Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Đề cương môn lịch sử triết học phương đông cổ (dạng câu hỏi và trả lời)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.22 KB, 27 trang )

Đề cương môn Lịch sử triết học Phương Đông cổ, trung đại.
Câu 1: Hoàn cảnh của Ấn Độ thời kỳ cổ-trung đại? Đặc điểm của triết
học Ấn Độ cổ, trung đại? (Lấy ví dụ cụ thể để minh họa)
Trả lời:
A. Hoàn cảnh của Ấn Độ thời kỳ cổ, trung đại
1. Điều kiện tự nhiên
- Ấn Độ là một tiểu lục địa rộng lớn nằm ở phía Nam châu Á, phía Bắc là
dãy Himalaya dài 2600km, nơi có nhiều đỉnh núi cao thuộc loại nhất thế giới. Dãy
Himalaya này được xem là chốn linh thiêng, nơi tu hành khổ luyện của các đạo sĩ.
Họ tránh nơi ồn ào náo nhiệt để tĩnh tâm thiền định, chiêm ngưỡng về bản chất vũ
trụ và nhân sinh, tìm cách giải thoát cho cảnh đời lầm than khổ ải.
- Ấn Độ là nơi tụ họp của năm con song lớn, trong đó có 2 con sống lớn nhất
là sông Ấn và sông Hằng dài trên 1500km. Phù sa của các con sông lớn bồi đắp lên
các đồng bằng phì nhiêu, là chiếc nôi nuôi dưỡng nền văn minh Ấn Hà – một trong
những nền văn minh lớn và cổ xưa của loài người.
- Điều kiện thiên nhiên Ấn Độ rất khắc nghiệt, miền bắc là vùng rừng núi
hiểm trở, quanh năm tuyết phủ, phía nam nắng nóng thiêu đốt, đất đai khô cằn,
hoang mạc khiến cho con người phải lam lũ, vất vả quanh năm.
=> Tóm lại: Ấn Độ có điều kiện tự nhiên vừa hung vĩ đa dạng vừa rất khắc
nghiệt: có núi cao rừng rậm âm u, nhưng cũng có những đại dương chan hòa ánh
nắng; có đồng bằng phì nhiêu màu mỡ nhưng đồng thời cũng có cả những vùng
cao nguyên, hoang mạc khô cằn. Thiên nhiên bao la hùng vĩ ấy làm cho người Ấn
Độ thiết tha với cuộc sống, say mê trước vẻ đẹp của thiên nhiên. Nhưng cũng chính
thiên nhiên huyền bí và đầy uy lực ấy đã cho con người cảm thấy mình yếu đuối và
bất lực những hiểm họa khôn lường. Những điều kiện tự nhiên ấy đã tác động
thường xuyên và lâu dài đến sinh hoạt vật chất và tinh thần, đến tập quán, tín
ngưỡng tôn giáo, đặc biệt ảnh hưởng đến phong cách tư duy độc đáo vừa thâm
trầm sâu sắc, vừa trừu tượng của người Ấn Độ.
1



2. Điều kiện xã hội
Ấn Độ là quốc gia rộng lớn đông dân, có lịch sử lâu đời và là một
trong những nền văn minh rực rỡ của nhân loại. Lịch sử Ấn Độ cổ trung đại được
chia thành 3 thời kỳ phát triển:
-

Thời kỳ thứ nhất – “Thời kỳ văn minh sông Ấn” (từ 2000 năm đến

3000 năm TCN): thời kỳ này Ấn Độ đã có nền văn minh phát triển khá rực rỡ gọi
là nền văn minh sông Ấn hay nền văn minh Indus. Chủ nhân của nó là người
Dravidien.
-

Thời kỳ thứ hai – “Thời kỳ Vêda” (thế kỷ XV-VII TCN) đây là thời

kỳ người Aryan (dân du mục phía Bắc) tràn xuống xâm lược, thôn tính nền văn
minh Indus của người Dravidien. Thời kỳ này gắn liền với sự ra đời và ảnh hưởng
của bộ kinh Vêda, một tác phẩm tín ngưỡng tôn giáo ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống của người Ấn Độ và nhiều trường phái triết học bắt nguồn từ tư tưởng kinh
này.
-

Thời kỳ thứ ba (từ thế kỷ VII-IV TCN): là thời kỳ hình thành các quốc

gia Ấn Độ, có sự phát triển mạnh mẽ của LLSX, công cụ SX bằng sắt phổ biến,
chế độ chiếm hữu nô lệ đã hình thành; khoa học, tôn giáo phát triển mạnh. Những
điều kiện phát triển của xã hội đã ảnh hưởng quyết định đến việc ra đời các hệ
thống triết học – tôn giáo lớn của Ấn Độ thời kỳ cổ đại
3. Về kinh tế-xã hội
Ấn Độ là một trong những cái nôi của văn minh lúa nước nên kinh tế

nông nghiệp là phổ biến, thủ công nghiệp khá phát triển. Nhưng do điều kiện tự
nhiên khống thuận lợi cho nên kinh tế phát triển chậm. Nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, sản xuất tự cấp, tự túc làm cho đời sống xã hội rất khó khăn, người dân vất vả,
lam lũ quanh năm, nhất là các tầng lớp nhân dân lao động.
4. Về chính trị-xã hội
Triết học Ấn Độ chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi chế độ nô lệ mang nặng
tính chất gia trưởng, sự phân biệt đẳng cấp hết sức ngặt nghèo và kiểu tổ chức xã
hội “công xã nông thôn”:
2


+ Những người nô lệ không phải là lực lượng sản xuất chủ yếu, LLSX
chủ yếu là nông dân, nông nô, thợ thủ công. Nô lệ chủ yếu làm gia nô trong cung
đình, các gia đình quý tộc và làm công bộc trong những nơi tế lễ, hoạt động công
cộng.
+ Trong chế độ”công xã nông thôn”, đất đai thuộc sở hữu của nhà
vua và các tiểu vương, thành viên công xã làm việc, sinh sống trong khuôn khổ địa
vực công xã, quan hệ kinh tế tự cấp tự túc khép kín với bên ngoài. Về hành chính,
công xã nông thôn có quyền tự trị rất lớn, nhà nước hầu như không can dự vào các
cá nhân.
=> chế độ nô lệ với kiểu tổ chức công xã nông thôn đã hạn chế lý trí, trói
buộc con người, bắt con người chấp nhân chế độ, phục tùng các thế lực bên ngoài,
không nâng con người lên địa vị làm chủ.
5. Về văn hóa-xã hội, khoa học
+ Ấn Độ được coi là thiên đường của các tôn giáo. Các tôn giáo rất
phong phú, còn các vị thần của các tôn giáo nhiều không kể xiết.
+ Ấn Độ là nước có ngôn ngữ cực kỳ phong phú. Hiện nay Ấn Độ có
1500 ngôn ngữ, trong đó có 15 ngôn ngữ chính.
+ Triết học Ấn Độ phát triển gắn liền với những thành quả văn hóa,
khoa học của họ. Khảo cổ học đã phát hiện những thành tựu khoa học trên các lĩnh

vực thiên văn, chiêm tinh, toán học, y học, văn hóa, kiến trúc….
=> có thể nhận định rằng, “mọi ngả đường đều xuất phát từ Ấn Độ. Những
thành quả văn hóa, khoa học thúc đẩy tư duy con người phát triển, hình thành thế
giới quan duy vật, tư tưởng biện chứng tự phát.
B. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ-trung đại
Triết học Ấn Độ phát triển đa dạng, mỗi trường phái có lý luận riêng, có
cách tiếp cận các vấn đề triết học độc lập song đều thống nhất với nhau. Tính thống
nhất được biểu hiện ở chỗ chúng đều dựa trên cơ sở hiện thực xã hội Ấn Độ, cùng
một mục đích chung là đi tìm lẽ sống cho nhân sinh, cùng bị chi phối bởi tư tưởng
truyền thống và tín ngưỡng cổ truyền.
3


1. Triết học Ấn Độ phát triển khá phong phú cả về nội dung và hình thức. Đề
cập một cách sâu sắc những vấn đề khác nhau của triết học như: Bản thể luận, nhận
thức luận, logic học, đạo đức… với trình độ khá cao. Tuy nhiên, Triết học Ấn Độ
đặc biệt đi sâu nghiên cứu tâm linh con người. Vì vậy nên các tư tưởng triết học
nằm trong các học thuyết tôn giáo (các cuốn kinh của các học thuyết tôn giáo) và
các nhà triết học đồng thời cũng là các bậc cao tăng, các nhà hiền triết. Vì triết học
Ấn Độ gắn liền với tôn giáo nên các nhà triết học Ấn Độ đều đặt ra mục đích cho
vấn đề triết học của mình là giải thoát con người ra khỏi sự bế tắc.
C/m: + Phái Yoga cho rằng: thực thể vật chất làm cho con người phát sinh
dục vọng, dẫn con người đến khổ đau, bế tắc => giải thoát là làm cho tinh thần
thoát khoit sự níu kéo rang buộc của thể xác để đạt đến cái tinh thần trong sang
tuyệt đối.
+ Phái Nyaya cho rằng để giải thoát phải diệt vô tri
+ Phật giáo đưa ra nguyên lý giải thoát là tứ diệu đế.
2. Về nhận thức luận: triết học Ấn Độ ko coi trọng nhận thức luận thông
thường (tức là nhận thức bằng cảm giác và lý trí) thay vào đó họ đề cao phương
pháp nhận thức trực giác – nhận thức bằng sự thể nghiệm tâm linh của con người,

một năng lực nhận thức đặc biệt thông qua kinh nghiệm,tư duy trừu tượng.
C/m: + Về nhận thức luận, Samkhya cho rằng”uy tín” nhận thức cái ko thể
nhận thức được bằng cảm tính và suy luận. Đây là nhận thức niềm tin, tình cảm tôn
giáo.
+ Phái Vedanta cho rằng thế giới ko có thực, chỉ là cái bóng của Brahman =>
phủ nhận lý trí vì nó chỉ đem lại hoài nghi.
3. Quá trình phát triển của triết học Ấn Độ là quá trình đấu tranh giữa đường
lối duy vật vô thần với duy tâm tôn giáo, phủ nhận tư tưởng suy tôn thượng đế hay
tinh thần tối cao, chống lại quan điểm bát tử và sự siêu thoát của linh hồn con
người vào thế giới bên kia. Tuy nhiên cuộc đấu tranh này còn mờ nhạt so với triết
học phương tây. Chủ yếu những tư tưởng DV và DT, hứu thần và vô thần đan xen
nhau cùng tồn tại trong 1 học thuyết, thậm chí trong cùng 1 triết gia.
4


C/m: + Về bản thể luận, phái Nyaya cho rằng thế giới do các nguyên tử tạo
nên. Tuy nhiên họ cũng thừa nhận có thực thể tinh thần tồn tại bên cạnh các thực
thể vật chất. Nó tồn tại vô hạn, vĩnh viễn, bất biến như thực thể vật chất. Nhưng nó
ko tự phát sinh, ko tồn tại độc lập. Nó chỉ phát sinh khi có có liên hệ với cảm giác
để tiếp xúc với khách thể => tính DV ko triệt để.
+ Phái Veisesika cho rằng các sự vật vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn, vừa có
cái chung vừa có cái riêng => quan niệm DVBC. Tuy nhiên nó lại cho rằng ngoài
nguyên tử ra, thế giới còn do vô số các linh hồn lớn nhỏ tạo thành => yếu tố DV và
DT đan xen nhau.
+ Phật giáo cho rằng thế giới ko do lực lượng siêu nhiên tuyệt đối nào sinh
ra. TG tồn tại như nó vốn có, ko sinh, ko diệt và nó vận động từ dạng này sang
dạng khác => qđiểm DV vô thần, Nhưng về sau, qđiểm của phật giáo ngày càng xa
rời CNDV vô thần, chuyển sang lập trường DT-nhị nguyên, quan điểm phiếm thần
luận. Phật giáo đưa ra nguyên lý giải thoát gọi là TỨ DIỆU ĐẾ
4. Do ảnh hưởng của hoàn cảnh chính trị-xã hội, triết học Ấn Độ phát triển

một cách tiệm tiến theo kiểu trầm tích. Các nhà triết học sau thường tự ghép mình
vào 1 trường phái triết học đã có. Họ đứng về một khuynh hướng TH nào đó để
đấu tranh làm sâu sắc thêm, mở rộng thêm và chứng minh tính đúng đắn đối với
những quan điểm của các bậc thầy chứ họ không phản bác lại thầy họ, ko có ý đồ
sáng lập ra trường phái mới.
5. Triết học Ấn Độ có tính trì trệ và xu thế phát triển của nó là xu thế nhị
nguyên luận hoặc duy tâm hóa. Lúc đầu xuất hiện, tư tưởng triết học của Ấn Độ
cũng rất rực rỡ nhưng trong quá trình phát triển xuất hiện nhiều quan điểm mới của
nhiều nhà triết học nhưng quan điểm của họ nghèo nàn và ko đặc sắc lắm.
C/m: Samkhya cho rằng nguồn gốc thế giới ko phải do đấng tối cao tạo ra
mà do các thực thể vật chất tạo thành. Cơ thể lúc đầu có vận động nhưng chưa có
tư duy, sau đó nhờ thực thể tinh thần làm cầu nối nên cơ thể có cảm giác, nhờ đó
các cơ quan hoạt động và có trí năng và hình thành con người. => như vậy, qđiểm
về vũ trụ, nhân sinh của Samkhya thể hiện tính chất vô thần, thừa nhận vận động,
5


chuyển hóa quan hệ nhân quả of thế giới. Tuy nhiên thế giới quan của Samkhya
mang tính chất nhị nguyên
Câu 2: Tư tưởng triết học Phật giáo


Về thế giới quan

- Bằng sự phân tích nhân-quả, phật giáo cho rằng ko thể tìm ra nguyên nhân
đầu tiên cho vũ trụ, nghĩa là ko có 1 đấng Brahman nào sang tạo ra vũ trụ. Cùng
với sự phủ định Brahman, phật giáo cũng phủ định phạm trù Atman. Phật giáo nêu
lên 2 qđiểm “Vô ngã” (nghĩa là ko có tôi) và quan điểm “Vô thường”.
- Quan điểm vô ngã cho rằng vạn vật và vũ trụ chỉ là sự “giả hợp” cho hội
đủ nhân duyên nên thành ra “có” (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực thể

con người chẳng qua là do “ngũ uẩn” (5 yếu tố) hội tụ lại là: sắc (vật chất), thụ
(cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý), và thức (ý thức). Như vậy là ko có cái
gọi là “tôi” (vô ngã)
- Quan điểm “vô thường” nghĩa là mọi vật đều biến đổi, ko có cái gì là vĩnh
hằng. Quy luật vận động của vũ trụ và time là: THÀNH – TRỤ - HOẠI – KHÔNG
(thành hình, tồn tại hiện hữu sau đó biến đổi về ko hình hài). Đối với vạn vật là:
SINH – TRỤ - DỊ - DIỆT. Với chúng sinh là: SINH – LÃO – BỆNH – TỬ. Quy
luật vận động trong ko gian là: LY – HỢP – TỤ - TÁN.
=> vạn vật đều sinh ra hư hao và tan rã. Phật giáo cho rằng sự tồn tại và biến
chuyển of vạn vật, chúng sinh đều là một chuỗi nhân-quả of nhau, tương tác nhânquả 1 cách liên tục. Vì vậy, tất cả mọi vật sinh ra đều vô thường, đều do cái khác
sinh ra, tồn tại rồi hư hao, hủy diệt để chuyển thành cái khác. Mọi vật đều có
nguyên nhân, do một cái khác sinh ra, nó là kết quả đồng thời lại là nguyên nhân
của cái khác. Để nhân thành quả thì phải có duyên (điều kiện bên ngoài).


Về nhân sinh quan

Cơ sở xã hội và mục đích của phật giáo là đi tìm lẽ sống cho con người, là
tìm ra bản chất, ý nghĩa nhân sinh từ hiện thực đời sống con người, nhằm tìm ra
phương thức để giải quyết những khát vọng của con người. Để thực hiện mục đích
đó, phật giáo đưa ra nguyên lý giải thoát.
6


Có thể nói xuất phát điểm của tư tưởng giải thoát trong triết lý phật giáo là
bắt nguồn từ nỗi khổ của cuộc sống con người. Và nhiệm vụ, mục đích tối cao của
sự giải thoát trong triết lý đạo phật là xóa bỏ sự vô minh, mê ngộ của con người,
đạt tới sự giác ngộ với cái tâm sang tỏ bản nhiên, nhận ra chân bản tính của mình
và thực tướng của vạn vật, từ đó dập tắt được ngọn lửa ái dục, thoát khỏi mọi khổ
não của cuộc đời. Nguyên lý giải thoát của phật giáo gọi là “tứ diệu đế”

Khổ đế: khổ là phạm trù trung tâm của nhân sinh quan phật giáo. Phật giáo
cho rằng tồn tại là khổ, sống là khổ. Họ cho rằng đời là bể khổ, nước mắt bốn bể
ko nhiều bằng nước mắt chúng sinh. Phật giáo khái quát có 8 sự khổ (bát khổ) trên
đời: sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt li, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn. Phật
giáo quan niệm nỗi khổ là bản chất của con người, ko thấy nguyên nhân xã hội của
sự khổ của con người, tất cả do nhân - duyên mà thành. Đây là quan điểm quyết
định luận duy tâm
Tập đế (nhân đế): giải thích căn nguyên nỗi khổ của chúng sinh, đức phật
đã đưa ra thuyết “thập nhị nhân duyên”, vạch ra sự liên kết của nghiệp quả từ quá
khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến tương lai, bao gồm:
+ Vô minh: ko sang suốt, ko nhận thức được thế giới mà cơ bản là ko nhận
thức đc tứ diệu đế
+ Duyên hành: do vô minh khiến tâm vang động, ham muốn, suy nghĩ để
hành động để thỏa mãn. Hành là quá trình tác ý thiện hay ác tạo thành nghiệp quả
sau này.
+ Duyên thức: là ý thức, từ hành dẫn đến ý thức về mình, về bản ngã, từ đó
nảy sinh ý thức tự kỷ, vị kỷ. Từ ý thức mà duyên sắc phát sinh.
+ Duyên danh sắc: tức là có tên và có hình. Duyên sắc là hội tụ lục căn (mắt,
tai, lưỡi, mũi, thân, ý).
+ Duyên lục nhập: có tên và có hình nên mới có lục nhập (năng lực phát sinh
cảm giác). Mỗi căn có đối tượng là hoạt động, là sắc, hương, vị, xúc, pháp.
+ Duyên xúc: do lục nhập mà có xúc (tiếp xúc với đối tượng mà có cảm giác
sướng khổ)
7


+ Duyên thụ: có lục căn, lục nhập, có xúc sẽ có cảm thụ sắc hương, vị, xúc,
pháp, tức là thu nhận cái tác động của đối tượng vào mình, đó là lạc thụ, khổ thụ,
thụ vô ký.
+ Duyên ái: có thụ cảm mà sinh ra duyên ái, là luyến ái, khát khao yêu thích,

mong muốn, bám víu.
+ Duyên thủ: dó ái mà cố bám lấy cái gì mà mình muốn.
+ Duyên hữu: Do nắm giữ nên mọi cái có tồn tại, hiện hữu – cái đang có sẽ
tạo nghiệp.
+ Duyên sinh: Do có nên sinh, là nguyện nhân của cái khác ra đời.
+ Duyên lão tử: là già và chết. Đã sinh ắt phải già, phải chết, nhưng sống và
chết là hai mặt ko tách rời nhau, níu kéo con người ta trong vòng luân hồi.
Nhận thức ra cái khổ của con người ko phải chỉ có phật giáo, song mỗi
trường phái triết học có cách giải thích, giải pháp khác nhau để giải phóng con
người. Phật giáo ko thừa nhận nguyên nhân xã hội của sự khổ nơi con người. Họ
chỉ khẳng định nguyên nhân có tính chất bản chất tiềm tại trong kiếp người, trong
đó vô minh là nguyên nhân đầu tiên của sự khổ. Thiếu trí tuệ sáng suốt, u tối, mê
mờ là nguyên nhân đầu tiên của sự khổ. Đây là quan điểm khá độc đáo của phật
giáo, một tôn giáo coi trọng trí tuệ con người.
Diệt đế: Để chỉ ra mục đích tối cao của sự giải thoát, đức phật đã đưa ra
chân lý lớn thứ ba là “Diệt khổ thánh đế” gọi tắt là diệt đế. Đó là sự xa lánh trọn
vẹn, là sự tận diệt chính cái dục ấy. Đó là sự rời bỏ, sự khước từ, sự thoát ly và sự
tách rời ra khỏi tâm ái dục. Đó là chân lý cao thượng về sự diệt khổ. Phật giáo cho
rằng cái khổ mặc dù thuộc về bản chất con người song có thể tiêu diệt được. Phật
giáo nêu nguyên lý giải thoát con người khỏi sự khổ luân hồi, truyền kiếp bằng con
đường rèn luyện, tu dưỡng lâu dài, nhằm vào các nguyên nhân để tẩy trừ, trong đó
trước hết là cái vô minh. Làm được việc đó, con người sẽ được giải khổ và đạt đến
cõi Niết bàn. Niết bàn là nơi tịnh diệt, dứt bỏ mọi ham muốn, dập tắt ngọn lửa dục
vọng của chúng sinh. Hiện nay, trong các trường phái Phật giáo, quan niệm về niết

8


còn khác nhau. Niết bàn là một khái niệm không thể dùng tư duy và ngôn từ để
định nghĩa hay mô tả mà phải bằng chính sự chứng nghiệm trực giác.

Đạo đế: nhưng bằng cách nào để thực hiện được mục đích và lý tưởng giải
thoát, xóa bỏ vô minh, vọng tưởng làm mê tâm mờ tính, diệt mọi ái dục và đau
khổ, đưa đến sự an tịnh, trí tuệ cao siêu, giác ngộ và niết bàn. Để lý giải vấn đề
này, đức phật đã đưa ra chân lý lớn thứ tư là “Đạo diệt khổ thánh đế”, gọi tắt là
Đạo đế. Để diệt khổ, phật giáo đưa ra con đường và cách thức diệt khổ (giải thoát)
đó ko phải là con đường tu luyện khổ hạnh, ép xác, cũng ko phải là con đường
chìm đắm trong dục vọng thấp hèn mà là xóa bỏ vô minh, diệt dục để giác ngộ và
giải thoát. Đó là con đường tu dưỡng về đạo đức, hướng thiện, trì giới, xóa bỏ ham
muốn.
Phật giáo chỉ ra 8 con đường chân chính diệt khổ (bát chính đạo):
+ Chính kiến: tức hiểu biết, nhận thức đúng đắn
+ Chính tư duy: là suy nghĩ chân chính
+ Chính nghiệp: Tức hành động, làm việc chân chính, ko làm những việc tàn
ác, tà gian.
+ Chính ngữ: Chỉ nói những điều ngay thẳng, trung thực, đúng đắn, ko nói
những điều giả dối.
+ Chính mệnh: sống một cách trung thực, ko tham lam, gian tà, vụ lợi.
+ Chính tịnh tiến: cố gắng, nỗ lực, sáng suốt vươn lên 1 cách đúng đắn.
+ Chính niệm: chỉ suy niệm những điều chân chính, nghĩ về chính pháp, gạt
bỏ mọi tà niệm.
+ Chính định: kiên định, chuyên chú vào vào con đường chân chính đạt tới
giác ngộ.
Cùng với 8 con đường chính, đức Phật còn đưa ra những phương pháp thực
hành tu luyện tổng quát cho tất cả các phật tử để chủ động thực hiện điều tốt cho
người và cho mình đó là “ngũ giới” và “lục độ”
Ngũ giới gồm:
+ Bất sát – ko sát sinh: để cho mọi vật được sống trọn kiếp của nó
9



+ Bất đạo – ko đạo tặc: ko làm những điều tàn ác, gian dối, phi nhân nghĩa.
+ Bất dâm – ko dâm dục: bỏ tâm tư dục
+ Bất vọng ngữ: ko nói dối, ko bịa đặt
+ Bất ẩm tửu: ko uống rượu
Lục độ tức 6 phép tu gồm:
+ Bố thí: đem tiền của, tâm trí cứu giúp con người với lòng từ bi, bác ái, vô
tư.
+ Trì giới: giữ nghiêm luật
+ Nhẫn nhục: kiên nhẫn, chịu đựng, nhường nhịn trong hành động, lời nói, ý
nghĩ. Ko oán giận, nóng nảy, ko tâm phục thù
+ Tịnh tiến: sự cố gắng vươn lên học tập tu dưỡng ngày càng tốt.
+ Thiền định: Tập trung cao độ tâm trí vào 1 chỗ để tâm được an trụ
+ Bát nhã: là trí tuệ do thiền định phát sinh mà hiểu rõ được thực tướng vạn
pháp thấu suốt được chân bản tính của mình.
=> Kết luận: - TGQ phật giáo có nhiều yếu tố tích cực; vô thần, có nhiều yếu
tố biện chứng có giá trị.
- Tư tưởng giải thoát trong triết lý phật giáo đã thể hiện tính chất nhân bản
rất sâu sắc. Nó ko chỉ phủ nhận thế giới quan thần quyền và chủ nghĩa siêu nhiên
đương thời mà còn lên án mọi sự bất công, đau khổ của xã hội do chế độ chiếm
hữu nô lệ về chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội vô cùng trì trệ, lạc hậu và khắc
nghiệt gây nên. Nó quan tâm đến thân phận và đời sống của mỗi người và chủ
trương giải thoát cho tất cả chúng sinh khỏi những nỗi khổ của cuộc đời bằng tin
tưởng vào đời sống đạo đức, từ, bi, hỉ, xả, bác ái và sức mạnh của trí tuệ. Con
đường và cách thức giải thoát giải thoát trong triết lý phật có 1 ý nghĩa thiết thực
và giản dị, có ảnh hưởng tích cực đối với đời sống xã hội Ấn Độ
- Tư tưởng giải thoát trong triết học phật giáo mang tính ảo tưởng (gắn liền
với tôn giáo) khi chỉ dừng lại ở sự giải phóng về đời sống tư tưởng, đạo đức, tâm lý
của con người do chưa thấy nguyên nhân đích thực của nỗi khổ của con người và ít
mang tính diệt dục.
10



Câu 3: Hoàn cảnh lịch sử và đặc điểm của triết học Trung Quốc cổ đại
A. Hoàn cảnh lịch sử
- Điều kiện tự nhiên: Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn có 2 miền
khác biệt:
+ Miền Bắc: địa hình rất phức tạp chủ yếu là núi, có lưu vực sông Hoàng
Hà, xa biển, khí hậu lạnh, đất đai khô cằn, cây cỏ thưa thớt, sản vật hiếm hoi =>
đời sống người dân rất khó khăn.
+ Miền Nam: có lưu vực sông Dương Tử, khí hậu ấm áp, đất đai phì nhiêu,
cây cối xanh tươi, sản vật phong phú => đời sống ng dân rất tốt.
- Về xã hội: Trung hoa cổ đại có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ III
TCN kéo dài tới tận thế kỷ III TCN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung
Hoa, mở đầu thời kỳ trung hoa phong kiến. Trong khoảng 2000 năm lịch sử ấy, lịch
sử trung hoa được phân chia thành 2 thời kỳ lớn (2 giai đoạn):
+ Giai đoạn 1: Từ thế kỷ IX TCN trở về trước - thời kỳ Tam Đại: nhà Hạ,
nhà Thương, nhà Chu. Nhà Hạ ra đời khoảng thế kye XXI TCN, mở đầu cho chế
độ chiếm hữu nô lệ ở trung hoa. Khoảng nửa đầu thế kỷ XVII TCN nhà Thương đc
thành lập. Khoảng thế kỷ XI TCN nhà Chu đc thành lập (giai đoạn đầu của nhà
Chu là Tây Chu) đưa chế độ nô lệ ở Trung hoa lên đỉnhcao.
+ Giai đoạn 2: từ thế kỷ VIII TCN đến thế kỷ III TCN: thời kỳ đông chu
(hay thời kỳ Xuân thu-chiến quốc) – là thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu
nô lệ sang chế độ phong kiến.
Về kinh tế: đồ sắt ra đời tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế TQ phát
triển nhanh chóng.
• Nông nghiệp: Công cụ LĐ đc cải tiến => năng suất lao động nhanh
• Thương nghiệp phát triển, hoạt động buôn bán diễn ra sôi nổi, tiền tệ xã
hội => thúc đẩy sự phát triển thương nghiệp, XH hình thành tầng lớp thương nhân,
hình thành các thành thị buôn bán nhộn nhịp.
Về chính trị: những biến đổi về kinh tế tất yếu dẫn đến những biến đổi về

chính trị trong thời kỳ xuân thu.
11


• Quyền sở hữu ruộng đất thuộc về tầng lớp dân chủ => chế độ sở hữu tư
nhân về ruộng đất hình thành => xuất hiện sự phân hóa giàu nghèo, sang hèn dựa
trên cơ tài sản
• Chế độ phong hầu kiến địa nhà Chu bị phá vỡ => XH rơi vào tình trạng
đảo lộn. Sự tranh giành địa vị XH của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội TQ cổ đại
vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. => đời sống ng dân vô cùng khổ cực,
lễ nghĩa cương thường bị đảo lộn, đạo đức bị suy đồi.
Kết quả of những biến động XH đó là do những mâu thuẫn XH cực kỳ sâu
sắc:
• Mâu thuẫn giữa tầng lớp dân chủ mới với giai cấp quý tộc cũ do giai cấp
địa chủ mới có địa vị kinh tế nhưng ko có địa vị chính trị trong XH.
• Mâu thuẫn giữa người lao động với giai cấp địa chủ quý tộc nhà Chu.
• Mâu thuẫn cục bộ trong tầng lớp quý tộc nhà Chu đang bị phân hóa: một
số muốn bảo lưu chế độ nhà Chu; một số cải cách trật tự cũ
=> những mâu thuẫn trên đòi hỏi phải đc giải quyết nhằm giải thể chế độ nô
lệ thị tộc nhà Chu hình thành XHPK giải thể chế độ tông pháp nhà Chu xây dựng
nhà nước PK, giải phóng LLSX, mở đường cho XH phát triển
- Về văn hóa
+ Về thiên văn học: người TQ cổ đã biết sáng chế và sử dụng la bàn, ng ta
phân biệt đc các tiết của một năm như: lập xuân, xuân phân, lập thu, thu phân, lập
hạ, hạ chí, lập đông, đông chí.
+ Y học: những tri thức y học đc tổng kết lại trong các chính sách y học như:
hoàng đế nội kinh, các nhà y học TQ thời kỳ này đã biết giải phẫu cơ thể người,
biết các cơ quan nội tạng và hệ thống thần kinh khá rõ.
+ Toán học: người TQ cổ đại đã đạt đc trình độ khá cao, họ biết tính toán
diện tích các hình,biết các phép đo lường.

+ Về nông học và sinh vật học: người TQ cổ đại đã xác định được 1 hệ
thống các phương pháp canh tác chuyên canh, phương pháp bón phân cho đất,
phương pháp trồng trọt theo thời vụ và kỹ thuật “dẫn thủy nhập điền”.
12


+ Về văn học: thời Tần đã để lại nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng như Kinh
thi, Sở từ
+ Về sử học: thời cận đại người TQ đã sáng tạo ra nhiều booj sử có giá trị
như Xuân thu, tả truyện, Quốc ngữ.
=> cùng với thực tiễn lịch sử XH, những tri thức về KH, văn hóa phong phú
of người dân TQ thời kỳ cổ đại đã góp phần ko chỉ thúc đẩy sản xuất XH phát triển
mà còn là những tiền đề làm nảy sinh những tư tưởng triết học ở TQ cổ đại.
Chính thời kỳ lịch sử có những biến động toàn diện và sâu sắc đó đã
làm nảy sinh hàng loạt các nhà tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái triết
học mở đầu cho nền triết học TQ. Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của triết học
trung quốc, lịch sử thời kỳ này là thời kỳ “bách gia tranh minh” (trăm nhà đua
tiếng).
B. Đặc điểm của triết học TQ
1. Nội dung TH được trình bày đan xen vào các học thuyết chính trị XH. Về
hình thức, triết học TQ ko trình bày thành hệ thống lý luận logic trong tác phẩm
triết học thuần túy, 1 số triết gia ko viết sách để lại. Nội dung triết học thường thể
hiện thông qua các ngụ ngôn, đối thoại, tình huống triết học…. rất phong phú, sâu
sắc, đóng vai trò là hạt nhân thế giới quan, phương pháp luận của người TQ.
C/m: + NDung chủ yếu trong “Luận ngữ’ của Khổng Tử là các quan điểm về
đạo đức, chính trị, triết học, giáo dục. Tư tưởng triết học của Khổng Tử chủ yếu ở
sách này.
+ “Kinh thư” ghi chép sự kiện lịch sử, văn bản chính trị, quân sự hành chính
of vua => từ đó đề cao vai trò thiên tử để chư hầu phục tùng, đạt tới nền thái bình
thịnh trị => phản ánh tư tưởng triết học thời sơ khai của người TQ.

+ “Nam hoa kinh” of Trang Tử là sách triết học cũng là sách văn học. Về
hình thức, trang tử có 3 cách nói: ngụ ngôn, trùng ngôn, chi ngôn. Lời và việc
trong Nam hoa kinh là những hình tượng nghệ thuật để diễn giải, thuyết minh tư
tưởng triết học.

13


2. Triết học TQ ít gắn với sự phát triển của KHTN, ko hoàn toàn dựa vào
những tri thức KHTN để khái quát triết học, mà chủ yếu bằng trực giác. Phương
thức tư duy là nhận thức trực giác, tức là có trong sự cảm nhận or thể nghiệm. Cảm
nhận tức là đặt mình giữa đối tượng, tiến hành giao tiếp lý trí, ta và vật ăn khớp,
khơi dậy linh cảm từ đó mà nắm bản thể trừu tượng. Phân tích trực giác, đặc biệt
coi trọng tác dụng của cái tâm, coi tâm là gốc rễ of nhận thức => các khái niệm,
phạm trù chỉ là trực giác, thiếu suy luận logic.
3. Triết học TQ ít bàn về bản thể luận mà bàn về chính trị, đạo đức. Các nhà
triết học TQ xem việc thực hành đạo đức như là hoạt động thực tiễn căn bản nhất
của đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt XH. Họ bàn nhiều đến vấn đề ổn
định XH, làm sao để mỗi con người luôn sống hòa hợp với chế độ XH, ko xảy ra
mâu thuẫn giữa cá nhân với cá nhân với XH.
C/m: + Học thuyết Nhân-Lễ-Chính danh of Khổng tử là giải pháp nổi nổi bật
trong trào lưu “bách gia tranh minh”, mang nặng khát vọng cứu đời trước thời cuộc
thiên hạ đại loạn, đời suy đạo hỏng.
+ Thuyết nhân ái của Khổng tử: yêu người chủ yếu giúp rèn luyện đạo đức,
thi ân bỏ đức, nghèo mà vui vì giữ đc đạo.
+ Thuyết kiêm ái của Mặc tử: yêu thương tất cả mọi người, yêu ng như
chính mình. Kiêm ái nhân nghĩa bao giờ cũng đem lại cái lợi cho mọi người, cho
thiên hạ, đc như vậy thì XH tốt đẹp.
4. Ở triết học TQ, các trường phái triết học DV, DT, BC or siêu hình ít phân
biệt rạch ròi as triết học p.Tây. Chúng đan xen hòa trộn vào nhau khó tách rời. Vấn

đề cơ bản được các trường phái triết học đề cập đến là quan hệ giữa giữa các phạm
trù: hình và thần, vật và tâm, khí và lý. Phái duy tâm cho thần, tâm, lý có trước.
Quan điểm duy vật cho hình, vật, khí có trước.
C/m: Quan điểm of Khổng Tử về thế giới: nửa DV, nửa DT, ngả về DT
khách quan.

14


+ Khổng tử cho rằng mọi việc trên đời đều do thiên mệnh. Mệnh trời đc coi
như quy luật của giới tự nhiên, đó là 4 mùa vận hành, vạn vật sinh ra => quan điểm
DV
+ Khổng Tử cũng cho rằng thiên mệnh là định mệnh, số mệnh của con người
ko cưỡng lại đc. Con người sống chết tại mệnh, giàu sang tại trời. => quan điểm
DT.
5. Triết học TQ nhấn mạnh sự hài hòa thống nhất giữa tự nhiên và XH. Khác
với triết học p.Tây coi giới TN là đối tượng chinh phục cải tạo thì triết học TQ lại
coi thiên-địa-nhân là 1 thể thống nhất, xây dựng hệ thống chuẩn mực sống hòa
mục, ko đặt vấn đề chinh phục cải tạo tự nhiên. Đây là tư tưởng xuyên suốt các
trường phái triết học.
C/m: Khổng tử cho rằng thiên-địa-nhân vừa nhất thể vừa khác biệt (vừa
đồng vừa dị). Thiên-địa-nhân và vạn vật đồng bản thể. Thiên địa, then lý phú cho
con người và vạn vật lý và khí => thiên-địa-nhân có thể tương giao, tương hợp với
nhau.
6. Triết học Trung quốc phát triển theo kiểu trầm tích. Các trường phái triết
học đc định hình về căn bản ngay thời kỳ mới ra đời, về sau ko hình thành học
thuyết mới. Các thời đại sau, các nhà triết học đứng về trường phái này or trường
phái khác để bổ sung phát triển chứ ko đối lập hay phủ định như phương tây. Thời
cổ đại triết học phát triển mạnh, về sau trí tuệ kém sâu sắc, các trường phái thường
phát triển theo hướng DT biện hộ cho giai cấp thống trị.

C/m: + Nho gia do Khổng tử sáng lập. Sauk hi Khổng tử chết, Nho gia chia
làm 8 phái, quan trọng nhất là phái Mạnh tử và Tuân Tử. Mạnh Tử phát triển triết
học Khổng tử theo hướng DT, Tuân tử phát triển theo hướng DV.
+ Đạo gia do Lão tử sáng lập và Trang tử phát triển.
Câu 4: Học thuyết Nhân-Lễ-Chính danh của Nho gia.
A. Hoàn cảnh ra đời học thuyết

15


Từ thế kỷ VIII TCN đến thế kỷ III TCN: thời kỳ đông chu (hay thời kỳ Xuân
thu-chiến quốc), là thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ
phong kiến.
Về kinh tế: đồ sắt ra đời tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế TQ phát
triển nhanh chóng.
• Nông nghiệp: Công cụ LĐ đc cải tiến => năng suất lao động nhanh
• Thương nghiệp phát triển, hoạt động buôn bán diễn ra sôi nổi, tiền tệ xã
hội => thúc đẩy sự phát triển thương nghiệp, XH hình thành tầng lớp thương nhân,
hình thành các thành thị buôn bán nhộn nhịp.
Về chính trị: những biến đổi về kinh tế tất yếu dẫn đến những biến đổi về
chính trị trong thời kỳ xuân thu.
• Quyền sở hữu ruộng đất thuộc về tầng lớp dân chủ => chế độ sở hữu tư
nhân về ruộng đất hình thành => xuất hiện sự phân hóa giàu nghèo, sang hèn dựa
trên cơ tài sản
• Chế độ phong hầu kiến địa nhà Chu bị phá vỡ => XH rơi vào tình trạng
đảo lộn. Sự tranh giành địa vị XH của các thế lực cát cứ đã đẩy xã hội TQ cổ đại
vào tình trạng chiến tranh khốc liệt liên miên. => đời sống ng dân vô cùng khổ cực,
lễ nghĩa cương thường bị đảo lộn, đạo đức bị suy đồi.
Kết quả of những biến động XH đó là do những mâu thuẫn XH cực kỳ sâu
sắc:

• Mâu thuẫn giữa tầng lớp dân chủ mới với giai cấp quý tộc cũ do giai cấp
địa chủ mới có địa vị kinh tế nhưng ko có địa vị chính trị trong XH.
• Mâu thuẫn giữa người lao động với giai cấp địa chủ quý tộc nhà Chu.
• Mâu thuẫn cục bộ trong tầng lớp quý tộc nhà Chu đang bị phân hóa: một
số muốn bảo lưu chế độ nhà Chu; một số cải cách trật tự cũ.
Khổng Tử sống trong thời Xuân Thu-Chiến Quốc, thời kỳ XH TQ đang có
những biến cố hết sức căn bản. Chế độ CHNL theo kiểu p.Đông mà đỉnh cao là chế
độ tông pháp nhà Chu đang suy tàn, chế độ phong kiến sơ kỳ đang hình thành =>
16


những mâu thuẫn trên đòi hỏi phải đc giải quyết nhằm giải thể chế độ nô lệ thị tộc
nhà Chu hình thành XHPK giải thể chế độ tông pháp nhà Chu xây dựng nhà nước
PK, giải phóng LLSX, mở đường cho XH phát triển.
=> Khổng Tử đưa ra học thuyết Nhân-Lễ-Chính danh. Đây là học thuyết DT
về triết học, bảo thủ về XH bởi Nho giáo sinh từ 1 XH CHNL đang trên đường suy
tàn, chế độ quý tộc nhà Chu đã lỗi thời nhưng Khổng Tử vẫn luyến tiếc và cố duy
trì chế độ ấy bằng đạo đức.
B. Nội dung học thuyết
Khổng Tử cho rằng nguyên nhân của “vương đạo suy vi, bá đạo nổi
lên” là ở con người, do con người ko có “đạo”, làm trái với “đạo”. “Đạo” mà
Khổng Tử nói đến ở đây là đạo đức của con người hay “đạo làm người”. Để cho
XH trở lại thanh bình thì theo Khổng Tử phải làm cho con người có đạo, làm theo
đạo. Từ đó, Khổng tử đưa ra học thuyết Nhân-Lễ-Chính danh. Trong đó ông xây
dựng phạm trù Nhân làm cốt lõi.
1. NHÂN
Nhân vốn là phạm trù đạo đức của quý tộc chủ nô thời Ân, Thương
bao gồm nhiều nội dung như việc tuân theo ông cha, yêu con người, làm lợi cho
đất nước, che chở cho nhân dân… nhưng những nội dung đó chưa trở thành 1 hệ
thống chặt chẽ mà là những nội dung riêng rẽ. Khổng tử đã kế thừa những tư tưởng

đó, đồng thời bổ sung cho Nhân những nội dung mới, biến nó trở thành một hệ
thống chặt chẽ, rộng lớn, bao trùm tất thảy các phạm trù khác như: trung thứ, hiếu
đễ, trí, dũng…và chứa đựng toàn bộ tư tưởng của ông về đạo trị nước an dân, đạo
làm người. Nhân được hiểu là tổng hợp các phẩm chất, năng lực mà con người
phải rèn đúc, là con người hoàn thiện nhất, mẫu mực về nhân cách cao quý, sống
có ích cho đời.
Nhân trong tư tưởng của Khổng tử đó là yêu người. Yêu người theo
quan điểm của Khổng tử có 2 điều. Thứ nhất, yêu người là yêu tất cả mọi người.
Yêu người ban đầu là yêu mình, yêu người thân of mình và yêu những người khác.
Yêu người phải lấy đạo trung, hiếu, tiết, nghĩa làm đầu. Yêu người là yêu những
17


người khác ko phải thân thích của mình. Yêu thương người khác là đồng cảm với
người khác, đem đặt mình vào địa vị of người khác mà hành động. Thứ hai, yêu
người là yêu nhân dân. Bậc yêu người cao nhất là thánh. Tinh thần ái nhân của
Khổng tử ko phải là yêu thương chung chung mà có yêu, có ghét. Ghét những ai
làm tổn hại cho XH.
Nhân còn có nghĩa là Trung thứ. Trung thứ là đạo đối với mình và đối
với người. Nguyên tắc suốt đời của người có nhân là phải yêu thương người khác.
Nghĩa là cái gì mình muốn làm thì cũng phải người khác làm được như vậy, điều gì
mình ko muốn thì đừng làm cho người khác. Trung thứ là sự cụ thể hóa yêu người,
giúp người.
Nhân còn bao gồm Hiếu đễ. Hiếu đễ là tiêu chuẩn trong gia đình. Hiếu
là tiêu chí của con cái đối với cha mẹ, đễ là tiêu chí của người em đối với anh chị
và người lớn tuổi. Người có đạo nhân trước hết phải làm tròn phận vị làm con, làm
em trong gia đình. Biết yêu thương tôn kính cha mẹ, anh chị em ruột rồi mới yêu
thương người khác. Khổng tử xem Hiếu đễ là cái gốc của Nhân.
Khổng tử cho rằng người có đạo nhân là có nghĩa, làm việc nghĩa.
Ông ko nói rõ nghĩa là gì mà đối lập nghĩa với Lợi (tư lợi). Những việc gì hợp

nghĩa thì phải làm, cho dù biết là ko làm đc vẫn cố gắng khi nào hết sức mới thôi.
Người có Nhân phải là người Trung. Khổng tử cho rằng Trung là cái
thể của Nhân, là lo cho nước, cho dân, khuyên vua làm điều nhân, khuyên bề tôi
làm điều nhân, ko trung với vua 1 cách mù quáng (ngu trung) như sau này.
Người có nhân là người có Trí. Phải thông minh, sáng suốt mới làm đc
điều nhân. Biết cách giúp người mà ko làm hại người. Nhân, Trí, Dũng gắn liền với
nhau. Phải dũng cảm mới làm được điều nhân. Dũng được hiểu ko chỉ là có tài trí,
dũng cảm, có sức mạnh để làm điều nhân mà còn là luôn tự chủ, giữ được liêm sỉ,
thắng vật dục, vững vàng trước mọi cám dỗ.
Theo Khổng tử, chỉ có người Nhân mới có thể có đc cuộc sống an vui
lâu dài với lòng nhân of mình và dẫu có ở vào hoàn cảnh nào cũng yên ổn, thanh
thản.
18


2. LỄ
Lễ hiểu theo nghĩa rộng là những nghi thức, quy chế, kỷ cương, trật
tự, tôn ti of cuộc sống chung với cộng đồng XH và cả lối cư xử hàng ngày. Theo
Khổng Tử, gia đình, XH được sắp xếp tiến hành theo Lễ thì sẽ hòa. Lễ giúp hình
thành đạo đức tốt, tình cảm tốt đẹp. là hình thức thể hiện của người có Nhân.
Khổng tử dùng lễ cốt để tạo ra một thứ ko khí lễ nghĩa khiến người ta cái đạo đức,
tập quán làm điều lành, điều phải 1 cách tự nhiên.
Giáo dục Lễ còn giữ cho tình cảm hợp đạo trung, làm tiêu chuẩn cho
hành vi. Theo Khổng Tử, cung kính mà ko có Lễ thì phiền, cẩn thận mà ko có Lễ
thành ra sợ hãi, dũng mà ko có lễ thì loạn lạc, trực mà ko có Lễ thành ra vội vã. Lễ
định ra lẽ phải trái, thân sơ, trật tự trên dưới, phép tắc tổ chức luân lý gia đình và
XH, phân biệt phận vị mỗi người. Đã là người thì phải học Lễ, biết Lễ là có lễ.
Lễ chế ước cái thường tình của con người. Cái thường tình của con
người là ham ăn uống, trai giá, sợ nghèo hèn, thừa dễ sinh xa xỉ, thiếu dễ sinh bủn
xỉn keo kiệt => phải có Lễ chế ước mới ko làm việc hư xấu. Cái thường tình của

con người là tình cảm vui vẻ, ham muốn, yêu thương, hờn giận, ghét bỏ, buồn bã.
Nếu ko có lễ chế ước sẽ quá đáng, trái đạo Nhân. Người giàu sang biết lễ ko dâm
tà, ko kiêu căng; người bần tiện biết Lễ ko nản chí, ko làm bậy; làm vua biết Lễ thì
mới biết trị nước, yên dân
=> Mục đích of Khổng Tử là biến XH từ loạn thành trị. Việc giảng dạy Lễ of
Khổng tử ko nằm ngoài mục đích chính trị đó. Lễ là cách thức và biện pháp để
khắc phục và củng cố lễ chế nhà Chu. Khổng tử đã đem lễ tiết nhà Chu cải biến
thành 1 phạm trù đạo đức, được coi là mực thước cho các hành vi của con người
trong XH.
3. CHÍNH DANH
Chủ trương làm cho XH có trật tự, khổng tử cho rằng trước hết phải
thực hiện “chính danh”. Chính danh nghĩa là mọi vật trong thực tại cần phải phù
hợp với cái danh nó mang. Khổng tử cho rằng, mỗi loài vật, mỗi người đều có
thuộc tính nhất định, giữa chúng có quan hệ nhất định, hình thành một địa vị, vai
19


trò bổn phận, ứng với nó là 1 danh (tên gọi) nhất định. Mỗi danh có tiêu chuẩn để
xác định và thực hiện nhiệm vụ, chức năng của nó. Những tiêu chuẩn, chức năng,
nhiệm vụ xác định là cái thực. Cái thực phải hợp với cái danh. Chính danh là
nguyên tắc of đức trị, con đường thực hiện đạo Nhân. Theo quan điểm Nho gia,
mỗi người sinh ra đều có 1 vị trí, chức phận, danh phận theo thiên định. Cho nên
mỗi người phải tự ý thức đc vai trò, vị trí, quyền và nghĩa vụ of mình trong XH mà
hành động. Nghĩa là mọi người phải hành động theo đúng danh phận of mình, nếu
khác đi XH sẽ loạn lạc. Khổng tử nói: “Danh bất chính, ngôn bất thuận, sự bất
thành”. Lời nói và việc làm phải theo đúng danh phận, trái danh phận thì ko đem
lại bất cứ kết quả gì.
Chính danh là nguyên tắc nhất thiết phải được quán triệt trong việc thi
hành chính sự. Vua quan trước hết phải chính danh, nếu ko nước sẽ loạn: “Thượng
bất chính, hạ tắc loạn”.

Ý nghĩa của học thuyết:
Về mặt lý luận: cái gì tốt thì cần kế thừa
HCM: “trong học thuyết Khổng tử có nhiều điều ko đúng, song những điều
hay trong đó thì chúng ta nên học”
Hạn chế của học thuyết: trong XH loạn lạc, “vương đạo suy vi, bá đạo nổi
lên”, chiến tranh triền miên thì tư tưởng Nhân trị của Khổng tử đã bộc lộ những
hạn chế: ko chủ trường dùng pháp luật mà dùng đạo đức làm công cụ để ổn định
trật tự XH.
Câu 5: tư tưởng triết học của Đạo gia.
A. Hoàn cảnh ra đời của Đạo gia.
- Xuân thu-chiến quốc là thời kỳ thiên hạ đại loạn kéo dài, rất nhiều học
thuyết xã hội giải thích XH và đưa ra cách chữa trị khác từ nhiều phương diện
khác. Nho gia đại biểu cho tư twowgnr của giai cấp địa chủ quý tộc, giai cấp thống
trị cũ. Pháp gia đại biểu cho giai cấp địa chủ phong kiến mới. Mặc gia đại biểu cho
tầng lớp du hiệp, thợ thủ công, tiểu thương SX nhỏ. Đạo gia đại biểu cho tầng lớp
tiểu quý tộc, quý tộc phá sản, kẻ sĩ bị chèn ép bởi 2 thế lực địa chủ phong kiến mới
20


và cũ. Họ ko đủ sức vươn lên, rơi vào bi quan, cho rằng đời quá hư hỏng ko gì cứu
vãn đc nữa => chủ trương trốn đời, tránh tiêu cực.
Trong thời đại con người hám danh lợi, luôn tranh giành, chém giết nhau thì
ý nghĩa cao nhất của cuộc sống là gì? Làm thế nào để đạt đc? Là chủ đề các nhà tư
tưởng Đạo gia hướng vào lý giải.
Người sáng lập Đạo gia là Lão tử, người phát triển là Trang tử.
B. Nội dung tư tưởng
1. Quan niệm về thế giới (Bản thể luận)
Phạm trù căn bản nhất trong quan niệm về thế giới của Đạo gia là
“đạo”. Đạo ở đây ko phải chỉ là đạo lộ (con đường) mà nó còn có nghĩa trừu tượng,
có tính khái quát rất cao. Ý nghĩa của nó có 2 mặt:

+ Đạo là bản nguyên của vũ trụ. Vì đạo quá huyền diệu, nên có thể quan
niệm ở 2 phương diện “vô” và “hữu”. Vô là nguyên lý vô hằng, là gốc of trời đất.
Hữu là nguyên lý hữu hằng, là mẹ của vạn vật. Công dụng của đạo là vô cùng, vô
tận, đạo sáng tạo ra vạn vật. Vạn vật nhờ có đạo mà sinh ra, sự sản sinh ra vạn vật
theo trình tự: “đạo sinh 1 (thái cực), 1 sinh 2 (âm dương), 2 sinh 3 (thiên-địa-nhân),
ba sinh ra vạn vật”. Đạo làm chủ thể của vạn vật, là phép tắc của vạn vật.
+ Đạo là quy luật biến hóa tự thân của vạn vật, quy luật đó gọi là
“đức”. Đạo là cái “ko tồn tại”, khả niệm, bất khả giác nhưng con người lại có thể
biết đạo thông qua hình thức của nó là “Đức”. Đạo là nguyên lý chung của vạn vật,
“đức” là nguyên lý của mỗi vật. Đạo sinh ra rồi thì công việc còn lại là của đức.
Đức ko phải là một vật cụ thể hữu hình mà là nguyên lý của mỗi vật, nằm trong
mỗi vật. Đạo được biểu hiện qua cái đức, cái đức là cái hiện hữu của đạo, có thể
cảm nhận được, có thể thông qua đức mà thấy đạo. Đức chỉ thuộc tính, chỉ sự đa
dạng của sự vật, qua phạm trù đạo-đức, Lão Tử đã chỉ ra tính thống nhất và đa
dạng của sự vật
2. Triết lý nhân sinh: học thuyết vô vi
Phạm trù vô vi theo nghĩa đen là ko làm gì. Nhưng thực chất, vô vi
theo quan điểm của Lão tử là làm 1 cách khéo léo, kín đáo, tự nhiên, ko khiên
21


cưỡng. Nghĩa là hành động 1 cách tự nhiên, ko trái với quy luật tự nhiên, ko can
thiệp vào guồng máy tự nhiên, ko hành động giả tạo, gò ép.
Phép vô vi gồm:
+ Vô sự: ko tư tâm xen vào công việc của người khác, ko khiên cưỡng, ko
dụng tâm, trong XH con người sống với nhau chân thành, mộc mạc.
+ Vô dục: thực hành vô vi con người phải xóa bỏ mọi ham muốn, mọi dục
vọng. Vì theo Lão Tử: ham muốn, dục vọng của cá nhân từ đó thúc đẩy hành động
để đạt được điều ấy là nguyên nhân của sự loạn lạc XH => muốn XH ổn định thì
phải vô dục. Vô dục để giải phóng tư tưởng.

+ Bất tranh: Lão Tử cho rằng ko nên tranh với ai thì chẳng ai tranh được với
mình.
+ Bất trí: Lão Tử phản bác hiểu biết thông thường đem phân biệt phải trái,
đúng sai, hiền ngu bởi vì làm như vậy là dẫn con người đến ham muốn cuồng vọng
=> ông chủ trương hành đạo ko phải là làm cho dân phát triển trí khôn mà làm cho
dân thành tự nhiên thuần phác.
+ Vô tri: theo quan điểm của Lão Tử là ko cần khoe khoang, phơi bày những
điều mình biết, ko cần tranh luận. Theo Lão tử, biết mà như ko biết mới là cao, ko
biết mà làm như biết là kém, thấy đc cái kém của mình là ko kém.
+ Bất học: Lão tử phê phán quan điểm phân chia đẳng cấp của Nho gia, phê
phán Khổng tử bàn nhiều về Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín là ko phù hợp. Bàn nhiều
đến những cái đó nghĩa là XH đang thiếu cái đó, là điều kiện cho mặt đối lập của
nó tồn tại.
+ Vô ngôn: Đạo gia phản đối XH chỉ biết đào tạo những người giỏi nói, giỏi
tranh luận nhưng ít chú trọng đến thực nghiệm, chạy theo danh mà quên thực. Theo
Lão Tử, người hiền biết thì ko nói còn người nói thì ko biết.
Trong phép vô vi, Lão Tử vạch ra những nguyên tắc phương pháp
luận và hành vi xử thế của con người “nhu thắng cương”. Đạo gia cho rằng, sở dĩ
nhu thắng cương là vì kiên cường từ nhu nhược mà ra. Phương châm xử thế của
Đạo gia là: mềm thắng cương, yếu thắng mạnh. Con người sống hợp với thời thế là
22


công thành danh toại, thân thoái thiên chi đạo. Tri túc, tri chỉ, ở đời biết đủ là đủ,
ko nên quá tham.
Quan điểm xử thế của Lão tử ko cứng nhắc, ko cố chấp, ko đứng hẳn về phía
cực đoan, hành động ko nghịc với đạo. Những giải pháp mà Lão Tử đưa ra phần
nhiều giải thích tính chất bi quan, tiêu cực, quay lưng lại với XH. Quan điểm coi
vô vi là bản chất tự do cho con người, là điều kiện để XH đi đến bình đẳng, thái
bình thịnh trị là quan điểm DT về LS-XH, mang tính chất phản tiến bộ.

3. Quan điểm chính trị, đạo đức.
- Lão tử phê phán chủ trương “hữu vi”, đề cao đường lối trị nước theo đạo
vô vi. Trị nước theo đạo vô vi. Lão Tử chủ trương xóa bỏ mọi lễ giáo, pháp luật,
văn hóa, bỏ tất cả những gì trái với tự nhiên, tổn hại đến bản chất tự nhiên của con
người.
- Lão Tử lên án mạnh mẽ giai cấp thống trị đương thời và phản đối những
hiện tượng bất bình đẳng trong XH do sự áp bức bóc lột của bọn quý tộc cũng như
sự phát triển của kinh tế hàng hóa gây nên. Ông chỉ ra rằng, dân đói là do quan trên
ăn hết, bắt dân nộp thuế nhiều.
-> ôn ghi rằng cai trị thiên hạ phải theo đạo vô vi. Nghĩa là phải tuân theo
quy luật tự nhiên, ko được can thiệp vào đời sống con người, đưa XH và con người
trở về trạng thái tự nhiên, nguyên sơ, chất phác, ko ham muốn, ko dục vọng, ko thể
chế pháp luật, ko bị ràng buộc bởi các nguyên tắc luân lý đạo đức, ko cần tri thức
mà theo bản tính, khả năng, sở thích tự nhiên của mỗi người và để mỗi người làm
những việc cần thiết 1 cách tự nhiên.
-> Theo đạo vô vi, Lão Tử mơ ước trở lại đời sống chất phác of thời đại
công xã nguyên thủy, ko thể chế, ko tư hữu và trao đổi hàng hóa, sống tự cấp tự
túc.
- Lão Tử kịch liệt lên án chiến tranh, bạo lực và chủ trương bất tranh và
khiêm hạ. ông coi chiến tranh là trái đạo tự nhiên, là tàn bạo, đại họa cho XH.
Chiến tranh, theo Lão Tử ko chỉ gây ra sự chết chóc, tàn phá, đau thương mà hậu
quả của nó còn ảnh hưởng lâu dài trong đời sống XH.
23


Câu 6. Trình bày tư tưởng Triết học của Pháp gia.
A.

Hoàn cảnh ra đời
Xuân thu-chiến quốc là thời kỳ giai cấp quý tộc thống trị cùng với chế


độ phong kiến suy tàn. Chế độ tư hữu về ruộng đất phát triển, cùng với tầng lớp địa
chủ mới đang lên làm cho cơ cấu giai cấp thống trị thay đổi. Sự tranh giành địa vị
thống trị bóc lột diễn ra gay gắt làm cho thiên hạ đại loạn.
Trong bối cảnh ấy, các thánh Nho cố sức đi rao giảng đạo đức nhân
nghĩa khắp nơi mà ko ở đâu đc dung. Đạo gia chủ trương vô vi trốn đời đi ẩn là
giải pháp tích cực. Kiêm ái của Mặc gia mang tính ko tưởng để bị chê cười. Bối
cảnh lịch sử lúc ấy đòi hỏi 1 giải pháp chữa trị thiết thực, phù hợp có hiệu quả.
Pháp gia ra đời là 1 tất yếu, phản ánh tư tưởng của giai cấp địa chủ mới đang lên
thời kỳ này.
B.

Nội dung học thuyết: Pháp-Thế-Thuật

Khi tính con người ác và hám lợi ko có gì ngăn cản thì trật tự XH đổ vỡ.
Những lời khuyên của nhà Nho ko phù hợp. Chữ Nhân, chữ Lễ, chữ Hiếu, Danh dự
ko dung để trị nước đc. Theo Hàn Phi Tử, XH lộn xộn, chiến tranh lien mien là do
con người có bản tính ác và ham lợi, trong khi đó ko có kỷ cương pháp luật, họ tự
do lao theo sở thích cá nhân -> trị nước theo pháp luật là hành động theo cái tất yếu
khách quan. Pháp luật là cái gốc để trị nước.
1. PHÁP (tư tưởng trọng Pháp)
- Hàn phi chủ trương lấy Pháp luật làm gốc để trị nước.
- Nội dung chủ yếu thi hành Pháp luật là thưởng và phạt. Hàn Phi gọi chúng
là 2 đòn bẩy trong tay vua để giữ vững chính quyền. ông phê phán chỉ phạt thôi mà
ko thưởng. Ô cho rằng phải thực hiện toàn diện cả 2 mặt: khuyến khích và răn đe,
thưởng và phạt.
- Muốn thưởng và phạt thì trước hết phải có những điều luật, luật lệ, những
quan điểm mang tính chất nguyên tắc được biên soạn minh bạch theo khuôn mẫu,
được ban bố rộng rãi cho dân chúng biết việc gì được làm và ko đc làm. Pháp luật


24


là chuẩn mực cho mọi hành động như quy củ, phải rõ rang cho mọi người dễ hiểu,
dễ làm theo ko lợi dụng.
- Thưởng hậu và phạt nặng để răn đe kẻ vi phạm, khuyến khích làm việc tốt.
- Pháp luật thong qua thưởng phạt mà ngăn cấm việc xấu, kích thích việc tốt
tự nó có ý nghĩa giáo dục -> Hàn Phi đề cao pháp luật, phủ định vai trò của văn
hóa, giáo dục.
2. THẾ
- Hàn Phi chủ trương trị nước phải có thế.
- Theo Hàn Phi, thế là địa vị, thế lực, quyền lực, quyền uy of vua. Địa vị
quyền uy này là độc tôn, nhất nhất mọi người phải tuân phục. Dân chúng phục tùng
theo quyền thế chứ ko phải vì đạo nghĩa mà cảm hóa. Nhà vua phải có thế và giữ
thế. Nếu danh of nhà vua bị hạ thấp và địa vị bị nguy thì người dưới nhất định ko
theo pháp lệnh.
- Thế theo Hàn phi ko chỉ là địa vị, quyền uy của vua mà còn là sức mạnh
của dân, của đất nước, của xu thế lịch sử (vận nước). Theo Hàn Phi, vua phải có tư
cách đạo đức, nhưng tư cách trung bình là đủ, nếu tài đức kém quá thì loạn.
-> như vậy, nhờ có thế mà vua đặt ra và ban bố luật pháp, chọn bề tôi.
Nhưng để chọn được đúng người, đúng việc, điều khiển đc quan lại và dân thì phải
nhờ có Thuật.
3.THUẬT
- Hàn phi tử chủ trương trị nước bằng pháp luật kết hợp với Thuật. Thuật
theo ông là cách thức, phương pháp, mưu lược, thủ đoạn trong việc tuyển người,
dung người, xét đoán sự vật sự việc, nhờ đó mà pháp luật đc thực hiện, thưởng
phạt được thi hành.
- Thuật trước hết thể hiện ở thuật trừ gian. Nhiệm vụ trước hết của thuật cai
trị là phân biệt rõ người tài giỏi, bề tôi trung với người kém cỏi, kẻ xu nịnh. Việc
phát hiện và trừ gian đòi hỏi mưu cao, kế sâu.

- Thuật còn thể hiện ở việc dung người

25


×