Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Đề tài truyền thông đại chúng với vấn đề biến đổi khí hậu tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.56 KB, 20 trang )

Mở đầu
Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học – kỹ thuật, con người có thể
được đáp ứng được các nhu cầu của mình với lợi ích thiết thực. Con người
có thể liên lạc được với nhau ở những nơi rất xa bằng điện thoại di động.
Truy cập thông tin mọi lúc mọi nơi với kết nối internet. Di chuyển trên bầu
trời vòng quanh thế giới bằng máy bay. Thậm chí vươn ra khỏi Trái đất,
khám phá các hành tinh xa xôi mà ngày xưa tưởng như là không thể. Tuy
nhiên, cùng với lợi ích là những tác động tiêu cực tới môi trường sống của
tất cả các loài sinh vật và bầu khí quyển của trái đất. Đó là những hiện
tượng về biến đổi khí hậu, sự nóng lên của trái đất hay nước biển dâng.
Cùng với sự biến đổi khí hậu toàn cầu, Việt Nam là một trong những
nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất. Theo Viện trưởng Viện Khoa học Khí
tượng thủy văn và Môi trường Trần Thục:” Nếu mực nước biển dâng cao
1m sẽ có khoảng 40% diện tích ĐBSCL, 11% diện tích đồng bằng sông
Hồng và 3% diện tích của các tỉnh khác thuộc vùng ven biển sẽ bị ngập.
Trong đó, TPHCM sẽ bị ngập trên 20% diện tích; khoảng 10-12% dân số
nước ta bị ảnh hưởng trực tiếp và tổn thất khoảng 10% GDP”. Như vậy có
thể thấy tác động của biến đổi khí hậu đến nước ta là rất lớn. Truyền thông
đại chúng là một phương tiện hữu ích và phổ biến để nâng cao nhận thức
của con người trong việc khắc phục hậu quả do biến đổi khí hậu gây ra
cũng như ý thức bảo vệ môi trường, góp phần làm giảm những tác động
xấu từ môi trường.
Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài “ Truyền thông đại chúng với vấn đề biến
đổi khí hậu (khảo sát một loại hình phương tiện truyền thông đại chúng ,
thời gian khảo sát trong khoảng từ tháng 1 đến tháng 8/ 2014).” Để nghiên
cứu trong tiểu luận môn Hệ thống truyền thông đại chúng trong xã hội hiện
đại.

1



Chương 1: Cơ sở lý luận
1. Truyền thông đại chúng
1.1. Khái niệm
Trong tiếng Anh truyền thông đại chúng là mass communication là
hoạt động truyền phát và tiếp nhận thông tin có quy mô tác động xã hội
rộng rãi, đồng loạt và hiệu quả giao tiếp lớn.
Khái niệm truyền thông đại chúng (TTĐC) nhìn từ phương tiện
chuyển tải thông điệp là hệ thống các kênh truyền thông hướng tác động
vào đông đảo công chúng xã hội để thông tin và chia sẻ tư tưởng, tình cảm,
kỹ năng và kinh nghiệm…, nhằm lôi kéo và thuyết phục , tập hợp và tổ
chức đông đảo dân cư tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế- xã hội đã và
đang đặt ra.
TTĐC phát triển từ trình độ đơn giản tới phức tạp, hiện đại, bao gồm
báo chí (báo in, phát thanh, truyền hình, mạng ..) và các kênh truyền thông
khác như sách, điện ảnh, các phương tiện nghe nhìn, panô- áp phích…
1.2. Các Phương tiện truyền thông đại chúng
Phương tiện truyền thông đại chúng được dùng để thông tin rộng rãi
trong xã hội phục vụ cho quá trình truyền thông đại chúng:
Gồm có :
+ Truyền hình, hay còn được gọi là TV (Tivi) hay vô tuyến truyền
hình (truyền hình không dây), máy thu hình, máy phát hình là hệ thống điện
tử viễn thông có khả năng thu nhận tín hiệu sóng và tín hiệu qua
đường cáp để chuyển thành hình ảnh và âm thanh (truyền thanh truyền
hình) và là một loại máy phát hình truyền tải nội dung chủ yếu bằng hình
ảnh sống động và âm thanh kèm theo. Máy truyền hình là máy nhận những
tín hiệu đó (qua ăng-ten) và phát bằng hình ảnh. Bao gồm có các chương
trình thời sự - chính luận, chương trình giải trí, chương trình phim. Truyền
hình là một lĩnh vực đa ngành nghề có tính tổng hợp, như ánh sáng, trang
trí sân khấu, âm thanh…


2


+ Radio, hay vô tuyến truyền thanh là thiết bị kỹ thuật ứng dụng sự
chuyển giao thông tin không dây dùng cách biến điệu sóng điện từcó tần
số thấp hơn tần số của ánh sáng, đó là sóng radio. Sóng dùng trong radio có
tần số trong khoảng từ 3Hz (dải tần ELF) đến 300GHz (dải tần EHF). Tuy
nhiên, từ dải tần SHF đến EHF, tức là từ tần số 3GHZ đến 300GHz, bức xạ
điện từ này thường gọi là sóng vi ba. Từ radio còn được dùng để chỉ máy
thu thanh - một thiết bị điện tử dùng để nhận về các sóng âm đã được biến
điệu qua ăng ten để khuếch đại, phục hồi lại dạng âm thanh ban đầu, và cho
phát ra ở loa. Bao gồm các chương trình thời sự, chương trình ca nhạc, giải
trí…
+ Báo (sách, tạp chí, phim ảnh và các ấn phẩm)
Báo, hay gọi đầy đủ là báo chí (xuất phát từ 2 từ "báo" - thông báo và "chí" - giấy), nói một cách khái quát là những xuất bản phẩm định kỳ,
như nhật báo hay tạp chí. Nhưng cũng để chỉ cả các loại hình truyền thông
khác như đài phát thanh, đài truyền hình. Định nghĩa này cũng áp dụng
được cho một tạp chí liên tục xuất bản trên web (báo điện tử).
Ấn phẩm: là các sản phẩm của ngành in ấn.Theo tính chất phát hành
Ấn phẩm là xuất bản phẩm bao gồm các loại như sách, báo, tạp
chí (xuất bản định kì, nhiều kì, không định kì); ấn phẩm tờ rời như bản
nhạc, bản đồ, tranh ảnh...
Ấn phẩm không phải là xuất bản phẩm bao gồm các loại như nhãn
hiệu, bao bì, mẫu biểu, tài liệu thống kê, thiếp mời, danh thiếp...
Xuất bản phẩm là tên gọi chung của những sản phẩm xuất bản được
in thành nhiều bản để phát hành: sách, báo, tranh ảnh, băng nhạc, băng
hình, đĩa hình... Điều 4, Luật xuất bản năm 2004 quy định: "Xuất bản phẩm
là tác phẩm, tài liệu về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ, văn học, nghệ thuật được xuất bản bằng tiếng
Việt, tiếng dân tộc thiểu số Việt Nam, tiếng nước ngoài và được thể hiện

bằng hình ảnh, âm thanh trên các vật liệu, phương tiện kĩ thuật khác nhau.
3


Trong các loại hình Xuất bản phẩm, sách là bộ phận cơ bản nhất, phổ biến
nhất và ra đời sớm nhất. Hiện nay, Xuất bản phẩm còn tồn tại ở nhiều dạng
khác: băng, đĩa, sách, báo điện tử..."
• Tạp chí:
Xuất bản phẩm định kì, có tính chất chuyên ngành, đăng nhiều bài do
nhiều người viết, đóng thành tập, thường có khổ nhỏ hơn báo.
• Sách: Là một sản phẩm của xã hội, là một công cụ để tích lũy,
truyền bá tri thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sách chứa đựng các giá trị
văn hóa tinh thần (các tác phẩm sáng tác hoặc tài liệu biên soạn) thuộc các
hình thái ý thức xã hội và nghệ thuật khác nhau, được ghi lại dưới các dạng
ngôn ngữ khác nhau (chữ viết, hình ảnh, âm thanh, ký hiệu,...) của các dân
tộc khác nhau nhằm để lưu trữ, tích lũy, truyền bá trong xã hội.
Là một khái niệm mở, hình thức sách còn được thay đổi và cấu thành
các dạng khác nhau theo các phương thức chế tác và nhân bản khác nhau,
tùy thuộc vào môi trường sống và sự phát triển của khoa học công nghệ ở
mỗi thời đại.
• Điện ảnh:
Là một khái niệm lớn bao gồm các bộ phim tạo bởi những khung
hình chuyển động (phim); kỹ thuật ghi lại hình ảnh, âm thanh và ánh sáng
để tạo thành một bộ phim (kỹ thuật điện ảnh); hình thức nghệ thuật liên
quan đến việc tạo ra các bộ phim và cuối cùng ngành công nghiệp và
thương mại liên quan đến các công đoạn làm, quảng bá và phân phối phim
ảnh (công nghiệp điện ảnh).
Trong tiếng Việt, điện ảnh đôi khi còn được gọi là Xi-nê, xuất phát từ
"cinéma" (điện ảnh trong tiếng Pháp) vốn là từ rút gọn của
"cinématographe". "Cinématographe" (xuất phát từ tiếng Hy Lạp κίνημα kínēma có nghĩa là chuyển động, còn γράφειν - gráphein có nghĩa là ghi lại)

là cái tên được Léon Bouly đặt cho chiếc máy ghi lại hình ảnh của ông

4


trong đăng ký bằng sáng chế số 219 350 năm 1892, một trong những mốc
sự kiện khai sinh ra ngành điện ảnh.
Khi mới được phát minh, điện ảnh chỉ được coi là các bộ phim ghi
lại cảnh sinh hoạt đời thường, nhưng chỉ ít lâu sau, các bộ phim đã được tạo
ra với những ý đồ văn hóa nhất định và nhanh chóng trở thành một loại
hình nghệ thuật quan trọng. Điện ảnh cũng trở thành một hình thức giải trí
không thể thiếu trong đời sống thường nhật, đôi khi còn phát triển thành
những hiện tượng văn hóa hoặc được sử dụng như các phương tiện tuyên
truyền.
Xét trên phương diện nghệ thuật, điện ảnh thường được gọi là nghệ
thuật thứ bảy. Sáu nghệ thuật trước đó theo phân loại của Hegel là kiến
trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, múa và thi ca. Điện ảnh được dùng để
nói đến những bộ phim trình chiếu ở rạp, khác với những phim truyền hình.
Vì lý do đó, từ "màn bạc" hay "màn ảnh lớn" cũng được dùng để chỉ điện
ảnh (màn ảnh rạp chiếu phim có màu trắng), phân biệt với truyền hình,
được gọi là màn ảnh nhỏ.
Trong tiếng Việt, các phim điện ảnh được gọi là "phim nhựa", phân
biệt với phim video. Nhưng thực tế, phim nhựa không phải là chất liệu duy
nhất của điện ảnh. Có những phim dùng chất liệu video đã được làm lại để
trình chiếu ở rạp và ngược lại, một số phim truyền hình cũng sử dụng chất
liệu phim nhựa. Đặc biệt với sự phát triển của kỹ thuật số, có cả những
phim điện ảnh và phim truyền hình đều dùng công nghệ này.
+ Internet (thường được đọc theo khẩu âm tiếng Việt là "in-tơ-nét")
là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công cộng gồm
các mạng máy tính được liên kết với nhau. Hệ thống này truyền thông tin

theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa trên một giao thức
liên mạng đã được chuẩn hóa (giao thức IP). Hệ thống này bao gồm hàng
ngàn mạng máy tính nhỏ hơn của các doanh nghiệp, của các viện nghiên

5


cứu và các trường đại học, của người dùng cá nhân, và các chính phủ trên
toàn cầu.
Một số kênh truyền thông khác: tờ rơi, tờ gấp, pa nô- áp phích, và
các dạng truyền thông khác trên mạng internet…
1.3. Vai trò của truyền thông đại chúng với vấn đề biến đổi khí hậu
Truyền thông đại chúng có vai trò quan trọng của trong việc góp
phần tăng cường nhận thức của công chúng, huy động lực lượng xã hội
trong thực hiện nhiệm vụ phòng chống, giảm nhẹ tác động của biến đổi khí
hậu. Nhóm tác giả TS Nguyễn Hương Trà, ThS Nguyễn Thị Tuyết Minh
khẳng định: Truyền thông với vai trò là phương tiện giáo dục nhận thức
thông qua việc truyền tải, giải thích, tuyên truyền, vận động… góp phần tạo
dư luận xã hội và môi trường thuận lợi cho việc thay đổi thái độ và hành vi
của các nhóm xã hội. Bên cạnh đó, truyền thông còn có vai trò truyền đạt
thông tin của các nhà quản lý, nhà khoa học đến với nhân dân và tiếp nhận
ý kiến phản hồi của của các tầng lớp nhân dân.
2. Biến Đổi khí hậu
2.1. Khái niệm về biến đổi khí hậu
Khái niệm chung:
Biến đổi khí hậu trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu gồm khí
quyển, thuỷ quyển, sinh quyển, thạch quyển hiện tại và trong tương lai bởi
các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo.
Theo công ước chung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu:
Biến đổi khí hậu là “những ảnh hưởng có hại của biến đổi khí hậu”,

là những biến đổi trong môi trường vật lý hoặc sinh học gây ra những ảnh
hưởng có hại đáng kể đến thành phần, khả năng phục hồi hoặc sinh sản của
các hệ sinh thái tự nhiên và được quản lý hoặc đến hoạt động của các hệ
thống kinh tế - xã hội hoặc đến sức khỏe và phúc lợi của con người

6


2.2. Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu
Có hai nguyên nhân chính tác động đến biến đổi khí hậu là do các
yếu tố tự nhiên và do các yếu tố nhân tạo. Tuy nhiên các nguyên nhân gây
ra biến đổi khí hậu do tự nhiên đóng góp một phần rất nhỏ vào sự biến đổi
khí hậu và có tính chu kỳ kể từ quá khứ đến hiện tại. Vì vậy, tác động lớn
nhất là do chính con người.
2.2.1. Nguyên nhân do tự nhiên
a) Điểm đen mặt trời (Sunspots)
Sự xuất hiện các điểm đen làm cho cường độ tia bức xạ mặt trời
chiếu xuống trái đất thay đổi, nghĩa là năng lượng chiếu xuống mặt đất thay
đổi làm thay đổi nhiệt độ bề mặt trái đất. Qua biểu đồ hình 4 dưới đây, có
thể thấy mặt độ điểm đen từ năm 1750 đến 2011 mang tính chu kỳ nhưng
không ổn định. Cứ sau một số năm nhất định, các điểm đen này lại đạt cực
đại.
Sự thay đổi cường độ sáng của Mặt trời gây ra sự thay đổi năng
lượng chiếu xuống mặt đất làm thay đổi nhiệt độ bề mặt trái đất. Cụ thể, từ
khi tạo thành Mặt trời đến nay gần 4,5 tỷ năm, cường độ sáng của Mặt trời
đã tăng lên hơn 30%. Với khoảng thời gian khá dài như vậy thì sự thay đổi
cường độ sáng mặt trời có ảnh hưởng đến biến đổi khí hậu nhưng không
đáng kể.
b) Núi lửa phun trào
Khi một ngọn núi lửa phun trào sẽ phát thải vào khí quyển một lượng

cực kỳ lớn khối lượng sulfur dioxide (SO2), hơi nước, bụi và tro vào bầu
khí quyển. Các hạt nhỏ được gọi là các sol khí được phun ra bởi núi lửa,
các sol khí phản chiếu lại bức xạ (năng lượng) mặt trời trở lại vào không
gian vì vậy chúng có tác dụng làm giảm nhiệt độ lớp bề mặt trái đất.
Ví dụ điển hình là vào năm 1815, một trận phun trào núi lửa rất
mạnh của núi Tambora thuộc đảo Sumbawa, Indonesia đã khiến nơi đây
không có mùa hè trong một năm.

7


Có một yếu tố khác cũng có thể tác động đến núi lửa, đó là sự va
chạm của các thiên thạch từ vũ trụ vào Trái đất gây nên các vụ nổ, phun
trào núi lửa… Tuy nhiên, chúng rất hiếm khi xảy ra. Bầu khí quyển là một
lá chắn ngăn cản các thiên thạch nhỏ bay vào Trái đất. Còn các thiên thạch
lớn khi va vào Trái đất mà không thể bị cản lại, theo các nhà khoa học, chỉ
có thể xảy ra trong hàng chục triệu năm nữa.
c) Đại dương
Các đại dương là một thành phần chính của hệ thống khí hậu. Dòng
hải lưu di chuyển một lượng lớn nhiệt trên khắp hành tinh. Chính sự
chuyển động này đã làm biến đổi khí hậu ở những nơi nó đi qua. Hình
thành nên những vùng khí hậu điển hình như ngày nay. Những dao động
ngắn hạn (vài năm đến vài thập niên) như El Nino hay La Nina gây ra sự
thay đổi khí hậu nhưng không lâu dài.
d) Sự trôi dạt của các lục địa
Qua hàng triệu năm, sự chuyển động của các mảng làm tái sắp xếp
các lục địa và đại dương trên toàn cầu đồng thời hình thành lên địa hình bề
mặt. Đều này có thể ảnh hưởng đến các kiểu khí hậu khu vực và toàn cầu
cũng như các dòng tuần hoàn khí quyển-đại dương. Vị trí của các lục địa
tạo nên hình dạng của các đại dương và tác động đến các kiểu dòng chảy

trong đại dương. Vị trí của các biển đóng vai trò quan trọng trong việc
kiểm soát sự truyền nhiệt và độ ẩm trên toàn cầu và hình thành nên khí hậu
toàn cầu.
2.2.2. Nguyên nhân do con người
Khí hậu Trái đất chịu ảnh hưởng rất lớn của cân bằng nhiệt khí
quyển. Khi yếu tố này bị ảnh hưởng sẽ tác động rất lớn gây biến đổi khí
hậu. Cân bằng nhiệt xảy ra nhờ các khí nhà kính như CO 2, CH4, NOx… hấp
thụ bức xạ hồng ngoại do mặt đất phát ra, sau đó, một phần lượng bức xạ
này lại được các chất khí đó phát xạ trở lại mặt đất, qua đó hạn chế lượng
bức xạ hồng ngoại của mặt đất thoát ra ngoài khoảng không vũ trụ và giữ
8


cho mặt đất khỏi bị lạnh đi quá nhiều, nhất là về ban đêm khi không có bức
xạ mặt trời chiếu tới mặt đất. Nếu không có các chất khí nhà kính tự nhiên,
trái đất của chúng ta sẽ lạnh hơn hiện nay khoảng 33 oC, tức là nhiệt độ
trung bình trái đất sẽ khoảng 18 oC. Hiệu ứng giữ cho bề mặt trái đất ấm
hơn so với trường hợp không có các khí nhà kính được gọi là “Hiệu ứng
nhà kính” (greenhouse effect).

Hiệu ứng nhà kính (greenhouse effect)
Trong thành phần của khí quyển trái đất, khí nitơ chiếm 78% khối
lượng, khí oxy chiếm 21%, còn lại khoảng 1% các khí khác như Ar, CO 2,
CH4, NOx, Ne, He, H2, O3,… và hơi nước. Tuy chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ,
các khí vết này, đặc biệt là khí CO 2, CH4, NOx, và CFCs (một loại khí mới
chỉ có trong khí quyển từ khi công nghệ làm lạnh phát triển), là những khí
có vai trò rất quan trọng đối với sự sống trên trái đất.
Trong quá trình phát triển, con người càng ngày càng sử dụng nhiều
năng lượng. Đặc biệt là năng lượng hóa thạch (than, dầu khí, khí đốt, băng
cháy…) làm gia tăng các khí nhà kính vào khí quyển, gây hiệu ứng nhà

kính làm mất cân bằng nhiệt. Khí tác động chủ yếu là CO2. Trước thời kỳ
nền công nghiệp phát triển, nồng độ các chất khí nhà kính rất ít thay đổi,
trong đó khí CO2 chưa bao giờ vượt quá 300ppm. Chỉ riêng lượng phát thải
9


khí CO2 do sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã tăng hàng năm trung bình tỷ lệ
từ 6,4 tỷ tấn cacbon (xấp xỉ 23,5 tỷ tấn CO2) trong những năm 1990 lên đến
7,2 tỷ tấn cacbon (xấp xỉ 45,9 tỷ tấn CO2) mỗi năm trong thời kỳ từ 2000 –
2005.
Thông qua biểu đồ hình 1.7. có thể thấy hàm lượng CO 2 tăng liên tục
qua từng năm từ 315ppm (phần triệu) đến 385 ppm.
Hàm lượng các khí nhà kính khác như khí CH4, N2O cũng tăng lần
lượt từ 715ppb (phần tỷ) và 270ppb trong thời kỳ tiền công nghiệp lên
1774ppb (151%) và 319ppb (17%) vào năm 2005. Riêng các chất khí
chlorofluoro carbon (CFCs) vừa là khí nhà kính với tiềm năng làm nóng
lên toàn cầu lớn gấp nhiều lần khí CO2, vừa là chất phá hủy tầng ozon bình
lưu. Tầng ozon của khí quyển có tác dụng hấp thụ các bức xạ tử ngoại từ
mặt trời chiếu tới trái đất và thông qua đó bảo vệ sự sống trên trái đất.
2.3. Thực trạng biến đổi khí hậu tại Việt Nam( số liệu năm 2012)
Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của
biến đổi khí hậu. Nhiệt độ tăng, mực nước biển dâng gây ngập lụt, gây
nhiễm mặn nguồn nước, ảnh hưởng đến nông nghiệp, gây rủi ro lớn đối với
công nghiệp và các hệ thống kinh tế- xã hội trong tương lai. Ở Việt Nam
trong khoảng 50 năm qua, nhiệt độ trung bình năm đã tăng khoảng 0,5 0,7oC, mực nước biển đã dâng khoảng 20cm. Biến đổi khí hậu đã làm cho
các thiên tai, đặc biệt là bão, lũ, hạn hán ngày càng ác liệt.
Ở Việt Nam, kết quả phân tích các số liệu khí hậu cho thấy biến đổi
của các yếu tố khí hậu và mực nước biển có những điểm đáng lưu ý sau:
Nhiệt độ: Trong 50 năm qua (1958 - 2007), nhiệt độ trung bình năm
ở Việt Nam tăng lên khoảng từ 0,5 oC đến 0,7oC. Nhiệt độ mùa đông tăng

nhanh hơn nhiệt độ mùa hè và nhiệt độ ở các vùng khí hậu phía Bắc tăng
nhanh hơn ở các vùng khí hậu phía Nam.
Lượng mưa: Lượng mưa mùa mưa (tháng V-X) giảm từ 5 đến hơn
10% trên đa phần diện tích phía Bắc nước ta và tăng khoảng 5 đến 20% ở
các vùng khí hậu phía Nam. Xu thế diễn biến của lượng mưa năm tương tự
10


như lượng mưa mùa mưa, tăng ở các vùng khí hậu phía Nam và giảm ở các
vùng khí hậu phía Bắc. Khu vực Nam Trung Bộ có lượng mưa mùa khô,
mùa mưa và lượng mưa năm tăng mạnh nhất so với các vùng khác ở nước
ta, nhiều nơi đến 20% trong 50 năm qua
Xoáy thuận nhiệt đới: Số lượng xoáy thuận nhiệt đới hoạt động trên
khu vực Biển Đông có xu hướng tăng nhẹ, trong khi đó số cơn ảnh hưởng
hoặc đổ bộ vào đất liền Việt Nam không có xu hướng biến đổi rõ ràng.

Diễn biến của số cơn xoáy thuận nhiệt đới hoạt động ở Biển Đông,
ảnh hưởng và đổ bộ đất liền Việt Nam trong 50 năm qua
(Nguồn:IMHEN/2010)
Khu vực đổ bộ của các cơn bão và áp thấp nhiệt đới vào Việt Nam có
xu hướng lùi dần về phía Nam lãnh thổ nước ta; số lượng các cơn bão rất
mạnh có xu hướng gia tăng; mùa bão có dấu hiệu kết thúc muộn hơn trong
thời gian gần đây. Mức độ ảnh hưởng của bão đến nước ta có xu hướng
mạnh lên.
Mực nước biển: số liệu mực nước quan trắc tại các trạm hải văn ven
biển Việt Nam cho thấy xu thế biến đổi mực nước biển trung bình năm
không giống nhau. Hầu hết các trạm có xu hướng tăng, tuy nhiên, một số ít
trạm lại không thể hiện rõ xu hướng này. Xu thế biến đổi trung bình của
mực nước biển dọc bờ biển Việt Nam là khoảng 2,8mm/năm.


11


CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
VỚI VẤN ĐỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU
1. Thực trạng hoạt động truyền thông đại chúng với vấn đề biến
đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu hiện đang là mối quan tâm của tất cả các quốc gia
trên thế giới. Công tác nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của biến đổi khí hậu
đến các mặt kinh tế - xã hội, các ngành, các đối tượng khác nhau hiện đang
được thực hiện tại nhiều quốc gia cũng như ở nước ta nhằm kịp thời có
những biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tác động của biến đổi khí hậu với Việt Nam là vô cùng nghiêm
trọng, là nguy cơ gây cản trở cho mục tiêu xóa đối giảm nghèo, cho việc
thực hiện các mục tiêu thiên nhiên kỷ và phát triển bền vững. Việt Nam là
một trong 5 quốc gia sẽ bị tổn thương và chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của
biến đổi khí hậu nên nghiên cứu về biến đổi khí hậu, xu thế và tác động của
nó tại Việt Nam là rất cần thiết.
Tuy nhiên, hiện nay hiểu biết và nhận thức của công chúng về biến
đổi khí hậu còn chưa cao. Một trong những nguyên nhân chính là truyền
thông còn chưa thực sự quan tâm đến vấn đề này.
Các vấn đề biến đổi khí hậu đã được chú ý phản ánh trên các phương tiện
truyền thông đại chúng và đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ.Kết quả
khảo sát hơn 35.500 người tại Việt Nam và 6 nước trong khu vực
(Bangladesh, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Nepal, Pakistan) của dự án
Climate Asia cho thấy, Việt Nam dẫn đầu khu vực về thông tin tới cộng
đồng ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Theo đó, 41% người được hỏi tại
Việt Nam cho biết họ thiếu thông tin về biến đổi khí hậu, trong khi tỷ lệ
này ở Nepal là 60%, ở Trung Quốc và Ấn Độ là 80%, Bangladesh là
57%,...


12


Các phương tiện thông tin đại chúng đã bám sát đưa tin về các chủ trương,
chính sách mới liên quan đến biến đổi khí hậu. Hậu quả của biến đổi khí
hậu cũng được phản ánh khá đa dạng. Tuy nhiên, tuyên truyền về biến đổi
khí hậu, thông tin đại chúng vẫn tồn tại một số vấn đề cần khắc phục. Kết
quả nghiên cứu của Khoa Xã hội học (Học viện Báo chí và Tuyên truyền)
cho thấy, số lượng các bài báo thể hiện rõ mối liên hệ giữa thiên tai với
biến đổi khí hậu còn ít, thiếu tính định hướng công chúng về vấn đề bảo vệ
môi trường, hạn chế biến đổi khí hậu. Hậu quả biến đổi khí hậu được
truyền tải nhưng còn chung chung, chủ yếu trên phương diện kinh tế, thể
chất của con người mà chưa đề cập đến hậu quả đối với văn hóa, xã hội.
Thông tin còn một chiều, chưa tạo được các diễn đàn để trao đổi.
Theo nhận xét mới được đưa ra của PANOS, một mạng lưới toàn cầu
của các tổ chức phi chính phủ hợp tác về truyền thông để thúc đẩy phát
triển cho rằng các nước đang phát triển chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của
biến đổi khí hậu, tuy nhiên hoạt động truyền thông của họ không mặn mà
lắm trong việc đưa tin về thảm họa môi trường này và Việt Nam cũng
không nằm ngoài nhận xét trên.
Cho đến nay, chính phủ Việt Nam đã có nhiều hoạt động ứng phó với
BĐKH như xây dựng các kịch bản BĐKH quốc gia và cho các tỉnh thành,
xây dựng và triển khai chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH.
Tuy nhiên, vấn đề truyền thông trong lĩnh vực biến đổi khí hậu vẫn
còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan.
Nhóm nghiên cứu của mạng lưới này chỉ ra rằng: Trong một tháng, chỉ có
hơn 2 bài báo về những vấn đề, hiện tượng liên quan đến biến đổi khí hậu.
Kết quả trên được đưa ra sau hai tháng khảo sát 5 tờ báo in hàng ngày gồm
Lao động, Tuổi trẻ, Nhân dân, Hà Nội mới, Báo Đồng Nai và các chương

trình phát sóng: Tài nguyên và Môi trường phát hàng ngày của Đài Tiếng
nói Việt Nam và Tạp chí Môi trường và Tài nguyên phát hàng tuần trên Đài
Phát thanh và Truyền hình Hà Nội.
13


Cũng trong kết quả nghiên cứu của Viện nghiên cứu sức khỏe, môi
trường và phát triển nhận xét rằng hiện nay, các cơ quan truyền thông tại
Việt Nam chỉ đưa tin về biến đổi khí hậu ở bề rộng ở mức độ quốc gia và
toàn cầu, không có mối liên quan giữa các vấn đề và hiện trạng ở địa
phương.
Mặc dù có rất nhiều bài báo đề cập đến các thảm họa thiên nhiên do biến đổi khí hậu
gây ra như lũ lụt, bão, nước ngầm nhưng chưa có nhà báo nào chỉ ra mối liên hệ giữa các hiện
tượng trên và biến đổi khí hậu.

Thêm vào đó, theo thông tin do Tổ chức Đông Tây hội ngộ (EMWF)
từng công bố trong kết quả nghiên cứu về “Sự thích ứng với BĐKH ở tỉnh
Quảng Nam”, thì có khoảng 49% người được phỏng vấn không biết về các
chính sách và quy trình của Nhà nước, 72% không biết về các kế hoạch
chuẩn bị phòng chống thiên tai… Vì thế, họ không có khả năng lên kế
hoạch và chuẩn bị ứng phó với thiên tai.
Kết quả nghiên cứu trên nằm trong khuôn khổ một dự án do Quỹ
FORD tài trợ trị giá 99.000 USD. Nghiên cứu được tiến hành trên 125 gia
đình ở 25 cộng đồng dân cư ở tỉnh miền trung Quảng Nam với địa bàn cư
trú bao gồm cả ven biển, núi cao và đồng bằng. Mục đích cuối cùng của dự
án nghiên cứu là để đưa ra một bộ tài liệu hướng dẫn để lập kế hoạch cho
các chương trình BĐKH.
Kết quả này cũng cho biết, các ngôi nhà được khảo sát cũng không
được thiết kế, xây dựng có khả năng chống chịu các thiên tai. Cụ thể, 90%
các ngôi nhà đều được làm bằng tre, gỗ hay chỉ xây tường đơn. Mái, tường,

cửa đều giản đơn, không đủ sức chống chọi lại các cơn bão lũ thường xảy
ra. 66% nhà của những người được phỏng vấn thường xuyên bị bão lũ phá
hỏng.
Nguyên nhân trước hết là docác nhà quản lý, khi tiếp xúc với báo chí, chưa
đề cập đến mối liên hệ giữa biến đổi khí hậu và những tác động tiêu cực tại
Việt Nam.
14


Theo ông James Fahn, Giám đốc Mạng lưới nhà báo Trái đất (EJN),
nguyên nhân còn nằm ở chỗ biến đổi khí hậu là một đề tài rất khó và không
phải nhà báo nào cũng có thể hiểu hết khi mới tiếp cận. Đồng thời, ở Việt
Nam hiện nay không có nhiều nhà báo chuyên viết về môi trường. Các nhà
báo thường phải viết về nhiều chủ đề khác nhau, nhất là nhà báo làm việc
tại các ấn phẩm xuất bản hàng ngày. Họ thường chỉ đưa tin về biến đổi khí
hậu khi có các hội nghị hay sự kiện lớn liên quan đến vấn đề này.
Một lý do nữa, những nhà báo phụ trách các chuyên mục hay tờ báo không
hiểu hoặc không quan tâm đến biến đổi khí hậu. Do đó, họ không dành ưu
tiên cho những bài báo thuộc đề tài trên.
Biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ tác động tới tất cả mọi người trong
cộng đồng. Từ những hiện trạng và những nguyên nhân được phân tích ở
trên cho thấy truyền thông cần được xem là một công cụ quan trọng, cơ bản
tác động trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi thái độ, hành vi của con
người trong cộng đồng từ đó thúc đẩy họ tự nguyện tham gia vào các hoạt
động thích ứng, giảm nhẹ BĐKH. Do đó, cần phải đẩy mạnh hơn nữa các
chiến dịch truyền thông về biến đổi khí hậu cho cộng đồng cũng như trang
bị các kiến thức liên quan cho các phóng viên, nhà báo là một vấn đề hết
sức quan trọng và cấp bách.
Một khi nhận thức của người dân và các cấp chính quyền về BĐKH
được nâng cao, nếu con người có những hành vi ứng xử thân thiện với môi

trường, nếu cộng đồng được trang bị những kỹ năng cơ bản để ứng phó với
các vấn đề liên quan đến biến đổi khí hậu trong cuộc sống hằng ngày thì
gánh nặng trách nhiệm ứng phó với BĐKH sẽ không còn là của riêng các
nhà quản lý nữa mà sẽ được san sẻ trong cả cộng đồng.
2. Khảo sát trên một số báo mạng điện tử trong khoảng thời gian từ
tháng 1 đến tháng 8/ 2014
Việc khảo sát số lượng tin bài đăng tải trên một số báo mạng:
dantri.com.vn, tuoitre.vn, nongnghiep.com.vn, monre.gov.vn trong khoảng

15


thời gian từ 1/1/ 2014 đến tháng1/ 8/ 2014 về vấn đề biến đổi khí hậu, sẽ
được lựa chọn theo một số từ khóa liên quan như : biến đổi khí hậu, ôi
nhiễm môi trường, tài nguyên nước, suy thoái rừng, nước biển dâng, phát
thải khí nhà kính. Kết quả nhận được :
Cụm từ khóa

Dân trí

Nông

Tuổi trẻ

Monre.gov

26
01

43

10

4
04
16

19
12
32

nghiệp Việt
Biến đổi khí hậu
Phát thải khí nhà

09
01

Nam
46
4

kính
Suy thoái rừng
Nước biển dâng
Ôi nhiễm môi

02
06
24


12
9
34

trường
Tài nguyên nước
4
08
6
21
Tổng số
46
113
57
137
Thông qua kết quả khảo sát nhận thấy ở những tờ báo mạng mang
tính chất chuyên ngành như báo nông nghiệp Việt Nam hay cổng thông tin
bộ tài nguyên và môi trường: monre.gov.vn thì số lượng và tần suất tin bài
nhiều hơn trung bình 1tin, bài/ 2 ngày. Hai báo còn lại số lượng và tần suất
ít hơn trung bình 1 tin, bài/ 4 ngày. Với cụm từ “biến đổi khí hậu” xuất hiện
nhiều nhất. Lượng tin bài trong quá trình khảo sát đề cập đến cả vấn đề
biến đổi khí hậu thế giới và Việt Nam, tuy nhiên chỉ đưa ra ở diện rộng ở
phạm vi lãnh thổ quốc gia và toàn cầu ít có liên quan đến vấn đề hiện trạng
ở địa phương.Mặc dù có nhiều bài viết đề cập đén các thảm họa thiên nhiên
do biến đổi khí hậu gây ra như lũ lụt, bão, nước biển dâng nhưng ít có bài
viết mang tính chuyên sâu, phân tích cụ thể, chỉ là mối quan hệ giữa các
hiện tượng trên với biến đổi khí hậu.
Tuy nhiên so với trước đây truyền thông đã chú ý quan tâm tới vấn
đề biến đổi khí hậu hơn song thông tin vẫn chưa đầy đủ vẫn có khoảng
thiếu hụt nguồn tin, chưa xứng tầm với mức độ quan trọng của vấn đề.


16


KẾT LUẬN
Biến đổi khí hậu đang có những tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên
cuộc sống con người mà chúng ta hoàn toàn có thể cảm nhận được. Chất
lượng sống của con người ngày càng được nâng cao nhưng cùng với nó là
sự suy giảm chất lượng môi trường, biến đổi khí hậu sẽ gây ảnh hưởng tiêu
cực đến thế hệ mai sau và tương lai của chúng ta.
Các nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu do tự nhiên đóng góp một
phần rất nhỏ vào sự biến đổi khí hậu mà tác động lớn nhất là do chính con
người. Con người sẽ phải chịu trách nhiệm cho những hậu quả do chính
mình gây ra. Vì vậy, ngay từ bây giờ hãy hành động ý thức hơn để hạn chế
được những tác động do biến đổi khí hậu gây ra. Hoạt động truyền thông
đại chúng với vai trò quan trọng trong việc chuyển tải thông tin về biến đổi
khí hậu, giúp chính quyền và người dân nhận thức đầy đủ, chính xác và có
những hành động ứng phó kịp thời thì nghiên cứu và đẩy mạnh truyền
thông đại chúng là một trong những nhiệm vụ cấp thiết, đòi hỏi tính chủ
động, cần tập trung nghiên cứu kỹ hơn về đối tượng khán giả, để sản xuất
ra chương trình đánh trúng vào nhu cầu của khán giả; cần chú ý độ tưổi,
giới tính, nghề nghiệp cũng như là chuyên môn của khán giả.Nghiên cứu
đã tìm ra được những sản phẩm tác động sự biến đổi khí hậu hiện nay như
thế nào, đánh giá được mức độ số lượng cũng như là mức độ định lượng,
định tính. Đặc biệt là hướng tới những tác động, đưa ra khuyến nghị đối với
nhà nước, đến việc nâng cao chất lượng đến người xem.

17



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Đỗ Văn Bình, 2013, Bài giảng: các phương pháp điều tra địa sinh
thái và môi trường, ĐH Mỏ-địa chất.
2. PGS.TS. Nguyễn Văn Thắng, 2010, Biến đổi khí hậu và tác động ở Việt
Nam, NXB Khoa học và kỹ thuật.
3. PGS.TS. Trần Thục, PGS.TS. Nguyễn Văn Thắng, 2012, Kịch bản Biến
đổi khí hậu và nước biển dâng cho Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi
trường.
4. Hoàng Xuân Cự, Nguyễn Thị Phương Loan, 2010,Giáo trình Môi
trường và Con người, NXB Giáo dục Việt Nam
5. TS Nguyễn Trường Giang, Báo mạng điện tử những vấn đề cơ bản, 6.
6. PGS.TS Nguyễn Văn Dững, Báo chí Truyền thông hiện đại
7. Báo điện tử Dân trí:www. Dantri.com
8. Báo điện tử tuổi trẻ online: www.tuoitre.vn
9.
10. Báo điện tử nông nghiệp VN:www.nongnghiep.com.vn

18


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu..........................................................................................................1
Chương 1: Cơ sở lý luận...............................................................................2
1. Truyền thông đại chúng.............................................................................2
1.1. Khái niệm...............................................................................................2
Chương 2: Hoạt động truyền thông đại chúng............................................12
với vấn đề Biến đổi khí hậu.........................................................................12
1. Thực trạng hoạt động truyền thông đại chúng với vấn đề biến đổi khí hậu
.....................................................................................................................12

TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................................................18

19



×