Pháp luật về khai thác tài nguyên thiên nhiên trên biển (Luật Thủy sản, Luật
Dầu khí...).
- Pháp luật về nghiên cứu khoa học biển (Nghị định 242/HĐBT ngày 5-81991...).
- Pháp luật về du lịch biển, đảo Việt Nam (Luật Du lịch...).
- Pháp luật về giao thông, vận tải biển (Bộ Luật Hàng hải...).
- Pháp luật về đảm bảo trật tự, an toàn trên biển (Pháp lệnh lực lượng cảnh sát
biển...).
- Pháp luật về bảo vệ môi trường biển (Luật Bảo vệ môi trường - 2005...).
Sau khi được ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam chuẩn y, ngày 12 tháng 5 năm 1977, Chính phủ đã tuyên bố quy định
các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
như sau:
1. Lãnh hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam rộng 12 hải lý, ở
phía ngoài đường cơ sở nối liền các điểm nhô ra nhất của bờ biển và các điểm

ngoài cùng của các đảo ven bờ của Việt Nam tính từ ngấn nước thủy triều thấp
nhất trở ra.
Vùng biển ở phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển là nội thủy của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện chủ quyền đầy đủ và
toàn vẹn đối với lãnh hải của mình cũng như đối với vùng trời, đáy biển và lòng
đất dưới đáy biển của lãnh hải.


2. Vùng tiếp giáp lãnh hải của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
vùng biển tiếp liền phía ngoài lãnh hải Việt Nam có chiều rộng là 12 hải lý hợp
với lãnh hải Việt Nam thành một vùng biển rộng 24 hải lý kể từ đường cơ sở
dùng để tính chiều rộng lãnh hải của Việt Nam.
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện sự kiểm soát
cần thiết trong vùng tiếp giáp lãnh hải của mình, nhằm bảo vệ an ninh, bảo vệ
các quyền lợi về hải quan, thuế khoá, đảm bảo sự tôn trọng các quy định về y tế,
về di cư, nhập cư trên lãnh thổ hoặc trong lãnh hải Việt Nam.
3. Vùng đặc quyền kinh tế của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp liền lãnh hải Việt Nam và hợp với lãnh hải Việt
Nam thành một vùng biển rộng 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải Việt Nam.
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về việc
thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật
và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và trong lòng đất dưới đáy biển của
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có quyền và thẩm quyền riêng biệt về các
hoạt động khác phục vụ cho việc thăm dò và khai thác vùng đặc quyền kinh tế
nhằm mục đích kinh tế; có thẩm quyền riêng biệt về nghiên cứu khoa học trong
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam có thẩm quyền bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm trong vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam.

4. Thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm đáy
biển và lòng đất dưới đáy biển thuộc phần kéo dài tự nhiên của lục địa Việt Nam
mở rộng ra ngoài lãnh hải Việt Nam cho đến bờ ngoài của rìa lục địa; nơi nào bờ
ngoài của rìa lục địa cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt
Nam không đến 200 hải lý thì thềm lục địa nơi ấy mở rộng ra 200 hải lý kể từ
đường cơ sở đó.
Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về mặt
thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất cả các tài nguyên thiên nhiên ở thềm
lục địa Việt Nam bao gồm tài nguyên khoáng sản, tài nguyên không sinh vật và
tài nguyên sinh vật thuộc loại định cư ở thềm lục địa Việt Nam.
5. Các đảo và quần đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam ở ngoài vùng lãnh hải nói ở
Điều 1 có lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng
như đã quy định trong các điều 1, 2, 3, và 4 của Tuyên bố này.
6. Xuất phát từ các nguyên tắc của Tuyên bố này, các vấn đề cụ thể liên quan
tới lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ được quy định chi tiết thêm trên cơ sở
bảo vệ chủ quyền và lợi ích của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế.
7. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ cùng các nước
liên quan, thông qua thương lượng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của


nhau, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, giải quyết các vấn đề về các
vùng biển và thềm lục địa của mỗi bên.
Thực hiện Điểm 1 trong Tuyên bố ngày 12 tháng 5
năm 1977 của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa
của Việt Nam đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam chuẩn y, ngày 12 tháng 11 năm 1982, Chính phủ nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam công bố đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh

hải Việt Nam như sau:
1. Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của lục địa Việt Nam là
đường thẳng gãy khúc nối liền các điểm có tọa độ ghi trong phụ lục kèm theo
Tuyên bố này.
2. Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam từ điểm tiếp giáp
0 của hai đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Campuchia nằm giữa biển,
trên đường thẳng nối liền quần đảo Thổ Chu và đảo Poulo Wai, đến đảo Cồn Cỏ
theo các tọa độ ghi trong phụ lục nói trên được vạch trên các bản đồ tỷ lệ 1100.000 của Hải quân nhân dân Việt Nam xuất bản năm 1979.
3. Vịnh Bắc Bộ là vịnh nằm giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Đường biên giới giữa Việt Nam và
Trung Quốc trong vịnh đã được quy định trong Công ước về hoạch định biên
giới giữa Việt Nam và Trung Quốc do Pháp và nhà Thanh ký ngày 26 tháng 6
năm 1887.
Phần vịnh thuộc phía Việt Nam là vùng nước lịch sử theo chế độ nội thủy của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đường cơ sở từ đảo Cồn Cỏ đến cửa vịnh sẽ được công bố sau khi vấn đề cửa
vịnh được giải quyết.
4. Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải của các quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa sẽ được quy định cụ thể trong một văn kiện tiếp theo phù hợp với
Điểm 5 của bản Tuyên bố ngày 12 tháng 5 năm 1977 của Chính phủ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5. Vùng nước phía trong đường cơ sở và giáp với bờ biển, hải đảo của Việt
Nam là nội thủy của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
6. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẽ cùng các nước
liên quan, thông qua thương lượng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của
nhau, phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, giải quyết các vấn đề bất đồng
về các vùng biển và thềm lục địa của mỗi bên.
Căn cứ vào Điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992; theo đề nghị của Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam; sau khi xem xét báo cáo của Chính phủ, báo cáo của ủy ban Đối ngoại của
Quốc hội và ý kiến của các đại biểu Quốc hội về việc phê chuẩn Công ước của
Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, ngày 23 tháng 6 năm 1994, Quốc hội


nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ họp thứ 5 thông qua nghị
quyết gồm những nội dung sau:
1. Phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982.
2. Bằng việc phê chuẩn Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982,
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam biểu thị quyết tâm cùng cộng đồng
quốc tế xây dựng một trật tự pháp lý công bằng, khuyến khích sự phát triển và
hợp tác trên biển.
3. Quốc hội khẳng định chủ quyền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đối với các vùng nội thủy, lãnh hải, quyền chủ quyền và quyền tài phán đối
với vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam
trên cơ sở các quy định của Công ước và các nguyên tắc của pháp luật quốc tế;
yêu cầu các nước khác tôn trọng các quyền nói trên của Việt Nam.
4. Quốc hội một lần nữa khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và chủ trương giải quyết các tranh chấp về chủ
quyền lãnh thổ cũng như các bất đồng khác liên quan đến Biển Đông thông qua
thương lượng hoà bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau,
tôn trọng luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên Hợp quốc về Luật
biển năm 1982, tôn trọng quyền chủ quyền và quyền tài phán của các nước ven
biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa; trong khi nỗ lực thúc đẩy
đàm phán để tìm giải pháp cơ bản và lâu dài, các bên liên quan cần duy trì ổn
định trên cơ sở giữ nguyên trạng, không có hành động làm phức tạp thêm tình
hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực.
Quốc hội nhấn mạnh: cần phân biệt vấn đề giải quyết tranh chấp về quần đảo
Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa với vấn đề bảo vệ các vùng biển và thềm lục địa
thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam căn cứ vào

những nguyên tắc và những tiêu chuẩn của Công ước Liên Hợp quốc về Luật
biển năm 1982.
5. Quốc hội giao cho ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ nghiên cứu
để có những sửa đổi, bổ sung cần thiết đối với các quy định liên quan của pháp
luật quốc gia cho phù hợp với Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm
1982, bảo đảm lợi ích của Việt Nam.
Quốc hội giao cho Chính phủ thi hành những biện pháp có hiệu quả nhằm
tăng cường bảo vệ và quản lý các vùng biển và thềm lục địa của Việt Nam.
Đến nay, Việt Nam đã ký kết 5 hiệp định và thỏa thuận với các nước láng
giềng có bờ biển liền kề hoặc kế cận. Đó là các nước Trung Quốc, Malaixia,
Inđônêxia, Thái Lan và Campuchia.
- Thỏa thuận về hợp tác thăm dò khai thác chung vùng chồng lấn Việt Nam Malaixia.
Giữa Việt Nam và Malaixia tồn tại một vùng chồng lấn thềm lục địa rộng
khoảng 2.800km2, đây là một khu vực có diện tích không lớn nhưng có tiềm năng
về dầu khí. Ngày 5 tháng 6 năm 1992, tại Kuala Lampur, hai bên đã ký Bản thỏa
thuận về hợp tác thăm dò khai thác chung vùng chồng lấn. Thỏa thuận này có


nội dung chính là xác định khu vực chồng lấn giữa thềm lục địa hai nước và xây
dựng cơ chế hợp tác khai thác thăm dò dầu khí trong khu vực này.
- Hiệp định về phân định ranh giới trên biển Việt Nam - Thái Lan
Việt Nam và Thái Lan trước đây còn có bất đồng trong việc phân định biên
giới biển giữa hai nước trong vịnh Thái Lan. Bất đồng này đã được giải quyết
ngày 9 tháng 8 năm 1997 bằng Hiệp định về biên giới biển Việt Nam - Thái Lan
được ký kết ngày 9 tháng 8 năm 1997. Hiệp định này đã xác định đường biên
giới biển đồng thời phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai
nước.
- Hiệp định về vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia
Việt Nam và Campuchia là hai nước láng giềng có vùng biển kế cận nhau.
Trong lịch sử, hai bên có vấn đề tranh chấp chủ quyền một số đảo ven bờ và

chưa tiến hành đàm phán phân định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế
và thềm lục địa. Ngày 7 tháng 7 năm 1982, hai bên đã ký Hiệp định về vùng
nước lịch sử, trong đó xác định rõ chủ quyền đảo của mỗi bên, thiết lập một
vùng nước lịch sử chung hai bên cùng nhau kiểm soát và quản lý; các hoạt động
đánh bắt hải sản được thực hiện theo tập quán cũ.
- Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam - Trung Quốc
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có chung đường biên giới.
Giữa hai nước tồn tại một số vấn đề biên giới cả trên đất liền lẫn trên biển đang
trong quá trình giải quyết. Tiếp theo việc hai nước ký Hiệp ước về biên giới trên
đất liền năm 1999, trong năm 2000 hai nước cũng đã hoàn tất quá trình đàm
phán kéo dài 27 năm từ năm 1974 và ký kết Hiệp định về phân định lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc Bộ. Nội dung chính của
Hiệp định này là nhằm xác định đường biên giới lãnh hải và ranh giới đơn nhất
cho cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ.
- Hiệp định phân định thềm lục địa giữa hai nước Việt Nam - Inđônêxia
Trước khi tiến hành đàm phán phân định, giữa hai nước tồn tại một vùng
chồng lấn khoảng 98.000km2. Qua nhiều vòng đàm phán, vùng chồng lấn này đã
dần được thu hẹp lại. Kết quả cuối cùng là việc ký kết Hiệp định ngày 26 tháng
6 năm 2003 đã thiết lập thành công đường ranh giới thềm lục địa Việt Nam Inđônêxia.
II. Vị trí, vai trò và tiềm năng của vùng biển việt nam
1. Vị trí, vai trò của biển Việt Nam
Biển có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội và an
ninh - quốc phòng đối với các quốc gia có biển nói riêng và của thế giới nói
chung. Từ trước đến nay, biển luôn là vấn đề được các quốc gia đặc biệt quan
tâm. Một số nước và vùng lãnh thổ đã lợi dụng thế mạnh về biển đạt trình độ
phát triển kinh tế rất cao. Do tầm quan trọng của biển, từ lâu cuộc chạy đua


trong sự phát triển kinh tế biển cũng như triển khai lực lượng quân sự trên biển và
sự tranh chấp trên biển diễn ra rất gay gắt.

Thế kỷ XXI được các nhà chiến lược xem là ''Thế kỷ của đại dương'', bởi
cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số hiện nay, nguồn tài nguyên thiên
nhiên, nhất là tài nguyên không tái tạo được trên đất liền sẽ bị cạn kiệt sau vài ba
thập kỷ tới. Trong bối cảnh đó, các nước có biển, nhất là các nước lớn đều vươn
ra biển, xây dựng chiến lược biển, tăng cường tiềm lực mọi mặt để khai thác và
khống chế biển. Riêng trong lĩnh vực khai thác tài nguyên, các nước, nhất là các
nước lớn đều có thiên hướng bảo tồn tài nguyên trên đất liền và vùng biển của
mình, vươn ra điều tra, khai thác tài nguyên trên đại dương.
Do ý nghĩa và vai trò quan trọng của biển nên sự hợp tác quốc tế về biển cũng
không ngừng được mở rộng, bao gồm việc xây dựng khuôn khổ pháp lý mà tập
trung nhất là Công ước biển năm 1982 của Liên Hợp quốc, hình thành các cơ
chế, tổ chức hợp tác toàn cầu và khu vực.
Việt Nam là một quốc gia ven biển có những ưu thế và vị trí chiến lược đặc
biệt quan trọng đối với khu vực và trên thế giới. Trong lịch sử hàng nghìn năm
dựng nước và giữ nước của dân tộc, biển luôn gắn liền với quá trình xây dựng và
phát triển của đất nước và con người Việt Nam.
Chính vì vậy, việc xây dựng, quản lý, phát triển và bảo vệ quyền lợi biển là
vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với việc gìn giữ toàn vẹn chủ quyền quốc gia,
giữ vững ổn định chính trị và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời
kỳ mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Biển Đông là một biển lớn của Thái Bình Dương, có diện tích khoảng
3.448.000km2, được bao bọc bởi 10 nước và vùng lãnh thổ (Việt Nam, Trung
Quốc, Malaixia, Inđônêxia, Philíppin, Brunây, Thái Lan, Campuchia, Xingapo
và Đài Loan); là một trong 6 biển lớn nhất của thế giới, có vị trí quan trọng đối
với cả khu vực và thế giới. Theo ước tính sơ bộ, Biển Đông có ảnh hưởng trực
tiếp tới cuộc sống của khoảng 300 triệu dân của các nước và vùng lãnh thổ trong
khu vực này.
Biển Đông được coi là con đường chiến lược về giao lưu và thương mại quốc
tế, là tuyến hàng hải quan trọng thông thương giữa ấn Độ Dương và Thái Bình
Dương. Hầu hết các nước trong khu vực châu á - Thái Bình Dương đều có các

hoạt động thương mại hàng hải rất mạnh mẽ trên Biển Đông. Cho nên, Biển
Đông được coi là con đường huyết mạch chiến lược về giao thông thương mại
và vận chuyển quân sự quốc tế. Trong 10 tuyến đường biển quốc tế lớn nhất thế
giới hiện nay, có 5 tuyến đi qua Biển Đông hoặc có liên quan đến Biển Đông.
Trong lịch sử, Biển Đông nhiều lần là trọng điểm của những cuộc tranh chấp
quốc tế gay go, quyết liệt. Ngay từ thế kỷ XIV - XV, Tây Ban Nha đã tới đây
tranh giành những vùng đất màu mỡ ở Philíppin, Inđônêxia. Đầu thế kỷ XVII
đến cuối thế kỷ XVIII là đế quốc Hà Lan; thế kỷ XIX, XX là Pháp, Nhật, Mỹ lần
lượt bành trướng, xâm chiếm hoặc gây chiến tranh chống một số nước quanh
khu vực Biển Đông.
Do những tồn tại của lịch sử để lại hơn một trăm năm nay, cùng với sự phát
triển của luật pháp quốc tế về biển và đặc điểm vị trí địa lý của Biển Đông, nên


giữa các nước trong khu vực còn tồn tại một số vấn đề tranh chấp hoặc chưa
thống nhất cần được giải quyết trên các vùng biển và thềm lục địa. Đặc biệt, từ
nửa cuối thế kỷ XX đến nay, cuộc chạy đua tìm kiếm, khai thác dầu lửa và các
nguồn nguyên liệu chiến lược ở Biển Đông càng làm cho vấn đề tranh chấp chủ
quyền ở đây thêm gay gắt và phức tạp.
Biển Đông có vị trí địa kinh tế và chính trị quan trọng như vậy, nên từ lâu đã
là nhân tố không thể thiếu trong chiến lược phát triển không chỉ của các nước
xung quanh Biển Đông mà còn của một số cường quốc hàng hải khác trên thế
giới.
Việt Nam là quốc gia nằm bên bờ Biển Đông, có vùng biển rộng trên 1 triệu
km2. Bờ biển Việt Nam dài trên 3.260km ở cả 3 hướng: Đông, Nam và Tây
Nam, trung bình khoảng 100km2 đất liền có 1km bờ biển (cao gấp 6 lần tỉ lệ này
của thế giới), không một nơi nào trên đất nước ta lại cách xa biển hơn 500km.
Ven bờ có khoảng 3.000 hòn đảo lớn, nhỏ các loại, chủ yếu nằm ở vịnh Bắc Bộ,
với diện tích khoảng 1.700km2, trong đó, có 3 đảo có diện tích lớn hơn 100km 2,
23 đảo có diện tích lớn hơn 10km 2, 82 đảo có diện tích lớn hơn 1km 2 và khoảng

trên 1.400 đảo chưa có tên. Vì vậy, biển đã gắn bó mật thiết và ảnh hưởng lớn
đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi
trường của mọi miền đất nước.
Vùng biển và ven biển Việt Nam nằm án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng
không huyết mạch thông thương giữa ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, giữa
châu Âu, Trung Cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu
vực. Biển Đông đóng vai trò là chiếc ''cầu nối'' cực kỳ quan trọng, là điều kiện
rất thuận lợi để giao lưu kinh tế, hội nhập và hợp tác giữa nước ta với các nước
trên thế giới, đặc biệt là với các nước trong khu vực châu á - Thái Bình Dương,
khu vực phát triển kinh tế năng động và có một số trung tâm kinh tế lớn của thế
giới. Biển và vùng ven biển là cửa mở lớn, là ''mặt tiền'' quan trọng của đất nước
để thông ra Thái Bình Dương và mở cửa mạnh mẽ ra nước ngoài. So với các
vùng khác trong nội địa, vùng ven biển gồm hầu hết các đô thị lớn có kết cấu hạ
tầng khá tốt; có các vùng kinh tế trọng điểm của cả nước đang được đầu tư phát
triển mạnh; có nguồn tài nguyên phong phú và đa dạng, trong đó một số loại có
thể trở thành mũi nhọn để phát triển; có nguồn lao động dồi dào và hệ thống giao
thông đường sắt, đường thủy, đường bộ thuận tiện; là môi trường hết sức thuận
lợi để tiếp nhận các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước, tiếp thu công nghệ
tiên tiến và kinh nghiệm quản lý hiện đại của nước ngoài, từ đó lan toả ra các
vùng khác trong nội địa. Có thể nói, vùng ven biển là vùng có nhiều lợi thế hơn
hẳn các vùng khác để phát triển kinh tế nhanh.
Sự hình thành mạng lưới cảng biển cùng các tuyến đường bộ, đường sắt dọc
ven biển và nối với các vùng sâu trong nội địa (đặc biệt là các tuyến đường
xuyên á) sẽ cho phép vùng biển và ven biển nước ta có khả năng chuyển tải hàng
hoá xuất, nhập khẩu tới mọi miền của Tổ quốc, đồng thời thu hút cả vùng Tây
Nam Trung Quốc, Lào, Đông Bắc Thái Lan và Campuchia. Hiện nay, các nước
trong khu vực đang tích cực khởi động chương trình phát triển Tiểu vùng Mê
Công, ta và Trung Quốc đang hợp tác xây dựng và thực hiện chương trình Vành



đai kinh tế vịnh Bắc Bộ, coi đó là một cực tăng trưởng mới trong khuôn khổ của
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc.
Chính vì vậy, trong Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020, phải phấn đấu
để nước ta trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên từ biển, bảo vệ vững
chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, góp phần giữ vững ổn định
và phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với đảm
bảo quốc phòng, an ninh và bảo vệ môi trường; có chính sách hấp dẫn nhằm thu
hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế biển; xây dựng các trung tâm kinh tế
lớn vùng duyên hải gắn với các hoạt động kinh tế biển làm động lực quan trọng
đối với sự phát triển của cả nước.
2. Tiềm năng và nguồn tài nguyên của biển Việt Nam
Nước ta có bờ biển dài khoảng 3.260km, trải dài trên 13 vĩ độ, có tỷ lệ chiều
dài đường biển trên diện tích đất liền cao nhất Đông Nam á và đứng thứ 27/157
nước có biển trên thế giới (trung bình của thế giới là 600km 2 đất liền/1km bờ
biển, Việt Nam là 100km2 đất liền/1km bờ biển). Biển nước ta có khoảng 4.000
hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Hơn 3.000
hòn đảo ven bờ chủ yếu nằm ở vịnh Bắc Bộ; đảo nổi của nước ta có diện tích
khoảng 1.700km2, trong đó có 3 đảo diện tích lớn hơn 100km 2 (Phú Quốc, Cái
Bầu, Cát Bà).
Theo Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển
năm 1982 thì nước Việt Nam ngày nay không chỉ có phần
lục địa "hình chữ S" mà còn có cả vùng biển rộng trên
một triệu km2, gấp hơn 3 lần diện tích đất liền. Biển, đảo là một bộ phận cấu
thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, cùng với đất liền tạo ra môi
trường sinh tồn và phát triển đời đời của dân tộc ta.
Đến nay, kết quả thăm dò, khảo sát cho thấy, tiềm năng tài nguyên biển của
nước ta tuy không được coi là vào loại giàu có của thế giới, nhưng cũng rất đáng
kể và có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Khu vực
ven bờ biển nước ta nhiều đảo có giá trị kinh tế cao về tiềm năng phát triển du
lịch, khu sinh thái... Dọc bờ biển có một số trung tâm đô thị lớn, có trên 100 địa

điểm có thể xây dựng cảng, trong đó, một số nơi có khả năng xây dựng cảng quy
mô tương đối lớn (kể cả cấp trung chuyển quốc tế); có nhiều bãi biển lớn và nhỏ,
cảnh quan đẹp, trong đó, có những bãi biển đủ tiêu chuẩn quốc tế để phát triển
các loại hình du lịch biển. Ngoài ra, ven bờ biển có nhiều khoáng sản quan trọng
phục vụ phát triển công nghiệp như than, sắt, titan, cát thủy tinh, các loại vật liệu
xây dựng khác và khoảng 5 - 6 vạn héc-ta ruộng muối biển. Nguồn tài nguyên
biển có giá trị và trữ lượng tương đối lớn của vùng biển nước ta là dầu thô và khí
đốt thuộc thềm lục địa lãnh thổ nước ta. Biển Việt Nam có hơn 2.000 loài cá,
trong đó có gần 130 loài cá giá trị kinh tế cao và hàng trăm loài được đưa vào
sách đỏ Việt Nam và thế giới, 1.600 loài giáp xác, 2.500 loài thân mềm, cho khai
thác 45.000 - 50.000 tấn rong biển…
Vùng ven biển Việt Nam có dân cư tập trung khá
đông đúc, chiếm phần lớn dân số và nguồn lao động cả nước. Dự báo trong


những năm tới, dân số vùng ven biển ngày càng tăng. Đây là nguồn lực lao động
dồi dào để thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế biển trong thời kỳ
mới.
Vị trí địa lý và hình dáng vùng biển nước ta có ảnh hưởng sâu sắc tới sự hình
thành các đặc điểm tự nhiên, từ đó ảnh hưởng đến việc lựa chọn phương thức
khai thác tài nguyên. Nét độc đáo của vị trí địa lý vùng biển nước ta ở chỗ: đây
là nơi gặp gỡ, giao thoa của nhiều hệ thống tự nhiên, văn hoá lớn trên thế giới.
Trong tình hình hiện nay, đây là nơi có sự phát triển hoà bình, hội nhập và ổn
định ở khu vực, nơi hội tụ nhiều cơ hội của phát triển. Tuy nhiên, ở đây vẫn còn
tồn tại tranh chấp chủ quyền biển, đảo, là nhân tố - nguy cơ gây mất ổn định,
khó lường. Điều này luôn đặt ra những khó khăn thách thức, cũng như những
thuận lợi đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta.
Như vậy, nước ta có diện tích vùng biển rộng lớn, với nhiều tiềm năng tài
nguyên thiên nhiên. Biển có ý nghĩa to lớn để nước ta phát triển, mở cửa giao
lưu với quốc tế và ngày càng có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh

tế đất nước và tăng cường an ninh, quốc phòng.
Biển Việt Nam có tiềm năng tài nguyên phong phú, đặc biệt là dầu mỏ, khí
đốt và các nguyên liệu chiến lược khác, đảm bảo cho an ninh năng lượng quốc
gia,
cho
đất
nước
tự chủ hơn trong phát triển kinh tế. Cùng với đất liền,
vùng biển nước ta nằm ở nơi tiếp giáp giữa Đông Nam á lục địa và Đông Nam á
hải đảo, một khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, một thị trường có sức mua khá
lớn, một vùng kinh tế nhiều thập kỷ phát triển năng động. Thềm lục địa Việt
Nam có nhiều bể trầm tích chứa dầu khí và có nhiều triển vọng khai thác nguồn
khoáng sản này. Tổng trữ lượng dầu khí ở biển Việt Nam ước tính khoảng 10 tỉ
tấn dầu quy đổi. Khi ngành công nghiệp khai thác dầu khí phát triển kéo theo sự
phát triển của một số ngành khác như công nghiệp hoá dầu, giao thông vận tải,
thương mại trong nước và khu vực.
Ngoài dầu mỏ, biển Việt Nam còn có nhiều mỏ sa khoáng và cát thủy tinh có
trữ lượng khai thác công nghiệp và làm vật liệu xây dựng... Tiềm năng về khí điện - đạm và năng lượng biển cũng rất lớn như năng lượng gió, năng lượng mặt
trời, thủy triều, sóng và cả thủy nhiệt.
Biển Việt Nam nằm ở vị trí có nhiều tuyến đường biển quan trọng của khu
vực cũng như của thế giới, giữ một vai trò rất lớn trong vận chuyển lưu thông
hàng hóa thương mại phục vụ đắc lực cho xây dựng nền kinh tế của nước ta
cũng như các nước quanh bờ Biển Đông. Biển Việt Nam nối thông với nhiều
hướng, từ các hải cảng ven biển của Việt Nam thông qua eo biển Malắcca để đi
đến ấn Độ Dương, Trung Đông, châu Âu, châu Phi; qua eo biển Basi có thể đi
vào Thái Bình Dương đến các cảng của Nhật Bản, Nga, Nam Mỹ và Bắc Mỹ; qua
các eo biển giữa Philíppin, Inđônêxia, Xingapo đến Ôxtrâylia và Niudilân... Đây
là điều kiện rất thuận lợi để ngành giao thông vận tải biển nước ta phát triển,
thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hoá giữa nước ta với các nước khác trong khu vực
và trên thế giới.



Hệ thống cảng của nước ta gồm cảng biển và cảng sông với khoảng trên 90
cảng lớn nhỏ; những cảng lớn chủ yếu nằm ở ranh giới châu thổ thủy triều và
châu thổ bồi tụ, nên tàu ra vào cảng phải đi theo luồng lạch và phụ thuộc vào
mức nước thủy triều. Ven biển miền Trung có nhiều vũng, vịnh nước rất sâu, có
điều kiện thuận lợi để phát triển cảng biển, trong đó có các cảng trung chuyển
côngtenơ tầm cỡ quốc tế; đồng thời cũng rất thuận lợi để xây dựng các cơ sở
đóng tàu quy mô lớn, cũng như xây dựng đội thương thuyền đủ mạnh để buôn
bán trên thế giới. Sự hình thành mạng lưới cảng biển cùng với các tuyến đường
bộ, đường sắt ven biển vươn tới các vùng sâu trong nội địa, đến các tuyến đường
xuyên á cho phép vùng biển và ven biển nước ta có khả năng chuyển tải hàng
hóa xuất khẩu và nhập khẩu qua mọi miền của Tổ quốc và ra nước ngoài, đến
Trung Quốc, Lào, Thái Lan và Campuchia, góp phần thúc đẩy cực tăng trưởng
mới về kinh tế trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do giữa các nước ASEAN
và Trung Quốc.
Dọc theo bờ biển, trung bình khoảng 20km lại có một cửa sông. Phần lớn các
sông ngòi đều chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và đổ ra biển. Các hệ
thống sông vùng duyên hải Quảng Ninh, sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông
Đồng Nai - Vàm Cỏ, sông Cửu Long... có nhiều cửa thông ra biển thuận tiện cho
giao thông đường thủy từ đất liền ra biển và ngược lại. Các cửa sông với lượng
phù du lớn và rất phong phú đổ ra biển đã tạo thuận lợi cho việc phát triển nguồn
lợi thủy sản.
Biển nước ta chủ yếu là vùng biển nhiệt đới mang tính chất địa phương, có
tính chất riêng về nhiều mặt như khí tượng - hải văn, chế độ thủy triều... Hiện
tượng nổi bật là sự xuất hiện vùng nước trồi - một vùng sinh thái đặc biệt phong
phú, đa dạng và là nơi tập trung nhiều loài sinh vật biển. Nguồn lợi hải sản của
biển nước ta được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực. Tổng trữ lượng
hải sản khoảng 3,9 - 4,0 triệu tấn/năm, cho phép hàng năm khai thác 1,9 triệu
tấn, trong đó vùng biển gần bờ chỉ khoảng 500 nghìn tấn, còn lại là vùng xa bờ;

cá biển chiếm 95,5%, còn lại là mực, tôm... Biển nước ta có trên 2.000 loài cá,
trong đó có khoảng 100 loài có giá trị kinh tế như: trích, thu, ngừ, bạc má,
hồng...; hơn 1.600 loài giáp xác (trong đó có tới 70 loài tôm), hơn 2.500 loài
nhuyễn thể; hơn 600 loài rong biển...
Diện tích tiềm năng nuôi trồng thủy sản của nước ta khoảng 2 triệu héc-ta,
bao gồm 3 loại hình mặt nước đó là nước ngọt, nước lợ và vùng nước mặn ven
bờ, có thể nuôi trồng các loại đặc sản như tôm, cua, rong câu, nuôi cá lồng...
Ngoài ra, vùng biển nước ta còn có các loại động vật quý khác như đồi mồi, rắn
biển, chim biển, thú biển. Hải sản ở vùng biển nước ta là nguồn lợi hết sức quan
trọng, không chỉ cung cấp thực phẩm, nguồn dinh dưỡng hàng ngày cho nhân
dân mà còn tạo nguồn xuất khẩu lớn.
Ngoài ra, nước ta còn có rất nhiều lợi thế về du lịch biển. Với nhiều trung tâm
du lịch biển quan trọng có vị trí địa lý thuận lợi, nằm trên tuyến du lịch quốc tế
Đông Nam á như Vũng Tàu, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hải Phòng, Quảng
Ninh... có đủ các điều kiện và khả năng để trở thành những tụ điểm về du lịch
biển. Vùng biển nước ta có điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên thuận


lợi cho phát triển nhiều loại hình du lịch. Phần lục địa với các hình đồi, núi,
đồng bằng đa dạng làm tôn lên vẻ đẹp của hàng chục bãi tắm tốt, cùng với mặt
nước, đáy biển và hải đảo tạo nên nhiều danh lam thắng cảnh, hang động kỳ thú,
sơn thủy hữu tình. Khí hậu nhiệt đới gió mùa thuận lợi cho việc tổ chức du lịch
biển quanh năm, đặc biệt là ở các tỉnh ven biển từ Quảng Nam - Đà Nẵng trở
vào. Các thảm thực vật phong phú, các nguồn nước khoáng, các loại động vật
quý hiếm tạo sức hấp dẫn thu hút khách du lịch nghỉ dưỡng, tham quan, thể thao,
chữa bệnh...
Biển Việt Nam còn là địa bàn quan trọng để phát triển kinh tế đất nước. Hiện
nay có trên 30% dân số cả nước sinh sống ở 28 tỉnh, thành phố ven biển. Đa số
các thành phố, thị xã đều nằm ở ven sông, cách biển không xa, nhất là các thành
phố, thị xã ở Trung Bộ nằm sát ven biển, có đường quốc lộ 1A chạy qua. Khu

vực ven biển cũng là nơi tập trung các trung tâm công nghiệp lớn, có nhiều sân
bay, cảng biển quan trọng, các căn cứ hải quân, kho tàng, các công trình kinh tế quốc phòng khác. Các tỉnh, thành phố ven biển có các cảng, cơ sở sửa chữa,
đóng tàu, đánh bắt hoặc chế biến hải sản, làm muối... thu hút hàng chục triệu lao
động, giải quyết công ăn việc làm, góp phần to lớn vào việc ổn định tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh - quốc phòng của đất nước.
Về an ninh - quốc phòng, biển nước ta là một không gian chiến lược đặc biệt
quan trọng đối với quốc phòng - an ninh của đất nước. Với một vùng biển rộng
lớn, bờ biển dài, địa hình bờ biển quanh co, khúc khuỷu, có nhiều dãy núi chạy
lan ra biển, chiều ngang đất liền có nơi chỉ rộng khoảng 50km (tỉnh Quảng
Bình), nên việc phòng thủ từ hướng biển luôn mang tính chiến lược. Mạng lưới
sông ngòi chằng chịt chảy qua các miền của đất nước, chia cắt đất liền thành
nhiều khúc, cắt ngang các tuyến giao thông chiến lược Bắc - Nam. ở nhiều nơi,
núi chạy lan ra sát biển, tạo thành những địa hình hiểm trở, những vịnh kín, xen
lẫn với những bờ biển bằng phẳng, thuận tiện cho việc trú đậu tàu thuyền và
chuyển quân bằng đường biển. Hệ thống quần đảo và đảo trên vùng biển nước ta
cùng với dải đất liền ven biển thuận lợi cho việc xây dựng các căn cứ quân sự,
điểm tựa, pháo đài, trạm gác tiền tiêu, hình thành tuyến phòng thủ nhiều tầng,
nhiều lớp, với thế bố trí chiến lược hợp thế trên bờ, dưới nước, tạo điều kiện
thuận lợi để bảo vệ, kiểm soát và làm chủ vùng biển của nước ta. Đồng thời, đây
cũng là những lợi thế để bố trí các lực lượng, vũ khí trang bị kỹ thuật của các lực
lượng hoạt động trên biển, ven biển phối hợp chặt chẽ với các lực lượng khác
trên bờ, tạo thành thế liên hoàn biển - đảo - bờ trong thế trận phòng thủ khu vực
tỉnh, thành của chiến lược bảo vệ Tổ quốc.
Vùng biển nước ta nằm trên tuyến giao thông đường biển, đường không
thuận lợi, nối liền Thái Bình Dương với ấn Độ Dương. Sử dụng đường biển sẽ
có nhiều thuận lợi trong việc cơ động chuyển quân và tiếp tế hậu cần, sử dụng
vũ khí công nghệ cao từ xa, tận dụng được yếu tố bất ngờ. Ngoài tiềm năng về
dầu khí, phát triển cảng biển và vận tải biển, tài nguyên du lịch, thủy sản,
khoáng sản và nguồn lực lao động, biển còn là chiến trường rộng lớn để ta triển
khai thế trận quốc phòng toàn dân - thế trận an ninh nhân dân trên biển phòng

thủ bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn trật tự an ninh từ xa đến gần, trong đó có các khu


vực
biển trọng điểm như vịnh Bắc Bộ; vùng biển quần đảo
Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa; khu dịch vụ kinh tế và kỹ thuật dầu khí DK1,
DK2; vùng biển Tây Nam.
Hiện nay, Biển Đông là nơi đang tồn tại những mâu thuẫn kinh tế, chính trị
của thế giới - một trong các ''điểm nóng'' của thế giới; tập trung những mặt đối
lập, thuận lợi và khó khăn, hợp tác và đấu tranh, hòa bình và nguy cơ mất ổn
định, dễ gây ra xung đột vũ trang. Một trong những vấn đề đó là tồn tại tranh
chấp biển, đảo giữa các nước và vùng lãnh thổ xung quanh Biển Đông; tạo nên
tranh chấp đa phương và song phương, chứa đựng các mâu thuẫn cả về quốc
phòng, kinh tế và đối ngoại... Có lúc các tranh chấp này trở nên quyết liệt, là một
trong những yếu tố gây bất ổn định khó lường... Nguy cơ xâm lấn biển, đảo và
hoạt động trái phép ngày một gia tăng. Hàng ngày có hàng trăm tàu thuyền, máy
bay nước ngoài xâm phạm vùng biển và vùng trời trên biển của ta dưới nhiều
hình thức như khai thác hải sản, thăm dò, nghiên cứu biển, đặt giàn khoan, buôn
lậu, vi phạm pháp luật trên biển; thậm chí có nước còn có động thái mới nhằm
đẩy mạnh tốc độ độc chiếm Biển Đông.
Sự thay đổi chiến lược của các nước trên thế giới,
nhất là các nước lớn và sự thay đổi căn bản cục diện ở
Đông Nam á, những tranh chấp biển và động thái mới nói trên đặt ra tình hình
căng thẳng trên khu vực Biển Đông; đặt chúng ta trước tình thế phải khẩn trương
đổi mới mạnh mẽ tư duy chiến lược trên nhiều bình diện khác nhau, trong đó có
chiến lược quốc phòng - an ninh trên biển và chiến lược phát triển kinh tế biển...
Vươn ra biển, khai thác và bảo vệ biển là sự lựa chọn có tính chất sống còn
của dân tộc Việt Nam. Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa X) đã ra Nghị quyết về ''Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020'' nhằm
nhanh chóng đưa nước ta trở thành một nước mạnh về biển, trong đó đề ra các

mục tiêu và những giải pháp chiến lược xuất phát từ yêu cầu và điều kiện khách
quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thời kỳ hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế thế giới.
Hiện nay, nước ta có quan hệ thương mại song phương với trên 100 nước,
quan hệ đầu tư với trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ; tham gia nhiều tổ chức
quốc tế. Tới đây, các hoạt động hợp tác song phương, đa phương diễn ra sẽ rộng
lớn trong nhiều lĩnh vực cả về kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại... Trong
đó, hoạt động trên biển sẽ diễn ra với quy mô và cường độ lớn hơn, thuận lợi xen
lẫn thách thức. Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tích cực hợp tác và đấu
tranh để thực hiện các cam kết quốc tế về biển. Đồng thời, kiên quyết, kiên trì
bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo gắn với phát triển kinh tế biển, tạo môi trường
thuận lợi để nước ta mở rộng quan hệ trao đổi khoa học kỹ thuật, đầu tư, đổi mới
công nghệ, hiện đại hóa trang bị cho quốc phòng - an ninh; tăng cường hiểu biết
lẫn nhau với các quốc gia thành viên trong khu vực và quốc tế..., với mục đích
cao nhất là ổn định để phát triển đất nước; sử dụng biển tương xứng với tầm vóc
của


×