Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

TÁC ĐỘNG CỦA CHI TIÊU CÔNG TRONG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.46 KB, 16 trang )

TÁC ĐỘNG CỦA CHI TIÊU CÔNG
TRONG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, hệ thống nghiên cứu về động
lực tăng trưởng ở các nước ngày càng hoàn thiện. Mặc dù còn tồn tại nhiều quan
điểm đối lập về tính chất và mức độ tác động, nhưng nghiên cứu đa số thống
nhất với nhau về các yếu tố có tác động đáng kể nhất. Các yếu tố đó có thể được
chỉ ra thông qua hàm sản xuất và hàm tiêu dùng, đây là hai cách tiếp cận được
các nhà nghiên cứu thường xuyên lựa chọn. Theo đó, nội dung trình bày trong
bài sẽ lần lượt đề cập tới hai cách tiếp cận này cùng với những yếu tố tác động
tới tăng trưởng kinh tế.
1. Xét từ khía cạnh hàm sản xuất
1.1. Các động lực tăng trường kinh tế từ mô hình lý thuyết
Nhìn nhận từ phía hàm sản xuất, Adam Smith khẳng định vai trò của lao
động trong việc tạo ra giá trị sản lượng, chứ không phải của cải hay tiền bạc
(học thuyết giá trị lao động). Tuy nhiên, không đồng tình với quan điểm trên,
David Ricardo cho rằng, các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới tăng trưởng là đất đai,
lao động và vốn. Trong đó, đất đai mới là giới hạn của tăng trưởng, tăng trưởng
là kết quả của tích lũy, tích lũy là hàm của lợi nhuận, lợi nhuận phụ thuộc vào
chi phí sản xuất lương thực. Điều này có thể giải thích bởi bối cảnh kinh tế, khi
nông nghiệp đang là ngành quan trọng nhất và chi phí sản xuất tất yếu phụ thuộc
vào đất đai.
Sau đó, C.Mác tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của lao động, đất đai
và vốn trong thúc đẩy tăng trưởng. Ngoài ra, C.Mác còn mở rộng sang yếu tố
tiến bộ kỹ thuật. Theo đó, giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động khác với giá
trị sử dụng của các loại hàng hóa khác, nó có thể tạo ra giá trị thặng dư. Muốn
tạo ra nhiều giá trị thặng dư cần quan tâm đến tiền lương và tăng năng suất bằng
cách cải tiến kỹ thuật. Bổ sung và phát triển những lý luận trên, Alfred Marshall
xây dựng mô hình tăng trưởng tân cổ điển, được đánh dâu bởi “các nguyên lý
của kinh tế học” năm 1890. Ông tiếp tục khẳng định vai trò của tiến bộ công
nghệ. Mặc dù không phủ nhận vai trò của lao động, nhưng Marshall cho rằng lao
động có thể được thay thế bởi vốn. Từ đây, ông đưa ra hai quan điểm: tăng


1


trưởng theo chiều rộng (tăng vốn trên một đơn vị lao động) và tăng trưởng theo
chiều sâu (tăng hiệu quả sử dụng vốn). Các lý thuyết này sau đó tiếp tục được
khẳng định bởi mô hình Harrod - Domar với sự nhấn mạnh vào vai trò của vốn
trong tăng trưởng, hay Barro với lý thuyết về vốn con người.
1.2. Các bằng chứng thực nghiệm
- Vốn sản xuất
Một trong những nghiên cứu có sức ảnh hưởng lớn về vai trò của vốn với
tăng trưởng kinh tế là của Solow (năm 1957). Ông đã phân tích dữ liệu chuỗi
thời gian của Hoa Kỳ trong giai đoạn 1909-1949. Kết quả cho thấy sản lượng
mỗi người lao động làm ra đã tăng gấp đôi, trong đó 87,2% sự gia tăng xuất phát
từ đóng góp của thay đổi kỹ thuật và phần còn lại là do tăng vốn. Tuy nhiên,
Solow cũng cho rằng sẽ là không tốt nếu phụ thuộc quá nhiều vào vốn trong dài
hạn. Bởi lẽ, việc tăng vốn chỉ ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn
mà không ảnh hưởng trong dài hạn, do ở dài hạn tăng trưởng sẽ đạt trạng thái
dừng. Năm 2012, Mahmound đã củng cố thêm nhận định của Solow thông qua
thực tế tăng trưởng của Iran giai đoạn 1991-2008. Ông có hai kết luận chính là:
(i) Vốn có tác động tích cực đến gia tăng GDP trong ngắn hạn; và (ii) Trong dài
hạn, vốn có thể tổn tại những ảnh hưởng tiêu cực đến gia tăng GDP.
- Lao động
Lao động tác động đến tăng trưởng kinh tế trên cả hai khía cạnh quy mô và
chất lượng. Trong khi quy mô được thế hiện một cách đơn giản qua số lượng, thì
chất lượng lao động của một quốc gia lại thể hiện ở nhiều tiêu chí khác nhau: ví
dụ trình độ đào tạo (tỷ lệ người biết chữ, tỷ lệ tốt nghiệp phổ thông, tỷ lệ qua
đào tạo nghề, tỷ lệ đào tạo cao đẳng và đại học...), sức khỏe (cân nặng, chiều cao
tuổi thọ, tỷ lệ bệnh tật...) và thái độ làm việc (chấp hành quy định làm việc, sự
cần cù, sáng tạo...). Trong đó, hai tiêu chí đầu tiên thường được các nghiên cứu
đề cập và phân tích nhiều nhất.

Trước hết, về quy mô lao động, Emily (năm 2012) đưa ra giả thiết dân số
đông và nguồn lao động dồi dào vừa là thị trường lớn, vừa kích thích sản xuất,
vừa là đầu vào quan trọng để tăng số lượng sản phẩm. Giả thiết này được kiểm
định với bộ số liệu của Oxtrâylia giai đoạn 1980-2011, tác giả nhận thấy mỗi hệ
thuận chiều giữa gia tăng lao động và tăng trưởng GDP. Ngoài ra, tác giả cũng
2


đưa ra những tín hiệu cảnh báo về tác động ngoài dự kiến của chính sách khi
tăng trưởng dựa vào số lượng lao động. Cụ thể là nêu không cải thiện năng suất
lao động, chi phí tiền lương sẽ tăng lên nêu tăng trưởng dựa nhiều vào số lượng
lao động và sử dụng sức người để thay thế vốn.
Về chất lượng lao động, Schultz (năm 1961) cho rằng, giáo dục cũng là đầu
vào của tăng trưởng kinh tế, chứ không đơn thuần là kết quả đầu ra của một quá
trình tăng trưởng. Bảo vệ quan điểm này, ông tìm hiểu và nhận thấy một lợi ích
tương đối lớn cho xã hội khi đầu tư phát triển con người. Trước đó, Griliches
(năm 1957) cũng đã từng thử nghiệm thêm biến giáo dục vào hàm sản xuất mở
rộng và ứng dụng trong lĩnh vực nông nghiệp Hoa Kỳ. Griliches tìm thây tác
động tích cực của giáo dục đối với tăng trưởng sản lượng nông nghiệp trong
khoảng thời gian nghiên cứu. Gần đây, Kiani (năm 2010) nghiên cứu ảnh hưởng
của giáo dục vào tăng trưởng kinh tế của Pakixtan. Kết quả là, cứ gia tăng 1% tỷ
lệ nhập học tiểu học trên tổng số lao động thì GDP thực tế sẽ tăng lên 2,67%, và
tỷ lệ này là 2,8% tăng trưởng kinh tế nếu tăng thêm 1% tỷ lệ nhập học trung học.
Các kết quả nghiên cứu trên là những bằng chứng rõ ràng cho sự nhạy cảm của
tăng trưởng kinh tế khi các chỉ số giáo dục thay đổi.
Bên cạnh yếu tố giáo dục, gần đây, ảnh hưởng của sức khỏe đến tăng
trưởng kinh tế cũng là một chủ đề được quan tâm nhiều. Grossman (năm 1972)
cho rằng, sức khoẻ không những là nhân tố sản xuất mà nó còn ảnh hưởng tới
phúc lợi cá nhân, bởi sức khỏe không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất của
người lao động mà còn liên quan tới nguồn lực và năng suất lao động của người

thân trong gia đình. Thật vậy, Devol & Bedroussian (năm 2007) chứng minh ốm
đau làm giảm năng suất của cả người bệnh và người thân chăm sóc.
- Năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP)
Trong điều kiện cạnh tranh và các nguồn lực ngày càng khan hiếm như
hiện nay, nâng cao năng suất là một vấn đề được ưu tiên trong từng ngành, từng
quốc gia và vùng lãnh thổ. Lịch sử phát triển kinh tế thế giới chứng kiến những
thay đổi của năng suất lao động qua từng thời kỳ và xem năng suất lao động như
một đại lượng đại diện cho năng suất nói chung. Mặc dù vậy, năng suất lao động
chưa phải khái niệm đầy đủ. Cụ thể, người lao động lành nghề, sức khoẻ tốt, tay
nghề cao nhưng thiếu sự hỗ trợ của máy móc và vốn thì có thể năng suất lao
động của họ vẫn thấp hơn người lao động làm việc với số giờ ít hơn, được hỗ trợ
3


đầy đủ bởi công nghệ và vốn. Do đó, khái niệm TFP được hình thành. Một cách
tổng quát, TFP đo lường mối quan hệ giữa đầu ra với tổng hợp các yếu tố đầu
vào (bao gồm cả các yếu tố không định lượng được như công nghệ, khả năng
quản lý, môi trường kinh doanh...). Theo thời gian, chỉ số này đang ngày càng
được nhiều quốc gia lựa chọn là đơn vị đại diện cho năng suất.
Có thể nói, bàn về TFP trong tăng trưởng kinh tế chính là bàn về sự thay
đổi của công nghệ và hiệu quả sử dụng nguồn lực. Năm 2002, Michael phân tích
số liệu giai đoạn 1954-2001của Hoa Kỳ và tìm thấy bằng chứng chứng minh
công nghệ chính là động lực chiếm đến 60% tăng trưởng kinh tế ở Mỹ. Dựa trên
phát hiện đó, ông cho rằng phát triển công nghệ mói sẽ góp phần làm tăng năng
suất lao động. Tuy nhiên, trái ngược với sự lạc quan đó, Pissarides và Vallanti
(năm 2006) lo ngại sự tăng trưởng của TFP sẽ làm gia tăng tình trạng thất
nghiệp, tạo thêm gánh nặng cho tăng trưởng kinh tế. Thực tế này dựa trên cơ sở
lý luận khi hiệu quả sử dụng vốn và sự xuất hiện của công nghệ tăng lên, số
lượng lao động sẽ không cần nhiều như trước. Điều này tạo ra một lực lượng lao
động dư thừa trong xã hội. Mặc dù vậy, các kết quả nghiên cứu thực nghiệm vẫn

cho thấy hiệu ứng tích cực của TFP với tăng trưởng kinh tế.
2. Xét từ khía cạnh hàm tiêu dùng
Khi tiếp cận cách tính toán GDP từ khía cạnh tiêu dùng, chúng ta đề cập tới
các khoản chi tiêu của các chủ thế trong nền kinh tế. Cụ thể, các khoản chi này
bao gồm tiêu dùng của hộ gia đình, chi đầu tư của doanh nghiệp, chi tiêu công
của chính phủ và xuất khẩu ròng. Lý thuyết cho rằng, việc gia tăng các khoản
chi có tác động to lớn tới kích thích sự tăng lên của tổng cầu, từ đó thúc đẩy sản
lượng của nền kinh tế. Đáng lưu ý trong đó là khoản chi tiêu công của chính
phủ. Để tài trợ cho nó, chính phủ phải có nguồn thu, chủ yếu từ các khoản thuế
phí và lệ phí đánh vào tiêu dùng và thu nhập của cá nhân và doanh nghiệp trong
nền kinh tế. Một mặt, chi tiêu công có tác động kích cầu; mặt khác, nó lại tạo ra
gánh nặng đối với các chủ thể trong nền kinh tế. Do đó, điều chỉnh chi tiêu công
và điều chỉnh các khoản thu (cân đối ngân sách nhà nước) sẽ ảnh hưởng lớn tới
chi tiêu của các chủ thế còn lại trong nền kinh tế và động lực của sản xuất, từ đó
ảnh hưởng tới tăng trưởng của nền kinh tế.

4


- Tiêu dùng hộ gia đình
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng, gia tăng tiêu dùng sẽ góp phần cho
tăng trưởng kinh tế. Ví dụ, trong nghiên cứu của Duesenberry (năm 1949) và
Veblen (năm 1899), các tác giả cho rằng, tăng tiêu dùng làm giảm tiết kiệm, do
đó làm tăng sản lượng. Tuy nhiên, trái lại với quan điểm trên, Harbaugh (năm
1996) không cho rằng tiêu dùng có lợi cho nền kinh tế, bởi nó làm cho tiết kiệm
tăng lên. Có vẻ hơi khó hiểu nhưng, ông giải thích rằng: cùng với mức tăng của
thu nhập, nhu cầu tiết kiệm của mỗi cá nhân sẽ tăng lên, có thể là để phòng ngừa
cho các nhu cầu tiêu thụ về sau (nghỉ hưu). Điểu này dẫn đến mức độ tiết kiệm
có nguy cơ cao hơn trước, làm giảm đầu tư cho xã hội, từ đó kéo tăng trưởng
kinh tế suy giảm. Còn nghiên cứu của Karim và cộng sự (năm 2010) về mối liên

hệ giữa tiêu dùng và tăng trưởng kinh tế tại Malaysia cho thấy: gia tăng tiêu
dùng làm tăng tổng cầu của nền kinh tế, giúp thúc đẩy sản xuất, từ đó gia tăng
sản lượng. Tuy nhiên, các kết quả này chỉ đạt được trong ngắn hạn Về dài hạn,
tăng trưởng kinh tế ảnh hưởng trả lại và đáng kể tói tiêu dùng cá nhân. Khi đó,
các chính sách kích cầu nhằm ảnh hưởng tới tiêu dùng cá nhân không có tác
dụng thúc đẩy tăng trưởng dài hạn.
- Đầu tư tư nhân
Để nghiên cứu ảnh hưởng của đầu tư tư nhân tới tăng trưởng kinh tế, Khan
và Reinhart (năm 1989) đã phát triển khung lý thuyết về các yếu tố ảnh hưởng
đến tăng trưởng của Solow (năm 1956). Với dữ liệu của 24 nước đang phát triển,
tác giả phát hiện rằng đầu tư khu vực tư nhân tác động trực tiếp đến gia tăng
tăng trưởng kinh tế, đặc biệt tác động này mạnh mẽ hơn tác động của khu vực
công ở cùng thời điểm. Với một nghiên cứu tương tự, Poison (năm 1998) phân
tích dữ liệu của 53 nước đang phát triển trong năm 1980 và nhận ra đầu tư tư
nhân đóng một vai trò quan trọng thúc đẩy những tiến bộ ở những nước này. Về
cơ bản, chúng ta không thể phủ nhận vai trò của đầu tư tư nhân trong tăng
trưởng kinh tế thậm chí nó có phần trội hơn so với đầu tư công. Do đó, nhìn
nhận và bảo đảm môi trường để khu vực tư nhân phát triển là một nhiệm vụ thiết
yếu của hầu hết các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển.

5


- Xuất khẩu ròng
Các lý thuyết về thương mại quốc tế đều cho rằng, một quốc gia sẽ có lợi
hơn khi thực hiện chuyên môn hóa sản xuất và tham gia trao đổi với các nước
khác. Trong các nghiên cứu thực nghiệm về vai trò của thương mại đôi với tăng
trưởng kinh tế các tác giả thường sử dụng số liệu về giá trị hoặc tỷ trọng so với
GDP của kim ngạch xuất khẩu hoặc tổng giá trị thương mại. Nhiều tác giả phân
tích các số liệu này để nói về độ mở của một nền kinh tế. Tuy nhiên, cần phải

lưu ý rằng, việc phân tích hồi quy sản lượng của nền kinh tế theo các biến số
thương mại chỉ thể hiện được quan hệ tương quan mà không phải là quan hệ
nhân quả. Nguyên nhân là do các biên độc lập trong mô hình hồi quy, bao gồm
cả các biến số thương mại, thường có sự cộng tuyến ở mức độ nhất định (Lill và
Ronald, năm 2008). Nhìn chung, các nghiên cứu vẫn không thông nhất về ảnh
hưởng của thương mại tới tăng trưởng kinh tế. Ví dụ, Mahdavi và cộng sự (năm
2005) phân tích số liệu của Iran và thây rằng tăng cường giao dịch thương mại
có tác động tích cực đến kinh tế của nước này. Trái lại, Azerbaijan và Shirani
(năm 2009) lại cho thấy thương mại không phải yếu tố thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế.
Chi tiêu công
Có thể nói rằng, các quan điểm về ảnh hưởng của tổng chi tiêu công tới
tăng trưởng kinh tế là không giống nhau, liên tiếp có sự thay đổi và bổ sung theo
thời gian. Có ba quan điểm chính: (i) Chi tiêu công tỷ lệ thuận với tăng trưởng
kinh tế; (ii) Chi tiêu công tỷ lệ nghịch với tăng trưởng kinh tế; và (iii) Tồn tại
một mức chi tiêu công tối ưu. Vấn đề này sẽ lần lượt được bàn tới từng nội dung
cụ thể như sau:
Chi tiêu công tỷ lệ thuận với tăng trưởng kinh tế.
Năm 1991, Barro nghiên cứu dữ liệu của nhiều quốc gia trong khoảng thời
gian 1960-1985 để xem xét mối quan hệ giữa tổng chi tiêu công và GDP thực tế.
Ông phát hiện ra tác động tích cực và đáng kể của chi tiêu công với tăng trưởng.
Tuy nhiên, Barro cũng cho rằng, chi tiêu công có thể trở thành nguyên nhân
chính bóp méo thị trường. Do đó, nó không phải là giải pháp lâu dài cho một
nền kinh tế tăng trưởng mạnh. Sau Barro, rất nhiều nhà nghiên cứu khác cũng đã
tìm hiểu về chủ đề này và cho thây tác động tích cực của chi tiêu công đối với
6


tăng trưởng kinh tế: ví dụ như Kelly (năm 1997) với việc phân tích số liệu của
73 quốc gia, giai đoạn 1970-1989; Alexiou (năm 2007) nghiên cứu số liệu của

Hy Lạp; Alexiou (năm 2009) nghiên cứu 7 quốc gia trong khu vực miền Nam
Đông Âu, giai đoạn 1995-2005...
Chi tiêu công tỷ lệ nghịch với tăng trưởng kinh tế, đây là lời giải thích chủ
yếu cho quan điểm chi tiêu công có tác động tiêu cực đến nền kinh tế là do sự
yếu kém của thể chế. Cụ thể, Sauders (năm 1985) đã phân tích dữ liệu của các
nước OECD và cung cấp minh chứng cho nhận định về mối quan hệ tiêu cực
giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế. Sau đó, Devaraian và cộng sự (năm
1996) sử dụng dữ liệu của 43 nước đang phát triển trong khoảng thời gian 20
năm (1970-1990) và cũng cho thây một kết quả tương tự. Phần lớn các tác giả
đều cho rằng, sự không hiệu quả khi chính phủ dành quá nhiều chi phí cho sản
xuất là do không có một cơ chế giám sát chặt chẽ đi kèm.
Tồn tại một mức chi tiêu công tối ưu.
Barro và cộng sự (năm 1990) cho rằng, mối quan hệ giữa chi tiêu công và
tăng trưởng kinh tế là phi tuyến tính, thể hiện thông qua hình chữ U ngược. Theo
đó, ở giai đoạn đầu của sự phát triển, chi tiêu công tăng cùng với tổng sản lượng.
Nguyên nhân là do sự gia tăng chi tiêu chính phủ làm tăng năng suất biên của
vốn. Mức gia tăng này vượt trội hơn so với tác động tiêu cực của các gánh nặng
do thuế. Tuy nhiên, đến một giới hạn nào đó (Barro gọi đó là mức tôi ưu của chi
tiêu công), các hiệu ứng sẽ xảy ra theo chiều ngược lại. Theo đó, chi tiêu công
làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Vấn đề đặt ra với các nhà kinh tế học là mức chi tiêu tối ưu của chính phủ
là bao nhiêu. Peden (năm 1991) nghiên cứu dữ liệu tại Hoa Kỳ giai đoạn 18891986 và cho thây rằng, năng suất tối đa đạt được khi chi tiêu chính phủ đạt 20%
GNP. Điều này đồng nghĩa với việc, vào năm 1986, mức chi tiêu của Chính phủ
Hoa Kỳ đạt 35% GNP cũng đang vượt ngưỡng tối ưu. Nghiên cứu trường hợp
của Iran, Esmaiel và Younes (năm 2010) cho rằng mức chi tiêu tối ưu của chính
phủ Iran là 34,7% GDP; trong đó 23,6% GDP chi tiêu dành cho chi phí tiêu
dùng còn lại 8% dành cho chi phí đầu tư. Từ đây, các tác giả cũng đưa ra những
khuyến nghị chính sách với mức tổng chi tiêu chính phủ đang vượt quá mức tối
ưu của Iran trong giai đoạn nghiên cứu 1969-2006.
7



Primoz và cộng sự (năm 1996) sử dụng dữ liệu bảng để phân tích trường
hợp các nước đang phát triển ở châu Âu giai đoạn 1950-1996. Kết quả nghiên
cứu vẫn chỉ ra một mối liên hệ tích cực giữa chi tiêu công và tăng trưởng kinh tế
ở các nước này. Giải thích cho nguyên nhân trên, nhóm tác giả cho rằng, các
nước nghiên cứu đang ở giai đoạn đầu của “đường cong chữ U”. Do đó, chi tiêu
chính phủ mang lại nhiều lợi ích thông qua phát triển an sinh xã hội. Tuy nhiên,
các lợi ích này cũng đang phải đối mặt với những đe dọa từ tổn thất hiệu quả do
phân phối lại và tăng thuế cao. Cho nên, một mức chi tiêu công tối ưu được
nhóm tác giả đưa ra gợi ý trong trường hợp này là 36-42% GDP.
Gần đây nhất, Alimi và cộng sự (năm 2014) tiếp tục khẳng định chi tiêu
chính phủ thúc đẩy tăng trưởng ở mức chi tiêu thấp và cản trở mức độ tăng
trưởng nhanh ở mức cao. Nhóm tác giả cũng nỗ lực đi tìm mức tối ưu của chi
tiêu chính phủ thông qua dữ liệu chuỗi thời gian của Nigeria giai đoạn 19702012. Kết quả cũng cho thấy mối quan hệ phi tuyến tính, trong đó chi tiêu tối ưu
của chính phủ được tìm thây là 12,58% GDP thực tế. Các tác giả cho rằng, vượt
qua mức tôi ưu này, chi tiêu nên dựa chủ yếu vào khu vực tư nhân để bảo đảm
thị trường tự do, thúc đẩy kinh tế tiếp tục tăng trưởng.
3. Số liệu và phương pháp
3.1. Số liệu
Số liệu sử dụng trong nghiên cứu này được thu thập từ công bố của Ngân
hàng Thế giới (WB), về các chỉ số phát triển thế giới (WDI). Số liệu bao gồm
thông tín về quy mô và tốc độ tăng trưởng kinh tế, chi tiêu công, lực lượng lao
động, vốn đầu tư, xuất khẩu và lạm phát. Số liệu đã được xử lý để có được
khoảng thời gian xem xét dài nhất, 23 năm, từ năm 1990 đến năm 2013. Theo
đó, có 77 quốc gia được quan sát và được chia thành 5 nhóm thu nhập gồm có:
nhóm thu nhập cao (25 nước thuộc OECD), nhóm thu nhập cao (7 nước ngoài
OECD), nhóm thu nhập trung bình cao (19 nước), nhóm thu nhập trung bình
thấp (20 nước), và nhóm thu nhập thâ'p (6 nước) (xem Bảng 1).


8


Bảng 1: Danh sách 77 quốc gia chia theo nhóm thu nhập
TT

Nhóm thu
nhập cao
thuộc
OECD

Nhóm thu
nhập cao
ngoài OECD

Nhóm thu
nhập trung
bình cao

Nhóm thu
nhập trung
bình thấp

Nhóm thu
nhập thấp

1

Australia


Bahamas, The

Belize

Bangladesh

Benin

2

Austria

Equatorial

Bot wana

Bolivia

Burkina

Guinea

Faso

3

Belgium

Macao SAR,
China


Brazil

Cameroon

Madagascar

4

Canada

Puerto Rico

Bulgaria

Congo,
Rep.

Mozambique

5

Chile

Xingapo

China

Egypt,
Arab Rep.


Rwanđa

6

Denmark

Uruguay

Colombia

E1
Salvador

Uganda

7

Finland

Venezuela,
RB

Costa Rica

Guatemala

8

France


Cuba

Honduras

9

Germany

Ecuador

India

10

Greece

Gabon

Indonesia

11

Iceland

Jordan

Kenya

12


Ireland

Malaysia

Lesotho

13

Italy

Mauritius

Mauritania

14

Japan

Mexico

Morocco

15

Korea, Rep.

Namibia

Nicaragua


16

Luxembourg

Peru

Nigeria

9


17

Netherlands

South Africa

Pakistan

18

New
Zealand

Thailand

Philíppin

19


Nonvay

Turkey

Senegal

20

Portugal

21

Spain

22

Sweden

23

Switzerland

24

United
Kingdom

25


United
States

Sudan

Bảng 2. Tỷ lệ chi tiêu công/GDP trung bình ở 05 nhóm quốc gia
Đơn vị: %
Số quan
sát

Trung
bình

Độ lệch
chuẩn

Thấp
nhất

Cao
nhất

Nhóm thu nhập cao
thuộc OECD

600

18,86

3,96


9,95

28,06

Nhóm thu nhập cao
ngoài OECD

168

11,20

3,19

2,74

24,93

Nhóm thu nhập trung
bình cao

456

16,43

5,85

7,47

39,88


Nhóm thu nhập trung
bình thấp

480

13,07

6,80

4,05

43,48

Nhóm thu nhập thấp

144

13,62

4,82

6.33

26,06

1.848

15,65


5,96

2,74

43,48

Tổng

10


Thống kê đơn giản cho thây, tỷ lệ chi tiêu công/GDP thâp nhất trong tất cả
các nước thuộc về Equatorial Guinea với 2,74% trong năm 2005. Tỷ lệ cao nhất
thuộc về Nicaragua với 43,48% trong năm 1990. Xét trung bình ở các nhóm
quốc gia, tỷ lệ chi tiêu công/GDP cao nhất là ở nhóm thu nhập cao thuộc OECD
vói khoảng 18,86%, tiêp theo lần lượt là nhóm thu nhập trung bình cao
(16,43%), nhóm thu nhập trung bình thâp (13,07%), nhóm thu nhập thấp
(13,62%) và cuối cùng là nhóm thu nhập cao ngoài OECD với 1,2% (xem Bảng
2).
Bảng 3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình ở 05 nhóm quốc gia
Đơn vị: %
Số quan
sát

Trung
bình

Độ lệch
chuẩn


Thấp
nhất

Cao
nhất

Nhóm thu nhập cao
thuộc OECD

600

2,34

2,77

-8,86

12,28

Nhóm thu nhập cao
ngoài OECD

168

6,55

14,88

-8,86


Nhóm thu nhập
trung bình cao

456

4,14

4,06

-14,88

18,67

Nhóm thu nhập
trung bình thấp

480

4,08

3,29

-13,13

33,74

Nhóm thu nhập
thấp

144


5,18

6,53

-50,25

35,22

Tổng

1.848

15,65

5,96

2,74

43,48

Bảng 3 cho thấy có sự liên quan giữa tốc độ tăng trường kinh tế và tỷ lệ chi
tiêu công/GDP, thể hiện thông qua thứ hạng về tốc độ tăng trưởng kinh tế trung
bình của 05 nhóm quốc gia. Cụ thể là, nhóm thu nhập cao có tốc độ tăng trưởng
trung bình thấp nhât (2,34%), tiếp đó lần lượt là các nhóm thu nhập trung bình
thấp (4,08%), nhóm thu nhập trung bình cao (4,14%), nhóm thu nhập thấp
(5,18%) và tăng trường nhanh nhất là nhóm thu nhập cao ngoài OECD (6,55%).
11



Như vậy, thứ hạng giữa các nhóm quốc gia cơ bản không có sự xáo trộn nhiều,
ngoại trừ vị trí thứ ba và thứ tư hoán đổi cho nhau. Khác biệt là trật tự được sắp
xếp theo chiều ngược lại, nhóm có tỷ lệ chi tiêu công/GDP càng cao thì tốc độ
tăng trưởng càng thấp.
Một điều đáng chú ý khác là sự khác biệt về mức độ tỷ lệ chi tiêu
công/GDP khá rõ ràng giữa các nhóm quốc gia và nó được duy trì trong suốt
giai đoạn 1990-2013. Liệu rằng tỷ lệ này là một trong những yếu tố liên quan tới
tốc độ tăng trường? Có ít nhất hai lý do có thể được nhắc tới ở đây: một là từ
công thức tính toán, và hai là những tác động của chi tiêu công tới tăng trưởng
kinh tế. Xem xét từ công thức tính, nếu GDP trong năm có sự tăng trưởng vượt
bậc thì tỷ lệ chi tiêu công/GDP trong năm đó có xu hướng giảm so với trước.
Xét từ khía cạnh thực tiễn, đã có khá nhiều nghiên cứu chỉ ra sự liên hệ này.
Bên cạnh tỷ lệ chi tiêu công/GDP, tìm hiểu về mối quan hệ giữa tốc độ gia
tăng chi tiêu công và tốc độ tăng trưởng vẫn luôn là một chủ đề hấp dẫn, thu hút
nhiều người nghiên cứu, bở tốc độ tăng chi tiêu công không phụ thuộc công thức
với tăng trưởng kinh tế. Nếu có sự liên quan, thì điều đó càng khẳng định ảnh
hưởng của chi tiêu công tới tăng trưởng kinh tế.
Ở mức trung bình, tốc độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ gia tăng chi tiêu
công nhìn chung gần bằng nhau và có sự đồng điệu nhất định. Sự vận động của
hai chỉ số này phần lớn thời gian là ngược chiều nhau ở tất cả các nhóm. Tuy
nhiên vẫn có những khoảng thời gian chúng vận động cùng chiều, ví dụ rõ nhất
là ở nhóm thu nhập cao giai đoạn 1995-1998. Điều này làm nảy sinh hai nghi
vấn: Thứ nhất là liệu có mối quan hệ ngược chiều giữa hai chỉ số? Thứ hai là sự
tăng lên về chi tiêu công sẽ tác động tới tăng trưởng kinh tế ngay trong năm đó
hay năm tiếp theo, dẫn tới sự nhập nhằng về môi quan hệ giữa chúng? Tiếp theo,
những nghi vấn đó sẽ được trả lời phẩn nào thông qua phân tích hồi quy với dữ
liệu bảng của 77 quốc gia, chia thành 05 nhóm nước, trong 23 năm.
3.2. Phương pháp
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp hồi quy với dữ liệu bảng để tìm hiểu
về mối quan hệ giữa chi tiêu công (thể hiện thông qua tốc độ tăng chi tiêu công

và tỷ lệ chi tiêu công/GDP) và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Các biến kiểm soát
bao gồm tốc độ tăng vốn đầu tư, tốc độ tăng quy mô lực lượng lao động, tốc độ
12


tăng chi tiêu của hộ gia đình, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu và tỷ lệ lạm phát
hàng năm. Lưu ý rằng, ngoài vố đầu tư và lao động, các biến giải thích còn lại
có thể được tính là một phần của TFP, vốn được coi là số dư Solow. Riêng đối
với tốc độ tăng chi tiêu công, phương trình hồi quy còn có thêm giá trị lùi một
kỳ để xem xét tác động trễ của nó tới tăng trưởng kinh tế. Phương trình hồi quy
được phân tích có dạng bậc hai đối với các biến chỉ tiêu của hộ gia đình và tỷ lệ
chi tiêu công/GDP. Lý do chọn mô hình này là vì nó cho phép xác định được cả
ba mối quan hệ của các biên (cùng chiều, ngược chiều và thậm chí cả hai).
Chúng ta có đầy đủ lý do để tín tưởng rằng, mô hình phù hợp có thể là một
trong hai dạng: mô hình với tác động cố định (FE) và mô hình với tác động ngẫu
nhiên (RE). Thứ nhất, mỗi quốc gia đều có những đặc điểm riêng, không giống
các quốc gia khác. Những đặc điểm này có thể ảnh hưởng tới các biên giải thích
của mô hình, do đó cần phải kiểm soát chúng. Đó là lý do để phân tích hồi quy
với mô hình có tác động cố định. Thứ hai, sự khác biệt giữa các quốc gia có thể
ngẫu nhiên, nên không liên quan gì tới các biến giải thích có trong mô hình. Do
vậy chúng ta cũng có thể sử dụng mô hình hồi quy với tác động ngẫu nhiên.
Việc lựa chọn mô hình sẽ căn cứ vào kết quả của phép kiểm định Hausman.
4. Kết quả
Kiểm định Hausman cho thấy có thể bác bỏ giả thuyết rằng sự khác biệt
giữa các quốc gia có tính ngẫu nhiên và không ảnh hưởng tới các biến giải thích
trong mô hình. Do vậy, các kết quả của mô hình hồi quy với tác động cố định
được ghi nhận trong Bảng 4. Trong đó cột FE(2) ghi lại kết quả của mô hình rút
gọn sau khi đã loại bỏ biến gov_exp_p2 do phương trình bậc hai với biến này
không phù hợp, hệ số hồi quy ứng với cả hai biến bậc 1 và bậc .2 đều không có
ý nghĩa thống kê ở mức tin cậy 90%. Sau khi loại bỏ một biến bậc 2 thì hệ số hồi

quy trở nên có ý nghĩa.
Như vậy, kết quả FE(2) cho thây, mối quan hệ đổng biên giữa tổc độ tăng
trưởng kinh tế với tốc độ tăng của các biến giải thích gồm vốn đầu tư, quy mô
lực lượng lao động, chi tiêu công và kim ngạch xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng
kinh tế phụ thuộc phi tuyến tính đôi với tốc độ tăng của các biên chi tiêu của hộ
gia đình, chi tiêu công của năm trước và tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, vì tốc độ tăng
chi tiêu của hộ gia đình ở phần lớn các quốc gia đều cao hơn mức khiến tốc độ
tăng trưởng kinh tế thấp nhất, nên có thể nhận định rằng chi tiêu của hộ gia đình
13


có ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng. Tương tự, tất cả các quốc gia đều có tốc
độ tăng chi tiêu công thấp hơn mức khiến tăng trưởng đạt cực đại nên mối quan
hệ giữa hai biến này cơ bản là đồng biến. Trong khi đó, phần lớn các tỷ lệ lạm
phát của các quốc gia đều nhỏ hơn mức mà tốc độ tăng trưởng đạt cực tiểu, nên
ảnh hưởng của nó tới tăng trưởng là tiêu cực.
Từ những lý do đó, chúng ta có động lực để điều chỉnh mô hình hồi quy về
dạng tuyến tính đối với tất cả các biến, FE(3). Kết quả cho thấy sau khi bỏ đi các
biến bình phương thì hệ số hồi quy đối với tốc độ tăng chi tiêu của hộ gia đình
và lạm phát trở nên mất ý nghĩa thống kê. Giá trị đo lường mức độ phù hợp của
mô hình cũng giảm đáng kể, từ 0,446 giảm còn 0,426. Ngoài ra, giá trị thống kê
t của nhiều ước lượng bị giảm xuống, như đối với tốc độ tăng của vốn đầu tư,
chi tiêu công của năm hiện tại, năm trước đó và xuất khẩu. Như vậy, mô hình
FE(2) được đánh giá tốt hơn để tiếp tục phân tích và đi đến kết luận về các mới
quan hệ.

Bảng 4. Kết quả phân tích hồi quy

Capital_g


labor_g

Consum_g

consum_g2

Gov_exp_g

gov_exp_p

gov_exp_p2

FE(1)

FE(2)

FE(3)

FE(4)

FE(5)

gdp_g

gdp_g

gdp_g

gdp_g


gdp_g

0.00352***

0.00353***

0.00294**

0.00353

0.00353**

(3.32)

(3.33)

(2.83)

(1.55)

(2.71)

18.13*

17.68*

18.23*

17.68*


17.68**

(2.42)

(2.36)

(2.40)

(2.00)

(2.78)

0.0293***

0.0299***

0.00112

0.0299

0.0299

(4.64)

(4.74)

(1.08)

(0.91)


(1.54)

0.00000740***

0.00000751***

0.00000751

0.00000751

(4.58)

(4.65)

(0.92)

(1.48)

0.0553***

0.0553***

0.0539***

0.0553**

0.0553***

(10.43)


(10.42)

(10.19)

(2.79)

(3.71)

0.106

-0.106*

-0.111*

-0.106

-0.106

(0.78)

(-2.19)

(-2.31)

(-1.43)

(-1.13)

-0.00631
(-1.67)


14


Laggov_g

Laggov_g2

export_g

0.0594***

0.0603***

0.0231***

0.0603

0.0603***

(5.33)

(5.41)

(4.33)

(1.46)

(4.40)


-0.0000964***

-0.0000991***

-0.0000991

-0.0000991**

(-4.03)

(-1.34)

(-3.35)

0254***

0.255***

0.256***

0255**

0.255***

(30.98)

(31.18)

(30.86)


(3.13)

(4.99)

-0.00685**

-0.00710**

0.000283

-0.00710

-0.00710*

(-2.93)

(-3.04)

(0.37)

(-1.76)

(-2.28)

0.00000191**

0.00000199**

0.00000199*


0.00000199**

(3.16)

(3.3)

(2.16)

2.76)

FE(1)

FE(2)

FE(3)

FE(4)

FE(5)

gdp_g

gdp_g

gdp_g

gdp_g

gdp_g


1.416

2.962***

3208***

2.962

2.962

(1.16)

(3.74)

(4.09)

(4.09)

(1.90)

N

1694

1694

1694

1694


1694

R-sq

0.447

0.446

0.426

0.446

inflation

inflation2

_cons

t statistics in parentheses;
* p<0.05, **p<0.01, ***p<0.001

Các phép kiểm định sau ước lượng được thực hiện nhằm xác định sự thỏa
mãn đối với các giả thuyết cơ bản. Đầu tiên là kiểm định YVooldridge cho kết
luận không có sự tương quan bậc nhất trong mô hình. Tiếp dó, kiếm định Wald
chi ra có hiện tượng phương sai sai số thay đổi trong mô hình hồi quy. Do vậy,
lựa chọn cung cấp sai số chuẩn tốt hơn cần phải được thực hiện để có được các
kết luận chính xác. Theo đó, FE(4) đã làm giảm đáng kể các giá trị thống kê t,
nhiều hệ số hồi quy từ có ý nghĩa trở thành không có ý nghĩa ở các mức độ tin
cậy khác nhau. Kết quả ghi nhận tác động tích cực của tốc độ tăng quy mô lực
lượng lao động, tốc độ tăng chi tiêu công và tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu.

Trong khi đó, ảnh hưởng của lạm phát tới gia tốc của nền kinh tế vẫn là tiêu cực.
Cuốỉ cùng, kiểm định Parasan xác định có hiện tượng sai số tương quan chéo
qua các quốc gia. Do vậy, sai số chuẩn Driscoll và Kraay được áp dụng vào tính
toán. Kết quả của phép hồi quy này, FE(5), ủng hộ phẩn lớn phát hiện của FE(2)
ngoại trừ ảnh hưởng của tốc độ tăng chi tiêu của hộ gia đình và tỷ lệ chi tiêu
công/GDP.
15


Tóm lại
Thông qua thống kê mô tả và phân tích hồi quy với dữ liệu bảng, đã chỉ ra
tác động của chi tiêu công cùng với những biên vĩ mô khác tới tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Cụ thể là, tốc độ tăng trưởng kinh tế tỷ lệ thuận với tốc độ tăng
vốn đầu tư, lao động, quy mô chi tiêu công (kể cả năm hiện hành và năm trước
đó) và tốc độ tăng xuất khẩu. Ngược lại, lạm phát cơ bản tác động tiêu cực tới
tăng trưởng kinh tế ở hầu hết các nước trong giai đoạn 1990-2013. Điều đáng
lưu ý khác là mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế của năm hiện hành với
tốc độ tăng của quy mô chi tiêu công trong năm trước đó và lạm phát có dạng
phi tuyến tính. Tuy nhiên, tác động tiêu cực của gia tăng chi tiêu công và tác
động tích cực của lạm phát ít có khả năng xảy ra.
Mặc dù đã có nhiều biến giải thích được đưa vào mô hình hồi quy, tuy
nhiên vẫn còn có những biến có thể ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế mà
chưa được tính tới. Ví dụ chất lượng của lao động, nguồn vốn đầu tư, hay các
đặc điểm của chi tiêu công. Chính những hạn chế đó là gợi ý thú vị cho các
nghiên cứu tiếp theo.

16




×