Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

PHÂN TÍCH TÂM TRẠNG THÚY KIỀU QUA ĐOẠN THƠ “TRAO DUYÊN”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (63.95 KB, 4 trang )

PHÂN TÍCH TÂM TRẠNG THÚY KIỀU QUA ĐOẠN THƠ
“TRAO DUYÊN”
Đề bài: Phân tích tâm trạng Thúy Kiều qua đoạn thơ “Trao duyên” trong Truyện Kiều của
Nguyễn Du.
“Bây
giờ
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân”

trâm

gãy

gương

tan.

‘Trâm gãy gương tan” – tình duyên lứa đôi tan vỡ. Còn có nỗi đau riêng nào lớn hơn nỗi đau này của
Thuý Kiều? Đêm trao duyên, Kiều thực sự đã bắt đầu nắn phím đàn buông ra giai điệu đau thương bản
đàn “bạc mệnh” của đời người con gái tài sắc.
Thi hào Nguyễn Du với cảm hứng nhân văn đã sáng tạo nên những vần thơ tuyệt vời diễn tả những biến
thái, nỗi đau đớn của nàng Kiều trong đêm “trao duyên”. Đoạn thơ dài 84 câu, từ cầu 693-776, như thấm
đẩy giọt khóc của người con gái đầu lòng Vương Viên ngoại.
Thế là Kiều đã bán mình lấy tiền cứu cha và em trai, cứu gia đình vượt qua cơn hoạn nạn. Khi mọi việc
đã “tạm thong dong”, họ Mã sắp sang đón nàng đi. đúng “cái đêm hôm ấy đêm gì”, Kiều thức trắng đêm,
khóc rồi lại tỉnh, tỉnh rồi lại mê vật vã đau đớn:
“Một
mình
Áo đầm giọt tủi, tóc se mái sầu”

nàng,


ngọn

đèn

khuya,

Một mình một bóng, đối diện với ngọn đèn suốt canh khuya, “lệ tràn thấm khăn”, nàng ân hận. buồn tủi
‘Vì ta khăng khít cho người dở dang”. Nàng sống trong bi kịch, tự thương rồi tự trách mình là con người
phụ bạc, “lỗi thề” với người yêu:
“Thề
hoa
Lỗi thề thôi đã phũ phàng với hoa”.

chưa

ráo

chén

vàng,

Giữa lúc Kiều đang chìm trong đau khổ, bối rối với mặc cảm “Phận dầu, dầu vậy cũng dầu” thì ‘Thuỷ
Vân chợt tỉnh giấc xuân”. Nàng ghé đến, ân cần an ủi: “Một nhà để chị riêng oan một mình…”. Nàng thắc
mắc hỏi chị về “nỗi riêng…”. Kiều thoáng nghĩ và chợt hiểu: chỉ có em gái mới cảm thông, mới chia sẻ
với nỗi đau riêng của chị. Kiều đang đứng trước những phân vân, khó nói vẻ niềm riêng của mình:
“..Tơ
duyên
còn
Hở
môi

Để lòng thì phụ tấm lòng với ai!”.

vướng
ra

mối
cũng

này

chưa
thẹn

xong,
thùng,

Mạch nước như được khơi dòng. Trước thái độ ân cần, yêu thương của em gái, ý nghĩ trao duyên chợt loé
lên trong tâm trí nàng. Trong đổ vỡ của hạnh phúc, đứt đoạn của tơ duyên, nàng cố vớt vát, tìm trong
muôn một sự hàn gắn một sự chắp nối nào đây. Nguyễn Du đã dùng 38 câu thơ lục bát để ghi lại lời Kiều
nói lúc trao duyên. Đây là đoạn đối thoại dài nhất của Thuý Kiều trong “Đoạn trường tân thanh” mà
người đọc luôn luôn có cảm giác là lời tâm sự, độc thoại. Không khí thiêng liêng như một lễ ãn thề trong
tình sử ngàn xưa. Ngôn từ trang trọng. Giọng thơ tha thiết cầu khẩn:


“Cậy
em,
Ngồi
lên
çho
Giữa

đường
Keo loan chắp mỏi tơ thừa mặc em”.

em
chị
đứt


lạy
gánh

chịu
rồi

sẽ
tương

lời
thưa
tư.

Mối tình Kim – Kiều là một thiên diễm tình của “Người quốc sắc, kẻ thiên tài”. Trước gia biến, Kiều đã
bán mình, đã lời thề, giờ đây chỉ có em gái là người có thể thay chị “chắp mối tơ thừa” trả nghĩa chàng
Kim mà thôi. Chị đã “đứt gánh tương tư” cái gánh ấy nặng lắm, chỉ có em, chỉ riêng em là chị có thể
“cậy” và em phải “chịu lời” mới được. Cái gánh tương tư ấy, lời thề non nước ấy vô cùng thiêng liêng và
nặng nề, chỉ có em là người mà chị trông cậy, nhờ vả. Em sẽ vì chị mà “chịu lờii” chấp nhận sự hi sinh?
Sống trong lễ giáo phong kiến xưa nay có người chị nào Lại “lạy và thưa” với em gái? Kiều khiêm
nhường giữ “lễ”, nàng đã “lạy” và “thưa” với em gái là biếu thị một tấm lòng kính phục và biết ơn về sự
hi sinh cao cả của em gái đã “thay lời nước non”. Hai chữ “keo loan” và “mặc em” là lời phó thác đầy tin
cậy, tin tưởng. Sau đó. hình như lòng Kiều irở nên nhẹ nhõm dược phần nào? Nàng tĩnh trí nói với em

những lời gan ruột về mối tình của chị đối với chàng Kim là vô cùng sâu nặng và thắm thiết. “Khi ngày
quạt ước, khi đém chén thề” Nghịch lí cuộc đời cay đắng lắm. vì xưa nay “hiếu tình khôn kẽ hai bề vẹn
hai”. Chỉ có chết đi sang thế gới bên kia. chị sẽ vui sướng biết bao về nghĩa cử của em, về tấm lòng “xót
tình máu mù của em”:
“Ngày
xuân
em
Xót tình
máu
mủ
Chị

thịt
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”

hãy
thay

lời
nát

còn
nước
xương

dài,
non.
mòn,

Một chữ “cười”, hai chữ “thơm lây” thôi cũng đủ cho ta thấy Thúy Kiều là thiếu nữ nhân hậu, lúc nào

cũng nghĩ đến tình nghĩa thuỷ chung. Lúc đau khổ tột cùng, lòng nàng vẫn trong sáng không một chút
gợn, luôn luòn nghi lới. hướng tới hạnh phúc người khác. Tấm lòng ấy mang vẻ đẹp đôn hậu, đức hi sinh
của người phụ nữ. của những người mẹ, người chị quê ta.
Thuý Vân chỉ lẳng lặng nghe chị nói. Trao duyên và “chịu lời” là chuyện hệ trọng một đời người đối với
các thiếu nữ xưa nay. Tế nhị và cảm động biết bao! Kiểu ‘Thông minh vốn sán lính trời”, nàng sâu sắc và
tâm lí trong lúc trao duyên cho em gái. Thế rồi, mọi việc tường như đã được an bài? Kiều trao lại kỉ vật
cho em: “Chiếc vành với bức tờ mậy “ và nàng nhỏ nhẹ căn dặn: Duyên này thì giữ, vật này của chung”.
“Duyên này” là tình duyên mà Thuý Vân sẽ thay chị lấy Kim Trọng để trả nghĩa cho chàng. ” vật này
là của chung” là những kỉ vật. những vật kí thác thiêng liêng mà chị trao lại. trong đó còn có một phần
của chị. Rõ ràng, cảnh ngộ buộc nàng phải “loi thề” nhưng trong tình cảm nàng không thể nào nguôi lời
thề và đứt tình được với chàng Kim. Kiểu xót xa sầu tủi, lời nàng nói như chứa đầy “giọt lùi”. trong đau
đớn cực độ, Kiều vẫn cố níu lấy một chút an ủi cho riêng mình: “Duyên này thì giữ, vật này của chung”
Câu thơ là một tâm cảnh, chứa đầy tâm trạng. Nấc lên như tiếng khóc. Hai vế tiếu đối như mảnh tâm hồn
bị cứa ra.
Mất dần sự tĩnh trí, Kiều chìm dần trong mê sảng. Càng nói càng đau đớn mặc cho tình cảm tuôn tràn
cùng nước mắt. Kiểu nghĩ đến một ngày mai mờ mịt, đau thương. Một dự cảm chua xót, vô cùng đen tối.
Mấy lần nàng nói đến cái chết, chết đau đớn, chết cô đơn nơi đất khách quê người. Ngồi một mình Kiều
than:
“Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan”


Nói với em sái giữa canh khuya, lúc thì Kiều nhắc đến “tuyền đài”, “chín suối”, “dạ dài”, lúc thì nói đến
“thác oan”, đến “thịt nát xương mòn”, “nát thân bồ liễu”, đến “hồn”… Tâm trạng của nàng chập chờn hư
ảo, tình mê mê tinh, nửa phần là người sống, nửa phần là hồn ma. Ta vô cùng xúc động cảm thương như
nghe một đoạn văn chiêu hồn thê thiết:
“Mai
sau

Đốt


hương
ấy,
Trông
ra
ngọn
Thấy
hiu
hiu
gió
Hồn
còn
mang
Nát
thân
bồ
liễu
Dạ
đài
cách
Rảy xin chén nước cho người thác oan”.


so

bao


cỏ
thì
nặng

đền
mặt

phím


hay

chị
lời
nghì trúc
khuất

giờ,
này.
cây,
về.
thề,
mai.
lời,

Chị sẽ chết “xương trắng quê người quản đâu”, nhưng mãi mãi còn với em, với chàng Kim là “Phím đàn
với mảnh hương nguyền ngày xưa”. Từ hiện tại mà nói đến mai sau”, một mai sau buồn thảm và hiu hắt.
Đang sống mà nói đến chết, nỗi đau của Kiểu dồn nén đến cực điểm. Một “mai sau” từ cõi âm, hồn oan
của người chị sẽ về thăm em gái, thăm ngôi nhà cũ của mẹ cha, thăm người tình xưa… Còn em, em sẽ
sống trong hạnh phúc; chị sẽ không bao giờ quên em. Chỉ xin em một “chén nước” để giải toả mối oan
tình mỗi khi hồn chị trở về.
Giọng thơ cầu khẩn, tha thiết, trần tình, hư ảo… Bóng ma từ cõi Am hiện về cõi đương chì vì “Khối tình
mang xuống tuyền đài chưa ran”. Hương gọi hồn. hồn bay trong gió. lượn lờ trên ngọn cỏ lá cây, trong
tiếng đàn… Tất cả đã gợi lên một không khí thê lương, sầu thảm nhưng hết sức thiêng liêng. Thuý Kiều

đang trải qua những giây phút vật vã trong nỗi buồn đau tuyệt vọng. Tâm hồn đang bị xé nát thành trăm
nghìn mảnh ứa máu.
Kiều đang đối diện với Thuý Vân, thế rồi nàng chuyển sang nói với người yêu trong tâm tưởng. Đêm nay.
giờ này, nơi Liêu Dương nghìn trùng cách trở, chàng có thấu tình cho nàng không? Kiều khóc cho “tơ
duyên ngắn ngủi”, khóc cho “trâm gãy bình tan”, đau đớn cam chịu số phận. Hàng liếng thờ dài buông
xuôi theo dòng lệ chảy:
“Phận
sao
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng”.

phận

bạc

như

vôi,

Càng khóc, Kiều càng vật vã đau đớn, nàng chìm dần trong mê sảng. Khóc như nấc lên. lòng nàng tan
nát. Hai lần nàng nhắc đến tên người yêu. Nghe nàng khóc mà người đời xót xa thương cảm:
“Ôi
Kim
lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây”.

Hỡi

Kim

lang!


Kiều đành chịu tội “lời thề” và chỉ còn cách gửi lại tình quân trăm nghìn cái lạy. Nàng đã từng cân nhắc
“bên tình, bên hiểu…”, và sáng suốt lựa chọn “Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai “ rồi trao duyên cho em
gái, nhưng nàng vẫn vô cùng đau khổ. tự xem mình là kẻ phụ bạc. Tính bi kịch của tâm trạng nàng Kiều
là ờ đây. Kiểu day dứt đau khổ. Phải trao duyên, dù người được trao duyên là em gái, cũng là một mất
mát lớn nhất đối với Kiểu vì đây là mối tình đầu tuyệt đẹp. Suốt canh khuya, dằn vặt đau khổ, Kiều khóc
rồi lại ngất, tính rồi lại mê, mê rồi lại tỉnh, nói rồi la. khóc, nói trong nức nở, thốt lên trong mê sảng…
Tâm trạng ấy, bi kịch ấy của Kiều trong đêm trao duyên được nhà thơ cảm thương, xúc động diễn tả một
cách tinh tế với bao biến thái vừa hư ảo, vừa chập chờn. Thi hào Nguyễn Du là người kể chuyện khi đọc


‘Truyện Kiều” ta có cảm giác ông là người đang chứng kiến cảnh trao duyên. tau cho nỗi đau của người
thiếu nữ “trâm gãy bình tan”:
“Cạn
lời
Một hơi lặng ngát đôi tay giá đồng”

hồn

ngất

máu

say

Nỗi đau vì tình yêu bị tan vỡ đã lên đến cự độ. quá sức chịu đựng của thể xác. Người con gái đa sầu, đa
cảm ấy đã ngất đi !…
Yêu Kim Trọng và hai người đã thề nguyền ‘Trăm năm tạc một chữ đến xương”. Nhưng rồi trước cảnh
gia biến, Kiều lại quyết bán mình chuộc cha Trước lúc “giã biệt”, theo Mã Giám Sinh về Lâm Tri…, Kiều
đã trao duyên cho em gái. Nếu như trong “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, cảnh trao

duyên được kể lại như một thông báo vé sự khởi đầu trên con đường lưu lạc khổ ải 15 năm trời của nàng
Kiều thì trái lại, trong ‘Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã làm cho người đọc nhận diện, khám phá vẻ đẹp tâm
hồn và phẩm giá của Thúy Kiêu Gia biến án ngờ lòa mây”, tình duyên tan vỡ…, giữa muôn ngàn cay
đắng ấy. hac nhiều lệ đã tuôn rơi thế mà Kiều lúc nào cũng nghĩ tới hạnh phúc của người yêu. của em gái.
của mẹ cha và em trai. Lòng nhân hậu, đức hi sinh và vị tha của Kiều mới cao cả và thơm thảo biết bao.
Kiều là một nụ hải đường mơn mởn canh xuản, nhưng nàng phải chấp nhận và tự than: “Đỡ đành nước
chảy hoa trôi lỡ làn ?” Thiên tài Nguyễn Du đã sử dụng một hệ thống ngôn ngữ giàu hình lượng và biếu
cam vái nhiều ẩn dụ, với bao chi tiết tưởng tượng, kì ảo để tạo nên một cảnh trao duyên thiêng liêng, cảm
động trong tình sử ngàn xưa.
Đoạn thơ trao duyên cho ta thấy “sức cảm động lạ lùng” (Hoài Thanh) của thi hào dân tộc đối với những
khổ đau và khát vọng hạnh phúc của con người. Tính nhân văn toá sáng lấp lánh cánh trao duyên. Ta như
còn nghe tiếng Kiều đổng vọng:
Hồn
còn
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.

mang

nặng

lời

thề,



×