Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Môn tác phẩm kinh điển tư tưởng của lê nin về xây dựng đảng vô sản kiếu mới trong tác phấm một bước tiến, hai bước lùi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.69 KB, 23 trang )

PHẦN A. MỞ ĐẦU

Ke tục sự nghiệp của c. Mác- Ph Anghen, các nhà sáng lập chủ nghĩa
xã hội khoa học, Lênin không chỉ vận dụng sáng tạo học thuyết của các ông
vào hoàn cảnh cụ thể của nước Nga, thực hiện thắng lợi cách mạng xã hội chủ
nghĩa tháng Mười vĩ đại, mà còn bảo vệ và phát triển xuât sắc toàn diện lý
luận đó trong điều kiện mới, góp phần làm giàu kho tàng lý luận của chủ
nghĩa Mác. Tư tưởng của Lênin về Đảng kiểu mới và xây dựng Đảng cộng
sản cầm quyền chính là sự bảo vệ và phát triển sáng tạo, độc đáo học thuyết
Mác vế Đảng cách mạng trong điều kiện nước Nga những năm đầu của thế kỷ
XX. Là lãnh tụ của giai cấp công nhân quốc tế, được hội đủ những phấm chất
thông thái của một nhà khoa học vĩ đại và tầm nhìn chiến lược của nhà cách
mạng thiên tài, từ khi bước vào hoạt động cách mạng, năm 1894, Lênin đã
sớm nhận ra yêu cầu của cách mạng Nga cần sớm xây dựng một đảng mác xít
chân chính “phải tổ chức một đảng công nhân xã hội chủ nghĩa”.
Trong hàng loạt các tác phấm của mình, Lênin, một mặt đã tỏ rõ thái
độ không khoan nhượng trước “chủ nghĩa kinh tế”, một biến dạng của
chủ nghĩa cơ hội quốc tế ở Nga và chủ nghĩa xét lại đủ mọi màu sắc để bảo vệ
chủ nghĩa Mác; mặt khác, đã luận chứng về vai trò không thể có một lý luận
nào ngoài chủ nghĩa Mác đối với đảng cách mạng và đối với phong trào cách
mạng. Lê -nin viết “Không thể có một đảng xã hội chủ nghĩa vững mạnh, nếu
không có lý luận cách mạng để đoàn kết những người xã hội chủ nghĩa lại, để
họ rút ra từ trong lý luận đó tất cả những tín điều của họ và đem áp dụng
những tín điều đó vào những phương pháp đấu tranh và phương sách hành
động của họ, và “không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong
trào cách mạng. Chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới
có một khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiên phong”. Đối với Đảng mác xít,
theo Lênin, đảng mác xit là bộ phận, đồng thời là đội tiền phong có tổ chức và
tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đảng chỉ có



thể vững mạnh và đoàn kết nếu nó được xây dựng trên nền tảng của chủ nghĩa
Mác, theo nguyên tắc tập trung dân chủ; Đảng cộng sản phải là hiện thân cho
mỗi liên hệ mật thiết với nhân dân lao động; Đảng phải có bản lĩnh chính trị
vững vàng trước những bước phát triển mới của cách mạng, có năng lực nắm
bắt qui luật và khả năng đề ra và thực hiện đường lối cách mạng phù hợp yêu
cầu phát triển của cách mạng. Những chỉ dẫn của Lênin cũng chính là những
định hướng, những nguyên tắc để xây dựng Đảng kiểu mới, Đảng cộng sản
cầm quyền.
Trong hoàn cảnh thực tiễn của phong trào cách mạng thế giới lúc bấy
giờ, những tư tưởng về Đảng kiểu mới của Lê - nin có ý nghĩa vô cùng quan
trọng, nú như ngọn đuốc soi đường cho phong trào cách mạng đang lâm vào
khủng hoảng thoái trào. Cách mạng Xã hội chủ nghĩa đã thắng lợi, phát triển
mạnh mẽ trên toàn thế giới, và cũng đã trải qua những khó khăn, có những
bước thụt lùi, song những tư tưởng của Lê - nin thì còn nguyên giá trị, nó là
kim chỉ nam, là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của một Đảng cách mạng
chân chính. Nhận thức được giá trị to lớn của những tư tưởng đó và trong điều
kiện Đảng cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo nhân dân cả nước đi lên Chủ
nghĩa xã hội hiện nay, em chọn đề tài: “ tư tưởng của Lê - nin về xây dựng
Đảng vô sản kiếu mới trong tác phấm một bước tiến, hai bước lùi” làm tiểu
luận.


PHẦN B. NỘI DƯNG
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA TÁC PHẨM.

Năm 1898, Đại hội lần thứ nhất của Đảng Công nhân dân chủ - xã hội
Nga tuyên bố thành lập Đảng, nhưng trên thực tế còn chưa hình thành, vì lúc
này Đảng chưa có cương lĩnh, điều lệ. Trung ương Đảng đều bị bắt, Đảng lâm
vào một tình trạng vô cùng khó khăn, lộn xộn về tư tưởng, phân tán về tổ
chức,


về tư tưởng: phái “kinh tế” phủ nhận vai trò của lý luận cách mạng,

phủ nhận vai trò của Đảng, sùng bái tính tự phát của phong trào công nhân,
coi đấu tranh kinh tế là tất cả.

về tổ chức: Đảng bao gồm nhiều nhóm riêng

biệt, phân tán ở các địa phương, không liên hệ về mặt tổ chức và thiếu một cơ
quan lãnh đạo tập trung thống nhất. Sau Đại hội I năm 1898 Đảng công nhân
dân chủ - xã hội Nga rơi vào tình trạng vô cùng khó khăn, trong hoàn cảnh đó
Lê - nin đã viết tác phẩm “làm gỡ” và hàng loạt các bài báo khác để đấu tranh
về mặt lý luận chống lại phái “kinh tế” tạo ra sự thống nhất về mặt lý luận,
cương lĩnh, sách lược trong Đảng .
Sau khi những quan điếm cơ hội chủ nghĩa của phái kinh tế bị đánh bại
trong Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga, Lê - nin đã tiến hành triệu tập
Đại hội II của Đảng vào tháng 7-1903. Đại hội có nhiệm vụ là thông qua
cương lĩnh điều lệ, bầu Ban chấp hành trung ương, kiện toàn cơ quan ngôn
luận của Đảng và phải “thành lập một Đảng chân chính trên các nguyên tắc và
cơ sở tổ chức do báo tia lửa đã nêu lên và thảo r a . . T r o n g Đai hội đã diễn
ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai phái Bôn - sê - vích và Men-sê-vích, cuối
cùng thì phần thắng thuộc về phái Bôn - sê -vích, Ban chấp hành mới được
thành lập, và ban biên tập báo “tia lửa” cũng được thành lập. Đây là một bước
tiến lớn trong phong trào công nhân Nga và những người dân chủ. Tuy nhiên
sau đó phái Men-sê-vích đã phản lại kết quả Đại hội, chiếm tờ báo và bịa đặt
nói xấu Lê - nin và những người Bôn- sê-vích. Thực tiễn đó đặt ra cho Lê nin và những người Bôn - sê - vích nhiệm vụ phải đánh bại bọn cơ hội xét lại,
bảo vệ chủ nghĩa Mác vê mặt tổ chức đảng. Trong tình hình đó, từ tháng 2 đến


tháng 5 năm 1904 tại Thụy Sĩ Lê - nin đã viết tác phẩm “một bước tiến, hai

bước lùi”.
II. NỘI DUNG CHÍNH CỦA TÁC PHẨM.

Trong tác phẩm “một bước tiến, hai bước lùi” Lê nin đã phân tích, làm
rõ nguồn gốc, diễn biến, ý nghĩa của cuộc đấu tranh trong Đảng công nhân
dân chủ - xã hội Nga, vạch trần âm mưu và thủ đoạn của bọn cơ hội chủ
nghĩa, xét lại, khẳng định nguyên tắc tổ chức Đảng theo kiếu mới- Đảng của
giai cấp công nhân, chứkhông phải đảng của một đội quân ô hợp, không có tổ
chức và kỷ luật.
Diễn biến của Đại hội II, thành phần triệu tập gồm 51 đại biểu của 26
tổchức đảng, có mặt tham dự tại Đại hội là 43 đại biểu. Do thành phần tham
gia Đại hội rất phức tạp nên ngay từ đầu đã phân thành nhiều phái khác nhau.
Nhóm “tia lửa” gồm 33 đại biểu do Lê - nin đứng đầu. Nhưng đến giữa Đại
hội thì nhóm này phân thành hai: phái thiểu số và phái đa số. Phái đa số còn
gọi là Bôn - sê - vích do Lê - nin đứng đầu, chiếm 24 người, và lãnh thổ.
Trong nhóm chống “tia lửa” còn có đại biểu của phái sự nghiệp công nhân.
Họ chống lại nguyên tắc của báo “tia lửa” về cả mặt cương lĩnh, sách lược và
tố chức. Ba là nhóm lưng chừng ngả nghiêng, gồm đại biếu của nhóm công
nhân miền Nam, nhóm này ngoài miệng thì thừa nhận báo tia lửa, nhưng đồng
thời lại có kế hoạch riêng, họ không vững vàng về nguyên tắc. Ngoài nhóm
nhỏ này ra còn có một số nhóm nhỏ khác phụ thuộc vào nhóm công nhân
miền Nam do đó có cùng chung lập trường cơ hội.
Sự tồn tại từ đầu các nhóm với khuynh hướng chính trị khác nhau là
nguồn gốc của cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng: khuynh hướng cách
mạng và khuynh hướng cơ hội trong suốt quá trình Đại hội và sau Đại hội trên
tất cả những vấn đề về cương lĩnh, sách lược và điều lệ. Nội dung chủ yếu của
tác phẩm “ một bước tiến, hai bước lùi” được chia làm bốn phần:
-

Phần thứ nhất: Trong phần này đề cập đến việc chuẩn bị Đại hội


và ý nghĩa của việc phân chia phe phái tại Đại hội. Vạch trần những luận điệu


của phái Men - sê - ví ch trong việc phủ nhận Đại hội: “ Đại hội không phải
là thần thánh và nghị quyết của Đại hội không phải là thiêng liêng''’ vạch
trần luận điệu cho rằng, việc phân các nhóm chính trị trong đại hội là “mảnh
khỏe chính trị cỏ tính chất tiểu tổ” của những người theo phái đa số. Lê - nin
khẳng định: sự tồn tại các phe phái là nguồn gốc cuộc đấu tranh trong Đại hội
và có phân rõ phái đa số và phái thiểu số mới có thể hiểu được các sắc thái
chính trị của mỗi phái. Lê - nin cũng vạch rõ thái độ lật lọng, không kiên định
của phái Men - sê - vích vì khi thất bại trong Đại hội thì phái này quay lại phủ
nhận Nghị quyết Đại hội.
-

Phần thứ hai: Trong phần này Lê - nin thông qua cuộc đấu tranh

trong Đại hội để phân tích rõ sắc thái chính trị của các phe phái trong Đại hội.
Và quan trọng là Lê - nin đã đập tan luận điệu của Mác - tốp khi y cho rằng bị
cáo buộc tội oan là cơ hội chủ nghĩa.
-

Phần thứ ba: Ở phần này, Lê - nin vạch trần những hành động

của phai thiểu số sau Đại hội, những quan điểm cơ hội chủ nghĩa về mặt tổ
chức, phê phán thái độ nhân nhượng thiếu nguyên tắc của Plekhnop.
-

Phần thứ tư: Lê - nin phác họa lại một cách tổng quát sự phát


triển của cuộc khủng hoảng trong Đảng và những quy luật phát triến của nó.
Lê - nin chỉ ra rằng: mặc dù có sự phát triến quanh co, mặc dù có những bước
lùi lại nhưng đảng của giai cấp vô sản sẽ đi đến thắng lợi, sẽ lập được một
Đảng chân chính cách mạng vì sự thống nhất tư tưởng của giai cấp công nhân
dựa trên cơ sơ của chủ nghĩa Mác, và được củng cố bằng sự thống nhất vật
chất của tổ chức.
III. TƯ TƯỞNG CỦA LÊ-NIN VÈ XÂY DựNG ĐẢNG VÔ SẢN KIỂU
MỚI TRONG TÁC PHẨM “MỘT BƯỚC TIẾN, HAI BƯỚC LÙI”
1. Cơ sở lý luận chung.
1.1. Khái niệm Đảng là gì.

Đảng chính trị là những lực lượng chính trị được tổ chức, những lực
lượng này tập hợp các công dân có chung khuynh hướng chính trị, nhằm


hướng tới một mục tiêu nhất định, và nhằm mục đích tham gia chính quyền,
đồng thời có thể thay đổi chương trình hoạt động của mình để thực hiện các
mục tiêu trên.
1. 2. Khái niệm Đảng cộng sản

Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân, giai cấp vô
sản, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động. Lấy chủnghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng. Mục đích của Đảng
cộng sản là đánh bại chủ nghĩa tư bản, giải phóng giai cấp công nhân và nhân
dân lao động trên thế giới khỏi ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây
dựng một xã hội mới, tự do bình đăng, con người không còn chịu áp bức, bất
công. Đó là xã hội Xã hội chủ nghĩa và tiến lên chủ nghĩa Cộng sản.
1. 3. Nội dung xây dựng Đảng.

Xây dựng Đảng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt mà

Đảng ta luôn quan tâm chú trọng phát triển. Ngay từ khi thành lập Đảng cho
tới nay, chưa lúc nào Đảng ta sao nhãng việc đấy mạnh công tác xây dựng
Đảng trên cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức. Bởi có làm tốt công tác
này thì Đảng mới tồn tại và phát triển được, Đảng mới có năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu tốt, chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của kẻ
thù, thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội hiện nay. Trong
công tác xây dựng Đảng, nội dung của nó được thể hiện trên ba măt:
-

Xây dựng Đảng về chỉnh trị: là việc bồi dưỡng nâng cao trình độ

lý luận, gắn chặt lý luận với thực tiễn cách mạng Việt Nam để nâng cao năng
lực hoạch định đường lối cách mạng, góp phần phát triển lý luận Mác - Lê
nin, soi sáng con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Điều cốt yếu là Đảng ta
luôn lấy Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng và kim chỉ nam cho hành động của mình. Lập trường nguyên tắc của
Đảng là kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội để tìm
ra hình thức và bước đi phù hợp, chống mọi biểu hiện chủ quan, giáo điều và
mọi biểu hiện cơ hội trong Đảng dưới mọi mầu sắc.


-

Xây dựng Đảng về tư tưởng: đó là quá trình đưa ý thức Xã hội

chủ nghĩa vào trong Đảng, làm cho tư tưởng đó thấm sâu vào mọi tổ chức
đảng và cá nhân đảng viên của Đảng, biến thành niềm tin, lý tưởng, mục đích
sống, đạo đức và hoạt động của cả tổ chức đảng cũng như đảng viên ở mọi
cấp, mọi ngành. Xây dựng Đảng về tư tưởng còn là tăng cường công tác
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam, rút ra bài học

kinh nghiệm, đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng
viên và nhân dân
-

- Xây dựng Đảng về tổ chức: là xây dựng hệ thống tổ chức từ

trên xuống dưới theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thường xuyên tự phê bình
và phê bình, có kỷ luật tự giác và nghiêm minh, giữ gìn sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng. Đảng luôn luôn chăm lo xây dựng đội ngũ kế cận theo
hướng chú trọng bản lĩnh chính trị, đạo đức và tài năng; nâng cao sức chiến
đấu của các tổ chức cơ sở Đảng, thường xuyên giáo dục thanh niên để tạo
nguồn phát triển Đảng. Để bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động . Đảng
kiên quyết đấu tranh chống các hiện tượng độc đoán, dân chủ hình thức, cục
bộ, chia rẽ, bè phái, tiếp tục đối mới phương thức và nâng cao năng lực lãnh
đạo trong hệ thống chính trị, phát huy vai trò và hiệu lực quản lý của nhà
nước. Tổ chức Đảng và đảng viên đều hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp,
pháp luật. Đảng thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra để xây dựng Đảng
trong sạch vững mạnh.
Xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức là ba mặt tổng thể
trong công tác xây dựng Đảng, chúng có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua
lại với nhau, là cơ sở, tiền đề, cũng là hệ quả của nhau, thúc đẩy nhau vận
hành, bảo đảm cho Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của cả dân
tộc Việt Nam; đại biếu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc.


2. Tư tưởng của Lê-nin về xây dựng Đảng kiểu mới trong tác phẩm
“một bước tiến, hai bước lùi”.
2.1. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân:


Nguyên lý Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân đã được
Mác-Ăngghen nêu ra trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản năm 1848. Lúc
này, vị để chống lại quan điểm của phái Mensêvích chủ trương xóa nhòa ranh
giới giữa Đảng và giai cấp, coi Đảng và giai cấp là một, Lênin khẳng định lại:
Đảng là “ đội tiên phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp”. Người
chỉ rõ rằng, những người nào nghĩ rằng dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, gần hết
toàn bộ giai cấp hay toàn bộ giai cấp một ngày kia Học viên: Hà Công Hợp
1 Lớp XDĐ& CQNNK31 Thanh Hóa sẽ

đủ sức vươn mình lên đến chỗ đạt trình độ giác ngộ và tích cực của đội tiên
phong của mình , của Đảng dân chủ - xã hội của mình thì người ấy sẽ mắc cái
bệnh của Manilốp và “chủ nghĩa theo đuôi”. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
ngay cả tố chức công đoàn ...cũng không đủ sức bao hàm gần hết hay toàn bộ
giai cấp công nhân...
Là đội tiên phong, Đảng trung thành tuyệt đối với sự nghiệp của giai
cấp công nhân, có lý luận tiên phong và có tộ chức chặt chẽ. Vai trò tiên
phong của Đảng phải được thể hiện ở các mặt trong một tổ chức thống nhất,
chặt chẽ ý chí và hành động cách mạng, tiên phong gương mẫu của người
Đảng viên, kỷ luật chặt chẽ, tự giác nghiêm minh.
Đưa ra công thức về Điều 1, Lênin đã bảo vệ tính tiên phong của Đảng,
nâng cao danh hiệu Đảng viên, phong ngừa tính chất phần tử cơ hội vào
Đảng, từ đó mà bảo vệ vai trò tiên phong của Đảng về tổ chức.
2.2. Đảng là bộ phận cổ tổ chức của giai cấp công nhân:

Năm 1864, Quốc tế I được thành lập, từ đó phong trào công nhân đã có
một tổ chức, một chính đảng vô sản lãnh đạo. Đó là tiền đề, là điều kiện tiên
quyết để phong trào công nhân phát triển, trưởng thành và ngày càng mạnh
hơn trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản. Nhưng trước những yêu



cầu của tình hình mới, khi Quốc tế II đã đi vào thoái trào, những phần tử cơ
hội, xét lại đang có ý đồ lái phong trào công nhân đi theo con đường khác.
Chúng phủ nhận chuyên chính vô sản, phủ nhận đấu tranh chính trị, phủ nhận
liên minh công nông, tán thành liên minh với giai cấp tư sản. Trước tình hình
thực tế đã đặt ra yêu cầu là phải có một chính đảng kiểu mới để dẫn dắt phong
trào đấu tranh của giai cấp vô sản, chống lại chủ nghĩa tư bản, chống lại
phong trào cách mạng đang chuyển dần sang cải lương.
Lênin cho rằng: “Trong cuộc đấu tranh để giành chỉnh quyền, giai cấp
vỏ sản không có vũ khí nào khác hơn là tổ chức. Bị phân chia vì sự cạnh
tranh vô chính phủ đang thịnh hành trong giới tư sản, bị đè nặng dưới sự lao
động nô lệ cho tư bản, luôn luôn bị dìm sâu “tận đáy” của cảnh khổ cực, của
sự cùng quẫn và của sự thoái hóa, nhưng giai cấp vô sản vẫn có thể trở thành
một lực lượng vỏ địch, chỉ là vì một ỉỷ do này: sự thống nhất tư tưởng của
giai cấp vô sản dựa trên cơ sở những nguyên lỷ của chủ nghĩa Mác được
củng cố bằng sự thống nhất vật chất của tổ chức”. Sức mạnh của giai cấp
công nhân đó là tổ chức, không có tổ chức của quần chúng, giai cấp vô sản sẽ
không là cái gì hết, được tổ chức lại, đó sẽ là tất cả.
Lê-nin đã chỉ ra cho giai cấp vô sản thấy rằng, mặc dù còn khó khăn về
nhiều mặt, luôn luôn bị giai cấp tư sản bóc lột, nhưng khi đã có một tổ chức
tiên phong, được trang bị những lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác thì giai
cấp vô sản có thể đứng lên chống lại giai cấp tư sản và giành thắng lợi.
2.3. Đảng là hình thức tổ chức cao nhẩt của giai cấp công nhân.

Theo Lê-nin, Đảng chẳng những là đội tiền phong, đội tiền phong có tổ
chức chặt chẽ từ trên xuống dưới mà còn là tổ chức cao nhất của giai cấp công
nhân. Lê - nin viêt “ chúng ta là Đảng của giai câp, bởi vậy hầu như toàn
bộgiai cấp và trong thời kỳ chiến tranh, trong thời kỳ nội chiến thì toàn bộ
giai cấp không trừ một người nào cần phải hoạt động dưới sự lãnh đạo của
Đảng, phải triệt để xiết thật chặt hàng ngũ chung quanh Đảng

Sở dĩ, Đảng có trách nhiệm và khả năng lãnh đạo tất cả các tổ chức của


giai cấp công nhân, hướng mọi hoạt động của tất cả các tổ chức của giai cấp
công nhân vào một mục đích chung là thủ tiêu chế độ bóc lột, xây dựng chế
độ Xã hội chủ nghĩa. Vì Đảng bao gồm những phần tử tiên tiến giác ngộ cách
mạng nhất, được vũ trang lý luận khoa học và và có tổ chức chặt chẽ. Điều 1
trong dự thảo Điều lệ Đảng đòi hỏi người đảng viên phải thừa nhận, cương
lĩnh điều lệ Đảng, bắt buộc phải tham gia một trong những tổ chức của Đảng,
nhằm làm cho Đảng trởthành tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân. Lê nin đưa ra quan điểm này nhằm chống lại quan điểm của Mác - tốp và khẳng
định, giai cấp công nhân cần có một tổ chức chặt chẽ lãnh đạo. Khi đã có một
Đảng cách mạng chân chính lãnh đạo thì phong trào vô sản mới phát triển
mạnh và khắc phục được tính tự phát trong phong trào đấu tranh của mình
2.4. Đảng được tồ chức theo chế độ tập trung:

Chế độ tập trung đòi hỏi Đảng phải có điều lệ thống nhất, một cơ quan
lãnh đạo thống nhất, số ít phục tùng số nhiều, cấp dưới phục tùng cấp trên,
toàn đảng phục tùng Đại hội Đảng toàn quốc và Ban chấp hành Trung ương.
Chỉ có như vậy mới đảm bảo cho Đảng thật sự thống nhất và do đó mới thật
sự có sức mạnh.
Trước nguyên tắc chế độ tập trung của Lênin đã xảy ra những cuộc đấu
tranh gay gắt giữa phái "Tia lửa" với đại biểu của phái Bun, nhóm sự nghiệp
công nhân và nhóm công nhân miền Nam thể hiện rõ các khuynh hướng chính
trị cơ hội chủ nghĩa. Cuộc thảo luận về chế độ tập trung, vấn đề thành phần
của Ban chấp hành Trung ương. Những người chống phái "Tia lửa" cũng như
"phái giữa" phản đối chế độ tập trung lẫn chế độ hai cơ quan trung ương; coi
đó là chế độ phân quyền, gọi đó là chế độ tập trung "gớm ghiếc" sẽ đưa đến
chỗ tiêu diệt các tổ chức cơ sở thay vào đó thì Ban chấp hành Trung ương có
quyền vô hạn, quyền can thiệp vô hạn vào mọi việc, còn các tổ chức có quyền
duy nhất là cúi đầu theo những lệnh lệnh từ trên ban xuống. Họ chủ trương

mở rộng thẩm quyền của ban chấp hành địa phương, cụ thể để cho Ban chấp
hành ấy "có quyền" tự mình "thay đổi số ủy viên của mình" và ban chấp hành


*?*? Mân

Nghiên cứu các tác phâm kinh

điên

địa phương phải được những cán bộ đang hoạt động ở địa phương bầu ra. Sở
dĩ họ phản đối là vì chế độ tập trung đã gây bất lợi đến những lợi ích "bản vị",
những lợi ích tiểu tổ của phái Bun, của nhóm "công nhân miền Nam", của ban
biên tập cũ của báo "Tia lửa".
Trong và sau Đại hội, các phần tử Mensêvích cùng với các loại cơ hội
khác kịch liệt chống lại chế độ tập trung trong Đảng, chúng phủ nhận mọi thứ
quyền lực nhằm kéo lùi Đảng trở lại thời kỳ phân tán. Tìm cách phá hoại
Đảng, không phục tùng những nghị quyết của Đại hội và quyết định các cơ
quan Trung ương của Đảng bằng hai phương pháp: phương pháp thứ nhất:
phá rối toàn bộ công tác đảng, làm hỏng việc, cố ý gây trở ngại cho việc mà
không giải thích nguyên nhân; phương pháp thứ hai: tổ chức các cuộc gây
lộn; chúng phủ nhận mọi thứ quyền lực nhằm kéo lùi Đảng về thời kỳ phân
tán, tiểu tổ. "Chúng cho rằng tổ chức đảng là một "công xưởng" kỳ quái;
nguyên tắc bộ phận phục tùng toàn bộ và thiểu số phục tùng đa số, thì họ cho
là một "sự nô dịch"; sự phân công, dưới quyền lãnh đạo của một cơ quan
Trung ương thì họ la lên biến con người thành "những bánh xe và đinh vít",
chỉ nhắc tới Điều lệ tổ chức của Đảng khiến họ khinh bỉ, miệt thị và người ta
hoàn toàn cho rằng không cần đến Điều lệ. Nếu theo nguyên tắc do Lênin đề
ra thì có nghĩa là "thiết lập chế độ nông nô trong Đảng, biến Đảng thành nhà
máy đứng đầu là giám đốc (tức Ban chấp hành trung ương), biến Đảng viên

thành "bánh xe và lò xo trong guồng máy".
Lênin và những người cộng sản chân chính đã đấu tranh bảo vệ những
vấn đề có tính nguyên tắc của tổ chức đảng, Người khẳng định: "Trước kia
Đảng ta chưa phải là một khối chính thức có tổ chức, mà chỉ là một tổng số
những nhóm riêng biệt và do đó, giữa các nhóm ấy không thể có những quan
hệ nào khác, ngoài sự tác động về mặt tư tưởng. Hiện nay, chúng ta đã trở
thành một Đảng có tổ chức, điều đó có ý nghĩa là chúng ta đã tạo ra một
quyền lực, biến uy tín về tư tưởng thành uy tín về quyền lực, khiến cấp dưới


phải phục tùng cấp trên của Đảng”. Giai cấp vô sản có một chế độ tập trung
tuyệt đối và có kỷ luật hết sức nghiêm minh, đó là một trong những điều kiện
cơ bản để có thể chiến thắng giai cấp tư sản.
Trong lập trường của báo "Tia lửa" mới về những vấn đề tổ chức gắn
chủ nghĩa Gi-rông-danh và chủ nghĩa vô chính phủ quý tộc: đó là bênh vực
chế độ tự trị chống lại chế độ tập trung. Trước tình hình đó Lênin vạch trần xu
hướng không thể chối cãi được nhằm bênh vực chế độ tự trị, chống lại chế độ
tập trung, là một đặc điểm có tính nguyên tắc của chủ nghĩa cơ hội trong các
vấn đề tổ chức. Và lẽ tự nhiên là chủ nghĩa cơ hội về mặt cương lĩnh thì gắn
liền với chủ nghĩa cơ hội về sách lược và gắn liền chủ nghĩa cơ hội trong các
vấn đề tố chức. Từ đó Lênin khắng định cần phải có sự thống nhất về tổ chức:
"trong thời kỳ khôi phục sự thống nhất thật sự của Đảng và dựa trên cơ sở
thống nhất đó mà giải tán các tiểu tổ lỗi thời thì cơ quan tối cao tất nhiên là
Đại hội đảng, tức là cơ quan tối cao của Đảng. Đại hội hết sức tập hơp tất cả
đại biếu các tố chức tích cực lại và trong khi cử ra các cơ quan trung ương Đại
hội đã biến những cơ quan này thành cơ quan tối cao của Đảng mãi đến
nhiệm kỳ đại hội sau”.
Như vậy, trong tác phấm Lênin coi nguyên tắc tập trung là nguyên tắc
duy nhất cần phải toát ra trong toàn bộ Điều lệ để phù hợp với hoàn cảnh lúc
đó và cuộc đấu tranh diễn ra trong nội bộ. Đó là lúc chính quyền Sa hoàng

không cho phép hoạt động công khai, trong nội bộ Đảng đầy rẫy những hiện
tượng phân tán, ngập ngừng, do dự, lề lối thủ công nghiệp, tản mạn, không
muốn phục tùng sự lãnh đạo thống nhất của ủy ban Trung ương do Đại hội
bầu ra, như phái "Kinh tế", phái "Bun", và sau này cả bọn Mensêvích chống
lại tất cả những gì mà Đảng đã nêu ra. Trong điều kiện như vậy, nguyên tắc
tập trung đảm bảo chắc chắn ngăn ngừa sự phục hồi lối vô kỷ luật, lỏng lẻo về
tổ chức.
Người chỉ ra biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân của những phần tử trí
thức tham gia phong trào xã hội dân chủ là: "cái tâm lý của người trí thức tư


sản" tự cho mình là ở trong số "những người được lựa chọn", đứng trên tổ
chức quần chúng và kỷ luật quần chúng. Lênin cũng nhấn mạnh tập trung
không có nghĩa là xem nhẹ dân chủ, tập trung phải đi đôi với dân chủ, tập
trung và dân chủ là hai mặt không thể tách rời trong chế độ tổ chức của đảng
mácxít. Ngay sau khi cuộc nội chiến kết thúc, Đảng Bôn sê vích Nga đã chủ
trương không ngừng phát triển dân chủ trong Đảng. Theo Lênin, khi điều kiện
chính trị cho phép, thực hiện chế độ bầu cử trong Đảng là vô điều kiện, và nếu
nói bênh vực chế độ tập trung chỉ có nghĩa là bênh vực chế độ tập trung dân
chủ.
2.5. Đảng là hiện thân của sự liên lạc giữa đội tiên phong của giai cấp
công nhân và quần chúng lao động:

Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, do vậy muốn tồn tại,
phát triển và có đủ lực lượng, sức mạnh hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của
mình thì phải liên hệ chặt chẽ với quần chúng. Lênin viết: “muốn trở thành
một Đảng dân chủ xã hội, thì cần phải được sự ủng hộ của chính giai cap... .
Mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng không phải là chủ yếu, không
phải do số liệu đảng nhiều hay ít quyết định mà do chất lượng đội ngũ đảng
viên quyết định, “các tổ chức đảng của chúng ta bao gồm những người dân

chủ - xã hội chân chính mà càng mạnh mẽ bao nhiêu, và trong nội bộ Đảng
càng ít có tình trạng dao động và không kiên đinh bao nhiêu, thì ảnh hưởng
của Đảng đối với những người trong quần chúng công nhân chung quanh
Đảng vá chịu sự lãnh đạo của Đảng, sẽ càng rộng rãi, càng nhiều mặt càng
phong phú, càng hiệu quả bấy nhiêu”.
Trong mối liên hệ với quần chúng, Đảng phải khắc phục khuynh hướng
lệch lạc, vượt quá xa trình độ của quần chúng, xa rời quần chúng. Đồng thời
cũng khắc phục tình trạng theo đuôi, hạ thấp trình độ của Đảng xuống ngang
hàng trình độ của quần chúng. Lê nin viết: “chúng ta sẽ chỉ lừa dối mình,
nhắm mắt trước nhiệm vụ bao la của chúng ta, thu hẹp những nhiệm vụ đó lại,
nếu chúng ta quen mất sự khác nhau giữa đội tiên phong và tất cả số đông


quần chúng hướng theo đội tiên phong đó; nếu chúng ta quên mất rằng đôi
tiên phong có nghĩa vụ thường xuyên phải nâng các tầng lớp ngày càng đông
đảo đó lên trình độ tiên tiến ấy”.
2.6. Phê bình và tự phê bình là quy luật phát trìến của Đảng.

Theo Lênin, Đảng phải luôn luôn tự phê bình và phê bình tự vạch ra sai
lầm khuyết điểm, phân tích rõ nguyên nhân và tìm cách sửa chữa. Lênin coi
đây là một trong những căn cứ quan trọng để xem xét một Đảng có thật sự là
Đảng mác xít chân chính hay không. Một đảng mà tìm ra sai lầm, công khai
thừa nhận sai lầm, phân tích hoàn cảnh đẻ ra sai lầm, nghiên cứu cẩn thận
những biện pháp để sửa chữa sai lầm ấy là dấu hiệu chứng tỏ một đảng
nghiêm túc, là một đảng làm tròn nghĩa vụ của mình. Trong tác phẩm này,
Lênin vạch mặt phái Mensêvích lợi dụng phê bình và phê bình vô nguyên tắc
“ngồi lê đôi mách ở bên ngoài đại hội”. Người cho đó là hành vi vu khống, là
hành động thiếu nhân cách. Và Lê - nin cũng đấu tranh vạch trần âm mưu của
Mác - tốp khi hắn lợi dụng việc tranh luận trong đại hội để kéo phong trào đi
theo con đường cơ hội, cải lương. Tư tưởng phê bình và tự phê bình được

Lênin phát triển trong tổ chức với xây dựng Đảng về chính trị và xây dựng
Đảng về tư tưởng. Riêng đối với công tác xây dựng Đảng về tổ chức, những
nguyên lý xây dựng Đảng kiểu mới của Lê - nin cho thấy: trong công tác xây
dựng Đảng, phải xây dựng được một điều lệ Đảng thống nhất, một kỷ luật
nghiêm minh, một cơ quan lãnh đạo thống nhất từ trung ương tới cơ sở, có uy
tín và có tính chất quyền lực. Người đảng viên phải có ý thức tổ chức kỷ luật,
cho dù ở cương vị nào thì người đảng viên cũng phải tham gia một trong
những tố chức của Đảng, không thể coi Đảng là một tổ chức vô chính phủ, tự
do vô điều kiện, phải chịu sự quản lý, giám sát của tổ chức Đảng.
Trong hoàn cảnh phức tạp và khó khăn của tình hình thực tế thì những
tư tưởng của Lê - nin về xây dựng một Đảng vô sản kiểu mới đã đặt cơ sở cho
sựnghiệp xây dựng Đảng cộng sản Liên Xô và Đảng cộng sản các nước. Nó
đã có đóng góp lớn lao cho phong trào cách mạng của giai cấp công nhân trên


toàn thế giới. Từ đó tới nay, phong trào cách mạng thế giới đã có nhiều biến
đổi to lớn song những tư tưởng đó của Lê - nin vẫn còn nguyên giá trị thực
tiễn.
3.

Ý nghĩa và sự vận dụng của Đảng ta về nguyên lý tổ chức xây dựng

Đảng vô sản kiểu mói trong tác phẩm “Một bước tiến, hai bước lùi”:
3.1. Ỷ nghĩa:

về mặt lý luận: Lênin kế thừa và phát triển một học thuyết về Đảng của
chủ nghĩa Mác, vạch ra một cách đầy đủ và hoàn chỉnh những nguyên tắc cơ
bản của chính đảng cách mạng của giai cấp vô sản. Trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng, Người đã không ngừng tuyên truyền, giáo dục, truyền bá,
vận dụng quan điểm lý luận của Mác vào thự tiễn phong trào đấu tranh của

giai cấp công nhân Nga, chúng minh tính đúng đắn, tính cách mạng và khoa
học của chủ nghĩa Mác bằng những bước tiến không ngừng của phong trào
cách mạng dưới sự chỉ đạo, định hướng của học thuyết về đảng vô sản kiểu
mới.
Thông qua đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội để thống nhất phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân Nga, Lênin đã luận giải một cách sâu sắc
và rút ra nguyên lý xây dựng Đảng về tổ chức: Đảng là bộ phận có tổ chức
của giai cấp công nhân, Đảng là hình thức tổ chức cao nhất của giai cấp công
nhân, Đảng được tổ chức theo chế độ tập trung, tự phê bình và phê bình là
quy luật phát triển của Đảng. Là cơ sở lý luận cho quan trọng để xây dựng
chính đảng cách mạng Bônsêvích vững mạnh về mặt tổ chức, tư tưởng và
chính trị, khẳng định Đảng là đội tiên phong có tổ chức, lãnh đạo phong trào
cách mạng kiếu mới của giai cấp công nhân.
về mặt thực tiễn: nguyên lý về tổ chức xây dựng Đảng vô sản kiểu mới
trong tác phẩm góp phần to lớn trong việc vạch trần bản chất cơ hội chủ nghĩá
của những người cơ hội chủ nghĩa như Máctốp, Ácxenrốt coi thường và hạ
thấp ý nghĩa vấn đề tổ chức của Đẳng, vấn đề tập trung thống nhất của phong
trào công nhân, chủ trương đảng viên của Đảng không cần tham gia sinh hoạt


trong tổ chức đảng, không cần chấp hành nghị quyết và phục tùng kỷ luật của
Đảng. Đảng không cần thành tổ chức, không cần có hình thù rõ rệt, chỉ lờ mờ
và ô hợp, giáng một đòn chủ nghĩa cơ hội Nga cũng như trên thế giới.
Nguyên lý về tổ chức xây dựng Đảng vô sản kiểu mới của Lênin đã chỉ
rõ giai cấp vô sản cần sinh hoạt trong một tổ chức của Đảng, tổ chức đảng lấy
nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong sinh hoạt, tự phê bình
và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.
Đối với Đảng cộng sản Việt Nam nguyên lý về tổ chức xây dựng Đảng
vô sản kiểu mới của Lênin đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đã và đang là
những chỉ dẫn có tính nguyên tắc trong quá trình xây dựng, chỉnh đốn Đảng.

Việc nghiên cứu những tư tưởng đó của Lênin góp phần xây dựng Đảng ta
ngày càng trong sạch vững mạnh, xứng đáng là người duy nhất lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Góp phần tăng cường kỷ kuật Đảng, thực hiện nghiêm minh
trong Đảng. Mỗi đảng viên phải sinh hoạt một trong những tổ chức của Đảng,
phải tuyệt đối trung thành vói lý tưởng của Đảng, phải tuân thủ cương lĩnh,
Điều lệ của Đảng, kiên quyết chống lại những phần tử cơ hội chống phá
Đảng, đưa người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng làm cho Đảng ta là
đạo đức, là văn minh.
3.2. Vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam về nguyên lý tổ chức xây
dựng Đảng vô sản trong tác phẩm "Một bước tiến, hai birởc lùi" đối với việc xây
dựng chỉnh đon Đảng hiện nay:

Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng
ta, người đã vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về xây dựng
Đảng vào điều kiện cụ thể nước ta để giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra
trong quá trình xây dựng Đảng. Người quán triệt nguyên tắc cơ bản của Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương Đảng, toàn Đảng là một
khối thống nhất về ý chí và hành động, có sự nhất trí cao về đường lối chính
trị, tư tưởng và tổ chức, thực hiện thắng lợi mục tiêu cách mạng. Người chỉ
rõ: trong lãnh đạo, các cấp bộ đảng phải thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh


đạo, cá nhân phụ trách. Mọi việc đều bàn bạc một cách dân chủ và tập thể.
Khi đã quyết định rồi, thì phân phối công tác phải rạch ròi, giao cho một hoặc
mấy đông chí phụ trách làm đến nơi đến chốn. Người còn nói, dân chủ phải đi
đôi với tập trung, "phải kiên quyêt thực hành kỷ luật, tức là cá nhân phải tuyệt
đối phục tùng tố chức, số ít phục tùng số nhiều, cấp dưới phục tùng cấp trên,
địa phương phải phục tùng Trung ương. Người căn dặn, Đảng ta phải chống
lại mọi biểu hiện tập trung quan liêu, độc đoán, dân chủ hình thức, đồng thời
cũng chống lại biếu hiện phân tán, cục bộ, hẹp hòi, bè phái, vô tố chức, kỷ

luật. Người không chỉ nói về tập trung dân chủ mà còn luôn gương mẫu thực
hiện nguyên tắc đó.


Ngay từ khi ra đời, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định lấy
nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Mặc
dù tác phẩm (viết năm 1904), Lênin chưa đề cập đến nguyên tắc tập trung dân
chủ mà chỉ nói tập trung và dân chủ, giữa chúng có mối liên hệ tác động qua
lại. Cho đến năm 1905, Người mới dùng thuật ngữ tập trung dân chủ nhưng tư
tưởng của Lênin về nguyên tắc tập trung dân chủ vẫn mãi mãi soi đường cho
cách mạng Việt Nam.
Tập trung trong Đảng có nghĩa là: Đảng cộng sản Việt Nam phải có
một Cương lĩnh cách mạng chung, trong đó mục tiêu và con đường cách
mạng phải được mọi đảng viên và tố chức quán triệt. Trong Đảng phải có một
điều lệ thống nhất, thể hiện những tiêu chuẩn sinh hoạt mà mọi tổ chức và
đảng viên phải tuân theo. Đảng phải có một cơ quan cao nhất lãnh đạo các tổ
chức đảng và công tác của đảng viên trong toàn Đảng. Tập trung đòi hỏi phải
có kỷ luật thống nhất, mọi đảng viên và tổ chức đảng phải tuân thủ những tiêu
chuẩn sinh hoạt Đảng, có ý thức phục tùng nghị quyết của Đảng.
Dân chủ trong Đảng có nghĩa là: tất cả đảng viên đều bình đẳng, tự do
thảo luận công việc của Đảng. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử
lập ra. Cơ quan lãnh đạo phải báo cáo công việc của mình và chịu trách nhiệm
về hoạt động của mình. Thực hiện chế độ tập thể lãnh đạo, thực hiện chế độ tự
phê bình và phê bình. Chỉ khi nào đảng viên tự giác thảo luận và giải quyết tất
cả công việc của đảng, kể cả thành lập các cơ quan lãnh đạo thì sức mạnh của
Đảng mới thể hiện, tính tích cực của đảng viên mới được nâng cao.
Điều 9 Điều lệ Đảng quy định nội dung cơ bản của nguyên tắc tập
trung dân chủ: cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện
tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là
Đại hội đại biểu toàn quốc, cơ quan lãnh đạo mỗi cấp là đại hội đại biêu hoặc

đại hội đảng viên, giữa hai kỳ đại hội cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban chấp
hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ;
cấp ủy các cấp báo cáo tình hình hoạt động của mình đến các tổ chức


đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình; tố chức đảng và đảng viên
phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục
tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng phục
tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban chấp hành Trung ương; nghị quyết của
các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một nửa số
thành viên trong cơ quan đó tán thành, đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số
được bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn
quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của Đảng; tổ chức đảng
quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không được
trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
và nghị quyết của cấp trên.
Đảng ta xác định nguyên tắc tập trung dân chủ là sự thống nhất biện
chứng giữa giữa hai mặt tập trung và dân chủ. Dân chủ là điều kiện, là tiền đề
của tập trung, còn tập trung là cơ sở, là cái đảm bảo cho dân chủ được thực
hiện. Chỉ trong điều kiện dân chủ trong Đảng được phát huy cao nhất thì mới
tạo ra sức mạnh toàn Đảng. Ngược lại, chỉ trong điều kiện có tổ chức cao, tính
kỷ luật chặt chẽ, thừa nhận sự lãnh đạo thống nhất của Đảng thì đảng viên
mới có thể thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi của mình. Tập trung và dân chủ là
hai mặt thống nhất với nhau, dân chủ mà không có tập trung thì nhất định sẽ
biến Đảng vô sản thành một khối tập hợp mơ hồ, không có sự thống nhất
trong nội bộ, không có tính toàn bộ và tính tổ chức, do đó không thể hiện
được vai trò lãnh đạo giai cấp vô sản và toàn thể nhân dân lao động.
Trong tình hình hiện nay, để thực hiện được nguyên tắc tập trung dân
chủ một cách đúng đắn, ngoài việc phải hiểu đúng bản chất, nội dung nguyên
tắc tập trung dân chủ, mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân

chủ, điều quyết định phải bảo đảm trong thực tế phải có cơ chế đúng, có
những quy định cụ thể và phải có tinh thần đấu tranh kiên quyết để thực hiện
các quy chế, quy định đó. Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ phải
được "thể chế hóa", "pháp luật hóa" thành những Điều lệ, quy chế để thực


hiện. Vì vậy cần tiếp tục phát huy dân chủ, khơi dậy tính chủ động, sáng tạo
của các tổ chức Đảng và đảng viên. Thực hiện tập trung thống nhất trên cơ sở
mở rộng và phát huy dân chủ. Hoàn thiện và thực hiện tốt chế độ tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách trong các cấp ủy và tố chức Đảng từ Trung ương đến
chi bộ. Giữ vững nền nếp tự phê bình và phê bình trong nội bộ Đảng và vận
động quần chúng góp ý ý phê bình cán bộ, đảng viên. Đảng cộng sản Việt
Nam, một đảng mácxít - lêninnít chân chính đã thực hiện đúng đắn nguyên
tắc tập trung dân chủ. Đảng đã tạo ra sức mạnh to lớn đưa cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến tự phê bình và phê bình,
Người thường căn dặn cán bộ, đảng viên: mỗi người ngày càng phải thiết thực
kiểm điểm đồng chí mình thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự súa chữa và
giúp đồng chí mình sửa chữa.nên trong Báo cáo chính trị của Đại hội II của
Đảng, Người khẳng định: "về luật phát triển, Đảng Lao động Việt Nam dùng
đường lối phê bình và tự phê bình để giao dục đảng viên, giáo dục quần
chúng". Người cho rằng, nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, thì
cũng như giấu giếm bệnh tật trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh
ngày càng nặng, nguy hiếm đến tính mệnh. "Một Đảng mà giấu giếm khuyết
điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng cỏ gan thừa nhận khuyết điểm
của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm, xét rồ hoàn cảnh
sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đỏ.
Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính".
Tại đại hội I (1935) Đảng ta phát động và mở rộng cuộc tự chỉ trích
Bôn sê vích trong các cấp ủy đảng bộ để nghiên cứu, học tập các ưu điểm, tìm

ra khuyết điểm mà tránh. Bước vào lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta
nghiêm túc khắc phục tự phê bình những sai lầm khuyết điểm của mình.


Trong Hội nghị Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Đảng ta quyết định
tiến hành cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình.
Nội dung tự phê bình và phê bình của Đảng bao gồm toàn bộ các hoạt
động của Đảng và của mọi cán bộ, đảng viên. Phê phán những quan điểm lệch
lạc, sai trái, những tệ nạn gia trưởng, độc đoán, quan liêu, tham nhũng nhằm
nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong cán bộ đảng
viên, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Hình
thức tự phê bình và phê bình của Đảng bao gồm tự phê bình và phê bình của
cấp trên đối với cấp dưới, cấp dưới với cấp trên; cán bộ, đảng viên phê bình
cán bộ lãnh đạo, quản lý trong tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị phê bình cung
cấp. Phương pháp tự phê bình và phê bình phải cứng rắn về nguyên tắc, mềm
dẻo và khéo léo về cách thức tiến hành, phải thể hiện rõ những đặc tính cơ
bản của tự phê bình và phê bình của Đảng. Phải biết xử thế rất tế nhị, không
làm cho họ khó chịu và nản lòng thì họ mới tiếp thu và sửa chữa khuyết điểm
nhanh chóng.
Đe nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình cần nhận thức sâu sắc
về vai trò, ý nghĩa và những đặc tính cơ bản của tự phê bình và phê bình trong
Đảng. Thực hiện tốt dân chủ trong Đảng, chấp hành nghiêm chỉnh chế độ, quy
định về tự phê bình và phê bình, tiếp tục đưa tự phê bình và phê bình thành
nền nếp thường xuyên. Tích cực học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị,
trinh độ học vấn và chuyên môn nghiệp vụ. Kết hợp chặt chẽ tự phê bình và
phê bình trong Đảng với phê bình của nhân dân. Gắn tự phê bình với công tác
kiểm tra, thanh tra và xử lý, tăng cường sự theo dõi, giúp đỡ của cấp trên.


PHÀN


c. KẾT LUẬN

Tác phẩm “một bước tiến, hai bước lùi”, Lê - nin đã viết cách đây hơn
100 năm, song những nguyên lý về xây dựng một Đảng cách mạng chân
chính của giai cấp vô sản vẫn còn nguyên giá trị. Những tư tưởng đó của Lê nin đã giúp cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vượt qua được
những khó khăn thử thách, xây dựng cho mình một đảng cách mạng chân
chính, đấu tranh chống lại chủ nghĩa tư bản. Những nguyên lý về xây dựng
Đảng vô sản kiểu mới đã củng cố hơn nữa đảng công nhân - dân chủ xã hội
Nga, tiền thân của Đảng cộng sản Liên xô sau này. Nó làm tiền đề vững chắc
cho những thắng lợi sau này của giai cấp vô sản, mà tiêu biểu hơn cả là Cách
mạng tháng Mười vĩ đại.
Ngày nay, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế không còn diễn ra
mạnh mẽ như trước, chủ nghĩa xã hội cũng đang gặp phải không ít khó khăn
trong quá trình phục hồi sau những biến động to lớn ở Liên xô và Đông Âu
những năm cuối thế kỷ XX. Song tư tưởng đó của Lê - nin thì mãi là những
định hướng cho những Đảng cách mạng chân chính. Đối với Đảng cộng sản
Việt Nam hiện nay việc lấy nguyên tắc tập trung - dân chủ là nguyên tắc cơ
bản trong xây dựng và tố chức Đảng, đó chính là quán triệt tư tưởng đó của
Lê-nin. Với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, cùng với “cẩm nang thần kỳ” đó
là chủ nghĩa Mác - lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã không ngừng
tự chỉnh đốn và nâng cao sức chiến đấu cho Đảng, qua đó đã lãnh đạo đất
nước ta ngày càng phát triển, thu được nhiều thành quả to lớn trong sự nghiệp
xây dựng đất nước và tiếp tục vững bước trên con đường đi lên Chủ nghĩa xã
hội.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Lê - nin toàn tập, t8 Nxb Mát - cơ - va 1979;
1.


Giáo trình giới thiệu các tác phấm của C.Mác, Ănghen,V.I.Lê-

nin, Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội, 2001;
2.

Giáo trình phong trào lịch sử cộng sản và công nhân quốc tế -

Học viện báo chí tuyên truyền;
3.

Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ 1986 đến nay-

Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006.
4.

Giáo trình xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, tổ chức - Học

viện báo chí truyền truyền.



×